Kinh Vô Lượng Thọ – Quyển 5

Phật Thuyết Đại Thừa Lượng Thọ

Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh

— o0o —

QUYỂN ĐỆ NGŨ

— o0o —

Nguyên Hán bản: Ngài HẠ LIÊN CƯ (hội tập)

Việt dịch: Thích Đức Niệm Cư sĩ Minh Chánh

— o0o —

Kinh văn

— o0o —

Đệ Tam Thập Tứ: Tâm Đắc Khai Minh

Phiên âm: Di Lặc bạch ngôn: “Phật ngữ giáo giới, thậm thâm thậm thiện. Giai mông từ ân, giải thoát ưu khổ. Phật vi pháp vương, tôn siêu quần Thánh, quang minh triệt chiếu, đỗng đạt vô cực, phổ vi nhất thiết thiên nhân chi sư. Kim đắc trị Phật, phục văn Vô Lượng Thọ thanh, mỵ bất hoan hỷ, tâm đắc khai minh”.

Việt dịch: Ngài Di Lặc Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lời Thế Tôn răn dạy rất sâu rất đúng, nhờ ơn đức từ bi giải thoát ưu khổ. Phật là đấng Pháp vương tôn quí siêu việt trong hàng Thánh, quang minh vô tận trí huệ không cùng, Đạo sư khắp cả trời người, ngày nay được gặp Phật lại được nghe hồng danh Vô Lượng Thọ, tâm trí được sáng tỏ rất là vui mừng”.

 

Phiên âm: Phật cáo Di Lặc: “Kính ư Phật giả, thị vi đại thiện. Thật đương niệm Phật, tiệt đoạn hồ nghi. Bạt chư ái dục, đỗ chúng ác nguyên. Du bộ tam giới, vô sở quái ngại. Khai thị chánh đạo, độ vị độ giả. Nhược tào đương tri thập phương nhân dân, vĩnh kiếp dĩ lai, triển chuyển ngũ đạo, ưu khổ bất tuyệt. Sanh thời khổ thống, lão diệc khổ thống, bệnh cực khổ thống, tử cực khổ thống. Ác xú bất tịnh, khả lạc giả?

Việt dịch: Phật bảo Di Lặc Bồ Tát: “Kính Phật là điều đại thiện, niệm Phật quan trọng hơn, giúp cắt hết lưới nghi, dứt hết ái dục, lấp hết nguồn ác, đi khắp ba cõi không bị chướng ngại, khai thị chánh đạo, độ người chưa độ. Các ngươi phải biết chúng sanh mười phương nhiều kiếp đến nay luân chuyển trong năm đường, sầu khổ không dứt, sanh đã là khổ, già cũng khổ, bệnh càng khổ hơn, chết rất là đau khổ, hôi thúi bất tịnh không có gì vui

 

Phiên âm: Nghi tự quyết đoạn, tẩy trừ tâm cấu. Ngôn hành trung tín, biểu lý tương ưng. Nhân năng tự độ, chuyển tương chẩn tế. Chí tâm cầu nguyện, tích lũy thiện bổn. Tuy nhất thế tinh tấn cần khổ, tu-du gian nhĩ. Hậu sanh Vô Lượng Thọ quốc, khoái lạc cực, vĩnh bạt sanh tử chi bổn, vô phục khổ não chi hoạn. Thọ thiên vạn kiếp, tự tại tùy ý. Nghi các tinh tấn, cầu tâm sở nguyện. Vô đắc nghi hối, tự vi quá cữu, sanh bỉ biên địa thất bảo thành trung, ư ngũ bá tuế thọ chư ách dã”.

Việt dịch: Nên quyết cắt đứt, tẩy trừ tâm xấu, nói năng hành động thành tín trong ngoài hợp nhất, trước tự độ mình, lại ra độ người, hết lòng cầu nguyện, chứa nhóm căn lành, chỉ cần tinh tấn khó nhọc một đời ngắn ngủi, về sau được sanh về cõi Vô Lượng Thọ an vui vô cùng, vĩnh viễn dứt sạch sanh tử không còn khổ hoạn, thọ mạng ngàn vạn kiếp tự tại tùy ý. Nên phải tinh tấn cầu đạt, tâm nguyện không được nghi ngờ. Như còn chút nghi hoặc sẽ sanh về cung điện thất bảo ở biên địa của nước Cực Lạc, chịu các tai ách trải qua năm trăm năm”.

 

Phiên âm: Di Lặc bạch ngôn: “Thọ Phật minh hối, chuyên tinh tu học. Như giáo phụng hành, bất cảm hữu nghi”.

Việt dịch: Ngài Di Lặc bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng con xin vâng lời Phật dạy chuyên cần tu học, y giáo phụng hành, không dám có lòng nghi ngờ”.

 

 — o0o —

Đệ Tam Thập Ngũ: Trược Thế Ác Khổ 

Phiên âm: Phật cáo Di Lặc: Nhữ đẳng năng ư thử thế, đoan tâm chánh ý, bất vi chúng ác, thậm vi đại đức.

Việt dịch: Phật bảo Di Lặc: “Các ngươi sanh trong đời này, tâm ý chánh trực không làm điều ác, đó là có đức hạnh lớn.” 

 

Phiên âm: Sở dĩ giả hà? Thập phương thế giới, thiện đa ác thiểu, dị khả khai hóa. Duy thử ngũ ác thế gian, tối vi kịch khổ. Ngã kim ư thử tác Phật, giáo hóa quần sanh, linh xả ngũ ác, khử ngũ thống, ly ngũ thiêu, hàng hóa kỳ ý, linh trì ngũ thiện, hoạch kỳ phước đức.

Việt dịch: Mười phương thế giới của chư Phật thiện nhiều ác ít rất dễ khai hóa. Chỉ có thế gian năm ác trược này rất là cực khổ. Ta nay thành Phật ở đây để giáo hóa quần sanh bỏ năm điều dữ, dứt năm sự thống khổ, lìa năm sự thiêu đốt, điều phục tâm ý khiến làm năm điều lành, phước đức được thành tựu.

 

Phiên âm: Hà đẳng vi ngũ?  

Việt dịch: Những gì là năm?

 

Phiên âm: Kỳ nhất giả, thế gian chư chúng sanh loại, dục vi chúng ác. Cường giả phục nhược, chuyển tương khắc tặc, tàn hại sát thương, điệt tương thôn đạm, bất tri vi thiện, hậu thọ ương phạt. Cố hữu cùng khất, cô độc, lung manh, ám á, si ác, uông cuồng; Giai nhân tiền thế bất tín đạo đức, bất khẳng vi thiện. Kỳ hữu tôn quý, hào phú, hiền minh, Trưởng giả, trí dũng, tài đạt, giai do túc thế từ hiếu, tu thiện tích đức sở trí.

Việt dịch: Điều thứ nhất: Các loài chúng sanh ở thế gian thích làm điều ác, mạnh hiếp yếu, chèn ép nhau, tàn sát tổn hại ăn nuốt lẫn nhau, không biết làm lành để chịu hậu quả, nên có kẻ cùng khổ, cô độc, câm điếc đui ngọng, si ác ngông cuồng là do đời trước không tin đạo đức, không chịu làm lành. Những hạng tôn quí, hào phú, hiền minh, trưởng giả, trí dõng tài cao là do biết từ ái hiếu thuận, tu thiện tích đức từ đời trước.

 

Phiên âm: Thế gian hữu thử mục tiền hiện sự, thọ chung chi hậu, nhập kỳ u minh. Chuyển sanh thọ thân, cải hình dịch đạo. Cố hữu Nê-lê, cầm thú, quyên phi nhuyễn động chi thuộc. Thí như thế pháp lao ngục, kịch khổ cực hình, hồn thần mạng tinh, tùy tội thú hướng. Sở thọ thọ mạng, hoặc trường hoặc đoản, tương tùng cộng sanh, cánh tương báo thường. Ương ác vị tận, chung bất đắc ly. Triển chuyển kỳ trung, lũy kiếp nan xuất. Nan đắc giải thoát, thống bất khả ngôn. Thiên địa chi gian, tự nhiên hữu thị. Tuy bất tức thời bạo ứng, thiện ác hội đương quy chi.

Việt dịch: Khi còn sanh tiền đã làm sai trái, sau khi mạng chung vào chốn u minh chuyển thọ thân hình sanh vào các nẻo, nên có địa ngục, súc sanh – ví như lao ngục ở thế gian có cực hình kịch khổ – thần thức tùy tội đã tạo mà thọ mạng có dài ngắn theo nhau trả báo, tội ác chưa hết lại tiếp tục chịu tội, xoay vần nhiều kiếp không thôi rất khó giải thoát, khổ thống không thể nói hết được! Ác đạo tuần hoàn cảm ứng tự nhiên, tuy không báo ứng tức thời, nhưng thiện ác chung qui vẫn phải chịu quả báo.

 

Phiên âm: Kỳ nhị giả, thế gian nhân dân bất thuận pháp độ. Xa dâm kiêu túng, nhậm tâm tự tứ. Cư thượng bất minh, tại vị bất chánh. Hãm nhân oan uổng, tổn hại trung lương. Tâm khẩu các dị, cơ ngụy đa đoan. Tôn ty trung ngoại, cánh tương khi cuống. Sân khuể ngu si, dục tự hậu kỷ, dục tham đa hữu. Lợi hại thắng phụ, kết phẫn thành thù. Phá gia vong thân, bất cố tiền hậu. Phú hữu xan tích, bất khẳng thí dữ. Ái bảo tham trọng, tâm lao thân khổ. Như thị chí cánh, nhất tùy giả. Thiện ác họa phước, truy mạng sở sanh. Hoặc tại lạc xứ, hoặc nhập khổ độc. Hựu hoặc kiến thiện tăng báng, bất tư mộ cập. Thường hoài đạo tâm, hy vọng tha lợi. Dụng tự cung cấp, tiêu tán phục thủ.  Thần minh khắc chí, chung nhập ác đạo. Tự hữu tam đồ vô lượng khổ não, triển chuyển kỳ trung, lũy kiếp nan xuất, thống bất khả ngôn.

Việt dịch: Điều thứ hai: Nhân loại thế gian không theo pháp luật, hoang dâm thái quá mặc tình phóng túng, trên thì không minh, tại vị không chính, hãm hại oan uổng, tổn hại trung lương, tâm miệng khác biệt, mưu toan nhiều bề, trong ngoài dối trá, giận dỗi ngu si, muốn lợi về mình, tham lam không chán, lợi hại được thua, oán giận thành thù, tan nhà mất mạng, không xét trước sau, giàu có keo kiệt không chịu bố thí, chất chứa cho đầy, nhọc tâm khổ thân, đến khi mạng chung không đem được gì, thiện ác họa phước tùy nghiệp thọ sanh, hoặc sanh vào nơi sung sướng hay vào chốn khổ độc. Thấy người làm lành lại còn hủy báng không chịu bắt chước, thường nghĩ trộm cắp, rình đoạt của người, tiêu phá hết rồi lại đi tìm nữa. Chết đọa vào ba đường ác chịu vô lượng khổ, xoay vần nhiều kiếp rất khó ra khỏi, đau khổ vô cùng.

 

Phiên âm: Kỳ tam giả, thế gian nhân dân tương nhân ký sanh, thọ mạng kỷ hà?    Bất lương chi nhân, thân tâm bất chánh. Thường hoài tà ác, thường niệm dâm dật. Phiền mãn hung trung, tà thái ngoại dật. Phí tổn gia tài, sự vi phi pháp. Sở đương cầu giả, nhi bất khẳng vi. Hựu hoặc giao kết tụ hội, hưng binh tương phạt. Công kiếp sát lục, cưỡng đoạt bách hiếp. Quy cấp thê tử, cực thân tác lạc. Chúng cộng tăng yếm, hoạn nhi khổ chi. Như thị chi ác, trứ ư nhân quỷ. Thần minh ký chí, tự nhập tam đồ. Vô lượng khổ não, triển chuyển kỳ trung. Lũy kiếp nan xuất, thống bất khả  ngôn.

Việt dịch: Điều thứ ba: Người đời nương nhau mà sống còn trong trời đất, thọ mạng chẳng được là bao? Kẻ bất lương tâm không chính đính, ôm lòng tà ác, luôn nghĩ dâm dục, phiền não tràn hông, thái độ tà ngụy buông lung, hao tổn tài sản, làm điều phi pháp, ai cầu xin gì cũng không chấp thuận, lại còn tụ bè kết đảng, hưng binh gây chiến đánh cướp giết hại, chiếm đoạt bức hiếp chu cấp cho vợ con, no thân hưởng lạc, khiến người chán ghét, lo lắng khổ cực, tạo nhiều tội ác, chết vào tam đồ chịu vô lượng khổ, qua lại nhiều kiếp, khó được giải thoát, khổ đau khôn xiết.

 

Phiên âm: Kỳ tứ giả, thế gian nhân dân bất niệm tu thiện. Lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ. Tăng tật thiện nhân, bại hoại hiền minh. Bất hiếu phụ mẫu, khinh mạn sư trưởng. Bằng hữu vô tín, nan đắc thành thật. Tôn quý tự đại, vị kỷ hữu đạo. Hoành hành uy thế, xâm dịch ư nhân. Dục nhân úy kính, bất tự tàm cụ. Nan khả hàng hóa, thường hoài kiêu mạn. Lại kỳ tiền thế, phước đức doanh hộ. Kim  thế vi ác, phước đức tận diệt. Thọ mạng chung tận, chư ác nhiễu quy. Hựu kỳ danh tịch, ký tại thần minh. Ương cữu khiên dẫn, vô tùng xả ly. Đãn đắc tiền hành, nhập ư hỏa hoạch. Thân tâm tồi toái, thần hình khổ cực. Đương tư chi thời, hối phục hà cập.

Việt dịch: Điều thứ tư: Người ta ở đời không chịu tu thiện, nói dối, nói lời hung dữ, nói đâm thọc, nói thêu dệt, ganh ghét người lành, hãm hại người hiền, bất hiếu với cha mẹ, khinh mạn sư trưởng, chẳng thành tín với bằng hữu, tự cao tự đại, cho mình có lý, cậy mình ỷ thế, lấn hiếp mọi người mong người kính nể, không biết hổ thẹn, ôm lòng kiêu mạn, khó thể giáo hóa. Nhờ chút phước đức từ đời trước, đời này làm ác phước đức mất hết, thọ mạng hết rồi, các điều ác bao vây, oán cừu dẫn dắt không sao tránh khỏi, chỉ việc tiến vào vạc lửa, thân thể tan nát, tâm thần thống khổ, bấy giờ nghĩ lại ăn năn thì đã muộn rồi !

 

Phiên âm:  Kỳ ngũ giả, thế gian nhân dân tỷ ỷ giải đãi. Bất khẳng tác thiện, trị thân tu nghiệp. Phụ mẫu giáo hối, vi lệ phản nghịch. Thí như oán gia, bất như vô tử. Phụ ân vi nghĩa, vô hữu báo thường. Phóng tứ du tán, đam tửu thị mỹ. Lỗ hỗ để đột, bất thức nhân tình. Vô nghĩa vô lễ, bất khả gián hiểu. Lục thân quyến thuộc, tư dụng hữu vô, bất năng ưu niệm. Bất duy phụ mẫu chi ân, bất tồn sư hữu chi nghĩa. Ý niệm thân khẩu, tằng vô nhất thiện. Bất tín chư Phật kinh pháp, bất tín sanh tử thiện ác. Dục hại chân nhân, đấu loạn tăng chúng. Ngu si mông muội, tự vi trí huệ. Bất tri sanh sở tùng lai, tử sở thú hướng. Bất nhân bất thuận, hy vọng trường sanh. Từ tâm giáo hối, nhi bất khẳng tín. Khổ khẩu dữ ngữ, vô ích kỳ nhân. Tâm trung bế tắc, ý bất khai giải. Đại mạng tương chung, hối cụ giao chí. Bất dự tu thiện, lâm thời nãi hối. Hối chi ư hậu, tương hà cập hồ!

Việt dịch: Điều thứ năm: Người đời phóng túng lười biếng không chịu làm lành, tu sửa thân tâm; cha mẹ khuyên bảo, ngang trái chống đối như là oan gia, phụ bạc ân nghĩa không chút báo đền, phóng túng lêu lổng, rượu chè xa hoa, đần độn bướng bỉnh, chẳng chút lễ nghĩa, không thể can gián, giao tiếp lục thân quyến thuộc không chút ân tình, không nhớ ơn cha mẹ, không đoái nghĩa thầy trò bằng hữu, chỉ lo cho tự thân, không được một điều lành, không tin Phật pháp, không tin sanh tử thiện ác, muốn hại hiền nhân, phá hoại Phật pháp, ngu si mông muội tự cho thông minh, không biết từ đâu sanh đến, chết sẽ đi về đâu, bất nhơn bất thuận lại muốn trường thọ. Thương xót khuyên bảo lại không chịu nghe, khô hơi khản tiếng cũng thành vô ích. Tâm ý cố chấp không chịu thấu hiểu. Mạng chung cận kề hối tiếc đã không tu thiện, đến khi nhắm mắt ăn năn hối hận sao còn kịp nữa!

 

Thiên địa chi gian, ngũ đạo phân minh. Thiện ác báo ứng, họa phước tương thừa. Thân tự đương chi, vô thùy đại giả. Thiện nhân hành thiện, tùng lạc nhập lạc, tùng minh nhập minh. Ác nhân hành ác, tùng khổ nhập khổ, tùng minh nhập minh. Thùy năng tri giả, độc Phật tri nhĩ. Giáo ngữ khai thị, tín hành giả thiểu. Sanh tử bất hưu, ác đạo bất tuyệt. Như thị thế nhân, nan khả cụ tận. Cố hữu tự nhiên tam đồ, vô lượng khổ não, triển chuyển kỳ trung. Thế thế lũy kiếp, vô hữu xuất kỳ. Nan đắc giải thoát, thống bất khả ngôn.

Việt dịch: Trong vũ trụ, năm đường phân minh, thiện ác báo ứng họa phước đành rành, thân tự chịu lấy không ai thay được. Người thiện làm lành thì từ cảnh sướng đến cõi sướng, từ sáng vào sáng. Người ác làm ác từ cảnh khổ vào cõi khổ, từ tối vào chỗ tối. Ai hay biết được? Chỉ có đức Phật biết rõ khai thị chỉ dạy, người tuân hành rất ít, nên sanh tử không thôi, ác đạo không dứt. Người đời tạo ác như thế, nên tự nhiên có ba đường ác, chịu vô lượng khổ, xoay vần nhiều kiếp không có hạn kỳ ra khỏi, khó được giải thoát đau đớn không thể nói được.

 

Phiên âm: Như thị ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu, thí như đại hỏa, phần thiêu nhân thân. Nhược năng tự ư kỳ trung nhất tâm chế ý, đoan thân chánh niệm, ngôn hạnh tương phó, sở tác chí thành, độc tác chư thiện, bất vi chúng ác. Thân độc độ thoát, hoạch kỳ phước đức, khả đắc trường thọ Nê Hoàn chi đạo. Thị vi ngũ đại thiện dã.

Việt dịch: Do vậy nên có ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu, như lò lửa lớn thiêu đốt thân người. Nếu tự nhứt tâm giữ ý, đoan thân chánh niệm, ngôn hành tương xứng, chí tâm làm lành không làm việc ác, thì được độ thoát, đầy đủ phước đức được trường thọ đến đạo Bồ đề. Đây là năm điều đại thiện.

 

  — o0o —

Đệ Tam Thập Lục: Trùng Trùng Hối Miễn 

Phiên âm: Phật cáo Di Lặc: “Ngô ngữ nhữ đẳng, như thị ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu, triển chuyển tương sanh. Cảm hữu phạm thử, đương lịch ác thú. Hoặc kỳ kim thế, tiên bị bệnh ương, tử sanh bất đắc, thị chúng kiến chi. Hoặc ư thọ chung, nhập tam ác đạo. Sầu thống khốc độc, tự tương tiêu nhiên. Cộng kỳ oán gia, cánh tương sát thương.

Việt dịch: Phật bảo Di Lặc Bồ Tát: “Những ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu đó chuyển tiếp cho nhau, nếu phạm tội tất phải vào ác đạo, hiện đời sẽ bị bệnh hoạn tai ương, cầu sống không được cầu chết không xong, để cho người đời thấy sự chiêu cảm đó, mạng chung đọa vào ba đường ác, thống khổ quá lắm, tự bị thiêu đốt, cùng kết oán thù tàn hại lẫn nhau.

 

Phiên âm:  Tùng tiểu vi khởi, thành đại khốn kịch. Giai do tham trước tài sắc, bất khẳng thí huệ. Các dục tự khoái, vô phục khúc trực. Si dục sở bách, hậu kỷ tranh lợi. Phú quý vinh hoa, đương thời khoái ý. Bất năng nhẫn nhục, bất vụ tu thiện. Uy thế vô kỷ, tùy dĩ ma diệt. Thiên đạo thi trương, tự nhiên củ cử, quỳnh quỳnh chung chung, đương nhập kỳ trung. Cổ kim hữu thị, thống tai khả thương!

Việt dịch: Tạo một tội nhỏ lần thành to lớn, do tham đắm tài sắc không chịu bố thí, muốn khoái lạc bản thân không chịu phản tỉnh, si ám thúc dục tranh lợi về mình, phú quí vinh hoa đương thời vừa ý, không chịu nhẫn nhịn, không chuyên tu thiện, không bao lâu uy thế theo đó tiêu diệt, nghiệp lực an bài báo ứng tự nhiên, dù có lo lắng hoảng hốt cũng phải vào ba ác đạo, xưa nay như vậy. Đau khổ lắm thay!

 

Phiên âm:  Nhữ đẳng đắc Phật kinh ngữ, thục tư duy chi. Các tự đoan thủ, chung thân bất đãi. Tôn Thánh kính thiện, nhân từ bác ái. Đương cầu độ thế, bạt đoạn sanh tử chúng ác chi bổn. Đương ly tam đồ, ưu bố khổ thống chi đạo.

Việt dịch: Các ngươi được giáo pháp của chư Phật chỉ dạy phải suy nghĩ chín chắn tự ghi nhớ kỹ, trọn đời không được biếng trễ. Kính Phật trọng hiền, lương thiện từ bi, cầu thoát ba cõi, dứt sạch gốc sanh tử, lìa hẳn lo sợ thống khổ tam đồ.

 

Phiên âm:  Nhược tào tác thiện, vân hà đệ nhất? Đương tự đoan tâm, đương tự đoan thân. Nhĩ mục khẩu tỵ, giai đương tự đoan. Thân tâm tịnh khiết, dữ thiện tương ưng. Vật tùy thị dục, bất phạm chư ác. Ngôn sắc đương hòa, thân hạnh đương chuyên. Động tác chiêm thị, an định từ vi. Tác sự thảng thốt, bại hối tại hậu. Vi chi bất đế, vong kỳ công phu.

Việt dịch: Thế nào gọi là hành thiện bậc nhất? Phải tự tịnh tâm chánh thân, tai mắt mũi miệng đều phải đoan chánh, thân tâm thanh tịnh cùng thiện tương ưng, đừng theo thị dục, không phạm điều ác, ngôn sắc hòa diệu, thân hành chuyên cần, hành vi cử chỉ bình tĩnh từ tốn, vội vàng hấp tấp không suy xét chính chắn sẽ hư hỏng hối hận về sau, uổng phí một đời”.

  — o0o —

Đệ Tam Thập Thất: Như Bần Đắc Bảo 

Phiên âm: Nhữ đẳng quảng thực đức bổn, vật phạm đạo cấm, nhẫn nhục tinh tấn, từ tâm chuyên nhất. Trai giới thanh tịnh, nhất nhật nhất dạ, thắng tại Vô Lượng Thọ quốc vi thiện bá tuế.     

Việt dịch: Các ngươi đã trồng nhiều căn lành, phải nhẫn nhục tinh tấn, đừng phạm cấm giới, từ tâm chuyên nhứt, thanh tịnh trai giới, tu một ngày một đêm ở cõi Ta bà hơn làm lành ở cõi Vô Lượng Thọ cả trăm năm.

 

Phiên âm: Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc độ, giai tích đức chúng thiện, vô hào phát chi ác. Ư thử tu thiện, thập nhật thập dạ, thắng ư tha phương chư Phật quốc trung: vi thiện thiên tuế. 

Việt dịch: Tại sao vậy? Cõi nước của đức Phật đó đều hành thiện tích đức, không có một chút ác. Tu thiện ở Ta bà mười ngày đêm hơn làm lành ngàn năm ở các cõi Phật khác.

 

Phiên âm: Sở dĩ giả hà? Tha phương Phật quốc, phước đức tự nhiên, vô tạo ác chi địa. Duy thử thế gian, thiện thiểu ác đa, ẩm khổ thực độc, vị thường ninh tức.

Việt dịch: Tại sao vậy? Vì cõi nước Phật ở phương khác thì phước đức tự nhiên có, không có duyên để làm ác, chỉ có thế giới Ta bà này thiện ít ác nhiều, toàn là khổ độc chưa từng ngừng nghỉ.

 

Phiên âm: Ngô ai nhữ đẳng,  khổ tâm hối dụ, thọ dữ kinh pháp, tất trì tư chi, tất phụng hành chi. Tôn ty, nam nữ,  quyến thuộc, bằng hữu, chuyển tương giáo ngữ, tự tương ước kiểm. Hòa thuận nghĩa lý, hoan lạc từ hiếu. Sở tác như phạm,   tắc tự hối quá. Khử ác tựu thiện, triêu văn tịch cải. Phụng trì kinh giới, như bần đắc bảo. Cải vãng tu lai, sái tâm dịch hạnh. Tự nhiên cảm giáng, sở nguyện triếp đắc.

Việt dịch: Ta vì thương các ngươi nên đã hết lòng chỉ dạy trao cho kinh pháp, vậy phải nhớ giữ tuân hành. Tôn ti nam nữ quyến thuộc bằng hữu chỉ bảo lẫn nhau, cùng nhau kiểm điểm, hòa thuận đạo nghĩa, hoan hỷ từ hiếu, nếu có sai phạm phải tự hối cải, bỏ ác làm lành, sáng nghe tối sửa, phụng trì kinh giới, như nghèo được của, sửa xưa tu nay, gột rửa thân tâm, tự nhiên cảm ứng được như sở nguyện.

 

Phiên âm: Phật sở hành xứ, quốc ấp khâu tụ, mỵ bất mông hóa. Thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt thanh minh. Phong vũ dĩ thời, tai lệ bất khởi. Quốc phong dân an, binh qua vô dụng. Sùng đức hưng nhân,  vụ tu lễ nhượng. Quốc vô đạo tặc, vô hữu oan uổng. Cường bất lăng nhược, các đắc kỳ sở. Ngã ai nhữ đẳng, thậm ư phụ mẫu niệm tử. Ngã ư thử thế tác Phật, dĩ thiện công ác, bạt sanh tử chi khổ. Linh hoạch ngũ đức, thăng vô vi chi an.

Việt dịch: Khi Phật còn tại thế quốc ấp thôn trang đều được hóa độ, thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt trong sáng, mưa thuận gió hòa, tai dịch không khởi, quốc thái dân an, binh đao vô dụng, nhân đức hưng vượng, giữ gìn lễ nghĩa, nước không trộm cướp, không có oán tặc, mạnh không hiếp yếu, đều được an lành. Ta thương các ngươi còn hơn cha mẹ thương con. Ta nay làm Phật ở đời này chỉ rõ điều lành điều dữ, dứt khổ sanh tử, được năm điều thiện, lên chốn an lạc vô vi.

 

Phiên âm: Ngô Bát Nê Hoàn, kinh đạo tiệm diệt. Nhân dân siểm ngụy, phục vi chúng ác. Ngũ thiêu ngũ thống, cửu hậu chuyển kịch. Nhữ đẳng chuyển tương giáo giới, như Phật kinh pháp, vô đắc phạm dã.

Việt dịch: Khi Ta nhập Niết bàn, kinh điển lần lần diệt mất, nhân dân gian trá, làm nhiều điều ác, ngũ thiêu ngũ thống, về lâu sau càng làm ác nhiều thêm nữa, các ngươi nên khuyên bảo nhau như lời Phật dạy không được tái phạm”.

 

Phiên âm: Di Lặc Bồ-tát, hiệp chưởng bạch ngôn: “Thế nhân ác khổ, như thị như thị. Phật giai từ ai, tất độ thoát chi. Thọ Phật trùng hối, bất cảm vi thất”.

Việt dịch: Ngài Di Lặc Bồ Tát chấp tay thưa rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Người đời ác khổ như vậy, Phật đều từ bi thương xót độ thoát tất cả. Con xin nghe lời ân cần dạy bảo của Thế Tôn không dám sai trái”.

 

  — o0o —

Đệ Tam Thập Bát: Lễ Phật Hiện Quang 

Phiên âm: Phật cáo A Nan: “Nhược tào dục kiến Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, cập chư Bồ-tát A- la-hán đẳng sở cư quốc độ, ưng khởi tây hướng, đương nhật một xứ, cung kính đảnh lễ, xưng niệm Nam Mô A Mi Đà Phật”.

Việt dịch: Đức Phật bảo tôn giả A Nan: “Nếu ngươi muốn thấy đức Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng và các Bồ Tát A la hán v.v…, ở cõi nước đó, nên đứng dậy quay mặt về phương Tây hướng mặt trời lặn, cung kính đảnh lễ xưng niệm: Nam Mô A Di Đà Phật”.

 

Phiên âm: A Nan tức tùng tòa khởi, diện tây hiệp chưởng, đảnh lễ bạch ngôn: “Ngã kim nguyện kiến Cực Lạc thế giới A Mi Đà Phật, cúng dường phụng sự, chủng chư thiện căn”. Đảnh lễ chi gian, hốt kiến A Mi Đà Phật, dung nhan quảng đại, sắc tướng đoan nghiêm. Như huỳnh kim sơn, cao xuất nhất thiết chư thế giới thượng. Hựu văn thập phương thế giới chư Phật Như Lai, xưng dương tán thán, A Mi Đà Phật chủng chủng công đức, vô ngại vô đoạn.

Việt dịch: Tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy mặt hướng về phương Tây, chấp tay đảnh lễ bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con nay nguyện được thấy đức Phật A Di Đà ở thế giới Cực Lạc, cúng dường phụng sự, vun trồng các căn lành. Khi vừa đảnh lễ liền thấy đức Phật A Di Đà, dung nhan nguy nguy, sắc tướng trang nghiêm quang minh rực rỡ, cao lớn vượt trên tất cả thế giới. Lại nghe chư Phật Như Lai khắp mười phương thế giới xưng dương tán thán vô lượng công đức vô ngại vô cùng của đức Phật A Di Đà.

 

Phiên âm: A Nan bạch ngôn: “Bỉ Phật tịnh sát đắc vị tằng hữu, ngã diệc nguyện nhạo sanh ư bỉ độ”.

Việt dịch: Tôn giả A Nan bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Cõi Phật thanh tịnh kia rất hiếm có, con nguyện mong được sanh về cõi đó”.

 

Phiên âm: Thế Tôn cáo ngôn: “Kỳ trung sanh giả, dĩ tằng thân cận vô lượng chư Phật, thực chúng đức bổn. Nhữ dục sanh bỉ, ưng đương nhất tâm quy y chiêm ngưỡng”.

Việt dịch: Đức Thế Tôn nói những người được sanh về cõi đó đã từng thân cận vô lượng đức Phật, nhiều thiện căn phước đức, ngươi muốn sanh về cõi đó thì phải nhứt tâm quy y mong cầu.

 

Phiên âm: Tác thị ngữ thời, A Mi Đà Phật tức ư chưởng trung phóng vô lượng quang, phổ chiếu nhất thiết chư Phật thế giới. Thời chư Phật quốc, giai tất minh hiện, như xử nhất tầm. A Mi Đà Phật thù thắng quang minh, cực thanh tịnh cố, ư thử thế giới sở hữu Hắc sơn, Tuyết sơn, Kim Cang, Thiết Vi, đại tiểu chư sơn, giang hà, tùng lâm, thiên nhân cung điện, nhất thiết cảnh giới, vô bất chiếu kiến.

Việt dịch: Vừa nói lời ấy xong, trên tay đức Phật A Di Đà liền phóng ra vô lượng tia sáng chiếu khắp thế giới chư Phật, cõi nước chư Phật thảy đều hiện rõ như ở trước mắt, do quang minh thanh tịnh thù thắng của đức Phật A Di Đà, nên ở thế giới này như hắc sơn, tuyết sơn, kim cang, thiết vi các núi lớn nhỏ… sông suối, rừng cây, cung điện của trời, người, tất cả cảnh giới đều sáng rõ,

 

Phiên âm: Thí như nhật xuất, minh chiếu thế gian. Nãi chí Nê-lê, khê cốc, u minh chi xứ, tất đại khai tịch, giai đồng nhất sắc. Do như kiếp thủy di mãn thế giới, kỳ trung vạn vật, trầm một bất hiện, hoảng dạng hạo hãn, duy kiến đại thủy. Bỉ Phật quang minh, diệc phục như thị. Thanh-văn Bồ-tát, nhất thiết quang minh, tất giai ẩn tế, duy kiến Phật quang, minh diệu hiển hách.

Việt dịch: Như mặt trời mọc chiếu sáng khắp thế gian, cho đến địa ngục, ngạ quỷ, hang hố, thảy đều sáng rõ, đồng một màu sắc, như thời kiếp thủy tai nước tràn đầy cả, vạn vật chìm ngập, thăm thẳm mênh mông, chỉ toàn là nước; quang minh của Phật cũng chiếu khắp như vậy, tất cả quang minh của Thanh văn, Bồ Tát đều bị lu mờ bởi ánh hào quang sáng chói rực rỡ của đức Phật.

 

Phiên âm: Thử hội tứ chúng, thiên long bát bộ, nhân phi nhân đẳng, giai kiến Cực Lạc thế giới, chủng chủng trang nghiêm. A Mi Đà Phật, ư bỉ cao tòa, uy đức nguy nguy, tướng hảo quang minh, Thanh-văn Bồ-tát, vi nhiễu cung kính. Thí như Tu Di sơn vương, xuất ư hải diện, minh hiện chiếu diệu, thanh tịnh bình chánh, vô hữu tạp uế, cập dị hình loại. Duy thị chúng bảo trang nghiêm, Thánh Hiền cộng trụ.

Việt dịch: Hàng tứ chúng trong đây, Thiên long, Bát bộ, người và phi nhơn v.v… đồng thấy các sự trang nghiêm của thế giới Cực Lạc. Đức Phật A Di Đà ở trên tòa cao, oai đức nguy nguy, tướng hảo quang minh. Các hàng Thanh văn, Bồ Tát cung kính vây quanh, như núi Tu Di đứng giữa biển cả. Thân Phật sáng rõ chiếu diệu thanh tịnh bình chánh, không có tạp uế và hình loại quái dị, chỉ có các thứ báu trang nghiêm, Thánh Hiền chung ở.

 

Phiên âm: A Nan cập chư Bồ-tát chúng đẳng, giai đại hoan hỷ, dũng dược tác lễ, dĩ đầu trước địa, xưng niệm Nam Mô A Mi Đà Tam-Miệu Tam-Phật-Đà. Chư thiên nhân dân, dĩ chí quyên phi nhuyễn động, đổ tư quang giả, sở hữu tật khổ, mạc bất hưu chỉ, nhất thiết ưu não, mạc bất giải thoát. Tất giai từ tâm tác thiện, hoan hỷ khoái lạc. Chung khánh cầm sắt, không hầu nhạc khí, bất cổ tự nhiên giai tác ngũ âm. Chư Phật quốc trung, chư thiên nhân dân, các trì hoa hương, lai ư hư không, tán tác cúng dường.

Việt dịch: Tôn giả A Nan và các chúng Bồ Tát v.v… đều rất vui mừng hớn hở đảnh lễ năm vóc sát đất xưng niệm Nam mô A Di Đà Tam Miệu Tam Phật Đà. Chư Thiên và chúng nhơn cho đến loài bò bay xuẩn động đều thấy hào quang ấy cả. Những kẻ bệnh khổ được hết bệnh khổ. Những kẻ sầu não được giải thoát, thảy đều có từ tâm làm lành, vui mừng sung sướng. Những nhạc khí như chuông, khánh, cầm sắt, không hầu không đánh tự trổi. Chư Thiên và nhân dân trong các cõi Phật khác đều đem hoa hương đến giữa hư không rải xuống cúng dường.

 

Phiên âm: Nhĩ thời Cực Lạc thế giới, quá ư tây phương bá thiên câu-chi na-do-tha quốc, dĩ Phật uy lực, như đối mục tiền, như tịnh thiên-nhãn, quán nhất tầm địa. Bỉ kiến thử độ, diệc phục như thị. Tất đổ Ta Bà thế giới, Thích Ca Như Lai, cập Tỳ-kheo chúng, vi nhiễu thuyết pháp.

Việt dịch: Bấy giờ thế giới Cực Lạc ở phương tây cách xa cả trăm ngàn vô lượng ức cõi nước, nhờ oai lực của Phật mà thấy rõ như ở trước mắt, như được tịnh thiên nhãn thấy như khoảng tám thước. Đại chúng ở cõi Cực Lạc cũng lại như vậy, đều thấy đức Thích Ca Như Lai ở thế giới Ta bà này và chúng Tỳ kheo vây quanh nghe pháp.

 

  — o0o —

Đệ Tam Thập Cửu: Từ Thị Thuật Kiến 

Phiên âm: Nhĩ thời Phật cáo A Nan, cập Từ Thị Bồ-tát: “Nhữ kiến Cực Lạc thế giới, cung điện, lâu các, tuyền trì, lâm thụ, cụ túc vi diệu, thanh tịnh trang nghiêm phủ? Nhữ kiến Dục-giới chư thiên, thượng chí Sắc Cứu Cánh thiên, vụ chư hương hoa, biến Phật sát phủ?”

Việt dịch: Bấy giờ đức Phật bảo tôn giả A Nan và Từ Thị Bồ Tát rằng: “Các ông có thấy cung điện, lầu các, ao hồ, rừng cây khắp cả vi diệu trang nghiêm ở thế giới Cực Lạc không? Các ông có thấy chư Thiên ở cõi Dục cho đến cõi trời Sắc Cứu Cánh đem hoa hương cúng dường khắp cõi Phật không?”.

 

Phiên âm: A Nan đối viết: “Dụy nhiên dĩ kiến”.

Việt dịch: Tôn giả A Nan bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng con nhìn thấy”.

 

Phiên âm: “Nhữ văn A Mi Đà Phật đại âm tuyên bố nhất thiết thế giới, hóa chúng sanh phủ?”

Việt dịch: “Các ông có nghe tiếng lớn của đức Phật A Di Đà truyền khắp tất cả thế giới để giáo hóa chúng sanh không?”

 

Phiên âm: A Nan đối viết: “Dụy nhiên dĩ văn”.

Việt dịch: Tôn giả A Nan bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng con có nghe”.

 

Phiên âm: Phật ngôn: “Nhữ kiến bỉ quốc tịnh hạnh chi chúng, du xử hư không, cung điện tùy thân, vô sở chướng ngại, biến chí thập phương cúng dường chư Phật phủ? Cập kiến bỉ đẳng niệm Phật tương tục phủ? Phục hữu chúng điểu, trụ hư không giới, xuất chủng chủng âm, giai thị hóa tác, nhữ tất kiến phủ?”

Việt dịch: Đức Phật bảo: “Các ông có thấy chúng tịnh hạnh ở cõi Cực Lạc nương nơi cung điện đi khắp mười phương cúng dường chư Phật mà không bị trở ngại không? Và thấy họ liên tục niệm Phật không? Lại có các loài chim bay giữa hư không, tiếng hót thánh thót, đó là do đức Phật biến hóa ra không?”

 

Phiên âm: Từ Thị bạch ngôn: “Như Phật sở thuyết, nhất nhất giai kiến”.

Việt dịch: Ngài Từ Thị Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Như lời đức Thế Tôn nói, chúng con đều thấy cả”.

 

Phiên âm: Phật cáo Di Lặc: “Bỉ quốc nhân dân hữu thai sanh giả,  nhữ phục kiến phủ?”

Việt dịch: Đức Phật bảo Di Lặc rằng: “Nhân dân ở nước đó có thai sanh nữa, ông có thấy chăng?”

 

Phiên âm: Di Lặc bạch ngôn: “Thế Tôn! Ngã kiến Cực Lạc thế giới nhân trụ thai giả, như Dạ Ma thiên, xử ư cung điện. Hựu kiến chúng sanh, ư liên hoa nội kiết già-phu tọa, tự nhiên hóa sanh. Hà nhân duyên cố, bỉ quốc nhân dân, hữu thai sanh giả, hữu hóa sanh giả?”

Việt dịch: Ngài Di Lặc bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con thấy người thế giới Cực Lạc ở trong thai như ở trong cung điện cõi Dạ Ma Thiên. Lại thấy chúng sanh ngồi kiết già ở trong hoa sen tự nhiên hóa sanh. Do nhân duyên gì nhân dân ở cõi đó có hạng thai sanh, hạng hóa sanh?”

 

  — o0o —

Đệ Tứ Thập: Biên Địa Nghi Thành 

Phiên âm: Phật cáo Từ Thị: “Nhược hữu chúng sanh, dĩ nghi hoặc tâm tu chư công đức, nguyện sanh bỉ quốc. Bất liễu Phật trí, Bất-tư-nghì-trí, Bất-khả-xưng-trí, Đại-thừa-quảng-trí, Vô-đẳng Vô-luân tối-thượng thắng-trí, ư thử chư trí, nghi hoặc bất tín. Do tín tội phước, tu tập thiện bổn, nguyện sanh kỳ quốc.

Việt dịch: Đức Phật bảo ngài Từ Thị: “Nếu có chúng sanh do tâm nghi hoặc làm các công đức, nguyện sanh về Cực Lạc, không rõ Phật trí, bất tư nghì trí bất khả xứng trí, Đại thừa quảng trí, Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí, đối với các trí này nghi ngờ không tin, nhưng vì tin tội phước mà tu tập hạnh lành, nguyện sanh về Cực Lạc.

 

Phiên âm: Phục hữu chúng sanh, tích tập thiện căn, hy cầu Phật trí, Phổ-biến-trí, Vô-đẳng-trí, Uy-đức-quảng đại Bất-tư-nghì-trí. Ư tự thiện căn, bất năng sanh tín. Cố ư vãng sanh Thanh Tịnh Phật quốc, ý chí do dự, vô sở chuyên cứ. Nhiên do tục niệm bất tuyệt, kết kỳ thiện nguyện vi bổn, tục đắc vãng sanh.

Việt dịch: Lại có chúng sanh chứa nhóm thiện căn, mong cầu Phật trí, phổ biến trí, vô đẳng trí, oai đức quảng đại bất tư nghì trí, đối với căn lành không sanh lòng tin, ý chí còn do dự đối với sự vãng sanh cõi Phật thanh tịnh, không có tinh chuyên, nhưng vì liên tục nhớ nghĩ không thôi kết thành thiện nguyện cũng được vãng sanh.

 

Phiên âm: Thị chư nhân đẳng, dĩ thử nhân duyên, tuy sanh bỉ quốc, bất năng tiền chí Vô Lượng Thọ sở, đạo chỉ Phật quốc giới biên, thất bảo thành trung. Phật bất sử nhĩ, thân hạnh sở tác, tâm tự thú hướng. Diệc hữu bảo trì liên hoa, tự nhiên thọ thân. Ẩm thực khoái lạc, như Đao Lợi thiên.

Việt dịch: Do những nhân duyên đó, những hạng người này tuy được sanh về Cực Lạc, nhưng không thể đến thẳng cõi Đức Phật Vô Lượng Thọ được, chỉ đến biên giới cõi Phật, ở trong thành thất bảo thôi. Không phải Đức Phật muốn như vậy, mà vì chính họ tạo nên tâm đến đó vậy. Ở đó cũng có ao sen thất bảo, tự nhiên thọ thân, ăn uống sung sướng như cõi trời Đao Lợi, nhưng ở trong thành đó không thể ra khỏi, nhà ở trên đất, không thể tùy ý cao lớn.

 

Phiên âm: Ư kỳ thành trung, bất năng đắc xuất. Sở cư xá trạch tại địa, bất năng tùy ý cao đại. Ư ngũ bá tuế, thường bất kiến Phật, bất văn kinh pháp, bất kiến Bồ-tát Thanh-văn Thánh chúng. Kỳ nhân trí huệ bất minh, tri kinh phục thiểu; Tâm bất khai giải, ý bất hoan lạc. Thị cố ư bỉ, vị chi thai sanh.

Việt dịch: Ở đó năm trăm năm không thấy Phật, không nghe được pháp, không thấy Thánh chúng Bồ Tát, Thanh Văn, trí huệ không sáng suốt, biết kinh pháp lại ít, tâm không mở mang, ý không vui vẻ, nên ở đó gọi là thai sanh.

 

Phiên âm: Nhược hữu chúng sanh, minh tín Phật trí, nãi chí thắng trí, đoạn trừ nghi hoặc; Tín kỷ thiện căn; Tác chư công đức, chí tâm hồi hướng. Giai ư thất bảo hoa trung, tự nhiên hóa sanh, già-phu nhi tọa. Tu-du chi khoảnh, thân tướng, quang minh, trí huệ, công đức, như chư Bồ-tát, cụ túc thành tựu.

Việt dịch: Nếu có chúng sanh tin rõ Phật trí, cho đến thắng trí, đoạn trừ nghi hoặc, gieo các thiện căn làm các công đức, chí tâm hồi hướng, nên được hóa sanh ngồi kiết già trong hoa thất bảo, khoảnh khắc được thân tướng quang minh, công đức trí huệ thành tựu đầy đủ như các bậc Bồ Tát vậy.

 

Phiên âm: Di Lặc đương tri, bỉ hóa sanh giả, trí huệ thắng cố. Kỳ thai sanh giả, ngũ bá tuế trung, bất kiến Tam Bảo, bất tri Bồ-tát pháp thức, bất đắc tu tập công đức; Vô nhân phụng sự Vô Lượng Thọ Phật. Đương tri thử nhân, túc thế chi thời, vô hữu trí huệ, nghi hoặc sở trí”.

Việt dịch: Di Lặc Bồ Tát phải biết, hạng hóa sanh đó có trí huệ thù thắng. Hạng thai sanh kia trong năm trăm năm không thấy Tam bảo, không biết phép tắc của Bồ Tát, không được tu tập công đức, không có nhân duyên cúng dường Phật Vô Lượng Thọ, phải biết hạng người này do đời trước không có trí tuệ, sanh tâm nghi hoặc mà ra.

 

  — o0o —

Đệ Tứ Thập Nhất: Hoặc Tận Kiến Phật 

Phiên âm: Thí như Chuyển-luân-thánh-vương, hữu thất bảo ngục. Vương tử đắc tội, cấm bế kỳ trung. Tằng lâu ỷ điện, bảo trướng, kim sàng, lan, song, tháp, tọa, diệu sức kỳ trân. Ẩm thực y phục, như Chuyển-luân-vương. Nhi dĩ kim tỏa, hệ kỳ lưỡng túc. Chư tiểu vương tử, ninh lạc thử phủ?

Việt dịchThí như Chuyển luân Thánh vương có bảy ngục báu để giam những vương tử nào mắc tội. Trong đó cũng có lầu các cung điện, màn báu, giường báu, lan can cửa sổ, giường ghế trang sức quý báu, ăn uống y phục được cấp dưỡng như Chuyển luân Thánh vương, nhưng bị trói chân bằng xích vàng, các tiểu vương tử này có thích ở nơi ấy không?

 

Phiên âm: Từ Thị bạch ngôn: “Bất dã Thế Tôn! Bỉ u trập thời, tâm bất tự tại. Đãn dĩ chủng chủng phương tiện, dục cầu xuất ly; Cầu chư cận thần, chung bất túng tâm. Luân-vương hoan hỷ, phương đắc giải thoát”.

Việt dịchNgài Từ Thị Bồ Tát bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Dĩ nhiên không vui thích! Khi họ bị giam cầm không được tự do, chỉ muốn tìm đủ mọi cách để được ra khỏi ngục, lại cầu mọi thế lực cận thần giúp xin nhưng cũng không toại ý, bao giờ Chuyển luân Thánh Vương bằng lòng mới được giải thoát”.

 

Phiên âm: Phật cáo Di Lặc: “Thử chư chúng sanh, diệc phục như thị. Nhược hữu đọa ư nghi hối, hy cầu Phật trí, chí Quảng-đại-trí. Ư tự thiện căn, bất năng sanh tín. Do văn Phật danh, khởi tín tâm cố, tuy sanh bỉ quốc, ư liên hoa trung, bất đắc xuất hiện. Bỉ xử hoa thai, do như viên uyển cung điện chi tưởng.

Việt dịch: Này Di Lặc! Các chúng sanh này cũng lại như vậy. Vì có tâm nghi hoặc Phật trí, cho đến quảng đại trí, đối với thiện căn thiếu lòng tin sâu, do nghe danh hiệu Phật mà phát tâm tin thôi. Tuy sanh về cõi Cực Lạc ở trong hoa sen, nhưng không được ra khỏi hoa thai, trong đó cũng đủ vườn tược cung điện.

 

Phiên âm: Hà dĩ cố? Bỉ trung thanh tịnh, vô chư uế ác. Nhiên ư ngũ bá tuế trung, bất kiến Tam Bảo; Bất đắc cúng dường phụng sự chư Phật, viễn ly nhất thiết thù thắng thiện căn. Dĩ thử vi khổ, bất sanh hân lạc.

Nhược thử chúng sanh, thức kỳ tội bổn, thâm tự hối trách, cầu ly bỉ xứ. Vãng tích thế trung, quá thất tận dĩ, nhiên hậu nãi xuất. Tức đắc vãng nghệ Vô Lượng Thọ sở, thính văn kinh pháp. Cửu cửu diệc đương khai giải hoan hỷ, diệc đắc biến cúng vô số vô lượng chư Phật, tu chư công đức.

Việt dịch: Tại sao vậy? Trong hoa thai đó thanh tịnh không có uế ác, nhưng trong năm trăm năm không thấy Tam Bảo, không được cúng dường phụng sự chư Phật, xa lìa tất cả thiện căn thù thắng, do nỗi khổ đó nên không vui thích.

Nếu như những chúng sanh này biết được tội đời trước, hết lòng ăn năn tự trách cầu được ra khỏi thai hoa, khi đã hết nghiệp rồi mới được ra khỏi, thẳng đến chỗ của Đức Phật Vô Lượng Thọ, được nghe kinh pháp, lâu sau cũng được giải ngộ hoan hỷ, cũng được đi khắp cúng dường vô số vô lượng chư Phật, tu tập các công đức.

 

Phiên âm: Nhữ A Dật Đa! Đương tri nghi hoặc, ư chư Bồ-tát vi đại tổn hại, vi thất đại lợi. Thị cố ưng đương minh tín chư Phật vô thượng trí huệ”.

Việt dịch: Này A Dật Đa! Phải biết rằng tâm nghi hoặc tổn hại rất lớn, mất lợi ích lớn đối với Bồ Tát, nên phải tin tưởng minh bạch vô thượng trí huệ của Phật.

 

Phiên âm: Từ Thị bạch ngôn: “Vân hà thử giới nhất loại chúng sanh, tuy diệc tu thiện, nhi bất cầu sanh?”

Việt dịch: Ngài Từ Thị Bồ Tát bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Tại sao có một hạng chúng sanh ở thế giới này tuy cũng tu thiện mà không cầu vãng sanh?”

 

Phiên âm: Phật cáo Từ Thị: “Thử đẳng chúng sanh, trí huệ vi thiển; Phân biệt Tây Phương, bất cập thiên giới; Thị dĩ phi lạc, bất cầu sanh bỉ”.

Việt dịch: Này Từ Thị! Những chúng sanh này trí tuệ cạn cợt, phân biệt Tây phương không bằng cõi trời, do vậy không thích cầu sanh về cõi Cực Lạc.

 

Phiên âm: Từ Thị bạch ngôn: “Thử đẳng chúng sanh, vọng phân biệt. Bất cầu Phật sát, hà miễn luân hồi?”

Việt dịch: Ngài Từ Thị bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Những chúng sanh này luống dối phân biệt không cầu sanh về cõi Phật, làm sao thoát khỏi luân hồi”.

 

Phiên âm: Phật ngôn: “Bỉ đẳng sở chủng thiện căn, bất năng ly tướng, bất cầu Phật huệ, thâm trước thế lạc, nhân gian phước báo. Tuy phục tu phước, cầu nhân thiên quả. Đắc báo chi thời, nhất thiết phong túc, nhi vị năng xuất tam giới ngục trung.

Giả sử phụ mẫu thê tử nam nữ quyến thuộc: dục tương cứu miễn. Tà kiến nghiệp vương, vị năng xả ly, thường xử luân hồi nhi bất tự tại. Nhữ kiến ngu si chi nhân, bất chủng thiện căn, đãn dĩ thế trí thông biện, tăng ích tà tâm. Vân hà xuất ly sanh tử đại nạn?

Việt dịchĐức Phật nói rằng: “Các chúng sanh ấy có nhiều căn lành, nhưng không bỏ tâm phân biệt vọng tưởng, không cầu Phật huệ, tham đắm phước báo vui thú thế gian. Tuy cũng làm phước, nhưng chỉ cầu quả báo nhân thiên. Tuy được quả báo đầy đủ phong túc, nhưng chưa ra khỏi ngục tù tam giới.

Giả sử cha mẹ, vợ con, nam nữ quyến thuộc mà không dứt bỏ dục tướng, tà kiến vọng chấp thì luôn ở trong vòng luân hồi không được tự tại. Hạng người ngu si đó không gieo căn lành, chỉ dùng thế trí biện thông thì tăng thêm tà kiến, làm sao ra khỏi đại nạn sanh tử được.

 

Phiên âm: Phục hữu chúng sanh, tuy chủng thiện căn, tác đại phước điền; Thủ tướng phân biệt, tình chấp thâm trọng. Cầu xuất luân hồi, chung bất năng đắc.

Việt dịchLại có chúng sanh tuy có gieo căn lành, tạo phước lớn, nhưng vẫn giữ tâm phân biệt, tình chấp sâu nặng, cũng cầu thoát luân hồi, nhưng không thoát được.

 

Nhược dĩ vô tướng trí huệ, thực chúng đức bổn; Thân tâm thanh tịnh, viễn ly phân biệt; Cầu sanh Tịnh sát, thú Phật Bồ-đề, đương sanh Phật sát, vĩnh đắc giải thoát”.

Việt dịchNếu đem cái trí huệ vô tướng mà làm các công đức, thân tâm thanh tịnh, xa lìa tâm phân biệt, cầu sanh về Tịnh độ cho đến quả Bồ Đề, quyết được sanh về cõi Phật, vĩnh viễn giải thoát.

 

  — o0o —

Đệ Tứ Thập Nhị: Bồ Tát Vãng Sanh

Phiên âm: Di Lặc Bồ-tát bạch Phật ngôn: “Kim thử Ta Bà thế giới, cập chư Phật sát, bất thoái Bồ-tát, đương sanh Cực Lạc quốc giả, kỳ số kỷ hà?”

Việt dịchNgài Di Lặc Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Hiện nay có bao nhiêu các bậc Bất thối Bồ Tát ở cõi Ta bà này và các cõi Phật khác được sanh về nước Cực Lạc?”

 

Phiên âm: Phật cáo Di Lặc: “Ư thử thế giới, hữu thất bá nhị thập ức Bồ-tát, dĩ tằng cúng dường vô số chư Phật, thực chúng đức bổn, đương sanh bỉ quốc. Chư tiểu hạnh Bồ-tát, tu tập công đức, đương vãng sanh giả, bất khả xưng kế. Bất đãn Ngã sát chư Bồ-tát đẳng, vãng sanh bỉ quốc. Tha phương Phật độ, diệc phục như thị.

Việt dịchNày Di Lặc! Ở thế giới Ta bà này có bảy trăm hai mươi ức Bồ Tát đã từng cúng dường vô số chư Phật, làm nhiều công đức đã sanh về Cực Lạc. Các bậc Bồ Tát sơ phát tâm, tu tập công đức đã được vãng sanh số lượng không thể tính được. Không những các bậc Bồ Tát ở cõi này được vãng sanh về Cực Lạc, mà các cõi Phật khác cũng lại như vậy.

 

Phiên âm: Tùng Viễn Chiếu Phật sát, hữu thập bát câu-chi na-do-tha Bồ-tát Ma-ha-tát, sanh bỉ quốc độ.

Việt dịchCõi nước của Đức Phật Viễn Chiếu có mười tám câu chi na do tha đại Bồ Tát sanh về cõi Cực Lạc.

 

Phiên âm: Đông Bắc phương Bảo Tạng Phật sát, hữu cửu thập ức bất thoái Bồ-tát, đương sanh bỉ quốc.

Việt dịchCõi nước Đức Phật Bảo Tạng ở phương Đông Bắc có chín mươi ức bất thối Bồ Tát sanh về cõi Cực Lạc.

 

Phiên âm: Tùng Vô Lượng Âm Phật sát, Quang Minh Phật sát, Long Thiên Phật sát, Thắng Lực Phật sát, Tử Phật sát, Ly Trần Phật sát, Đức Thủ Phật sát, Nhân Vương Phật sát, Hoa Tràng Phật sát, bất thoái Bồ-tát đương vãng sanh giả, hoặc số thập bá ức, hoặc số bá thiên ức, nãi chí vạn ức.

Việt dịchCác bậc bất thối Bồ Tát ở những cõi nước Đức Phật Vô Lượng Âm, Đức Phật Quang Minh, đức Phật Long Thiên, đức Phật Thắng Lực, Đức Phật Sư Tử, Đức Phật Ly Trần, Đức Phật Đức Thủ, Đức Phật Nhân Vương, Đức Phật Hoa Tràng đã vãng sanh số lượng mười trăm ức, hoặc trăm ngàn ức cho đến vạn ức vị.

 

Phiên âm: Kỳ đệ thập nhị Phật danh Vô Thượng Hoa, bỉ hữu vô số chư Bồ-tát chúng, giai bất thoái chuyển. Trí huệ dũng mãnh, dĩ tằng cúng dường vô lượng chư Phật; Cụ đại tinh tấn, phát thú Nhất-thừa; Ư thất nhật trung, tức năng nhiếp thủ bá thiên ức kiếp, Đại-sĩ sở tu kiên cố chi pháp. Tư đẳng Bồ-tát, giai đương vãng sanh.

Việt dịchĐức Phật thứ mười hai hiệu là Vô Thượng Hoa, có vô số chúng Bồ Tát ở cõi Phật đó đều ở bậc bất thối chuyển, đã sanh về cõi Cực Lạc. Các vị ấy có trí huệ dõng mãnh, từng cúng dường vô lượng chư Phật, rất mực tinh tấn, thẳng đến nhứt thừa, trong bảy ngày đêm kiên cố tu tập như pháp bằng cả trăm ngàn ức kiếp tu tập.

 

Phiên âm: Kỳ đệ thập tam Phật danh viết Vô Úy, bỉ hữu thất bá cửu thập ức đại Bồ-tát chúng, chư tiểu Bồ-tát cập Tỳ-kheo đẳng, bất khả xưng kế, giai đương vãng sanh.

Việt dịchĐức Phật thứ mười ba hiệu là Vô Úy có bảy trăm chín mươi ức đại Bồ Tát, các vị Bồ Tát thấp và chúng Tỳ kheo v.v… sanh về cõi Cực Lạc không đếm kể được.

 

Phiên âm: Thập phương thế giới chư Phật danh hiệu, cập Bồ-tát chúng đương vãng sanh giả, đãn thuyết kỳ danh, cùng kiếp bất tận”.

Việt dịchDanh hiệu của chư Phật trong mười phương thế giới và chúng Bồ Tát đã vãng sanh, chỉ nói tên thôi mãn kiếp cũng không hết.

 

  — o0o —

Đệ Tứ Thập Tam: Phi Thị Tiểu Thừa

Phiên âm: Phật cáo Từ Thị: “Nhữ quán bỉ chư Bồ-tát Ma-ha-tát, thiện hoạch lợi ích.

Việt dịchNày Từ Thị! Ông thấy các bậc Bồ Tát Ma Ha Tát kia được nhiều lợi ích như vậy.

 

Phiên âm: Nhược hữu Thiện-nam-tử, Thiện-nữ-nhân, đắc văn A Mi Đà Phật danh hiệu, năng sanh nhất niệm hỷ ái chi tâm, quy y chiêm lễ, như thuyết tu hành. Đương tri thử nhân vi đắc đại lợi, đương hoạch như thượng sở thuyết công đức. Tâm vô hạ liệt, diệc bất cống cao. Thành tựu thiện căn, tất giai tăng thượng. Đương tri thử nhân phi thị Tiểu-thừa, ư Ngã pháp trung, đắc danh đệ nhất đệ tử.

Việt dịchNếu có trai lành gái tín nào, được nghe danh hiệu đức Phật A Di Đà sanh tâm vui mừng hớn hở chừng một niệm, quy y chiêm lễ, như thuyết tu hành, phải biết người này được lợi ích rất lớn, được nhiều công đức như đã nói ở trên, tâm không tự ti, cũng không cống cao, thành tựu thiện căn được thêm tăng trưởng, phải biết người này không phải tiểu thừa, ở trong pháp của ta được gọi là đệ tử bậc nhứt.

 

Phiên âm: Thị cố cáo nhữ thiên nhân thế gian A- tu- la đẳng, ưng đương ái nhạo tu tập, sanh hy hữu tâm. Ư thử kinh trung, sanh Đạo sư tưởng. Dục linh vô lượng chúng sanh, tốc tật an trụ đắc bất thoái chuyển; Cập dục kiến bỉ quảng đại trang nghiêm, nhiếp thọ thù thắng Phật sát, viên mãn công đức giả, đương khởi tinh tấn, thính thử Pháp môn. Vị cầu pháp cố, bất sanh thoái khuất siểm ngụy chi tâm. Thiết nhập đại hỏa, bất ưng nghi hối.     

Việt dịchCho nên ta bảo ông rằng: Những Thiên, Nhơn, A tu la ở thế gian này nên phải hớn hở tin thích tu tập, sanh tâm hy hữu, nên lấy kinh này làm thầy hướng dẫn để cho vô lượng chúng sanh mau được vào bậc bất thối chuyển, thấy được cõi Cực Lạc rộng lớn trang nghiêm nhiếp thọ thù thắng, viên mãn công đức hơn cả. Nên phải tinh tấn vâng giữ pháp môn này cầu được vãng sanh, không nên sanh tâm thối thất hư ngụy, dù có vào hầm lửa lớn cũng không được nghi ngờ hối hận.

 

Phiên âm: Hà dĩ cố? Bỉ vô lượng ức chư Bồ-tát đẳng, giai tất cầu thử vi diệu Pháp môn, tôn trọng thính văn, bất sanh vi bội. Đa hữu Bồ-tát, dục văn thử kinh nhi bất năng đắc. Thị cố nhữ đẳng, ưng cầu thử pháp”.

Việt dịchTại sao vậy? Vô lượng vô số Bồ Tát đều mong cầu trân trọng lắng nghe pháp môn vi diệu này, không có tâm sai trái. Có nhiều vị Bồ Tát muốn nghe kinh này mà còn không được. Nên các ngươi phải cầu giữ pháp môn này.

 

  — o0o —

Đệ Tứ Thập Tứ: Thọ Bồ Đề Ký 

Phiên âm: Nhược ư lai thế, nãi chí chánh pháp diệt thời, đương hữu chúng sanh, thực chư thiện bổn, dĩ tằng cúng dường vô lượng chư Phật. Do bỉ Như Lai gia uy lực cố, năng đắc như thị quảng đại Pháp môn. Nhiếp thủ thọ trì, đương hoạch quảng đại Nhất-thiết-trí-trí. Ư bỉ pháp trung, quảng đại thắng giải, hoạch đại hoan hỷ. Quảng vị tha thuyết, thường nhạo tu hành.

Việt dịchVề đời sau đến khi chánh pháp diệt tận, nếu có chúng sanh nào đã trồng căn lành, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, nhờ vào oai lực của Phật Vô Lượng Thọ gia bị mới gặp được kinh pháp này, giữ gìn thọ trì sẽ được quảng đại Nhứt Thiết Trí. Ở trong kinh pháp đó hiểu rõ cặn kẽ, sẽ được nhiều hoan hỷ, nên lưu truyền cho mọi người tin theo tu tập.

 

Phiên âm: Chư Thiện-nam-tử, cập Thiện-nữ-nhân, năng ư thị pháp, nhược dĩ cầu, hiện cầu, đương cầu giả, giai hoạch thiện lợi. Nhữ đẳng ưng đương an trụ vô nghi; Chủng chư thiện bổn, ưng thường tu tập, sử vô nghi trệ, bất nhập nhất thiết chủng loại trân bảo thành tựu lao ngục.

Việt dịchCác thiện nam tín nữ đối với pháp này nếu đã cầu, hiện cầu hay sẽ cầu vãng sanh đều được nhiều lợi ích. Các ông nên phải kiên định chắc chắn, trồng các căn lành, nên luôn luôn tu tập không được ngừng nghỉ nghi ngờ, chẳng vào các cõi trân bảo thành tựu lao ngục.

 

Phiên âm: A Dật Đa! Như thị đẳng loại đại uy đức giả, năng sanh Phật pháp quảng đại dị môn. Do ư thử pháp bất thính văn cố, hữu nhất ức Bồ-tát, thoái chuyển A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

Việt dịchNày A Dật Đa! Những hạng đại oai đức này thường từ nơi các pháp đại thừa khác mà được, nên đối với pháp này không chịu lóng nghe. Có đến một ức vị Bồ Tát thối chuyển bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

 

Phiên âm: Nhược hữu chúng sanh, ư thử kinh điển, thư tả, cúng dường, thọ trì, độc tụng, ư tu-du khoảnh vị tha diễn thuyết, khuyến linh thính văn, bất sanh ưu não, nãi chí trú dạ tư duy bỉ sát, cập Phật công đức. Ư Vô thượng đạo, chung bất thoái chuyển.

Việt dịchNếu có chúng sanh nào đối với kinh này viết chép cúng dường thọ trì đọc tụng, trong chút thời gian vì người diễn nói, khuyên họ lóng nghe, không sanh ưu não, cho đến ngày đêm suy nghĩ cõi Cực Lạc và công đức của Phật A Di Đà, đối với đạo vô thượng trọn không thối chuyển.

 

Phiên âm: Bỉ nhân lâm chung, giả sử Tam thiên Đại thiên thế giới mãn trung đại hỏa, diệc năng siêu quá, sanh bỉ quốc độ. Thị nhân dĩ tằng trị quá khứ Phật, thọ Bồ-đề ký. Nhất thiết Như Lai, đồng sở xưng tán. Thị cố ưng đương chuyên tâm tín thọ, trì tụng, thuyết hành.

Việt dịchGiả sử ba ngàn thế giới tràn ngập lửa lớn, người đó khi mạng chung cũng có thể vượt khỏi, sanh vào cõi nước Cực Lạc. Bởi người ấy đời quá khứ đã từng gặp Phật và được thọ ký Bồ Đề, tất cả Như Lai đồng tán thán. Vì thế nên phải chuyên tâm tin thọ, trì tụng diễn thuyết tu hành.

 

  — o0o —

Đệ Tứ Thập Ngũ: Độc Lưu Thử Kinh

Phiên âm: Ngô kim vị chư chúng sanh thuyết thử kinh pháp, linh kiến Vô Lượng Thọ Phật, cập kỳ quốc độ nhất thiết sở hữu. Sở đương vi giả, giai khả cầu chi.

Việt dịchTa nay vì chúng sanh mà nói kinh này, khiến thấy được Đức Phật Vô Lượng Thọ và cảnh giới trang nghiêm ở cõi Cực Lạc, hễ có tâm nguyện cầu đều được như ý.

 

Phiên âm: Vô đắc dĩ Ngã diệt độ chi hậu, phục sanh nghi hoặc. Đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận. Ngã dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh chỉ trụ bá tuế. Kỳ hữu chúng sanh, trị tư kinh giả, tùy ý sở nguyện, giai khả đắc độ.

Việt dịchChớ để sau khi Ta diệt độ rồi sanh lòng nghi hoặc. Đời tương lai khi kinh pháp diệt tận, Ta đem lòng từ bi thương xót, đặc biệt lưu kinh này lại trong một trăm năm, chúng sanh nào gặp được kinh này tùy ý nguyện cầu đều được độ thoát.

 

Phiên âm: Như Lai hưng thế, nan trị nan kiến. Chư Phật kinh đạo, nan đắc nan văn. Ngộ Thiện-tri-thức, văn pháp năng hành, thử diệc vi nan. Nhược văn tư kinh, tín nhạo thọ trì, nan trung chi nan, vô quá thử nan.

Việt dịchNhư Lai ra đời rất khó gặp khó thấy, kinh pháp của Phật khó được khó nghe, gặp thiện tri thức nghe pháp tu hành cũng đã là khó. Nếu nghe kinh này tin thích thọ trì là điều khó trong khó, không gì khó hơn.

 

Phiên âm: Nhược hữu chúng sanh đắc văn Phật thanh, từ tâm thanh tịnh, dũng dược hoan hỷ, y mao vi khởi hoặc lệ xuất giả, giai do tiền thế tằng tác Phật đạo, cố phi phàm nhân.

Việt dịchNếu có chúng sanh được nghe lời Phật, từ tâm thanh tịnh, hớn hở vui mừng, hoặc râu tóc dựng đứng hay mắt rơi lệ, là do đời trước từng làm Phật sự, không phải là người phàm.

 

Phiên âm: Nhược văn Phật hiệu, tâm trung hồ nghi; Ư Phật kinh ngữ, đô vô sở tín, giai tùng ác đạo trung lai, túc ương vị tận, vị đương độ thoát. Cố tâm hồ nghi, bất tín hướng nhĩ.

Việt dịchNếu nghe danh hiệu Phật tâm sanh hồ nghi, đối với kinh Phật đều không tin tưởng, đó là từ ác đạo sanh ra, túc ương chưa dứt, chưa được độ thoát, nên có tâm hồ nghi, không chịu tin tưởng.

 

  — o0o —

Đệ Tứ Thập Lục: Cần Tu Kiên Trì 

Phiên âm: Phật cáo Di Lặc: “Chư Phật Như Lai vô thượng chi pháp, Thập lực Vô úy, Vô ngại Vô trước, thậm thâm chi pháp, cập Ba-la-mật đẳng Bồ-tát chi pháp, phi dị khả ngộ. Năng thuyết pháp nhân, diệc nan khai thị. Kiên cố thâm tín, thời diệc nan tao.

Việt dịchNày Di Lặc Bồ Tát! Pháp của chư Phật Như Lai vô thượng, đủ thập lực, vô úy, thậm thâm vô ngại vô trước; pháp Ba la mật của Bồ Tát cũng không dễ gặp. Nói pháp này cho người cũng khó khai thị. Người không có lòng tin sâu vững chắc cũng khó gặp được kinh pháp này.

 

Phiên âm: Ngã kim như lý tuyên thuyết như thị quảng đại vi diệu Pháp môn, nhất thiết chư Phật chi sở xưng tán. Phó chúc nhữ đẳng, tác đại thủ hộ. Vị chư hữu tình trường dạ lợi ích, mạc linh chúng sanh luân đọa ngũ thú, bị thọ nguy khổ. Ưng cần tu hành, tùy thuận Ngã giáo. Đương hiếu ư Phật, thường niệm sư ân. Đương linh thị pháp, cửu trụ bất diệt. Đương kiên trì chi, vô đắc hủy thất. Vô đắc vi vọng, tăng giảm kinh pháp. Thường niệm bất tuyệt, tắc đắc đạo tiệp. Ngã pháp như thị, tác như thị thuyết. Như Lai sở hành, diệc ưng tùy hành. Chủng tu phước thiện, cầu sanh Tịnh-sát”.

Việt dịchTa nay như lý tuyên nói pháp môn “Quảng đại vi diệu nhất thiết chư Phật xưng tán” này đem giao phó cho các ông, các ông phải cẩn thận thủ hộ, làm lợi ích cho các hữu tình chìm đắm trong đêm dài, chớ để cho chúng đọa lạc trong ngũ thú chịu các khổ ách. Nên siêng tu hành, thuận theo giáo pháp của ta, phải tâm nguyện như Phật, thường nhớ ân sư, phải làm cho pháp này lưu truyền dài lâu không bị tiêu diệt, kiên cố giữ gìn không để hủy hoại vong thất, kinh pháp nhiều ít nhớ kỹ không quên, quyết được đạo quả. Pháp của Ta như vậy, làm như vậy, nói như vậy, Như Lai đã hành trì cũng theo đó mà hành trì, tu các phước thiện, cầu sanh về cõi Tịnh độ.

 

  — o0o —

Đệ Tứ Thập Thất: Phước Huệ Thỉ Văn

Phiên âm: Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết tụng viết:

Việt dịchBấy giờ đức Thế Tôn nói bài tụng rằng:

 

Phiên âm:

Nhược bất vãng tích tu phước huệ
Ư thử chánh pháp bất năng văn
Dĩ tằng cúng dường chư Như Lai
Tắc năng hoan hỷ tín thử sự. 

Ác kiêu giải đãi cập tà kiến
Nan tín Như Lai vi diệu pháp
Thí như manh nhân hằng xử ám
Bất năng khai đạo ư tha lộ. 

Duy tằng ư Phật thực chúng thiện
Cứu thế chi hạnh phương năng tu
Văn dĩ thọ trì cập thư tả
Độc tụng tán diễn tịnh cúng dường.

Như thị nhất tâm cầu tịnh phương
Quyết định vãng sanh Cực Lạc quốc.
Giả sử đại hỏa mãn Tam thiên
Thừa Phật uy đức tất năng siêu.

Như Lai thâm quảng trí huệ hải
Duy Phật dữ Phật nãi năng tri
Thanh-văn ức kiếp tư Phật trí
Tận kỳ thần lực mạc năng trắc.

Như Lai công đức Phật tự tri
Duy hữu Thế Tôn năng khai thị.
Nhân thân nan đắc, Phật nan trị
Tín huệ văn pháp nan trung nan.

Nhược chư hữu tình đương tác Phật
Hạnh siêu Phổ Hiền đăng bỉ ngạn.
Thị cố bác văn chư trí sĩ
Ưng tín Ngã giáo như thật ngôn.

Như thị diệu pháp hạnh thính văn
Ưng thường niệm Phật nhi sanh hỷ.
Thọ trì quảng độ sanh tử lưu
Phật thuyết thử nhân chân thiện hữu.

 

Việt dịch:

Nếu xa xưa không tu phước huệ,
Thì chánh pháp này không thể nghe
Đã từng cúng dường các Như Lai
Nên hay vui mừng tin pháp này.

Kiêu mạn giải đãi và tà kiến
Pháp vi diệu Như Lai khó tin
Như người mù hằng thấy tối đen
Không thể dẫn đường cho người khác

Chỉ từng trước Phật trồng căn lành
Cứu đời hành thiện mới tu tập.
Nghe rồi thọ trì và biên chép
Đọc tụng tán thán và cúng dường

Như vậy nhứt tâm cầu Tịnh độ
Giá sử lửa cháy khắp ba ngàn
Nhờ oai đức Phật tất siêu việt
Quyết định vãng sanh cõi Cực Lạc

Biển trí huệ Như Lai sâu rộng
Chỉ Phật cùng Phật mới biết được
Thanh văn ức kiếp suy trí Phật
Tận hết sức cũng không thể hiểu

Công đức Như Lai Phật tự biết
Chỉ có Thế Tôn mới khai thị.
Thân người khó được, Phật khó gặp
Tín huệ nghe pháp khó trong khó

Nếu các hữu tình sắp thành Phật
Hạnh hơn Phổ Hiền lên bờ giác
Hỡi những kẻ học rộng trí cả
Nên tin lời như thật của Ta

Diệu pháp này may phước được nghe
Nên vui mừng hãy chuyên niệm Phật.
Thọ trì quyết thoát biển sanh tử
Phật gọi người này thật bạn lành.

 

  — o0o —

Đệ Tứ Thập Bát: Văn Kinh Hoạch Ích 

Phiên âm: Nhĩ thời Thế Tôn thuyết thử kinh pháp, thiên nhân thế gian hữu vạn nhị thiên na-do-tha ức chúng sanh, viễn ly trần cấu, đắc pháp-nhãn-tịnh. Nhị thập ức chúng sanh đắc A-na-hàm quả. Lục thiên bát bá Tỳ-kheo, chư lậu dĩ tận, tâm đắc giải thoát.

Việt dịch: Khi đức Thế Tôn nói kinh này rồi, có một vạn hai ngàn na do tha chúng sanh xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh, hai mươi ức chúng sanh chứng quả A na hàm, sáu ngàn tám trăm Tỳ kheo lậu tận tâm được giải thoát

 

Phiên âm: Tứ thập ức Bồ-tát, ư Vô-thượng Bồ-đề trụ bất thoái chuyển, dĩ hoằng thệ công đức nhi tự trang nghiêm. Nhị thập ngũ ức chúng sanh, đắc bất thoái nhẫn.

Tứ vạn ức na-do-tha bá thiên chúng sanh, ư Vô-thượng Bồ-đề vị tằng phát ý, kim thỉ sơ phát; Chủng chư thiện căn nguyện sanh Cực Lạc, kiến A Mi Đà Phật, giai đương vãng sanh bỉ Như Lai độ; Các ư dị phương thứ đệ thành Phật, đồng danh Diệu Âm Như Lai.

Việt dịch: Bốn mươi ức Bồ Tát được bất thối chuyển, dùng công đức hoằng thệ mà tự trang nghiêm quả Vô Thượng Bồ đề, hai mươi lăm ức chúng sanh được bất thối nhẫn,

Bốn vạn ức na do tha trăm ngàn chúng sanh chưa từng phát nguyện thành Phật, nay mới phát tâm gieo các căn lành, nguyện sanh về Cực Lạc, thấy Phật A Di Đà, đều sẽ vãng sanh về cõi Tịnh độ của Phật Vô Lượng Thọ, thảy đều thứ lớp thành Phật khắp các phương cùng một danh hiệu là Diệu Âm Như Lai. 

 

Phiên âm: Phục hữu thập phương Phật sát nhược hiện tại sanh, cập vị lai sanh, kiến A Mi Đà Phật giả, các hữu bát vạn câu-chi na-do-tha nhân, đắc thọ ký pháp-nhẫn, thành Vô-thượng Bồ-đề. Bỉ chư hữu tình, giai thị A Mi Đà Phật túc nguyện nhân duyên, câu đắc vãng sanh Cực Lạc thế giới.

Việt dịch: Lại có tám vạn câu chi na do tha hữu tình ở mười phương cõi Phật, hoặc hiện vãng sanh, hoặc sẽ vãng sanh thấy Phật A Di Đà được thọ ký pháp nhẫn thành Vô thượng Bồ Đề, các hữu tình này có túc nguyện nhân duyên với đức Phật A Di Đà.

 

Phiên âm: Nhĩ thời Tam thiên Đại thiên thế giới lục chủng chấn động, tịnh hiện chủng chủng hy hữu thần biến; Phóng đại quang minh, phổ chiếu thập phương. Phục hữu chư thiên, ư hư không trung, tác diệu âm nhạc, xuất tùy hỷ thanh. Nãi chí Sắc-giới chư thiên, tất giai đắc văn, thán vị tằng hữu. Vô lượng diệu hoa phân phân nhi giáng.

Việt dịch: Bấy giờ đại thiên thế giới chấn động sáu cách, và hiện các hy hữu thần biến. Quang minh sáng chói chiếu khắp mười phương. Lại có chư Thiên giữa hư không tấu âm nhạc vi diệu, cho đến chư Thiên Sắc giới cũng nghe và khen chưa từng có, vô lượng hoa đẹp thơm rưới xuống.

 

Phiên âm: Tôn giả A Nan, Di Lặc Bồ-tát, cập chư Bồ-tát Thanh-văn, thiên long bát bộ, nhất thiết đại chúng, văn Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành.

Việt dịch: Tôn giả A Nan, Di Lặc Bồ Tát và các hàng Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long, Bát bộ tất cả đại chúng nghe lời đức Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.

  — o0o —

HẾT