A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA
QUYỂN 2 – Tập 31-35
Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong
— o0o —
Tập 31
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba mươi tám:
(Sớ) Cố tri chung nhật niệm Phật, chung nhật niệm tâm, xí nhiên vãng sanh, tịch nhiên vô vãng hĩ.
(演)故知終日念佛,終日念心,熾然往生,寂然無往矣。
(Sớ: Vì thế biết là suốt ngày niệm Phật, suốt ngày niệm tâm, hừng hực vãng sanh, [mà vẫn] lặng lẽ chẳng vãng sanh vậy).
Bắt đầu từ câu này, lần trước đã giảng đến câu “dĩ niệm Phật tâm, nhập Vô Sanh Nhẫn” (dùng cái tâm niệm Phật để nhập Vô Sanh Nhẫn). Ý nghĩa của đoạn này hết sức trọng yếu, chúng ta hãy chú tâm quán sát, sẽ biết công phu niệm Phật của chính mình vì sao chẳng thể thành tựu, nguyên nhân là ở chỗ này. Để chú giải tiểu đoạn này, sách Diễn Nghĩa có một đoạn văn tự giảng rõ ý nghĩa khá dài.
(Diễn) Hựu sanh tức niệm niệm sanh diệt, thử sanh diệt vọng tâm, bổn tự hư vọng, vô hữu thật thể, cố vân Thể bất khả đắc.
(演) 又生即念念生滅,此生滅妄心,本自虛妄,無有實體,故云體不可得。
(Diễn: Lại nữa, “sanh” chính là sanh diệt trong từng niệm, cái vọng tâm sanh diệt này vốn hư vọng, chẳng có thật thể, nên nói: “Thể chẳng thể được”).
Đối với đoạn này, chúng tôi cũng đặc biệt nêu ra lời khai thị “tam tâm bất khả đắc” trong kinh Kim Cang, tức “tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc”, đó là nói về vọng tâm. Bởi lẽ, chân tâm không có quá khứ, hiện tại, vị lai; chỉ vọng tâm mới có quá khứ, hiện tại, vị lai, những tâm này đều chẳng thể được! Hiện tại, cái tâm niệm Phật của chúng ta là vọng tâm, vì sao? Cũng là cái tâm sanh diệt. Nam-mô A Di Đà Phật, niệm trước được nối tiếp bởi niệm sau, đó là tâm sanh diệt. Do đây có thể biết: Bản thể của câu Phật hiệu cũng là Không, trọn chẳng thể được. Vọng tâm khởi tác dụng, nếu khởi lên một niệm thiện thì đó là thiện nghiệp. Khởi lên một niệm ác, sẽ tạo ác nghiệp. Vì vậy, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do vọng tâm biến hiện, còn chân tâm hiện ra Nhất Chân pháp giới, đó là chân thật. Mười pháp giới chẳng phải là Nhất Chân, khác biệt với Nhất Chân pháp giới rất lớn.
Nếu vọng tâm ấy tạo ra nghiệp niệm A Di Đà Phật, quý vị hãy nghĩ xem: Nghiệp ấy là thiện nghiệp hay ác nghiệp? Thiện lẫn ác đều chẳng liên quan! Vì sao? Quả báo của một câu A Di Đà Phật chẳng ở trong ba ác đạo! Trong ba ác đạo không có A Di Đà Phật. Trong ba thiện đạo cũng chẳng có A Di Đà Phật. Trong Thanh Văn, Duyên Giác, cũng chẳng có A Di Đà Phật. Trong Quyền Giáo Bồ Tát cũng chẳng có A Di Đà Phật. Tuy dùng vọng tâm, nhưng tạo nghiệp rất kỳ diệu, nghiệp của A Di Đà Phật là Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do vậy, quý vị phải hiểu đạo lý này. Nếu quý vị biết sử dụng vọng tâm, thì [vọng tâm] cũng có thể khiến cho quý vị thành Phật trong một đời. Dùng cái tâm sanh diệt để vãng sanh Phàm Thánh Đồng Cư Độ và Phương Tiện Hữu Dư Độ của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Bỏ cái tâm sanh diệt, sử dụng chân tâm, sẽ vãng sanh từ cõi Thật Báo trở lên. Đủ thấy: Biết sử dụng cái tâm hay không là mấu chốt trọng yếu nhất để quyết định sự thành bại của chúng ta.
(Diễn) Đạt giả, ngộ tâm chi bổn không dã.
(演) 達者悟心之本空也。
(Diễn: Đạt là ngộ cái tâm vốn không).
Chân tâm vốn là không, vọng tâm cũng vốn là không, vì chúng rốt ráo chẳng thể được.
(Diễn) Ký ngộ tâm không.
(演) 既悟心空。
(Diễn: Đã ngộ tâm là không).
Đã hiểu chân tâm và vọng tâm đều là không, chẳng thể được.
(Diễn) Tắc chung nhật niệm Phật, chung nhật vô niệm, sanh nhi bất sanh dã.
(演) 則終日念佛,終日無念,生而不生也。
(Diễn: Thì suốt ngày niệm Phật, suốt ngày vô niệm, sanh mà chẳng sanh).
Tuy Phật hiệu là từng tiếng tiếp nối chẳng gián đoạn, nhưng quyết định không có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, vì hiểu bản thể của chúng chính là Không. Hiểu rõ đạo lý này, công phu sẽ dễ thành tựu; không hiểu đạo lý này, người ấy (tức người niệm Phật) sẽ so đo, phân biệt, chấp trước. Ví như mỗi ngày niệm bao nhiêu câu Phật hiệu, lễ Phật bao nhiêu lạy, người ấy ganh đua với kẻ khác, chỉ sợ kẻ khác vượt trỗi mình, toàn là khởi vọng tưởng! Một mặt niệm Phật, một mặt khởi vọng tưởng, tình hình như vậy từ xưa đến nay thường có, người ấy chẳng biết tam luân thể không, dẫu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, phẩm vị cũng không cao. Ở đây, tôi đặc biệt thưa với quý vị: Nếu có cái tâm tranh cường hiếu thắng, quý vị nghĩ coi: Có thể vãng sanh hay chăng? Chẳng thể vãng sanh! Vì tranh cường hiếu thắng là tâm sân khuể, là tâm tham; chưa chế phục những phiền não ấy, làm sao quý vị có thể vãng sanh được? Đới nghiệp vãng sanh chỉ mang theo chủng tử của tập khí, chứ không thể mang theo [phiền não] hiện hành; cái tâm tranh cường hiếu thắng ấy chính là phiền não hiện hành.
Công phu đắc lực không do niệm Phật bao nhiêu câu, quý vị mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, công phu vẫn cứ không đắc lực như cũ! Không đắc lực nghĩa là không thể chế phục phiền não, công phu chẳng thể thành phiến, chẳng thể đắc nhất tâm, đó là không đắc lực. Do vậy, đối với người niệm Phật chúng ta, điều khẩn yếu là công phu đắc lực. Nếu người ấy mỗi ngày chỉ niệm mười tiếng Phật hiệu, chỉ tu thập niệm, mà mười niệm của người ấy đắc lực, thật sự có thể chế phục phiền não, sẽ rất tuyệt vời, đấy chính là công phu, nhất định phải hiểu đạo lý này! Cổ đại đức thường khuyên chúng ta: “Châu bất ly thủ, Phật bất ly khẩu” (xâu chuỗi chẳng rời tay, miệng chẳng ngớt niệm Phật), vì sao? Có đạo lý trong ấy: Nếu tâm chúng ta chẳng tưởng Phật, chẳng niệm Phật, sẽ suy nghĩ tán loạn. Quý vị có thể kiểm nghiệm xem chính mình có phải là như vậy hay không? Khi không niệm Phật, quý vị bèn tưởng Đông nghĩ Tây, nghĩ tới thiện niệm thì nó sẽ là chủng tử của nghiệp nhân trong ba thiện đạo; nghĩ tới chuyện ác, nó sẽ là chủng tử trong ba ác đạo. Vậy thì quý vị suốt ngày từ sáng đến tối niệm Phật, tưởng Phật, tôi vừa mới nói đó, trong lục đạo không có A Di Đà Phật! Nói cách khác, quý vị chẳng tạo nghiệp nhân lục đạo, tương lai sẽ chẳng thọ quả báo luân hồi trong lục đạo, tốt đẹp là ở chỗ này! Do vậy, [chư Phật, Bồ Tát] mới bảo chúng ta hãy suốt ngày từ sáng đến tối tưởng Phật, tưởng Bồ Tát, niệm Phật, niệm Bồ Tát; chúng ta phải hiểu ý nghĩa này, nhất là phải chú ý: Công phu nhất định phải đắc lực. Muốn đắc lực, nhất định phải hiểu rõ Lý. Khi hiểu rõ Lý, quý vị sẽ có thể buông xuống; buông xuống thì mới đắc lực! Công phu chẳng đắc lực, căn bệnh là do không buông xuống, đó là căn bệnh lớn. Đây là giảng rõ câu “chung nhật niệm Phật, chung nhật vô niệm” (suốt ngày niệm Phật, suốt ngày vô niệm), vô niệm có ý nghĩa như vậy đó.
(Diễn) Chung nhật vô niệm, chung nhật niệm Phật, bất sanh nhi sanh dã.
(演) 終日無念,終日念佛,不生而生也。
(Diễn: Suốt ngày vô niệm mà suốt ngày niệm Phật, chẳng sanh mà sanh vậy).
Niệm và vô niệm là tu nhân, sanh và bất sanh là quả báo. Sanh và bất sanh thì sao? Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận đã giảng rất hay: “Sanh tắc quyết định sanh, khứ tắc thật bất khứ” (Sanh thì quyết định sanh, đi thì chẳng thật sự đi). Vì sao nói thật sự chẳng đi? Thế giới Sa Bà do cái tâm của chúng ta biến hiện, thế giới Cực Lạc cũng do tâm của chúng ta biến hiện, quý vị đi về đâu? Vô lượng vô biên các cõi nước trọn hết mười phương đều chẳng ra ngoài nhất tâm. Vấn đề khẩn yếu là nhất tâm. Do vậy, đối với điểm này, quý vị quyết định chớ nên hoài nghi. Bộ Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận hết sức hay, nó cũng là một bộ luận rất trọng yếu trong Tịnh Độ, chuyên môn thảo luận và giảng rõ về sự vãng sanh.
(Diễn) Sanh nhi bất sanh, tắc sanh nguyên bất khả đắc, bất sanh nhi sanh, tắc bất sanh diệc bất khả đắc, thị chân vô sanh dã.
(演) 生而不生,則生元不可得,不生而生,則不生亦不可得,是真無生也。
(Diễn: “Sanh mà bất sanh” tức là sanh vốn chẳng thể được, “bất sanh mà sanh” thì bất sanh cũng chẳng thể được, đấy là chân vô sanh).
Đối với mấy câu này, nếu chúng ta dùng Bách Pháp Minh Môn Luận để đối chiếu, sẽ giác ngộ ngay. Trong bách pháp, Sanh thuộc về Bất Tương Ứng Hành Pháp. Sanh đã thuộc về pháp Bất Tương Ứng [Hành Pháp]; Bất Sanh là pháp đối ứng với Sanh, đương nhiên cũng thuộc Bất Tương Ứng Hành Pháp. Nói “bất tương ứng hành” có nghĩa là: Pháp ấy chỉ là khái niệm trừu tượng, thật ra không có chuyện ấy. Y Tha Khởi[1] là giả, khái niệm trừu tượng càng giả hơn nữa. Nói cách khác, nó chỉ là một thứ vọng tưởng mà thôi, chẳng phải là sự thật. Do chúng ta bị thứ vọng tưởng này che lấp chân tánh của chính mình, nên nhìn sai lạc, nhìn lầm lẫn Thật Tướng của hết thảy các pháp. Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng, chúng ta thấy tướng hư vọng ấy. Vì sao chúng ta chẳng thấy tướng chân thật? Vì trong chân tâm đã kèm thêm một tầng vọng tưởng như thế. Nếu bỏ được vọng tưởng ấy, quý vị sẽ hoảng nhiên đại ngộ, hết thảy các pháp trước mắt đều là bất sanh, bất diệt. Đạt đến cảnh giới ấy thì mới chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, thật sự hiểu rõ Thật Tướng của các pháp. Hết thảy pháp bất sanh, bất diệt, đó là thật. Nay chúng ta thấy hết thảy pháp có sanh, có diệt, con người có sanh – lão – bệnh – tử, thực vật có sanh – trụ – dị – diệt, khoáng vật có thành – trụ – hoại – không, chúng ta đều thấy sai lầm! Thật ra, không có những chuyện ấy; nhưng nếu nói là chúng ta thấy lầm, chắc chắn chúng ta không thừa nhận, rõ ràng là có sanh – lão – bệnh – tử, làm sao nói không có cho được? Ở đây có một tầng đạo lý rất sâu, nhưng chúng ta không lãnh hội đạo lý ấy, mà cũng chẳng thấy được chân tướng sự thật. Trong phần trên, chúng ta đã từng thảo luận sự lý ấy; sau này, bước vào phần kinh văn, sẽ nghiên cứu và thảo luận cặn kẽ hơn. Điều này có quan hệ rất lớn đối với sự tu học của chúng ta. Đây là nói quan niệm Sanh chẳng thể được, mà quan niệm Bất Sanh cũng chẳng thể được. Hai bên Sanh và Bất Sanh đều tách lìa, đó gọi là Chân Vô Sanh. Đủ thấy: Coi Diệt là ngưng dứt Sanh thì chẳng phải là Vô Sanh chân chánh, mà là Vô Tưởng Định, quả báo là trời Vô Tưởng trong Tứ Thiền Thiên, là ngoại đạo thiên.
(Diễn) Cố vân dĩ niệm Phật tâm, nhập Vô Sanh Nhẫn.
(演) 故云以念佛心,入無生忍。
(Diễn: Vì thế nói: Dùng tâm niệm Phật để nhập Vô Sanh Nhẫn).
Đây cũng là điều chúng ta mong cầu, chúng ta mỗi ngày niệm Phật, trong bài kệ Hồi Hướng có câu: “Hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh”, đủ thấy ai nấy đều có nguyện vọng này. Đây là cảnh giới nào? Cảnh giới Lý nhất tâm bất loạn. Nói cách khác, trong Sự nhất tâm, vẫn sử dụng cái tâm sanh diệt; đạt đến Lý nhất tâm, sẽ bỏ sạch cái tâm sanh diệt ấy. Tâm sanh diệt đã bỏ, ý niệm Sanh và Vô Sanh cũng chẳng còn nữa; khi ấy sẽ chứng đắc Vô Sanh Nhẫn.
“Cố tri chung nhật niệm Phật, chung nhật niệm tâm” (cho nên biết suốt ngày niệm Phật là suốt ngày niệm tâm). Nhất định phải nhớ kỹ hai câu này. Nhất định phải hiểu ý nghĩa này. Thật sự hiểu ý nghĩa này thì niệm Phật sẽ biến thành cuộc sống của chính mình. Nếu không, dường như niệm Phật chẳng ăn khớp với cuộc sống! Có nhiều vị đồng tu hoài nghi, trong mười hai thời Phật hiệu chẳng thể gián đoạn, vậy thì chuyện gì tôi cũng chẳng thể làm được! Tôi làm việc gì thì phải suy nghĩ việc ấy, phải nghĩ đến vấn đề ấy, Phật hiệu bị gián đoạn, trong tương lai, tôi chẳng thể vãng sanh! Khi tôi mong mỏi vãng sanh thì chuyện gì tôi cũng đều chẳng phải làm, đâm ra Lý – Sự bị trở ngại, Sự – Sự bị trở ngại! [Những ai quan niệm như vậy] là không hiểu đạo lý! Quý vị thật sự hiểu rõ đạo lý này thì sự thật chẳng phải là như vậy, trên sự thật là Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại.
Niệm Phật, niệm A Di Đà Phật vốn là niệm tâm. Nếu một câu A Di Đà Phật chẳng niệm cho đến mức tỏ lộ tự tánh thanh tịnh, quý vị sẽ chẳng thể đắc nhất tâm. Nhờ vào Phật hiệu để niệm cho ra cái tâm vô lượng giác của chính mình. Nam-mô A Di Đà Phật là quy y Vô Lượng Giác, Vô Lượng Giác là ai? Nếu nghĩ là Tây Phương A Di Đà Phật, quý vị đã sai rồi! Vô Lượng Giác là chân tâm của chính mình, là nhất tâm bất loạn của chính mình, nhất tâm bất loạn được gọi là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật là nhất tâm bất loạn; vì nhất tâm là Vô Lượng Giác, trong kinh đã nói rất rõ ràng, rành rẽ “nhất tâm bất loạn, tâm không điên đảo”. Nếu nhất tâm bất loạn, tâm không điên đảo, quý vị làm bất cứ chuyện gì trong thế gian này, nhất định sẽ làm hết sức viên mãn, tự tại như ý.
Chúng ta dùng nhất tâm để xử sự, dùng nhất tâm để đãi người, dùng nhất tâm để tiếp vật, đấy đều là niệm Phật! Chúng ta vận dụng niệm Phật vào cuộc sống, sử dụng thuận tiện; nói theo cách bây giờ là niệm một cách sống động, vận dụng sống động, đừng niệm Phật một cách chết cứng! Niệm Phật hiệu mà không có tác dụng, niệm Phật một cách chết cứng, sẽ chẳng thể vãng sanh. Cuộc sống hiện thời của chúng ta là trong cảnh giới giác chứ không mê, có như vậy thì mới có thể chắc chắn vãng sanh. Bởi lẽ, các vị thượng thiện nhân trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, vị nào cũng là giác chứ không mê, vị nào cũng đều là tịnh chứ chẳng nhiễm, tác dụng của Phật hiệu là ở chỗ này! Đấy là “chung nhật niệm Phật, chung nhật niệm tâm” (suốt ngày niệm Phật, suốt ngày niệm tâm). Quý vị phải hiểu: Niệm Phật là niệm tâm. Niệm câu A Di Đà Phật là niệm cái tâm vô lượng giác của chính mình, tâm chính mình giác chứ không mê, tâm chánh chứ không tà, tâm tịnh chứ không nhiễm, niệm những điều đó! Phải niệm cho ra “giác – chánh – tịnh” của chính mình rồi sau đó vận dụng “giác – chánh – tịnh” vào cuộc sống. Chỗ hay, công đức và lợi ích của Niệm Phật thật sự chẳng thể nghĩ bàn!
“Xí nhiên vãng sanh, tịch nhiên vô vãng hĩ” (hừng hực vãng sanh, nhưng vẫn lặng lẽ chẳng đi đâu cả): “Xí nhiên” (熾然) là từ ngữ hình dung người ấy có tướng quang minh, có tướng dũng mãnh, giống như lửa cháy rất mạnh, cháy rất to. Tuy chúng ta vẫn chưa ra đi (chưa vãng sanh), nhưng thân tâm của quý vị đã là người trong thế giới Cực Lạc. Hiện thời, niệm một cách sống động câu Phật hiệu này, niệm Phật quả thật là niệm cái tâm giác – chánh – tịnh của chính mình, tâm tâm tương ứng với giác – chánh – tịnh của Tây Phương thế giới A Di Đà Phật thì quý vị vãng sanh trong mỗi niệm. Sự vãng sanh ấy há chẳng phải là vãng sanh trong khi còn sống ư? Đấy chính là như cổ đại đức nói: “Tu hành phải chuyển Thức thành Trí”. Chúng ta niệm niệm đều chuyển mê – tà – nhiễm thành giác – chánh – tịnh. Giác – chánh – tịnh là Trí, mê – tà – nhiễm là Thức. Niệm niệm chuyển Thức thành Trí, niệm niệm chuyển Sa Bà thành Cực Lạc, quý vị hãy nghĩ xem: Có phải là hừng hực vãng sanh, mà vẫn lặng lẽ không đi về đâu hay chăng?
Tâm chuyển cảnh giới, đó là Phật, Bồ Tát. Tâm bị cảnh chuyển là phàm phu. Quý vị bị cảnh giới chuyển, làm sao có thể tránh khỏi lục đạo luân hồi? Khi nào chuyển được cảnh giới, quý vị đắc đại tự tại. Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Nhược năng chuyển cảnh, tắc đồng Như Lai” (Nếu chuyển được cảnh thì giống như Như Lai). Đó là công phu chân chánh, là học Phật chân chánh.
(Sớ) Tâm, Phật, chúng sanh giả, kinh vân: “Tâm, Phật, cập chúng sanh, thị tam vô sai biệt”. Cái tâm tức thị Phật, Phật tức thị sanh, chư Phật tâm nội chúng sanh, niệm chúng sanh tâm trung chư Phật dã. Cố vân nhất thể.
(演) 心佛眾生者。經云:心佛及眾生,是三無差別。
蓋心即是佛,佛即是生,諸佛心內眾生,念眾生心中諸佛也。故云一體。
(Sớ: “Tâm, Phật, chúng sanh”: Kinh dạy: “Tâm, Phật, và chúng sanh, ba thứ này không sai khác”. Bởi lẽ, tâm chính là Phật, Phật chính là chúng sanh. Chúng sanh trong tâm chư Phật niệm chư Phật ở trong tâm chúng sanh, nên nói là nhất thể).
Đoạn này cũng nói rất rõ ràng. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật dạy chúng ta [như vậy], trong phần chú giải cũng có giải thích, quý vị hãy đọc lời chú giải.
(Diễn) Tam vô sai biệt giả, vị: Mê thử pháp hữu chúng sanh danh, ngộ thử pháp hữu chư Phật danh. Thử pháp chư pháp trung thật hữu tâm danh. Nhiên nhi mê ngộ bổn không, trung biên bất lập, chư Phật, chúng sanh, cập tâm, giai giả danh dã.
(演) 三無差別者,謂迷此法有眾生名,悟此法有諸佛名,此法諸法中實有心名。然而迷悟本空,中邊不立,諸佛眾生及心,皆假名也。
(Diễn: “Ba thứ không sai biệt”, ý nói: Mê pháp này bèn có cái tên chúng sanh, ngộ pháp này bèn có danh xưng chư Phật. Trong các pháp, pháp này quả thật có cái danh xưng là “tâm”, nhưng mê và ngộ vốn là không, ở giữa và hai bên chẳng lập; chư Phật, chúng sanh và tâm đều là giả danh).
Pháp chỉ có một! Cũng có các vị nghe xong, cảm thấy hết sức hoang mang, chúng ta thấy pháp nhiều quá, sâm la vạn tượng vô lượng vô biên, sao lại nói “pháp chỉ có một?” Tôi nghĩ quý vị đã từng nghe cổ nhân nói “dĩ kim tác khí, khí khí giai kim” (lấy vàng làm đồ vật, món nào cũng đều là vàng). Quý vị nói xem: Là một hay nhiều? Quý vị vào tiệm kim hoàn xem các đồ làm bằng vàng, lóng lánh chói mắt, các kiểu, các dạng quá nhiều. Nếu quan sát kỹ, chúng đều bằng vàng! Trừ vàng ra, không có món thứ hai nào khác. Quý vị nói xem: Là một hay nhiều? Nhìn từ bản thể, là một. Các nhà Duy Thức chỉ thừa nhận Thức, chẳng thừa nhận Tướng. Thức là năng biến (chủ thể biến hóa), vạn pháp duy thức (muôn pháp chỉ từ Thức biến hóa ra), Thức là một, vạn pháp là cái được biến hiện (sở biến). Vạn pháp giống như các đồ vật, Thức ví như vàng. Chính vì chân tướng của sự thật là như thế, nên trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh mới dạy chúng ta: “Vô lượng tức nhất, nhất tức vô lượng” (vô lượng là một, một là vô lượng), đó là nói sự thật. “Một” là nói về tâm, thức, “vô lượng” là nói về hết thảy muôn hình tượng.
Ngày nay, các nhà khoa học cũng phát hiện “một”, vạn pháp quy về một. “Một” là gì? Là các lạp tử cơ bản, đấy là vật chất cơ bản. Những động vật, thực vật, và khoáng vật trong trọn hư không khắp pháp giới đều do các lạp tử cơ bản kết hợp thành. Trừ lạp tử cơ bản ra, trong vũ trụ không có vật thứ hai nào, các nhà khoa học hiện tại tin vào điều này. Chúng ta đem một người bỏ lên cân, mấy chục ký lô vật chất cơ bản được cấu tạo bằng lạp tử cơ bản đáng bao nhiêu tiền? Tính ra, người ấy chỉ đáng giá mấy đồng! Một người chỉ đáng giá mấy đồng mà thôi ư? Không có giá trị! Các nhà khoa học cũng dần dần hiểu rõ đạo lý này!
Do vậy, Phật, Bồ Tát rất thông minh, rất cao minh, các Ngài làm trò ảo thuật, biến đổi những thuật ngữ, tạo ra rất nhiều danh từ Pháp Tướng, nhưng những danh từ Pháp Tướng ấy đều chẳng thật. Những danh từ Pháp Tướng ấy được lập ra hết sức xảo diệu, khiến cho chúng ta từ những danh từ ấy, từ những danh từ giả huyễn ấy, ngộ nhập chân tướng sự thật. Đó gọi là “tá giả tu chân” (nhờ giả để tu thật). “Giả” (假) là giả danh, giả tướng, ví như “tâm, Phật, chúng sanh”, cả ba danh từ này đều là giả danh; từ những giả danh ấy mà ngộ nhập Thật Tướng. Đó là mục đích của Phật pháp, chắc chắn chẳng phải là bảo quý vị hãy [chấp trước] chết cứng nơi giả danh. Do vậy, chớ nên ghi nhớ chết cứng giả danh; nhất định phải từ giả danh mà khai ngộ. Hiểu rõ đạo lý này, mới hiểu được đoạn văn trên đây.
“Mê thử pháp”, “thử pháp” là Thể – Tướng – Dụng như Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh đã nói. Thể – Tướng – Dụng là một mà ba, tuy ba nhưng một, toàn thể vũ trụ nhân sinh đều được bao gồm trong ấy. Mê mất Thể – Tướng – Dụng! Thể – Tướng – Dụng là con người thật sự của chính mình, nhà Thiền gọi nó là “phụ mẫu vị sanh tiền bổn lai diện mục” (diện mạo vốn có trước khi được cha mẹ sanh ra). Mê mất Thể – Tướng – Dụng thì gọi là chúng sanh, Phật đặt cho họ cái giả danh là “chúng sanh”. Hễ ngộ Thể – Tướng – Dụng của chính mình, lại đặt cho họ một cái giả danh là Phật. Đủ thấy chúng sanh là người ấy, mà Phật vẫn là người ấy! Từ chỗ này, chúng ta có thể hiểu mối quan hệ giữa Phật và chúng sanh: Phật là chính mình, mà chúng sanh cũng là chính mình. “Thử pháp chư pháp trung”, “thử pháp” là nói về Thể – Tướng – Dụng của chính mình, “thật hữu tâm danh”, tâm là thể tánh của hết thảy các pháp, điều này nói rõ: Trong hết thảy các pháp, vẫn có danh từ này.
“Nhiên nhi mê ngộ bổn không” (nhưng mê và ngộ vốn là Không), đấy là thực tại. Mê, do đâu mà mê? Quý vị có tìm ra Lý và Sự của cái mê ấy hay chăng? Trong hội Lăng Nghiêm, đức Phật cùng A Nan và Phú Lâu Na đã thảo luận vấn đề này. Đức Phật nói chúng ta mê, quý vị đi tìm Tướng và Thể của mê, tìm chẳng được! Quý vị tìm vô minh, vô minh ở đâu? Chẳng thể được! Vì sao chẳng thể được? Vì nó là hư vọng! Nếu nó là chân thật, nhất định sẽ tìm được! Tìm khắp mọi nơi mà chẳng thấy, mới biết nó là hư vọng. Một thứ đã mê, hết thảy đều mê; một thứ đã ngộ, hết thảy đều ngộ! Mê và ngộ quả thật có chuyện này, nhưng mê và ngộ chẳng có tự tánh, không có tự thể; do vậy, “mê ngộ bổn không” (mê và ngộ vốn là không).
Biết mê và ngộ vốn là không, chúng ta nay đang mê, dẫu mê nặng nề đến đâu đi nữa, quý vị cũng đừng kinh hoảng, cũng đừng sợ hãi. “Tôi mê nặng nề như thế, làm thế nào đây? Phải như thế nào mới có thể đoạn được mê tình?” Vậy là mê càng thêm mê, quý vị vĩnh viễn chẳng đoạn mê được! Vì sao? Quý vị suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ, đó là mê, nghĩ “tôi tội nghiệp quá sâu, tôi mê hoặc, điên đảo”, đã mê càng thêm mê, không có cách nào đoạn được. Quý vị biết mê và ngộ vốn là không, một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng cực, thứ gì cũng chẳng cần quan tâm tới, niệm chẳng bao lâu sẽ tự nhiên thông minh. Vì sao tự nhiên thông minh? Vì quý vị chẳng mê, chẳng suy nghĩ loạn xạ, đương nhiên sẽ dần dần thông minh.
Vì thế, vừa mở đầu sách Di Đà Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư liền nói ba cương lãnh Tín – Nguyện – Hạnh. Nói tới Tín, lão nhân gia nêu ra sáu điều; điều thứ nhất là phải tin vào chính mình, thường cảm thấy ta tội chướng quá nặng, ta mê hoặc, điên đảo, đánh mất niềm tin nơi chính mình sẽ chẳng có cách nào hết. Trong ba món Tư Lương, quan trọng nhất là kiến lập Tự Tín, tức là tin tưởng vào chính mình, tin tưởng mê và ngộ vốn là không, tin tưởng Bổn Giác vốn có, tin tưởng quý vị trong một đời nhất định thành tựu. Người như vậy mới gọi là pháp khí trong nhà Phật, trong một đời này quyết định có thành tựu.
“Trung biên bất lập”, “trung” và “biên” là những danh từ giả lập, được kiến lập tương đối. Vì có hai bên nên mới có chính giữa, vì có chính giữa nên mới hiển lộ hai bên, kiến lập đối ứng với nhau. Lìa khỏi hai bên, chính giữa chẳng thể có được! Lìa chính giữa, hai bên chẳng thể có được! Đức Phật nói tới Trung và Biên, quý vị phải ngộ đạo lý này, đây là đức Phật nói đến nghĩa chân thật. Đức Phật nói tới Trung mà quý vị chấp có cái Trung đó, nói tới hai bên (Biên), quý vị lại chấp trước có hai bên, hỏng rồi! Hiểu ý nghĩa Phật pháp như vậy thì tam thế chư Phật bị oan uổng. Tam thế chư Phật đều phải kêu oan, ý nghĩa của [lời] Phật chẳng phải ở chỗ này!
“Chư Phật, chúng sanh, cập tâm” (chư Phật, chúng sanh và tâm) cũng là những giả danh giống như vậy, nhằm khiến cho quý vị từ ba giả danh này mà ngộ nhập Thật Tướng. Thật Tướng là một, vốn là cùng một chuyện, bất đắc dĩ, vì diễn nói cho thuận tiện mà lập ra danh từ “tâm”. [Ai] mê cái tâm này thì đặt cho kẻ ấy cái tên là “chúng sanh”, ai ngộ cái tâm này thì đặt cho kẻ ấy cái tên là “Phật”. Thật ra chỉ là một chuyện! Quý vị đã hiểu thông suốt, hoảng nhiên đại ngộ, nó vốn là một chuyện. Sau khi ngộ nhập, lìa khỏi hết thảy danh và tướng, chính là như cổ nhân đã nói: “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri” (như người uống nước, lạnh, nóng tự biết).
Trong phần trên, chúng tôi đã có nói: “Ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”, đấy chính là Thật Tướng hiện tiền.
(Diễn) Giả danh vô thật, toàn thể tức chân.
(演) 假名無實,全體即真。
(Diễn: Giả danh không thật, toàn thể là chân).
Lý và Sự là chân, danh tướng là hư vọng.
(Diễn) Cố tam pháp tương tức, vô hữu sai biệt.
(演) 故三法相即,無有差別。
(Diễn: Cho nên ba pháp chính là lẫn nhau, chẳng có sai biệt).
Là một mà ba, tuy ba mà một, chẳng có sai khác. Đó là chân lý. Chính vì Lý và Sự thật sự là như thế, cho nên khi quý vị thành Phật, quý vị nhất định thấy chúng sanh trong đại địa cũng thành Chánh Giác, đó là chân tướng sự thật. Nếu quý vị cảm thấy chính mình đã thành Phật, còn có bao nhiêu người khác là chúng sanh đáng thương, điều ấy chứng tỏ bản thân quý vị chắc chắn chưa thành Phật. Thành Phật là tâm bình đẳng hiện tiền. Quý vị còn có sự sai biệt giữa chúng sanh và Phật thì quý vị là phàm phu, là chúng sanh. Khi nào quý vị đạt đến ba thứ (tâm, Phật, chúng sanh) không sai biệt, không sai biệt là bình đẳng, quý vị sẽ được gọi là Phật, có ý nghĩa như vậy đó. Do vậy, chúng ta hiểu rõ đạo lý này, phải thường xuyên kiểm nghiệm chính mình trong cuộc sống thường ngày xem công phu của chúng ta có tiến bộ hay là không? Cảnh giới của chúng ta có nâng cao hay chăng? Đây tức là nói: Trong hết thảy các cảnh giới bất bình đẳng, tâm chúng ta có dần dần tiếp cận bình đẳng hay chăng? Sự sai biệt có dần dần bị thu hẹp hay chăng? Đó gọi là công phu đắc lực. Nếu khoảng cách ngày càng lớn là hỏng rồi, điên đảo mất rồi! Ý nghĩa của đoạn kinh này là như vậy.
Ở đây, đại sư chỉ rõ cho chúng ta biết: “Cái tâm tức thị Phật, Phật tức thị chúng sanh” (Bởi lẽ, tâm chính là Phật, Phật chính là chúng sanh). Do cả ba thứ “tâm, Phật, chúng sanh” không sai biệt, nên mới nói “chư Phật tâm nội chúng sanh, niệm chúng sanh tâm trung chư Phật” (chúng sanh trong tâm của chư Phật, niệm chư Phật ở trong tâm chúng sanh). Nếu nói rõ ý nghĩa này hơn chút nữa, A Di Đà Phật và chính mình là một Thể. Chúng ta là chúng sanh trong tâm A Di Đà Phật; nay chúng ta niệm Phật là niệm A Di Đà Phật trong tâm chúng ta, là một, không hai. A Di Đà Phật và chúng ta là một Thể, đối với câu nói này, đối với chuyện này, quý vị phải khẳng định, nhận biết. Sau đó, quý vị lại suy nghĩ: Hết thảy chúng sanh trong tận hư không khắp pháp giới chẳng phải là chúng sanh trong tâm A Di Đà Phật ư? Hết thảy người niệm Phật chẳng phải đều là niệm A Di Đà Phật trong tự tánh ư? Do vậy, chúng ta lại hiểu rõ một chuyện, tức là như kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Tình và vô tình cùng một Thể”. Nếu quý vị ngộ nhập “tình và vô tình có cùng một Thể”, chắc là chẳng bao lâu nữa, quý vị sẽ chứng đắc Pháp Thân thanh tịnh, thật sự chuyển thức thứ bảy thành Bình Đẳng Tánh Trí, chuyển thức thứ sáu thành Diệu Quán Sát Trí. Thức thứ sáu và thứ bảy đã chuyển, A Lại Da Thức liền biến thành Đại Viên Kính Trí, năm thức trước chuyển thành Thành Sở Tác Trí. A Lại Da biến thành Pháp Thân, Diệu Quán Sát và Bình Đẳng Tánh biến thành Báo Thân, năm thức trước biến thành Thiên Bách Ức Hóa Thân, chuyển tám thức thành bốn trí (Diệu Quán Sát Trí, Bình Đẳng Tánh Trí, Thành Sở Tác Trí, và Đại Viên Kính Trí). Đấy là chân thật ngộ nhập “tận hư không trọn pháp giới là chính mình”.
(Sớ) Trung lưu lưỡng ngạn giả, Sa Bà dụ thử, Cực Lạc dụ bỉ.
(演) 中流兩岸者,娑婆喻此,極樂喻彼。
(Sớ: “Giữa dòng hai bên”: Sa Bà ví như bên này, Cực Lạc ví như bên kia).
“Trung lưu, lưỡng ngạn” (giữa dòng và hai bờ) là tỷ dụ. Bờ bên này chỉ cho thế giới Sa Bà trong hiện thời. Thế giới Sa Bà khổ sở, hãy nên giác ngộ. Thế giới Cực Lạc ví như bờ kia.
(Sớ) Thỉ yên yếm khổ hân lạc.
(演) 始焉厭苦欣樂。
(Sớ: Bắt đầu bằng chán khổ, thích vui).
Đây là chúng ta bắt đầu tu học. Nói chung, lúc bắt đầu thì dùng ý thức, dùng cảm tình. Thế giới này khổ quá, chúng ta muốn thoát khổ được vui. Do vậy, nhất tâm nhất ý cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Đấy là công phu sơ bộ của người niệm Phật.
(Sớ) Ký yên khổ lạc song vong.
(演) 既焉苦樂雙亡。
(Sớ: Khổ và sướng đã cùng mất rồi).
Đây là công phu được nâng cao hơn. Thế giới này khổ, thế giới Cực Lạc sướng, khổ lẫn sướng đều tách lìa, “khổ lạc song vong” (khổ lẫn sướng cùng mất) là nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn sẽ đắc Chánh Thọ, mà cũng là thành tựu Niệm Phật tam-muội. Sự nhất tâm là Niệm Phật tam-muội, hai bên khổ và sướng đều chẳng thọ. Nếu còn có Khổ Thọ và Lạc Thọ, quý vị phải nhớ: Quý vị chưa đắc Niệm Phật tam-muội! Nói cách khác, quý vị không đạt được nhất tâm. Trong công phu thành phiến có Khổ Thọ và Lạc Thọ, trong nhất tâm bất loạn quyết định không có [những thứ cảm thụ ấy]. Trong Sự nhất tâm không có năm thứ cảm thọ: Khổ, lạc, ưu, hỷ, và xả. Chúng ta cũng có thể dùng điều này để khảo nghiệm công phu của chính mình, xem chúng ta niệm Phật đạt đến trình độ nào? Trong hoàn cảnh mà ta còn có cảm thọ khổ, lạc, ưu, hỷ, xả thì nói cách khác, công phu của quý vị tận hết mức cũng chẳng qua là công phu thành phiến mà thôi, chưa đắc nhất tâm!
(Sớ) Chung yên diệc bất trụ ư phi khổ phi lạc, sở vị: Nhị biên bất trước, Trung Đạo bất an.
(演) 終焉亦不住於非苦非樂。所謂二邊不著,中道不安。
(Sớ: Cuối cùng, cũng không trụ trong “chẳng khổ, chẳng sướng”, nên nói: “Chẳng chấp vào hai bên, mà cũng chẳng an trụ nơi Trung Đạo”).
“An” (安) có nghĩa là “an trụ” (安住). Trung Đạo cũng chẳng trụ, cảnh giới ấy lại được nâng cao hơn một tầng nữa. Đó là cảnh giới Lý nhất tâm bất loạn. Trong ba cảnh giới này, cảnh giới đầu tiên là công phu thành phiến, thứ hai là Sự nhất tâm bất loạn, thứ ba là Lý nhất tâm bất loạn. Cổ đại đức thường [diễn tả cảnh giới trong câu nói này] bằng câu nói: “Ly tứ cú, tuyệt bách phi”[2], tâm thật sự đạt được thanh tịnh! Thật sự đạt được thanh tịnh là Lý nhất tâm bất loạn.
(Diễn) Nhị biên vị hữu vô, Trung Đạo vị phi hữu phi vô, diệc hữu diệc vô.
(演) 二邊謂有無,中道謂非有非無,亦有亦無。
(Diễn: Nhị biên là Có và Không, Trung Đạo là chẳng phải Có, chẳng phải Không, mà cũng là Có, vừa là Không).
Đây chính là “tứ cú”. “Hữu” là một câu, “Vô” là câu nữa, “phi hữu phi vô” là câu thứ ba, “diệc hữu diệc vô” là câu thứ tư.
(Diễn) Bất trước bất an, chánh thị ly tứ cú xứ.
(演) 不著不安,正是離四句處。
(Diễn: “Chẳng chấp trước, chẳng an trụ” chính là lìa khỏi bốn câu).
“Bất trước” là không chấp tướng, “bất an” là trong tâm không vướng mắc. “Chánh thị ly tứ cú xứ”: Bốn câu này là căn nguyên chung của vô minh phiền não. Lục đạo phàm phu, ngoại đạo, Nhị Thừa, Quyền Giáo Bồ Tát đều chẳng lìa khỏi bốn câu này. Do vậy, họ chẳng thể kiến tánh, chẳng thể đắc Lý nhất tâm bất loạn. Bỏ được, thoát khỏi bốn câu này thì mới có thể chứng đắc Lý nhất tâm bất loạn. Đạt đến địa vị này, Thật Tướng của các pháp hiển hiện.
(Sớ) Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ, ý cái như thị. Thị tắc Thiền Tông, Tịnh Độ, thù đồ đồng quy, dĩ bất ly tự tâm, tức thị Phật cố, tức thị Thiền cố. Bỉ chấp Thiền nhi báng Tịnh Độ, thị báng tự bổn tâm dã, thị báng Phật dã, thị tự báng kỳ Thiền dã, diệc phất tư nhi dĩ hĩ.
(演) 自性彌陀,唯心淨土,意蓋如是。是則禪宗淨土,殊途同歸,以不離自心,即是佛故,即是禪故。彼執禪而謗淨土,是謗自本心也,是謗佛也,是自謗其禪也,亦弗思而已矣。
(Sớ: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ” có ý nghĩa như vậy. Do vậy, Thiền Tông và Tịnh Độ là khác đường, nhưng cùng về một nơi. Do chẳng lìa tự tâm nên chính là Phật, chính là Thiền. Kẻ nào chấp Thiền báng Tịnh Độ thì chính là báng bổn tâm của chính mình, báng Phật, báng Thiền của chính mình; đấy cũng là do chẳng suy nghĩ đó thôi!)
Mấy câu này, câu nào cũng là lời chân thật. Trong thời đại hiện tại nó càng là khai thị trọng yếu. Hành môn và giải môn của chúng ta hiện thời đều chẳng đắc lực, chướng ngại lớn nhất chính là kiến giải môn hộ quá sâu. Nói cách khác, phân biệt, chấp trước quá nặng. Tâm lượng hẹp hòi, nhỏ nhen chẳng thể dung nạp, chịu đựng [những ý kiến hay đường lối tu hành khác với tông phái của chính mình]. Chẳng những học Phật không có thành tựu, mà còn tạo vô lượng tội nghiệp, báng Phật, báng Pháp, báng Tăng! Quý vị hãy nghĩ xem: Báng Tam Bảo là tội lỗi gì vậy? Quý vị đọc Giới Kinh, xem kinh Phạm Võng sẽ biết, quả báo là địa ngục A Tỳ đấy!
Kẻ học Thiền báng bổ Tịnh Độ. Kinh Tịnh Độ có phải do đức Phật nói hay chăng? Nếu là do đức Phật nói, quý vị hủy báng kinh điển Tịnh Độ có phải là báng Pháp và báng Phật hay không? Nếu người niệm Phật hủy báng Thiền Tông thì cũng là báng Phật, báng Pháp. Thiền cũng do đức Phật nói. Do vậy, nhất định phải hiểu rõ: Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp. Chúng ta tự mình tu hành pháp môn này, chúng ta nhận định pháp môn này khế hợp căn cơ của mình, ta học pháp này sẽ được thụ dụng. Những pháp môn khác đều do đức Phật nói, đều hay, nhưng không khế hợp căn cơ của ta. Người khác tu tập những pháp môn ấy, chúng ta cũng tán thán. [Pháp môn ấy] khế hợp căn cơ của người ta, người ta tu pháp ấy sẽ có thành tựu. Làm sao có thể nói: Người ấy học khác ta, ta bèn hủy báng người ấy? Đó là tà tri tà kiến, chẳng phải là chánh tri kiến.
Trong phần trước đã nói rõ ràng, rành mạch, mê và ngộ là một chuyện! Thành kiến sâu đậm, “tự khen mình, hủy báng người khác” là mê hoặc, điên đảo. Người ta đang mê, chẳng biết chính mình đang mê, lầm tưởng mê là giác. Nếu họ biết là họ đang mê, sẽ chẳng mê. Do vậy, chẳng những chúng ta chớ nên hủy báng hết thảy pháp môn, mà thậm chí đối với những tôn giáo và học thuật khác cũng đừng nên hủy báng, vì sao? Trong phần trên đã nói rất hay: Pháp là một, chẳng phải hai. Chỉ vì chúng sanh mê nên mới kiến lập những tướng sai biệt. Sai biệt chính là vô sai biệt, phải hiểu rõ đạo lý này. Thật sự hiểu rõ đạo lý thì mới có thể “hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”.
Người nào tin tưởng Cơ Đốc Giáo, chẳng tin Phật pháp, quý vị có thể khen ngợi Cơ Đốc Giáo, khiến cho họ sốt sắng học, giúp cho họ sanh lên trời, đó mới là đúng. Ngàn vạn phần chớ nên nói đó là tà giáo, quý vị nói như vậy sẽ khêu gợi ác cảm nơi họ, tạo Tăng Thượng Duyên khiến cho họ hủy báng Tam Bảo. Kẻ ấy vốn chẳng hủy báng Tam Bảo, [do vì] quý vị nói hắn là tà giáo, hắn bèn nói Phật pháp cũng là ma quỷ. Quý vị khiến cho hắn tạo tội nghiệp hủy báng Tam Bảo, quý vị khiến cho hắn đọa vào địa ngục A Tỳ, ai làm cho hắn bị đọa? Người nào đó khiến ta bị đọa, quý vị nói xem: Kẻ đó chẳng thoát khỏi tội liên can! Nếu ngược lại, quý vị tán thán hắn, khơi gợi lương tri lương năng của chính hắn, [hắn sẽ cảm thấy]: “Chúng ta chửi bới Phật giáo là ma quỷ; ngược lại, Phật giáo khen ngợi Thượng Đế của chúng ta, nghĩ ra, tâm lượng của chúng ta quá nhỏ nhen, tâm lượng của người ta quá lớn”. Hắn sẽ sửa lỗi, đổi mới, kính trọng Tam Bảo. Tuy hắn không quy y, nhưng không hủy báng, mà tôn trọng, sẽ có ích cho hắn.
Do vậy, trong Tứ Tất Đàn của Bồ Tát thường nói: “Bồ Tát ở chỗ nào cũng khiến cho hết thảy chúng sanh đều sanh lòng hoan hỷ”, làm sao có thể khiến cho chúng sanh sanh phiền não ư? Đặc biệt là những kẻ chẳng tin tưởng Phật giáo, cũng nhất định chớ nên khiến cho họ sanh phiền não, đừng nên tăng trưởng tà tri tà kiến cho họ. Đó mới là đại từ đại bi.
(Diễn) Tự tâm thị Phật, thị Thiền giả.
(演) 自心是佛是禪者。
(Diễn: “Tự tâm là Phật” là Thiền).
“Phật” có nghĩa là giác chứ không mê. “Thiền” có nghĩa là Tĩnh Lự. Kinh Kim Cang nói: “Bất thủ ư tướng, như như bất động” (chẳng chấp lấy tướng, như như bất động), đó gọi là Thiền. Giác tánh là chẳng chấp lấy tướng, là như như bất động. Phật và Thiền là cùng một chuyện, chẳng phải hai chuyện.
(Diễn) Tự tâm giác chiếu tức thị Phật, tự tâm tĩnh lự tức thị Thiền.
(演) 自心覺照即是佛,自心靜慮即是禪。
(Diễn: “Tự tâm giác chiếu” chính là Phật, “tự tâm tĩnh lự” chính là Thiền).
Nếu ý nghĩa của chữ Tĩnh Lự chẳng dễ hiểu thì dùng hai câu kinh Kim Cang [để giải thích] sẽ dễ hiểu hơn. “Chẳng chấp lấy tướng, như như bất động”: Như như bất động là Tĩnh, chẳng chấp lấy tướng là Lự. Hiểu rõ, thông suốt tướng cảnh giới bên ngoài, nhưng chẳng chấp tướng! Một chương dạy về cách ngồi Thiền của Lục Tổ mà [trong Đàn Kinh] đã giảng rõ hai câu kinh Kim Cang này; đấy là nguyên tắc chỉ đạo tối cao trong tu học của Thiền Tông Trung Quốc.
(Diễn) Báng tự bổn tâm giả.
(演) 謗自本心者。
(Diễn: [Hủy báng Tịnh Độ] là báng bổn tâm của chính mình vì…)
Tri kiến sai lầm, phân biệt, chấp trước quá nặng, thành kiến quá sâu; do vậy, hủy báng Tam Bảo.
(Diễn) Dĩ Tịnh Độ nãi tự tâm chi Tịnh Độ cố. Thị báng Phật giả, dĩ bất ly tự tâm tức thị Phật cố.
(演) 以淨土乃自心之淨土故。是謗佛者,以不離自心即是佛故。
(Diễn: Tịnh Độ chính là Tịnh Độ trong tự tâm. [Báng Tịnh Độ] “là báng Phật”: Vì chẳng lìa tự tâm chính là Phật).
Chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa này, hằng ngày niệm một câu A Di Đà Phật, có báng Phật hay không? Nếu quý vị niệm một câu A Di Đà Phật chỉ là niệm tỳ-kheo Pháp Tạng đã thành Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng liên quan gì đến mình, đó là báng Phật. Vì sao? Quý vị chẳng hiểu “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Quý vị mê rồi, ngỡ Tịnh Độ và A Di Đà Phật đều ở ngoài cái tâm của chính mình. Cầu pháp ngoài tâm thì quý vị đã là ngoại đạo, quý vị chẳng liễu giải ý nghĩa của lời Như Lai đã nói.
Do vậy, phải hiểu: Tự – Tha bất nhị, Tự – Tha nhất Thể, vậy là đúng! Đây chính là Tín Tự, Tín Tha, Tín Nhân, Tín Quả, Tín Sự, Tín Lý như Ngẫu Ích đại sư đã nói [trong phần Ngũ Trùng Huyền Nghĩa của sách Yếu Giải]. Tự, Tha, Lý, Sự, Nhân, Quả là một, không hai, đó mới gọi là tin Phật. Ba món Tư Lương Tín – Nguyện – Hạnh được nói như vậy, hễ thiếu một điều nào, sẽ chẳng thể gọi là Tín. Nếu nói dễ nghe hơn một chút thì là “Tín chẳng đầy đủ”. Tuy có một chút tín tâm, nhưng chẳng viên mãn, bị thiếu khuyết, vì tín tâm của quý vị chẳng viên mãn, nên quý vị công phu không đắc lực, chẳng thể thành tựu. Nếu tín tâm đầy đủ, viên mãn, lẽ đâu quý vị chẳng thành tựu?
(Diễn) Thị tự báng kỳ Thiền giả, dĩ bất ly tự tâm tức thị Thiền cố
(演) 是自謗其禪者,以不離自心即是禪故。
(Diễn: “Là tự báng Thiền” vì chẳng lìa tự tâm chính là Thiền).
Chẳng hiểu tâm của chính mình là Thiền, chẳng hiểu tâm của chính mình là Phật. Thiền và Phật là một, không hai! Thiền là tự tâm tĩnh lự, Phật là tự tâm giác chiếu, là một, chẳng phải hai! Trong đoạn văn này, đại sư đã bảo chúng ta: Thiền Tông và Tịnh Độ khác đường, nhưng cùng về một nơi. Ngoài Thiền và Tịnh ra, còn có Thiên Thai, Hiền Thủ, Tam Luận, Luật Tông, tám tông phái lớn, có tông phái nào chẳng phải là “khác đường, nhưng về cùng một nơi”? Nếu nói cặn kẽ hơn thì tám vạn bốn ngàn pháp môn trong Tam Tạng kinh điển vẫn là “khác đường, nhưng cùng về một nơi”. Qua kinh Lăng Nghiêm, chúng ta đã thấy: Hai mươi lăm vị Bồ Tát là hai mươi lăm pháp Viên Thông, hai mươi lăm vị Bồ Tát ấy đại diện cho tám vạn bốn ngàn pháp môn, quy nạp hết thảy pháp môn thành hai mươi lăm loại lớn, mỗi vị đều là bậc nhất, không nói bậc nhì, vì sao? Các vị ấy đều kiến tánh, đủ thấy “khác đường, nhưng về cùng một nơi!”
Chúng ta nhất định phải phá tình chấp của chính mình. Hết thảy phân biệt, chấp trước, hết thảy xử sự bằng cảm tình, không gì chẳng phải là nghiệp, không gì chẳng phải là tội, giống như Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh đã nói, chúng ta phải thật sự giác ngộ điều này. Chúng ta mong hằng ngày tiêu nghiệp chướng, tiêu tội nghiệp, quý vị phải hiểu lý, hiểu cách vận dụng như thế nào trong cuộc sống. Vận dụng tư tưởng và đôi tay của chúng ta như thế nào thì mới xa lìa hết thảy tội nghiệp. Thành tựu vô lượng vô biên công đức là do chính quý vị có biết sử dụng cái tâm hay không. Ở đây, chỉ nêu ra Thiền và Tịnh để làm thí dụ. Chấp trước Thiền, đề cao Thiền, báng bổ Tịnh Độ tức là báng bổ cái tâm của chính mình, báng Phật, báng Pháp, đồng thời cũng hủy báng pháp Thiền của chính mình, không chỉ báng người khác mà còn báng chính mình!
“Diệc phất tư nhi dĩ hĩ” (cũng do chẳng suy nghĩ đó thôi). Câu này ý nói: Sao quý vị không suy nghĩ kỹ càng? Đấy thật sự là mê hoặc, điên đảo, người khai ngộ nhất định chẳng làm như vậy. Người khai ngộ tâm nhất định thanh tịnh, bình đẳng, mở rộng rạng ngời, tuyệt đối chẳng có phân biệt, chấp trước. Đấy là người khai ngộ, là người hữu đạo, như đã nói: “Hữu đạo là khai ngộ”. Hôm nay thời gian đã hết rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này!
— o0o —
Tập 32
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn mươi, dòng thứ tư:
Tứ, quảng hiển trì danh sở bị.
(Tự) Thử tắc lý chi nhất tâm, toàn quy thượng trí, diệc phục thông hồ sự tướng, khúc vị độn căn.
四、廣顯持名所被。
(序) 此則理之一心,全歸上智,亦復通乎事相,曲為鈍根。
(Bốn, nói cặn kẽ về những căn cơ thích hợp với pháp Trì Danh.
Tựa: Đây chính là Lý nhất tâm, hoàn toàn quy về bậc thượng trí, nhưng cũng thông với sự tướng, mà cũng nhằm thích ứng với kẻ độn căn).
Đoạn lớn thứ hai trong khoa này là Biệt Tán, trong phần này có bốn đoạn vừa (trung đoạn), đây là đoạn cuối cùng, nêu ra những căn tánh được bao gồm bởi pháp Trì Danh Niệm Phật. Trong pháp môn Tịnh Độ thường nói: “Tam căn phổ bị, lợi độn toàn thâu” (thích hợp khắp ba căn, gồm thâu lợi căn lẫn độn căn). Đoạn này chủ yếu nêu lên sự lý ấy. Trong phần trước, chúng ta đã từng đọc thấy công phu Niệm Phật có ba loại khác nhau, đấy cũng là ba loại thành tựu khác nhau:
1) Lý nhất tâm là thành tựu tối cao, được gọi là Thượng Phẩm Thượng Sanh, sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm, không hai, không khác với bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong kinh Hoa Nghiêm.
2) Kế đến là Sự nhất tâm bất loạn, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, tương đương Nhị Thừa và Quyền Giáo Bồ Tát.
3) Lại thấp hơn một bậc nữa là công phu thành phiến, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Trong đây cũng có ba bậc chín phẩm. Đấy là chỗ thù thắng của pháp môn này; sự thù thắng vẫn chẳng phải chỉ có vậy! Điều đặc biệt nhất là chúng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư nghiễm nhiên cũng có những sự hưởng thụ như trong cõi Thật Báo và cõi Tịch Quang.
Thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Nếu quý vị hỏi: Rốt cuộc là đạo lý gì? Nhân duyên gì? Trong bộ Sớ Sao, Liên Trì đại sư đã giảng cặn kẽ cho chúng ta biết.
(Diễn) Thử tắc Lý chi nhất tâm giả, dĩ nhất tâm niệm Phật hữu Sự hữu Lý. Thượng văn sở chỉ nãi Lý nhất tâm dã.
(演) 此則理之一心者,以一心念佛有事有理,上文所指乃理一心也。
(Diễn: “Đây chính là Lý nhất tâm”: Do nhất tâm niệm Phật có Sự và Lý. Đoạn văn trên đây nói về Lý nhất tâm).
“Thượng văn” là đoạn văn vừa nói trong phần trước, hoàn toàn giảng về cảnh giới Lý nhất tâm. Học Phật, quý vị phải hiểu, nhất định phải nhớ, học Phật nói đơn giản là học “sử dụng cái tâm”. Phật, Bồ Tát dùng chân tâm, phàm phu dùng vọng tâm. Dùng vọng tâm là không biết dùng tâm. Chẳng biết dùng tâm nên mới gọi là phàm phu hay chúng sanh. Người biết dùng tâm gọi là Phật, Bồ Tát. Thật ra Phật, Bồ Tát và phàm phu chúng sanh chẳng khác nhau, không hai, không khác! Biết dùng cái tâm chẳng phải là chuyện dễ dàng!
Trước hết, phải nhận thức cái tâm. Hiện thời chúng ta không nhận biết, mê mất tâm tánh. Nếu quý vị chẳng tin tưởng lời này, hãy đọc kinh Lăng Nghiêm. Suốt ngày từ sáng đến tối, miệng thường nói chúng ta có cái tâm, đức Phật hỏi ngài A Nan: “Tâm ở chỗ nào?” Chân tâm và vọng tâm khoan bàn tới, trước hết, hãy hỏi quý vị tâm ở chỗ nào? Đem hỏi tôn giả A Nan câu này, tìm khắp nơi cũng chẳng thấy, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở khoảng giữa. Ngài A Nan nghiễm nhiên nghĩ tới bảy chỗ, bảy chỗ đều trật lất! Chúng ta chẳng thông minh như ngài A Nan, sợ còn chưa nghĩ được bảy chỗ! Do vậy, trước hết phải nhận biết cái tâm, rồi mới tu tâm. Tu tâm rồi mới biết dụng tâm. Toàn bộ Phật pháp theo quá trình như vậy. Cổ đại đức thường nói: “Nhược nhân thức đắc tâm, đại địa vô thốn thổ” (Nếu ai biết cái tâm, đại địa không tấc đất). Đây là nói về nhận biết cái tâm, vì sao một người nhận biết cái tâm thì đại địa không còn tấc đất? Câu này có nghĩa là gì? Tâm là Chân Như bổn tánh, đất là Tướng. Tâm ví như vàng, đất ví như đồ vật. Nếu quý vị nhận biết vàng, món đồ nào cũng đều là vàng, toàn thể là vàng, trong tâm mục của quý vị sẽ không còn có đồ vật nữa, ý nghĩa là ở chỗ này.
Trước hết, phải nhận biết, sau đó, tự mình phải tu, bắt đầu tu từ đâu? Bắt đầu tu từ Lý Thể của chân tâm, bản thể của chân tâm là gì? Bản thể là “trực tâm” trong Bồ Đề tâm, mà cũng là “chí thành tâm” như kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đã nói, chân thành đến cùng cực. Nói “thành tâm”, bản thân chúng ta đều cảm thấy tâm ta rất chân thành. Thật ra, cái tâm của quý vị đã sớm mê hoặc rồi! Quý vị đâu có tâm chân thành! Chữ Thành nên giảng như thế nào? Trong Cầu Khuyết Trai Bút Ký, tiên sinh Tăng Quốc Phiên đã định nghĩa chữ Thành như sau: “Nhất niệm bất sanh, vị chi thành” (một niệm chẳng sanh gọi là Thành). Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối dấy vọng tưởng, suốt ngày từ sáng đến tối khởi tâm động niệm, đâu có thành tâm!
Thành tâm là chân tâm, trong chân tâm đương nhiên không có vọng niệm. Có vọng niệm thì tâm chẳng thành. Có vọng niệm thì “thành tâm” biến thành “vọng tâm”. Trong thành tâm, chẳng sanh vọng niệm; trong vọng tâm, đương nhiên khởi lên vọng niệm. Do vậy, tâm biến thành vọng tâm, cũng là từ Chân Như bổn tánh biến thành A Lại Da, lại biến thành Mạt Na, biến lần thứ ba bèn thành sáu thức trước đó. Duy Thức gọi chuyện này là “tam năng biến”. Đấy là từ chân khởi vọng, đạo lý là như vậy đó.
Trước hết, chúng ta phải nhận biết chân tâm, nhận biết rồi mới lại tu tâm. Tâm phải tu như thế nào? Phải rèn luyện trong cảnh giới, trải qua sự việc để luyện tâm. Sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, cho đến ý biết pháp, rèn luyện trong ấy, rèn luyện thanh tịnh, giống như trong kinh Kim Cang, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy tôn giả Tu Bồ Đề, nhưng thật ra, đức Phật dạy chúng ta hãy rèn luyện cái gì? Rèn luyện “chẳng giữ lấy tướng, như như bất động”. Rèn luyện điều này! “Chẳng giữ lấy tướng” là chẳng chấp tướng, chẳng động tâm, chẳng khởi niệm, đó là tu tâm. Tu cái tâm thanh tịnh của chính mình, mà cũng là chính mình chân thật thụ dụng.
Tâm địa của chính mình đã thanh tịnh mới có thể lợi ích chúng sanh. Lợi ích chúng sanh là tâm đại bi muốn giúp đỡ chúng sanh, thành tựu hết thảy chúng sanh. Nếu tự tâm chẳng thanh tịnh, mà quý vị muốn học theo các vị đại Bồ Tát phổ độ hết thảy chúng sanh, thường là chẳng thể độ chúng sanh, mà chính mình cũng bị kéo xuống nước. Chúng tôi thấy chuyện này rất nhiều, nguyên nhân là vì trong cảnh giới, chính mình chẳng thể chống đỡ được! Do vậy, tu học nhất định phải có tầng lớp, có thứ tự thuận: Đạt đến bậc Địa Thượng Bồ Tát (từ Sơ Địa trở lên), mới thật sự biết dụng tâm, thành tựu Vô Thượng Bồ Đề. Nói theo Biệt Giáo, Lý nhất tâm bất loạn là cảnh giới của bậc Địa Thượng Bồ Tát.
(Diễn) Toàn quy thượng trí giả.
(演) 全歸上智者。
(Diễn: Hoàn toàn quy về bậc thượng trí).
Chẳng phải là hạng người thông thường có thể làm được!
(Diễn) Dĩ Lý nhất tâm, vô phương sở, vô hình tướng, bất khả thấu bạc, vô dung nghĩ nghị, phi túc cụ Bát Nhã linh căn, đơn đao trực nhập giả, tiễn năng ngộ nhập.
(演) 以理一心,無方所,無形相,不可湊泊,無容擬議,非宿具般若靈根,單刀直入者,鮮能悟入。
(Diễn: Vì Lý nhất tâm không có nơi chốn, không có hình tướng, chẳng thể nắm níu được, không thể nào suy lường, luận định. Nếu chẳng phải là bậc sẵn có căn cơ Bát Nhã thần diệu từ trước, một mình ôm đao tiến thẳng vào, ít có kẻ nào có thể ngộ nhập được!)
Đây là cảnh giới của tầng cao nhất. Thật sự đạt đến nhất tâm, đương nhiên chẳng có nơi chốn. “Phương sở” là giới hạn, tức là phân chia đây và kia, giống như trong kinh Kim Cang đã nói “ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng”, đó là phương sở. Bốn tướng không có; chẳng phải là nói cảnh giới bên ngoài không có bốn tướng ấy, cảnh giới vẫn là có! Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, Ngài là Phật, cũng có học trò. Trong các học trò, có Bồ Tát, có Thanh Văn Tăng, cũng có tứ chúng đệ tử, làm sao không có cho được? Trong tâm không chấp trước, chẳng phân biệt, hoàn toàn dùng cái tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng để đãi người, tiếp vật. “Vô phương sở, vô hình tướng” (không có nơi chốn, không có hình tướng) là nói về chuyện này.
Phương sở và hình tướng là pháp thế gian. Không có phương sở và hình tướng là tướng của pháp xuất thế gian. Xuất thế gian và thế gian chẳng hai, đó gọi là “từ ngay trong thế gian mà xuất thế gian”, phải hiểu đạo lý này. Đó cũng chính là nói: “Phật pháp chẳng hoại thế gian pháp”. Tâm của quý vị thanh tịnh, không nơi chốn, không hình tướng, đó là Phật pháp. Pháp thế gian quả thật có phương sở, có hình tướng, bất hoại! Bất hoại thế gian pháp. Do vậy, tùy duyên mà bất biến, bất biến mà tùy duyên. Pháp thế gian là duyên, tùy thuận. Bất biến là gì? Tâm địa thanh tịnh của chính mình chẳng nhiễm mảy trần, trọn chẳng phân biệt, chấp trước. Chính mình quyết định không có phân biệt, chấp trước, thứ gì cũng đều có thể được, thiên đường, địa ngục, Phật cảnh, ma cảnh đều được, Sự Sự vô ngại, đó là cảnh giới của bậc Bồ Tát kiến tánh, giống như năm mươi ba lần tham học trong kinh Hoa Nghiêm. Năm mươi ba lần tham học là ai? Pháp Thân đại sĩ! Đều là Lý nhất tâm bất loạn.
Hiện thời chúng ta có rất nhiều chuyện vẫn phải phân biệt, chấp trước, vì sao? Chẳng phải vì chính mình, mà vì hết thảy chúng sanh. Chúng ta hộ pháp là hộ trì chánh pháp; đối với sự hộ trì chánh pháp của chính mình thì chẳng có giới hạn nào, bất luận trong cảnh giới nào, chẳng giữ lấy tướng, như như bất động. Đấy là hộ trì chánh pháp cho chính mình. Hộ trì chánh pháp của chúng sanh thì chúng sanh tiếp xúc cảnh giới bên ngoài thường là cái gì họ được tiếp xúc trước tiên sẽ trở thành điều chủ yếu. Nếu tiếp nhận những tà pháp, họ sẽ coi tà là chân; về sau, gặp gỡ chánh pháp, họ nhận thấy chánh pháp khác với những pháp họ đã tiếp nhận trước kia, bèn bài xích, đoạn Pháp Thân huệ mạng của chúng sanh. Do vậy, nhằm hộ trì hết thảy chúng sanh, nhất là hộ trì hết thảy hàng Sơ Học, chẳng thể không phân biệt, chấp trước. Sự phân biệt, chấp trước ấy là do lòng đại từ đại bi, làm con mắt chọn lựa pháp (trạch pháp nhãn) cho hết thảy chúng sanh.
Giảng đường của chúng ta là công khai, bất cứ ai chúng ta đều hoan nghênh đến đây giảng kinh, nhưng nhất định phải giảng kinh Di Đà, phải giảng pháp môn Tịnh Độ. Dẫu có giảng kinh luận nào khác, nhất định phải chỉ quy (hướng dẫn, quy kết) Tịnh Độ, vì sao? Mọi người chúng ta đều học Tịnh Độ. Nếu người đến [giảng kinh, thuyết pháp] là một đệ tử Phật, là chánh pháp, khá lắm! Người ấy đến giảng Thiền, khuyên mọi người đều học Thiền, đừng học Tịnh Độ. Đó cũng là Phật pháp, nhưng đến đạo tràng làm rối tâm chúng ta, phá hoại pháp của chúng ta. Tuy họ nói chánh pháp, nói Phật pháp, đáng được tán dương, nhưng phương pháp tu hành của chúng ta khác họ, đường lối không giống nhau, xin mời quý vị hãy đến nơi khác giảng, chẳng thể đến đây giảng! Nếu mỗi người niệm Phật chúng ta ở nơi này đều đắc Lý nhất tâm bất loạn thì chúng tôi hoan nghênh quý vị đến giảng, chẳng sợ gì hết. Vì sao? Chúng tôi ai nấy đều chẳng giữ lấy tướng, như như bất động, được rồi, không có vấn đề chi hết! Thiền, Giáo, Mật, Luật, Tịnh đều có thể nghe, thậm chí giảng Cơ Đốc Giáo, giảng Thiên Chúa Giáo đều có thể nghe được, đối với tôi chỉ có ích, chứ không gây hại. Điều này cần phải đạt đến đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh thì mới được! Thật sự nghe xong chẳng động tâm, nghe xong rành rẽ phân minh, sẽ tăng trưởng trí huệ; như như bất động là tăng trưởng nhất tâm bất loạn. Có bản lãnh ấy thì được! Không có bản lãnh ấy, vừa nghe, tâm liền dao động, vừa nghe, liền sanh phiền não, vẫn là chẳng nghe sẽ tốt hơn! Do vậy, đó là lý do vì sao đạo tràng này có người đến giảng thì hoan nghênh, có người đến giảng chẳng được hoan nghênh? Có đạo lý trong ấy.
Thầy Lý ở Đài Trung là một tấm gương rất tốt: Chỗ của Ngài là đạo tràng chuyên tu Tịnh Độ, Ngài chẳng mời pháp sư bên ngoài đến giảng kinh, vì sao? Những người ở cùng tu hành với Ngài là những người vừa bắt đầu tu hành, tiếp xúc Phật pháp, tuyệt đại đa số là người mới học. Ngài chẳng dễ gì dạy mọi người tin vào Tịnh Độ, dạy mọi người niệm Phật. Nếu thỉnh cao tăng đại đức đến giảng đạo lý mấy hôm, tâm họ liền bị dao động, chẳng biết sẽ ra sao! Một phen nhọc nhằn của Ngài há chẳng phải là uổng phí ư? Đây quyết chẳng phải là báng pháp, mà là môn đình được thiết lập khác nhau. Giống như chúng ta đi học trong trường. Mỗi thầy giáo thuộc một trường phái riêng, khoa hệ học tập khác nhau! Ở đây, tôi học hệ Trung Văn, nghiên cứu văn học Trung Quốc; chỗ người kia học một khoa hệ khác, học ngành Toán, hoàn toàn chẳng giống với tôi. Mời một vị tiến sĩ ngành Toán đến giảng Toán Học [cho sinh viên] hệ Văn Học, sinh viên nghe giảng sẽ mê muội, hồ đồ, chẳng hiểu tí tẹo nào! Chẳng phải là nói thầy không giỏi, chẳng phải là nói thầy chẳng thuyết chánh pháp! Do vậy, quý vị nhất định phải hiểu rõ đạo lý này. Kinh Phật được gọi là Khế Kinh, vì trên thì khế hợp Lý được chứng bởi chư Phật, dưới khế hợp căn cơ của chúng sanh đáng độ. Phải thích hợp với trình độ của chúng sanh, thích hợp với nhu cầu của họ, thích hợp với pháp môn của họ, thật sự có ích cho họ. Đó gọi là Phật pháp. Do vậy, đối với bậc thượng trí mà nói thì không gì chẳng có lợi, đối với họ có thể chẳng cần giới hạn nào. Năm mươi ba lần tham học trong kinh Hoa Nghiêm đã hiển thị một gương tốt, bày ra cho chúng ta thấy. Chúng ta hiểu rõ, sẽ tin được.
Gần đây, chúng tôi đọc một đoạn kinh Hoa Nghiêm, kinh nói trong thời đức Đại Thanh Vương Phật tại thế, có một vị hộ pháp là Chuyển Luân Thánh Vương. Sau khi đức Phật diệt độ không lâu, trong thế gian ấy hiện ra tướng suy loạn. Hiện tượng này rất giống với thời đại hiện thời của chúng ta: Người xuất gia trong nhà Phật mang hình tướng bại hoại, tà tri, tà kiến, lại còn có hành vi tà ác, phá hoại hoàn toàn hình tượng Phật pháp. Đương nhiên kiếp nạn của chúng sanh cũng hiện tiền, đời ác ngũ trược, tướng trược ác hiện tiền. Vị Chuyển Luân Thánh Vương ấy hết sức từ bi, ngài thấy Phật pháp suy diệt, chính mình rất khó chịu. Do vậy, Ngài bèn phát tâm bỏ ngôi vua, đi xuất gia. Mục đích xuất gia là muốn hộ trì chánh pháp, nhưng điều trọng yếu nhất trong hộ trì chánh pháp đương nhiên là phải giảng kinh, thuyết pháp. Kinh nói: Các thứ ác tướng của chúng sanh Ngài đều nói ra. Nói xong, hết sức cảm thán, thân hình tự vọt lên hư không cao bằng bảy cây Bối Đa La (Pattra), đấy là thị hiện thần thông. Chúng ta đọc kinh, đọc đến đoạn này, đức Phật từ mặt đất thăng lên không trung, có ý nghĩa gì vậy? Nếu quý vị đọc kinh Phật như thế, chính là y văn giải nghĩa (dựa theo văn tự để hiểu nghĩa), tam thế chư Phật đều kêu oan uổng! “Thăng lên hư không” có nghĩa là gì? Chẳng nhiễm mặt đất, trên đất là bụi đất. [“Thăng lên hư không”] có nghĩa là tâm địa thanh tịnh. Sáu căn thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, đó gọi là “thăng lên hư không”. Bảy cây Bối Đa La: “Bảy” là con số viên mãn, nghĩa là: Ngũ dục lục trần, pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều chẳng nhiễm, biểu thị ý nghĩa này. Chỉ có chẳng nhiễm mảy trần hoằng dương chánh pháp thì người ta mới có thể tin tưởng, mới có thể tiếp nhận. Ngày nay, Phật pháp suy vi, Phật pháp bại hoại, tuy có người hoằng pháp, nhưng họ bị ô nhiễm, nói cách khác, pháp sư hoằng pháp quyết chẳng lìa khỏi mặt đất, chẳng khác gì mọi người, vẫn bị ngũ dục lục trần ô nhiễm.
Chúng ta thấy những cao tăng đại đức từ xưa đến nay, họ sở dĩ khiến cho người khác kính ngưỡng là vì họ chẳng nhiễm. Lão hòa thượng Hư Vân, Ấn Quang đại sư, chẳng nhiễm mảy trần. Thầy Lý Bỉnh Nam ở Đài Trung cũng chẳng nhiễm mảy trần. Học trò cúng dường tiền cho Ngài, Ngài đem làm công tác từ thiện, đem hoằng pháp lợi sanh. Công danh của chính Ngài cũng chẳng tệ, Ngài là Bí Thư Trưởng của phủ Phụng Kỵ Quan[3], Ngài được đãi ngộ như một vị giản nhiệm quan[4]. Tại trường học, Ngài mang thân phận Giáo Sư[5], cũng dạy không ít lớp. Bản thân Ngài, khi ấy tôi ở chung với Ngài, mỗi tháng Ngài tiêu xài sáu chục đồng, sống cuộc đời thanh bần nhất, mỗi ngày ăn một bữa, mỗi bữa hai đồng! Ngài chẳng hưởng thụ, cả đời luôn sống như vậy. Quý vị thấy Ngài mặc một bộ quần áo theo kiểu Tôn Trung Sơn[6], đại khái mặc suốt năm mươi năm, chẳng may thêm một bộ quần áo mới nào, không cần thiết! Y phục của ta chưa rách chưa hư thì vẫn còn có thể mặc được! Người ta thấy quần áo của Ngài quá cũ, tặng cho Ngài quần áo mới. Ngài nhận lấy, hai hôm sau tặng cho người khác. Sống cuộc đời đơn giản và thanh bần nhất. Quý vị hãy đến Đài Trung mà xem, Ngài sống trong một căn nhà nhỏ rộng mười mấy bình[7]. Do vậy, lời Ngài nói ra mọi người mới tin tưởng, mới chịu nghe. Nếu Ngài vừa muốn danh vừa ham lợi, cái gì cũng muốn, quý vị hãy nghĩ xem: Ai nghe lời Ngài? Ắt cần phải có người như vậy, người chịu bỏ ngũ dục lục trần để tiếp nối huệ mạng của Phật, Phật pháp mới có thể tồn tại lâu dài trong thế gian!
Vị quốc vương tỳ-kheo ấy rất phi phàm, ngay cả ngôi vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng có thể bỏ được, xuất gia, sống cuộc đời người xuất gia là ba y một bát, giáo hóa chúng sanh, cho nên Phật pháp của Đại Thanh Vương Phật lại dần dần được phục hưng trong thời kỳ Mạt Pháp. Do đây, ta có thể biết: Con người có thể hoằng đạo, chứ không phải đạo hoằng người. Phật pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật cho đến ngày nay cũng có thể nói là suy đồi đến cùng cực, trong tương lai có khi nào phục hưng hay chăng? Chắc chắn sẽ có lúc phục hưng, vì sao? Chỉ cần có người giống như vậy; có hai, ba vị, Phật pháp sẽ phục hưng! Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật kiến lập Phật pháp tại Lộc Dã Uyển, bản thân Ngài cộng thêm năm vị tỳ-kheo là sáu người sáng lập giáo pháp. Nếu trong thời đại hiện tại, có sáu người xuất gia thật sự bỏ sạch sành sanh tiếng tăm, lợi dưỡng thế gian lẫn xuất thế gian, nhất định giáo pháp sẽ phục hưng, sẽ tái lập Phật pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật trong thế gian.
Vì thế, phải xả! Phải xả sạch sành sanh, đó là bậc thượng trí. Thật sự có thể xả sạch thì trong hết thảy hoàn cảnh đều chẳng bị chướng ngại, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Đó là thượng trí. Thượng trí có phải là những người thù thắng đặc biệt hay không? Chẳng phải! Ai cũng đều là bậc thượng trí. Hiện thời, thượng trí của quý vị bị ngũ dục lục trần ô nhiễm, nên thượng trí biến thành hạ trí, biến thành vô tri, bị vô minh, phiền não, ngũ dục, lục trần trói buộc. Do vậy, Phật pháp thường nói quý vị phải giải thoát, phải cởi gỡ những trói buộc, thoát khỏi những phiền não, khôi phục thượng trí.
Lý nhất tâm cũng từ công phu thành phiến và Sự nhất tâm dần dần tu thành. Thành Phật nhất định phải là Lý nhất tâm bất loạn, Sự nhất tâm chẳng thể thành Phật. Lý nhất tâm mới là Phần Chứng Phật. Ở đây, đại sư nói: Nếu chẳng phải là nhiều đời nhiều kiếp tu được “Bát Nhã linh căn”, tức là trí huệ Bát Nhã, “đơn đao trực nhập”, rất ít kẻ có thể ngộ nhập! Chúng ta nghe xong mấy câu này có cảm tưởng như thế nào? Có phải là nghĩ như thế này hay chăng: Không được rồi! Đại khái ta không có phần! Nếu quý vị có quan niệm ấy, quý vị đã sai rồi! Nếu ngày nay quý vị đọc bộ Sớ Sao này, có thể tham dự pháp hội này, quý vị đã trọn đủ Bát Nhã linh căn từ nhiều đời nhiều kiếp. Nếu không, quý vị chẳng gặp được nhân duyên thù thắng này. “Đơn đao trực nhập” là gì? Một câu Phật hiệu niệm đến tột cùng là “đơn đao trực nhập”. Nhất tâm xưng niệm, chẳng gián đoạn, chẳng hoài nghi, đó thật sự là “đơn đao trực nhập”. Thẳng thừng mà niệm, đừng hỏi tới nhất tâm hay không, chẳng hỏi là [đã chứng đắc] tam-muội hay chưa, vọng niệm gì cũng đều chẳng có, chỉ là nhất tâm niệm mà thôi, đến khi ấy, nhất tâm tự nhiên hiện tiền, đó là ngộ nhập!
Học vấn thế gian lẫn xuất thế gian đều chú trọng chuyên nhất, sợ bị phân tâm. Cổ đại đức thường dạy người, trên thực tế, ngay cả Thích Ca Mâu Ni Phật cũng chẳng ra ngoài lệ ấy. Ngài giảng kinh nhiều dường ấy, Ngài chẳng nhằm giảng cho một người. Quý vị thấy chúng đương cơ trong hết thảy các kinh chẳng phải là một người! Người đến thỉnh pháp nêu câu hỏi, đương nhiên người ấy gặp khó khăn, có nghi hoặc, đức Phật giảng cho người ấy, người ấy đại triệt đại ngộ, có thể ngộ nhập, có thể chứng quả. Người ấy khai ngộ, chứng quả là do từ một pháp môn mà đạt được, do từ một phương pháp mà thành tựu, chứ không do nhiều pháp môn, hay do nhiều phương pháp mà thành tựu, không hề có! Từ kinh Tứ Thập Hoa Nghiêm, chúng ta có thể thấy chuyện này rất rõ ràng. Năm mươi ba vị thiện tri thức đều nói chính mình chỉ đắc một pháp môn, một môn giải thoát. Đó là chứng minh! Họ sở dĩ có thể đắc Lý nhất tâm bất loạn, có thể thành Vô Thượng Đạo, là do thâm nhập một môn. Mê hoặc và khó khăn lớn nhất của chúng ta hiện thời là theo quá nhiều đường lối! Thoạt nhìn thì thấy pháp này khá lắm, pháp kia cũng rất tuyệt! Muốn học hết, muốn tu trọn, kết quả ra sao? Chẳng vào được cửa! Cửa quá nhiều, giống như chúng ta có ngôi giảng đường này, bốn mặt tám phương đều có mười mấy cái cửa. Cửa này cũng khá, cửa kia cũng rất tuyệt, muốn bước vào mấy cái cửa cùng một lúc thì kết quả ra sao? Vẫn đợi ở ngoài cửa, vào không được! Phàm là kẻ không vào được cửa, thảy đều phạm phải khuyết điểm này!
Lại nhìn vào các bậc cổ đại đức của Trung Quốc. Quý vị đọc Cao Tăng Truyện và Cư Sĩ Truyện, hoặc đọc ngữ lục, quý vị phải đặc biệt lưu ý một chuyện: Chú ý họ nhập môn như thế nào, khai ngộ ra sao? Tuy trong quá khứ họ học rất nhiều, tạp nhạp, nhưng đến cuối cùng, nhất định bỏ sạch, học một môn mới có thể vào được cửa. Nếu quý vị chẳng buông hết thảy những điều đã học, đã thấy, đã nghe xuống, chắc chắn chẳng thể vào được cửa! Nơi các bậc cổ đại đức Trung Quốc, bất luận là xuất gia hay tại gia, chúng ta cũng đều thấy hiện tượng này. Nếu quý vị thấy được đường nẻo này, sẽ có thụ dụng, chính mình mới thật sự hoảng nhiên đại ngộ, vốn là nhập đạo phải thâm nhập một môn thì mới thật sự phát hiện con đường thành Phật, phát hiện đường lối khai ngộ.
Giảng đường này của chúng ta cũng giảng các kinh luận khác, vì sao? Nhằm tiếp dẫn kẻ sơ cơ. Là vì kẻ sơ cơ tâm chưa định, vẫn chưa hiểu thế nào là một môn, vẫn chưa có ý niệm ấy, giảng xen tạp những thứ này nọ, họ nghe xong hoan hỷ, môn này khá lắm, môn kia rất hay, tiếp dẫn họ đến. Tới khi cơ duyên chín muồi, có phải là quý vị muốn thật sự ngộ nhập hay chăng? Có phải muốn thật sự được thụ dụng trong Phật pháp hay chăng? Quý vị muốn thật sự ngộ nhập, thật sự thụ dụng, tốt lắm, hết thảy những thứ tạp nhạp phải bỏ sạch, chuyên tu một môn! Do vậy, đối với bộ kinh này, bản thân tôi nhằm giúp cho mọi người nghiên cứu, tu tập Phật pháp, trong studio thâu hình, tôi tính giảng mấy bộ kinh, nhưng trong đạo tràng chỉ chuyên giảng một bộ kinh Di Đà, những thứ khác không giảng. Kinh luận rất nhiều, hy vọng mọi người phát tâm mỗi người hoằng dương một thứ, ai nấy đều là bậc nhất, chẳng có bậc nhì, cũng đừng nên ganh ghét, cũng đừng nên tranh giành. Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp. Kinh điển quả thật là phải thâm nhập một môn; thâm nhập nhiều môn, chắc chắn chẳng tốt đẹp gì!
Nhất là trong thời đại hiện tại, đây là thời đại cực kỳ nguy hiểm, là thời đại ngày hôm nay chẳng biết được chuyện ngày mai, nếu còn chưa buông xuống thì đúng là mê hoặc, điên đảo đến cùng cực! Do vậy, chuyện trong thế gian cứ sống qua ngày, niệm Phật là khẩn yếu! Không chắc ngày nào đại chiến thế giới lần thứ ba bùng nổ. Cuộc chiến ấy vừa bộc phát, cả địa cầu bị hủy diệt, tất cả sinh vật trên địa cầu đều biến mất. Cuộc chiến tranh ấy có bùng nổ hay không? Đại khái là không có khả năng, vì sao? Trận chiến tranh ấy là chiến tranh cùng nhau chết sạch, là cuộc chiến tranh không có thắng hay bại. Nếu nói là không có khả năng, cớ sao hằng ngày vẫn đang phát triển vũ khí hạch tử (nuclear weapon)? Chẳng có ngày nào ngưng nghỉ, hằng ngày đều phát triển, hằng ngày đều nghiên cứu, phát triển những thứ ấy để làm gì? Chuẩn bị chiến tranh! Những vũ khí khoa học hiện thời dùng computer để khống chế, một mai computer trục trặc, chiến tranh sẽ dấy lên, mọi người cũng chẳng biết vì sao mà chết, bị hủy diệt, đó là gì? Do ác nghiệp của chúng sanh chiêu cảm, do nghiệp lực sai khiến.
Pháp thế gian không có cách nào nghĩ tưởng, không có lý do! Phật pháp có đạo lý, Phật pháp nói đến nghiệp lực. Chúng sanh có Cộng Nghiệp, mọi người đều là tạo ác, chẳng tạo thiện. Dẫu có một tí thiện pháp thì cũng xen tạp, chẳng phải là thuần thiện. Do vậy, trong kinh, đức Phật dạy: Thời kỳ Mạt Pháp, tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng. Giảng kinh Phật, ấn hành lưu thông cũng là kinh Phật, nhưng mà như thế nào? Chẳng phải là ý nghĩa của Phật, mà là tà pháp, chẳng phải là chánh pháp. Nếu chúng ta hỏi: Ý nghĩa của Phật là gì? Dạy quý vị nhất tâm bất loạn, dạy quý vị tách rời hết thảy vọng tưởng, phân biệt, bỏ lìa hết thảy ngũ dục, lục trần, dùng lòng đại từ bi phục vụ hết thảy chúng sanh. Đó là ý nghĩa của Phật, là lời Phật răn dạy.
Quý vị nghe kinh Di Đà cũng chẳng ít lần, Yếu Giải cũng vừa mới đọc rồi. Toàn bộ Đại Tạng Kinh đều chẳng sánh bằng kinh Di Đà. Kinh Di Đà là kinh điển được hết thảy chư Phật khen ngợi. Nguyên văn của tựa đề kinh này là Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh (kinh khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn, được hết thảy chư Phật hộ niệm). Quý vị hãy suy nghĩ đề mục này là như thế nào? Quý vị hãy kiểm xem, có bộ kinh nào được hết thảy chư Phật hộ niệm hay chăng? Hết thảy chư Phật, không sót một vị Phật nào! Kinh Hoa Nghiêm được xưng tụng là “vua trong các kinh”, nhưng kinh Di Đà là “vua của các vua!” Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng là mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Vì thế, tôi thường nói: Kinh Di Đà là kinh bậc nhất, một câu A Di Đà Phật là pháp môn bậc nhất; hiềm rằng mọi người chẳng tin tưởng, nên chẳng có cách nào hết! Một câu A Di Đà Phật là đơn đao trực nhập, nhập gì vậy? Nhập Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Do vậy, tôi tuyên cáo ở đây, tôi in kinh, chuyên in kinh Di Đà, những kinh khác không in. Chúng ta chuyên tu pháp môn này, hoằng dương, đề cao pháp môn này, toàn tâm toàn lực lưu thông kinh này, nhất tâm nhất ý nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới, trừ ý niệm này ra, không có ý niệm thứ hai nào. Kinh Phạm Võng và Tứ Thập Hoa Nghiêm dùng làm tài liệu tham khảo cho chúng ta, chủ tu là bộ kinh Di Đà. Nếu chúng ta có tín niệm này, có nhận thức này, đó chính là Bát Nhã linh căn. Trong một đời này, nhất định có thể ngộ nhập, ngộ là thụ dụng hiện tiền, đại triệt đại ngộ, buông xuống hết thảy các pháp môn khác, bỏ hết, chuyên tu pháp môn này, đó là đại triệt đại ngộ. Chẳng phải là người đại triệt đại ngộ, sẽ chẳng làm được! “Nhập”: Quyết định vãng sanh Tịnh Độ, chẳng hoài nghi một tí nào!
Đoạn tiếp theo nhằm giải thích câu “diệc phục thông hồ sự tướng, khúc vị độn căn” (cũng thông với sự tướng, nhằm thích ứng cho hàng độn căn). Phần trên đây nói về bậc thượng căn lợi trí, là bậc đại triệt đại ngộ, vậy thì đối với những người mới học, những người có căn tánh trung hạ sẽ như thế nào? Cũng được! [Kẻ căn tánh trung hạ] tu pháp môn này cũng có thể thành tựu, đấy chính là điều được nói trong đoạn này.
(Diễn) Bất ngộ tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ, đản dĩ vọng niệm niệm Phật, ly thử sanh bỉ, thị tắc sanh Phật uyển nhiên, tịnh uế lịch nhiên, dĩ ngã chi sanh, cầu bỉ chi Phật, yếm thử ngũ trược, hân bỉ lạc bang, dữ bỉ lý tánh, toàn vô giao thiệp, thử tắc độn căn sở hành dã.
(演) 不悟自性彌陀,唯心淨土。但以妄念念佛,離此生彼,是則生佛宛然,淨穢歷然,以我之生,求彼之佛,厭此五濁,欣彼樂邦,與彼理性,全無交涉,此則鈍根所行也。
(Diễn: Chẳng ngộ “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”, chỉ dùng vọng niệm để niệm Phật, lìa cõi này, sanh sang cõi kia, nên Phật và chúng sanh rành rành, tịnh và uế phân minh, do ta là chúng sanh cầu đức Phật trong cõi kia, chán nhàm cõi ngũ trược này, ưa thích cõi vui sướng kia, hoàn toàn chẳng dính dáng đến lý tánh, thì đấy chính là cách hành trì của hàng độn căn vậy).
Đoạn này nói về đới nghiệp vãng sanh, sanh vào hai cõi Phàm Thánh Đồng Cư và Phương Tiện Hữu Dư, vì chúng sanh trong hai cõi này chẳng ngộ “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”, đều dùng cái tâm ý thức để niệm Phật. Tâm ý thức là vọng tâm. “Đản dĩ vọng niệm niệm Phật” (chỉ dùng vọng niệm để niệm Phật), vọng niệm là thức thứ sáu, tức Ý Thức, tức cái tâm ý thức, hiện thời chúng ta dùng cái tâm này. Tuy dùng cái tâm này, tôi thường khuyến khích các đồng tu phải nâng cao công phu của chính mình. Nếu quý vị hỏi: Lý nhất tâm là gì? Bỏ sạch vọng niệm là Lý nhất tâm, là chân tâm, quyết chẳng phải là ngoài vọng niệm bèn có chân tâm nào khác, chẳng phải vậy! Vọng tâm và chân tâm là một Thể. Tách rời hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng thì tâm ấy là chân tâm, là Lý nhất tâm, vì sao? Nhất tâm tương ứng với Lý, Lý là tâm, tâm là Lý, là một, không hai. Chẳng phải là chúng ta không thể đạt tới cảnh giới ấy, chúng ta có thể đạt đến!
Chẳng hạn như ngày nay chúng ta tin tưởng pháp môn này, từ hết thảy kinh sách, chúng ta quả thật hiểu rõ pháp môn này, buông hết thảy các pháp môn khác xuống, chuyên tu bộ kinh này, chuyên trì một câu danh hiệu này, đây chẳng phải là sử dụng vọng tâm. Dùng vọng tâm sẽ không thể làm được! Vọng tâm niệm một câu Phật hiệu là: Ta bị bệnh liền nhanh nhảu niệm Dược Sư Phật, Dược Sư Phật có thể trị bệnh mà! Ta có tai nạn bèn nhanh chóng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, Quán Âm Bồ Tát khéo tiêu tai. Tam tâm, nhị ý, kẻ ấy cầu nhiều quá! Ta thường bị ma chướng, hãy cấp tốc niệm chú Lăng Nghiêm, chú Lăng Nghiêm có thể trừ ma chướng. Đấy chính là mê hoặc, điên đảo! Kẻ ấy chẳng nhất tâm, chẳng phải là thượng trí. Bậc thượng trí không có những ý niệm ấy, ý niệm gì cũng không có. Bậc thượng trí bỏ sạch những vọng tưởng, chấp trước, tốt lành cũng bỏ, hung hiểm cũng bỏ, Phật cũng bỏ, ma cũng bỏ, ý niệm gì người ấy cũng chẳng có, chỉ có một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng cực, nhất định niệm đến mức tâm khai ý giải, đại triệt đại ngộ. Bậc thượng trí đi theo phương hướng ấy. Chúng ta nhất định phải hiểu, đấy mới là đại sự chân chánh của chính mình.
Đối với kẻ sơ học, họ chưa đạt đến cảnh giới cao như vậy, bèn dạy họ hãy niệm Phật theo sự tướng, niệm Phật hiệu càng nhiều càng tốt; nhưng phải bảo họ: Câu Phật hiệu này cũng là vọng niệm, dùng vọng niệm này để ngăn dứt hết thảy vọng niệm tạp nhạp. Dùng vọng để dứt vọng, nó có thể hàng phục cái tâm, nó có thể chế phục phiền não. Như vậy thì mới có thể đới nghiệp vãng sanh. Do vậy, đừng hiểu lầm ý nghĩa ở chỗ này, chẳng phải là nói ta vừa niệm Phật vừa có thể khởi vọng tưởng, tạo tội nghiệp, mà tương lai vẫn có thể vãng sanh, đó là trật mất rồi! Nghiệp mang theo (đới nghiệp) chỉ là nghiệp cũ, chẳng mang theo nghiệp mới. Chữ “cựu nghiệp” (nghiệp cũ) chỉ những chủng tử tập khí trong A Lại Da Thức, trong hiện tại chớ nên tạo ác nghiệp. Nếu hiện tại tạo ác nghiệp mà có thể vãng sanh thì người ta chỉ cần niệm Phật sẽ đều vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới hết rồi, vì sao hiện thời người niệm Phật đông như thế mà người vãng sanh lại ít? Là vì chúng ta hiểu lầm ý nghĩa này, cứ ngỡ đới nghiệp vãng sanh là có thể mang theo tội nghiệp hiện tại. Hiện tại tạo nghiệp chẳng sao hết, tạo càng nhiều cũng chẳng ăn nhằm gì, đến khi ấy, ta vẫn có thể vãng sanh; đúng là [quan niệm sai lầm này] hại người thảm quá! Trong Tịnh Độ nói niệm A Di Đà Phật sẽ có thể vãng sanh, nhưng có điều kiện! Điều kiện tối thiểu là quý vị chẳng tạo ác nghiệp, chẳng mang theo nghiệp hiện tiền, mà mang theo những chủng tử tập khí sẽ nhất định có thể vãng sanh. Qua Vãng Sanh Truyện, chúng ta thấy những trường hợp như vậy hết sức nhiều, nhất định phải chú ý!
Hiện thời, chúng ta bỏ được càng nhiều thì vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới phẩm vị càng cao. Những thứ ấy giống như khí cầu bay lên không trung bằng hơi nóng, nếu cái giỏ ở phía dưới khí cầu chứa quá nặng, nó sẽ chẳng thể bay cao, sắp xếp sao cho giỏ rất nhẹ, vứt những thứ trong ấy đi, khí cầu sẽ bay cao, càng bay lên cao hơn! Mười pháp giới thăng trầm vì nghiệp lực; chủng tử và tội nghiệp quá nhiều sẽ đọa xuống. Do vậy, ác nghiệp quá sâu sẽ đọa lạc trong địa ngục; nghiệp chướng tiêu trừ thì sẽ lại từ địa ngục siêu thăng, đó là thăng lên trên. Ba bậc chín phẩm trong bốn cõi của thế giới Tây Phương cũng giống như thế! Đẳng Giác Bồ Tát vẫn còn đèo thêm một phẩm sanh tướng vô minh, đấy là nghiệp nhẹ nhất.
Nếu một tí nghiệp ấy cũng bỏ được, vị ấy sẽ viên mãn Bồ Đề. “Viên mãn Bồ Đề, quy vô sở đắc” (Viên mãn Bồ Đề, trở về chỗ không có gì để được), giống như Tâm Kinh đến cuối cùng đã nói “vô trí, diệc vô đắc”, có cùng một cảnh giới. Đấy là cảnh giới tối cao, là viên mãn rốt ráo. Chúng ta phải hiểu đạo lý này. Chúng ta làm không được, đừng sợ! Dần dần sẽ làm được, làm được bao nhiêu bèn làm bấy nhiêu, bỏ được bao nhiêu bèn bỏ bấy nhiêu, nhất định phải bỏ, nhất định phải buông xuống. Chuyện vướng mắc trong lòng quá nhiều, chắc chắn không có chỗ nào tốt đẹp cả! Hãy nên buông bỏ.
Mức độ xả chưa đạt đến tiêu chuẩn thì là đới nghiệp vãng sanh. Hiện tượng đới nghiệp vãng sanh là Tịnh Độ và Uế Độ rành rẽ phân minh: Sa Bà uế ác, Cực Lạc thanh tịnh. “Ly thử, sanh bỉ” (lìa cõi này, sanh về cõi kia), chúng ta phải lìa bỏ thế giới Sa Bà, cầu sanh về thế giới Cực Lạc. “Sanh Phật uyển nhiên”: Giới hạn giữa A Di Đà Phật và chúng sanh rõ ràng, chúng sanh chẳng phải là Phật, Phật chẳng phải là chúng sanh. “Tịnh uế lịch nhiên”: Tịnh Độ và Uế Độ cũng rõ ràng, rành mạch; quả thật là hai thế giới hoàn toàn chẳng giống nhau. Nếu muốn sanh về thế giới ấy, nhất định phải đọc kinh, nhất định phải tu tâm, quyết định chẳng thể mang theo tập khí phiền não hiện hành. Nếu như quý vị mang theo tập khí phiền não hiện hành đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, tập khí ấy lại hiện hành ở bên đó, chẳng phải là quý vị đã làm rối loạn trật tự trong Tây Phương Cực Lạc thế giới ư? Quý vị có tâm nóng giận, đến Liên Trì Hải Hội, trông thấy người này chẳng vừa mắt, thấy người kia còn oán hận, thế giới Cực Lạc chẳng thể dung nạp tâm thái ấy được! Nói cách khác, chẳng thể dung nạp thì rõ ràng là quý vị chẳng bước vào đó được! Quý vị không có tư cách tham gia đoàn thể của họ, quý vị chẳng được hoan nghênh!
Tất cả tập khí của quý vị: Tham, Sân, Si, Mạn, Ngã Kiến, Thân Kiến, Biên Kiến, những thứ tà kiến ấy đều chế ngự được, tuy chưa đoạn được cội gốc, nhưng tuyệt đối chẳng khởi hiện hành, một câu A Di Đà Phật nhất định có thể chế ngự được những thứ ấy thì thế giới Cực Lạc nhất định hoan nghênh hạng người như vậy. Chỉ cần quý vị đạt đến công phu ấy, quý vị có thể chế phục phiền não, quý vị hữu ý cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, khi lâm chung, đức Phật nhất định đến tiếp dẫn, vì sao? Quý vị là người được bọn họ (người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới) hoan nghênh, đức Phật nhất định đến tiếp dẫn quý vị. Quý vị hội đủ điều kiện ấy, nhưng chẳng muốn vãng sanh, Phật chẳng thể tiếp dẫn quý vị được! Quý vị rất muốn vãng sanh, nhưng không đủ điều kiện, Phật thấy quý vị có ý nghĩ ấy, nhưng không thể được: Ngươi đến chỗ ta sẽ làm rối loạn trật tự! Tuy A Di Đà Phật đại từ đại bi hoan nghênh quý vị vãng sanh, nhưng đại chúng nơi ấy chẳng thể dung nạp quý vị, quý vị chẳng thể ở chung với đại chúng được. Đấy là điều kiện cơ bản mà!
Do vậy, chúng ta phải suy nghĩ, hiện thời chúng ta có thể ở chung với đại chúng được hay chăng? Có thể bao dung, chịu đựng hay không? Nếu chúng ta có thể bao dung, chịu đựng thì có thể ở với nhau được. Chuyện gì chẳng vui lòng bèn A Di Đà Phật, hóa giải nó. Trong tâm rất vui thích, một câu A Di Đà Phật, cũng chẳng cần phải tăng trưởng cái tâm hoan hỷ. Nói chung, tu cái tâm thanh tịnh, bình đẳng, từ bi trong hết thảy cảnh duyên; như vậy mới là nhân vật được Tây Phương Cực Lạc thế giới hoan nghênh. Quý vị nguyện vãng sanh, Phật mới có thể tiếp dẫn quý vị. Một chút chuyện chẳng đẹp ý bèn ghim trong lòng mấy bữa, dẫu suốt ngày từ sáng đến tối niệm mười vạn câu Phật hiệu, đến khi lâm chung A Di Đà Phật cũng chẳng dám đến tiếp dẫn quý vị. Vì sao? Ở Tây Phương Cực Lạc thế giới, sợ quý vị thấy người này chẳng vừa mắt, thấy người kia cũng chẳng vừa lòng. Do điều chẳng thuận mắt ấy, cõi nước thanh tịnh Tây Phương Cực Lạc thế giới lại bị quý vị biến thành ô uế, lại rối loạn. Do vậy, chẳng hoan nghênh! Chúng ta phải nhớ điều này!
Vì thế, Tịnh Độ ắt có điều kiện, điều thứ nhất là phải buông xuống, tức là phải bố thí, phải xả. Điều thứ hai là phải nhẫn nhục, phải có thể nhẫn. Quý vị đầy đủ hai điều kiện này, một là có thể bỏ, hai là có thể nhẫn, không có một ai chẳng thể vãng sanh! Nếu quý vị trọn đủ Lục Độ, sẽ là Sự nhất tâm bất loạn, là bậc thượng trí. Do vậy, tối thiểu là viên mãn hai điều trong Lục Ba La Mật, tức là có thể buông xuống và có thể nhẫn nhục, chuyện gì cũng đều có thể chịu đựng được, có như vậy thì mới có thể đới nghiệp vãng sanh. Đấy mới là điều kiện cơ bản để vãng sanh Tây Phương.
“Dĩ ngã chi sanh”: Ta là chúng sanh, “cầu bỉ chi Phật”, cầu sanh nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật. “Yếm thử ngũ trược”: Chúng ta chẳng muốn ở lâu trong cõi nước ngũ trược ác thế này, chẳng muốn sanh tử luân hồi trong thế gian này, mong mau được vãng sanh. Trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh có nói, thuở ấy, tôn giả Vy Đề Hy là mẹ của vua A Xà Thế gặp phải biến cố gia đình: Con trai bà ta muốn giết cha để đoạt ngôi vua. Nói theo cách bây giờ là “chánh biến” (biến cố chánh trị), nước nhà và gia đình phát sanh biến cố rất lớn, hết sức đau khổ! Do vậy, bà ta cầu Phật: Trong các thế giới của chư Phật, có thế giới nào thanh tịnh hay không? Con muốn rời khỏi cõi nước uế ác này, cầu sanh vào thế giới thanh tịnh. Đức Phật bèn thị hiện các cõi nước Phật cho bà ta thấy. Thích Ca Mâu Ni Phật trọn chẳng đặc biệt đề cao giới thiệu, mà đem mười phương cõi Phật đều thị hiện ra: “Bà hãy tự xem rồi tự chọn lựa!” Kết quả là bà ta xem xong, chọn lựa Tây Phương Cực Lạc thế giới, cầu Thích Ca Mâu Ni Phật dạy bà ta tu hành như thế nào thì mới có thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đấy là nội dung của Thập Lục Quán Kinh.
Thập Lục Quán Kinh nêu ra rất nhiều lý luận cho pháp môn Tịnh Độ. Tuy chúng ta không tu mười sáu phép Quán, không dùng những phương pháp ấy, nhưng phải hiểu đạo lý. Đạo lý ấy có thể vận dụng vào pháp môn Niệm Phật. Trong bộ Sớ Sao này, Liên Trì đại sư đã trích dẫn [Quán Kinh] không ít. Trong các đạo lý ấy, điều thứ nhất trong Tịnh Nghiệp Tam Phước là cơ sở để vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, “hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”. Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối niệm Phật, chúng ta có làm được điều ấy hay chăng? Điều này là phước đức. Kinh Di Đà dạy: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc” (chẳng thể dùng chút thiện căn, phước đức, nhân duyên để được sanh về cõi ấy).
Kinh này đã nói rất rõ ràng, quý vị không có phước báo! Chẳng hiếu thảo với cha mẹ, chẳng kính trọng sư trưởng, lại còn thường có tâm sân hận, tạo mười ác nghiệp, quý vị mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, hét toạc cuống họng cũng uổng công!
Điều thứ hai và điều thứ ba trong Tam Phước là tu thiện căn. Điều thứ hai “thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi” là trì giới, là điều kiện thứ hai. Chúng tôi thưa cùng quý vị, điều kiện thứ nhất là điều kiện để sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, điều kiện thứ hai là điều kiện để sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư. Nói cách khác, điều kiện thứ nhất là thành tựu công phu thành phiến, điều kiện thứ hai là thành tựu Sự nhất tâm bất loạn.
Điều kiện thứ ba là “phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả”. Khuyến tấn hành giả là hoằng pháp lợi sanh, là giảng kinh, thuyết pháp, khuyên người khác học Phật, đó là Lý nhất tâm bất loạn. Kinh này giảng rõ ràng, minh bạch, chỉ niệm Phật suông mà chẳng làm theo thì làm sao đạt được? Trong sự hiếu dưỡng phụ mẫu, quan trọng nhất là khuyên cha mẹ niệm Phật, khuyên cha mẹ cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ. Đó là chân hiếu, đại hiếu.
(Sớ) Lý Sự nhất tâm, tường kiến hậu văn.
(演) 理事一心,詳見後文。
(Sớ: Đối với Lý nhất tâm và Sự nhất tâm, xem giải thích chi tiết trong phần sau).
Bộ Sớ Sao của Liên Trì đại sư gồm bốn cuốn, có nửa cuốn, tức là một phần tám lời văn nhằm giải thích nhất tâm bất loạn, giảng giải cặn kẽ nhất, thấu triệt nhất. Xin coi phần giải thích chi tiết nơi trong phần sau.
(Sớ) Kim vị tự tánh duy tâm, chánh chỉ kinh trung Lý nhất tâm bất loạn ngôn nhĩ.
(演) 今謂自性唯心,正指經中理一心不亂言耳。
(Sớ: Nay nói “tự tánh duy tâm” thì chính là nói tới Lý nhất tâm bất loạn như trong kinh đã nói).
Đoạn văn giảng về “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ” chính là giảng về nhất tâm bất loạn như trong kinh đã dạy. Nhất tâm bất loạn có Sự nhất tâm và Lý nhất tâm, đoạn này chuyên giảng về Lý nhất tâm.
(Sớ) Thượng trí nãi khắc thừa đương.
(演) 上智乃克承當。
(Sớ: Bậc thượng trí mới có thể gánh vác được).
Người thông minh tột bậc, người có trí huệ tột bậc, vừa nghe [nói tới pháp môn này] liền trực tiếp gánh vác. Nói cách khác, người ấy vừa nghe thấy hợp lý, bèn lập tức làm theo, lập tức buông xuống được, đó là bậc thượng căn lợi trí.
(Sớ) Độn căn vị năng lãnh hà.
(演) 鈍根未能領荷。
(Sớ: Kẻ độn căn chưa thể lãnh ngộ, gánh vác được).
“Lãnh” (領) là lý giải, tức là người độn căn hay căn cơ trung hạ nghe xong, chưa thể hoàn toàn lãnh ngộ; “hà” (荷) là gánh vác, họ cũng chẳng dám gánh vác. Ví như nghe nói pháp môn Niệm Phật này tốt đẹp, khá lắm! Tôi nghe người ta nói Thiền cũng khá, dường như cao minh hơn pháp này một tí. Lại nghe vị Thượng Sư nọ giảng Mật, nói “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay trong cái thân đời này), niệm Phật chẳng thể “tức thân thành Phật”, nghe xong nửa tin nửa ngờ, chẳng thể hoàn toàn tin tưởng. Thậm chí còn có kẻ mang tâm lý cầu may, tôi phải học nhiều thứ, vạn nhất một thứ chưa thể thành công thì còn có thứ khác! Do vậy, lạy Phật, Bồ Tát bèn lạy mấy vị, để đến lúc vạn nhất mà lạy Quán Thế Âm Bồ Tát không nương cậy được thì còn có Đại Thế Chí, quý vị nói xem còn có cách nào nữa hay chăng? Thậm chí còn đi lạy Gia Tô (Jesus), lạy Thiên Chúa, lại lạy Quán Âm Bồ Tát, đến khi mạng chung, đại khái Gia Tô chẳng tới, Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ tới, Quán Thế Âm Bồ Tát không nương cậy được thì còn có Thượng Đế! Quen biết nhiều người, nói chung sẽ có người giúp đỡ! Nếu chỉ ôm chân đơn độc một vị, vạn nhất vị ấy không tới thì làm sao đây? Vẫn còn giữ tâm lý cầu may, thật sự là sai lầm!
Nếu quý vị chuyên cầu một vị, khi gặp nạn gấp, vị ấy nhất định đến giúp quý vị, vì Ngài biết quý vị không có ai khác giúp đỡ, không thể chẳng đến được! Quý vị cầu cạnh quá nhiều vị, đến lúc gặp nạn gấp, chẳng sao! Ta không đến thì còn có người khác, vị ấy nói: “Không sao hết! Ta không tới, còn có người khác!” Kết quả là tới cuối cùng bèn trắng tay, chẳng có vị nào tới cả! Người có tâm lý cầu may như thế quá nhiều, đó đều là chướng ngại, đều do vọng tưởng của chính mình tạo thành, chẳng thể chuyên nhất! Do vậy, cảm ứng đạo giao với Phật, Bồ Tát là do nhất tâm bất loạn. Tâm quá tạp, quá loạn, sẽ không có cách nào khởi tác dụng cảm ứng đạo giao với chư Phật và quỷ thần được! Do vậy, ở đây nói kẻ độn căn không hiểu, họ cũng chẳng thể gánh vác được!
(Sớ) Cố thử nhất tâm, bất chuyên chủ Lý, nhi diệc thông Sự.
(演) 故此一心,不專主理,而亦通事。
(Sớ: Vì thế, nhất tâm chẳng chuyên chú trọng vào Lý, mà còn thông cả Sự).
Nhất tâm bất loạn, có Lý nhất tâm, mà cũng có Sự nhất tâm.
(Sớ) Dĩ Sự nhất tâm, nhân giai khả hành.
(演) 以事一心,人皆可行。
(Sớ: Do Sự nhất tâm ai cũng có thể hành được).
Ai nấy đều có thể làm được.
(Sớ) Sở vị phu phụ chi ngu bất tiếu, nhi dữ tri dữ năng giả dã.
(演) 所謂夫婦之愚不肖,而與知與能者也。
(Sớ: Ý nói: Kẻ ngu phu ngu phụ chẳng đáng kể tới mà vẫn có thể biết, có thể hành được).
Đàn ông, đàn bà, hiền hay ngu, phường không ra gì đều có thể biết, đều có thể hiểu rõ, mà cũng đều có thể làm được. Đây chính là nói: “Thích hợp trọn khắp ba căn, gồm thâu lợi căn lẫn độn căn”. Pháp môn này nếu xét ra, trên là bậc Đẳng Giác Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, các Ngài cũng tu pháp môn này, từ kinh Hoa Nghiêm quý vị đã thấy rồi đó. Dưới thì lục đạo phàm phu, chẳng riêng gì con người, mà trong thế gian này, chúng ta thấy loài súc sanh niệm Phật được sanh về Tịnh Độ cũng chẳng ít. Đủ thấy pháp môn này thật sự rộng lớn! Từ ba bậc chín phẩm trong bốn cõi, ta có thể thấy được [điều ấy], nhưng điều kiện tối thiểu là phải chế phục phiền não. Đới nghiệp vãng sanh phải chế phục phiền não, tuyệt đối chẳng mang theo nghiệp hiện hành, chúng ta phải đặc biệt chú ý điều này. Người phiền não hiện hành đặc biệt nặng nề thì phải chú ý, đó là đại chướng ngại đối với vãng sanh, tổn hại chính mình, chứ chẳng liên can gì đến người khác. Chính mình chịu thiệt thòi, chính mình bị tổn thương, bỏ lỡ cơ hội tốt đẹp to lớn trong đời này, đáng tiếc quá đỗi! Tiếp theo đây là tỷ dụ:
(Sớ) Như thiên phổ cái, tự địa phổ kình.
(演) 如天普蓋,似地普擎。
(Sớ: Như trời che khắp, như đất nâng đều).
Chẳng có phân biệt gì!
(Sớ) Đại tạo chi trung, vô khí vật cố.
(演) 大造之中,無棄物故。
(Sớ: Trong đại tự nhiên, không bỏ vật nào).
Nay chúng ta gọi “đại tạo” là đại tự nhiên (thiên nhiên). Trong thế giới tự nhiên, không có một vật nào bị bỏ sót, trong toàn bộ đại tự nhiên, chẳng bỏ một vật nào! Đây là tỷ dụ: Trong pháp môn Tịnh Độ, bất cứ căn tánh nào cũng đều có thể vãng sanh, nhưng điều kiện căn bản là “chế phục phiền não, tuyệt đối chẳng để chúng hiện hành”. Chúng ta phải sốt sắng dùng một câu Phật hiệu để chế phục phiền não hiện hành, lúc nào chế phục được, lúc ấy quý vị sẽ có tin tức từ Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do vậy, có thể biết trước lúc mất, tương lai của chính mình là một bầu quang minh rõ ràng, minh bạch, cuộc sống ấy mới có ý nghĩa, mới có giá trị. Chỉ cần quý vị có thể chế phục phiền não, sẽ nhận được tin tức ấy.
Đây là đoạn lớn Tán Kinh, tức là đoạn lớn thứ hai, tới đây chúng tôi đã giảng xong!
— o0o —
Tập 33
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn mươi mốt, đoạn lớn thứ ba trong phần lời Tựa là Cảm Thời (cảm thán trước thời thế) trong phần lời tựa. Đoạn này cũng gồm ba tiểu đoạn, xin hãy xem lời tựa.
(Tự) Nại hà thủ ngu chi bối, trước Sự nhi Lý vô văn, tiểu huệ chi lưu, chấp Lý nhi Sự toại phế. Trước Sự nhi mê Lý, loại mông đồng độc cổ thánh chi thư. Chấp Lý nhi di Sự, tỷ bần sĩ hoạch hào gia chi khoán.
(序) 奈何守愚之輩,著事而理無聞;小慧之流,執理而事遂廢。著事而迷理,類蒙童讀古聖之書;執理而遺事,比貧士獲豪家之券。
(Tựa: Hiềm rằng những kẻ chấp chặt ngu hèn, chấp vào Sự mà chẳng nghe Lý, phường trí huệ nhỏ nhoi do chấp Lý bèn phế Sự. Chấp Sự mê Lý, giống như trẻ thơ ngây ngô đọc sách của bậc thánh hiền thời cổ. Chấp Lý bỏ Sự, giống kẻ nghèo có được bằng khoán của nhà giàu có).
Hai câu đầu là nói về pháp, hai câu sau là tỷ dụ. Chúng ta vừa đọc liền hiểu rõ. Trong phần trước đã nêu trọn sự thù thắng của pháp môn Tịnh Độ, trong đoạn này, đại sư ôm nỗi cảm hoài rất sâu: Pháp môn thù thắng hy hữu dường ấy, mà người có thể tin tưởng sâu xa tu học rất ít. Nói cách khác, bao nhiêu người học Phật ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ, quả thật đáng tiếc quá! Đoạn này là Tổng Thán (lời than chung). Trước hết, chúng ta hãy xem kẻ “thủ ngu” là ai, phường “thủ ngu” chỉ những ai?
(Diễn) Thủ ngu chi bối giả, ngu diệc bất năng chướng đạo, cố vân: “Nhân nhất năng chi, kỷ bách chi” đẳng, nhi quá tại “thủ” tự, nãi cao thôi thánh cảnh, hoạch địa tự hạn chi bối.
(演) 守愚之輩者,愚亦不能障道,故云人一能之己百之等,而過在守字,乃高推聖境,畫地自限之輩。
(Diễn: “Những kẻ chấp chặt ngu hèn”: Ngu cũng chẳng thể chướng ngại đạo, cho nên nói: “Người khác làm một lần bèn thành công, ta gắng sức cả trăm lần [thì cũng thành công]” v.v… nhưng lỗi là ở chữ Thủ (chấp giữ), chính là nói về hạng người đề cao thánh cảnh, tự vạch đất hạn định).
Lời giải thích trong đoạn này đúng là đập một gậy vào đầu chúng ta, hy vọng nhờ cú đập ấy, chúng ta sẽ tỉnh ra, vì sao? Chúng ta thường nghĩ chính mình rất ngu si, chính mình chẳng thể thành tựu. Tổ sư bảo chúng ta: Ngu cũng chẳng sao, ngu hoàn toàn chẳng thể chướng ngại đạo. Nói như vậy thì ngu cũng có thể học đạo, ngu cũng có thể chứng đạo. Thật đấy! Chẳng giả tí nào! Trong pháp môn Tịnh Độ, quả thật có rất nhiều ngu phu ngu phụ mà họ đều có thể vãng sanh, thậm chí còn kẻ chẳng biết một chữ nào, vẫn có thể Thượng Phẩm Thượng Sanh. Trong Vãng Sanh Truyện lẫn Tịnh Độ Thánh Hiền Lục đều có những trường hợp ấy, đủ thấy ngu chẳng đáng sợ! Ngu thì phải như thế nào? Phải mạnh mẽ nỗ lực, tinh tấn, chẳng lười nhác. Cổ nhân nói: “Nhân nhất năng chi, kỷ thập chi; nhân thập năng chi, kỷ bách chi”, [nghĩa là] người ngu phải làm như thế này: Người ta học một lượt bèn hiểu, mình học mười lần; người ta học mười lần bèn biết, mình học một trăm lần. Chỉ cần chịu dốc sức, chịu nỗ lực, không ai chẳng thành tựu!
Những người thành tựu xưa nay ở trong nước lẫn ngoại quốc, chẳng nhất định đều là bậc thượng căn, không nhất định ai cũng là người thông minh, có thể nói quá nửa đều là kẻ ngu. Ai chịu nỗ lực, chịu học, phương pháp lại thích đáng, kẻ ấy bèn thành tựu. Kẻ ngu chẳng thể thành tựu là do lỗi tại “thủ”, [tức là] giữ lấy địa vị [ngu hèn] ấy, chẳng dám tiến lên, nên chẳng thể thành tựu. Người Nhị Thừa chẳng thể kiến tánh cũng do lỗi “chấp giữ”, “thủ nội u nhàn” (giữ lấy sự u tịch, thanh nhàn trong nội tâm), cho nên họ chẳng thể minh tâm kiến tánh, chẳng thể hồi Tiểu hướng Đại. “Cao thôi thánh cảnh” (đề cao thánh cảnh): Cảnh giới của chư Phật, Bồ Tát quá cao, chúng ta chẳng thể chứng đắc được, chúng ta chẳng thể thành tựu trong một đời này được! Chỉ cần có ý niệm như vậy, người ấy sẽ chẳng thể thành tựu! Đó là “hoạch địa tự hạn” (tự vạch đất phân giới hạn), đại địa chẳng có ngằn mé, người ấy vạch ra giới hạn trên mặt đất để tạo phạm vi ngăn giữ chính mình. Đây là tỷ dụ về hạng người chấp giữ ngu muội.
Thật ra, sự tu học trong Phật pháp dễ dàng hơn bất cứ pháp môn nào trong thế gian. Để thành tựu pháp thế gian phải nhờ vào nhân duyên, như câu nói: “Nhất ẩm nhất trác, mạc phi tiền định” (Một miếng ăn, một hớp uống, không gì chẳng được định sẵn). Tốt cũng chẳng dễ cầu được, mà xấu cũng rất khó bài trừ. Trong ấy có quả báo. Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật đã nói: “Như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo” (nhân như thế, duyên như thế, quả như thế, báo như thế). Muốn thay đổi quả báo, đâu phải là chuyện nói dễ dàng! Thế nhưng muốn tu hành thành Phật, chẳng khó! Vì sao? Vì ai nấy đều có đủ chủng tử Phật tánh, quý vị đã có tiền vốn, chỉ thiếu khuyết duyên. Nói cách khác, quý vị thiếu khuyết “tín, nguyện, trì danh”, chỉ cần đầy đủ ba điều kiện này, lẽ đâu chẳng thành tựu? Nhìn như vậy thì thành Phật quả thật dễ dàng thực hiện hơn hoàn thành bất cứ sự nghiệp thế gian nào, chỉ cần tự mình chịu nỗ lực, thâm nhập một môn. Nếu quý vị phát đại tâm, tu đại hạnh, giống như trong Quán Kinh đã nói: “Phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả” (Phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến khích, cổ vũ hành giả). Đó là phát đại tâm, tu đại hạnh. “Khuyến tấn hành giả” là đem Phật pháp giới thiệu cho người khác, giảng giải cho người khác nghe, khuyên người khác học Phật, chúng ta ngày nay gọi việc này là “hoằng pháp lợi sanh”, đó là việc làm của hàng đại tâm Bồ Tát. Bản thân chúng ta có phải là đại tâm Bồ Tát hay chăng? Điều này phải hỏi chính mình, quý vị có chịu phát tâm hay không?
Ngu si chớ sợ, trình độ chẳng đủ cũng đừng hoảng. Thậm chí tuổi tác đã cao cũng đừng sợ! Sợ là sợ quý vị đề cao thánh cảnh, vạch đất tự hạn chế, sợ điều ấy! Hiện thời, tu học thuận tiện hơn quá khứ rất nhiều, càng là kẻ ngu lại càng thật sự có phước. Trước kia, người ngu khổ sở, nghe pháp sư giảng kinh, giảng một lần không nhớ. Nếu thỉnh pháp sư giảng lại lần nữa, chẳng dễ gì! Hiện thời có băng thâu âm, pháp sư giảng kinh bèn thâu lại, ta nghe một lần không nhớ, chẳng sao, ta mở băng thâu âm nghe lần nữa, vẫn chưa nhớ thì lại nghe một lần nữa, giống như câu nói “nhân nhất năng chi, kỷ bách chi” ở đây. Người ta nghe một lượt bèn hiểu, ta nghe một trăm lần. Thật sự có nghị lực và siêng năng như vậy, kẻ ngu si cũng biến thành thượng căn lợi trí. Nghe hiểu ý nghĩa kinh văn, nghe minh bạch, khuyến tấn hành giả là giảng cho người khác nghe, chính quý vị thích giảng như thế nào bèn giảng như thế ấy, lời giảng chẳng phải là lời lẽ [học được] từ người khác, làm cho người nghe thật sự hiểu đạo lý. Theo cách học như thế, chính quý vị ở trên bục giảng cũng sống động, hoạt bát, chẳng thấy khô khan. Đây là lý do vì sao người ngu có phước trong hiện tại.
Người ngu hiện thời có phước báo hơn những người ngu trong thời xa xưa chẳng biết gấp bao nhiêu lần? Trước kia, người ta nghe thầy giảng, nghe một lượt không hiểu, thỉnh cầu lớp đàn anh, thỉnh người thông minh, những người này nghe một lượt bèn hiểu, thỉnh những người ấy giúp đỡ, phải cầu cạnh người khác! Người ta có lòng tốt thì tốt lắm, giúp đỡ quý vị, giải thích lần nữa cho quý vị nghe, điều này rất khó có! Do vậy, hiện tại, chúng ta phải hết sức lợi dụng những công cụ khoa học, khiến cho sự ngu muội của chúng ta biến thành trí huệ. Ngu đừng sợ, ngu chẳng chướng đạo, chỉ cần đừng chấp chặt cái ngu thì thường là người ngu thành tựu cao hơn kẻ thông minh. Do vậy, cổ nhân thường nói: “Thông minh phản bị thông minh ngộ” (Thông minh đâm ra bị lầm lẫn bởi thông minh), bị lầm lẫn bởi sự thông minh của chính mình, kẻ ấy chẳng chịu nỗ lực tinh tấn, đến cuối cùng chẳng thể thành tựu bằng người ngu si.
Do vậy, tu học quý ở chỗ thâm nhập một môn, vừa bắt đầu bèn nhất định học một thứ chi đó, phải học thuần thục, thấu triệt thứ ấy, vì sao? Chỉ có thấu triệt thuần thục thì mới có thể dấy lên công phu quán chiếu. Nói tới công phu quán chiếu, tức là ứng dụng lý luận, phương pháp và cảnh giới mà quý vị đã tu học vào cuộc sống thực tế, dùng trong ăn cơm, mặc áo, đãi người, tiếp vật, dùng để xử lý hết thảy sự vụ thế gian, đó gọi là “thực hành công phu quán chiếu”. Học Phật như thế là học Phật sống động. Học và vận dụng Phật pháp sống động, chắc chắn chẳng do học nhiều! Hễ nhiều, sẽ chẳng đủ công lực. Do vậy, nhất định phải dồn công phu nơi một bộ kinh, thâm nhập một môn.
Trong quá khứ, khi tôi là học trò, khi còn học kinh, bản thân tôi có một cách làm, tức là học một bộ kinh thì nhất định phải giảng bộ kinh ấy từ đầu đến cuối mười lượt. Chẳng giảng đủ mười lượt, tuyệt đối chẳng học bộ kinh thứ hai. Giảng mười lượt rồi, tuy chưa thể nói là thấu triệt, nhưng cũng khá thuần thục, chính mình được thụ dụng. Lại học sang bộ thứ hai, công sức giảm một nửa, mà hiệu quả gấp bội, dễ dàng hơn nhiều! Là vì đã có căn bản, đã có cơ sở rồi. Bộ kinh thứ nhất chưa có cơ sở, chưa có căn bản, học rất tốn sức; nhưng mỗi người đều phải trải qua kinh nghiệm ấy, đều phải trải qua cửa ải khó khăn ấy. Chỉ cần qua được cửa ải thứ nhất, từ đấy về sau sẽ ngày càng dễ dàng hơn!
Nếu như nói tương lai ta phải quyết định một pháp môn, muốn thành tựu nơi một pháp môn trong một đời, không cần phải vừa mở đầu bèn quyết định ngay. Học mười bộ hay tám bộ xong rồi mới quyết định thâm nhập một môn thì tín tâm càng đủ, chẳng dễ gì bị ngoại cảnh xoay chuyển. Bởi lẽ, quý vị chỉ học đơn độc một bộ hay hai bộ, sẽ có lúc bị cảnh giới xoay chuyển: Nghe nói kinh Đại Thừa này hay, kinh kia cũng khá lắm, tâm bèn bị dao động! Thật sự chẳng bị ngoại cảnh lay động, [sẽ do tu tập] một môn mà chắc chắn thành tựu. Đoạn này nói về hạng người chấp giữ ngu muội, hoàn toàn chấp nơi sự tướng, chẳng hiểu lý rốt ráo; vì thế, tự mình hạn chế chính mình. Đấy là loại thứ nhất, loại thứ hai là kẻ tiểu huệ hoặc kẻ cuồng huệ.
(Diễn) Tiểu huệ chi lưu giả, học Bát Nhã Bồ Tát, tu cầu đại trí huệ.
(演) 小慧之流者,學般若菩薩,須求大智慧。
(Diễn: “Phường trí huệ nhỏ nhoi”: Bồ Tát học Bát Nhã cần phải cầu đại trí huệ).
Phường trí huệ nhỏ nhoi, đặc biệt nói về Bồ Tát học Bát Nhã. Bồ Tát học Bát Nhã phải cầu đại trí huệ.
(Diễn) Tiểu huệ giả cuồng huệ dã, thiên huệ dã, phi chân trí huệ.
(演) 小慧者狂慧也,偏慧也,非真智慧。
(Diễn: Tiểu huệ là cuồng huệ hoặc trí huệ lệch lạc, chẳng phải là trí huệ chân thật).
Chữ “tiểu huệ” chỉ kẻ cuồng huệ hoặc thiên huệ (trí huệ lệch lạc), chẳng phải là chân huệ. Đặc biệt là [đối với những người học Phật mà] khởi sự từ Bát Nhã. Nếu quý vị đọc cuốn Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa của cư sĩ Giang Vị Nông, quý vị sẽ hiểu rõ. Từ xưa đến nay, pháp sư giảng kinh đều mười phần thận trọng đối với kinh Kim Cang, chẳng dễ dãi, coi nhẹ mà giảng, vì sao? Sợ người khác hiểu lầm, sợ người khác nghe xong bèn đi vào con đường Đoạn Diệt Không, [cho rằng] hết thảy đều không, đã không rồi, có gì để mà học nữa chứ? Thứ trí huệ ấy là cuồng huệ. Đương nhiên trong ấy cũng bao gồm Thế Trí Biện Thông, đó là “thiên huệ”. Chẳng phải là [chấp trước] lệch vào một bên thì lại là cuồng vọng, những người ấy chẳng có trí huệ chân thật. Người có trí huệ chân thật là Lý Sự viên dung, Lý Sự vô ngại, vận dụng đồng thời Lý lẫn Sự, đồng thời tu học, chẳng hề chỉ chấp Lý, không màng tới Sự. Từ Sự mới tỏ lộ được Lý, nương theo Lý mới có thể thành tựu Sự. Nếu chấp Lý phế Sự, cổ đại đức thường nói: Không ai chẳng bị đọa lạc! Chẳng thà chấp Sự phế Lý, chấp tướng tu hành, vẫn còn có thể đắc tiểu quả. Những kẻ chấp Lý phế Sự nhất định đọa lạc. Cổ đại đức thường nói: “Ninh khả chấp Hữu như Tu Di sơn” (thà chấp Có to như núi Tu Di), tức là hạng giữ lấy kiến chấp ngu muội, “bất khả chấp Lý như giới tử” (chớ nên chấp Lý bằng hạt cải). Căn bệnh chấp Lý phế Sự, chư Phật, Bồ Tát chẳng có cách nào cứu được!
(Diễn) Hựu thử nhị nhân chi bệnh, tại chấp trước lưỡng tự.
(演) 又此二人之病,在執著兩字。
(Diễn: Căn bệnh của hai hạng người này là do hai chữ “chấp trước”).
Gốc bệnh của hai hạng “thủ ngu” và “tiểu huệ” là do chấp trước.
(Diễn) Cố kinh vân: “Chúng sanh xứ xứ trước, dẫn chi linh đắc xuất”.
(演) 故經云:眾生處處著,引之令得出。
(Diễn: Cho nên kinh nói: “Chúng sanh chỗ nào cũng chấp, dẫn dắt cho họ thoát khỏi”).
Đây cũng nêu ra bổn ý giáo hóa chúng sanh của đức Phật. Chúng sanh chỗ nào cũng chấp trước, chẳng chấp Không, bèn chấp Có. Phật pháp là gì? Phật pháp không gì chẳng nhằm dẫn dắt những kẻ chấp trước đột phá chấp trước, vượt thoát chấp trước, khiến cho họ thành tựu. Phật pháp từ đầu đến cuối đều phá chấp trước, mà kinh điển Bát Nhã là rõ ràng nhất.
(Sớ) Thượng ngôn Phật Từ song bị trí ngu, kim ngôn chúng sanh bất thể Phật ý, hữu thiện giáo, vô thiện học, cố khả thán dã.
(演) 上言佛慈雙被智愚,今言眾生不體佛意,有善教,無善學,故可歎也。
(Sớ: Trong phần trên nói lòng Từ của Phật phủ khắp kẻ trí lẫn người ngu, nay nói chúng sanh chẳng thấu hiểu ý Phật. Tuy có người khéo dạy, nhưng chẳng có kẻ khéo học, cho nên đáng than thở vậy).
Đây là Liên Trì đại sư khôn ngăn cảm thán. Chư Phật, Bồ Tát đại từ đại bi, giáo hóa chúng sanh trọn khắp ba căn (thượng, trung, hạ), gồm thâu lợi căn lẫn độn căn, giống như Khổng lão phu tử “hữu giáo vô loại” (dạy học không phân biệt). Nay mấy câu này ngụ ý: Chúng sanh chẳng thấu hiểu ý Phật, Phật quả thật khéo dạy, là một vị thầy tốt nhất, Ngài có trí huệ tối cao, có kỹ xảo dạy học hết sức viên mãn, nay chúng ta nói là “phương pháp dạy học cao minh”. Quả thật khó thể gặp gỡ vị thầy giỏi như thế. Qua kinh luận, đâu đâu ta cũng thấy được, cũng cảm nhận được lòng Từ thiện xảo của đức Phật. Lỗi lầm tại nơi đâu? Lỗi lầm là do học trò chẳng biết học, chẳng khéo học! Có thầy giỏi, nhưng không có trò ngoan! Tuy thầy giỏi có đạo, có pháp, cũng chẳng có cách gì truyền thụ, không có truyền nhân. Chúng ta đọc đoạn văn này xong, chính mình phải hiểu rõ, truyền nhân thật sự của đức Phật không nhất định phải có trí huệ rất cao, không nhất định phải là thông minh, lợi căn, mà là kẻ giống như chúng ta cũng được, vì sao? Ngu chẳng thể chướng đạo, vấn đề là chúng ta có khéo học hay không? Người ta một lần là được, bản thân ta phải trăm lần. Đó là khéo học, đâu phải là có học cũng chẳng hiểu, trong một đời này chẳng có ai không thể thành tựu!
Sáng hôm nay, có các đồng học từ trường đại học Đài Loan đến đây thăm tôi, họ cũng có một nhóm nhỏ, cũng thường cùng nhau nghiên cứu kinh điển, tôi hỏi họ: “Tông chỉ nghiên cứu của quý vị là gì?” Tông chỉ, mục tiêu, phương hướng họ đều không nói được! Tôi nói: “Học với ai?” Họ thường thỉnh các vị pháp sư đại đức khác nhau đến giảng này nọ. Mỗi vị thầy là một đường lối, mười vị thầy là mười đường lối, quá khó, quá tạp! Do vậy, tôi khuyên họ: Nếu thường mời pháp sư đại đức bên ngoài đến diễn giảng, chẳng bằng chuyên môn thỉnh một vị pháp sư chỉ dạy trong suốt một thời gian dài thì mới có thể tu học thành công. Tôi nêu một thí dụ: Trong một năm, nghe mười người giảng kinh, thuyết pháp, học mười thứ, chẳng bằng suốt một năm dốc hết tinh lực chuyên học một thứ. Chỉ có thâm nhập một môn, mới thấu triệt cội nguồn pháp, thật sự có thể “một kinh thông, hết thảy đều thông”.
Hôm nay là ngày Rằm tháng Giêng, ánh trăng viên mãn, quý vị hy sinh dịp trăng thanh gió mát để đến đây nghe kinh, hy vọng Phật pháp, trí huệ, công đức của quý vị đều viên mãn. Để viên mãn, nhất định phải thâm nhập một môn, điều này hết sức quan trọng! Do vậy, tôi bảo họ: Hiện tại đạo tràng của chúng ta chuyên giảng kinh Di Đà, mỗi Chủ Nhật chuyên môn niệm Phật. Giảng kinh Di Đà xong, lại giảng từ đầu, giáp vòng như thế vĩnh viễn không ngưng dứt. Quý vị hãy nghĩ xem, học theo cách này chính mình có tiến bộ hay không? Nếu không có tiến bộ, ngừng ở chỗ này. Quý vị giảng kinh này lần thứ nhất, giảng lần thứ hai giống hệt như lần thứ nhất, còn ai đến nghe nữa? Chẳng đến nghe! Giảng mười lượt là mười cách, giảng một trăm lượt là một trăm cách, mỗi lượt khác nhau, người đến nghe mỗi lần đều có ngộ xứ, mỗi một lần đều có thể đạt được lợi ích, không bỏ lỡ ngày nào, người ấy nhất định phải tới! Có người cho rằng kinh Di Đà giảng qua một lượt, nếu giảng lần thứ hai, còn ai đến nghe? Chẳng đến nghe thì đổi kinh khác! [Quan niệm như vậy khiến cho] chính mình chẳng thể thành tựu, mà còn làm cho người khác lầm lẫn. Do đây có thể biết: Thâm nhập một môn bèn đầy đủ vô lượng công đức. Do vậy, chúng ta phải thấu hiểu ý Phật, ý Tổ, phải hiểu thế nào là “khéo học”.
Đạo tràng của cổ đại đức có đạo phong và học phong độc đáo, đặc biệt. Chúng ta chuyên nghiên cứu một bộ kinh là học phong, mỗi ngày Chủ Nhật niệm Phật là đạo phong. [Đạo tràng có] học phong và đạo phong thì mới có thể kiến lập. Hôm nay đổi cách này, ngày mai đổi sang cách khác, đấy là mờ mịt chẳng có mục tiêu, mù lòa, thiếu tông chỉ, đạo lẫn học đều mất, rất đáng tiếc! Ví như học Thiền, lấy Lục Tổ Đàn Kinh làm chủ, cứ nghiên cứu mỗi lượt, mỗi ngày Chủ Nhật mọi người cùng nhau tịnh tọa, cũng có thể kiến lập đạo phong và học phong. Sợ nhất là hôm nay Trương Tam, bữa mai Lý Tứ, phiền phức lớn lắm, lãng phí tinh lực và thời gian quý báu, rốt cuộc chẳng thành tựu chuyện gì hết!
(Sớ) Thủ ngu giả, ngu nhi cam ngu.
(演) 守愚者,愚而甘愚。
(Sớ: “Thủ ngu” là ngu mà cam tâm chịu ngu).
“Cam” (甘) là cam tâm. Kẻ ấy đành lòng tình nguyện, chẳng muốn đột phá. Đấy cũng là như thường nói “có cảm giác tự ty”. Cảm giác tự ty quá nặng, mất lòng tin nơi chính mình. Ngày mai đại học Văn Hóa mời tôi diễn giảng, chủ đề là “thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”. Nếu chúng ta đánh mất niềm tin nơi chính mình, làm sao có thể độc tôn được? Nếu thật sự nói “thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn”, sẽ biến thành cuồng huệ, chẳng rớt vào cam tâm giữ phận ngu phu, liền biến thành cuồng huệ. Trong đề mục ấy, nhất định phải giảng định nghĩa chữ Ngã. Ngã là gì? Kinh Niết Bàn nói “bát tự tại Ngã”, tức là trong kinh giảng tám điều để định nghĩa chữ Ngã, nhất định phải hiểu rõ đạo lý này. Đó là Chân Ngã, không phải là Giả Ngã phân biệt, chấp trước. Phật pháp phá Ngã Chấp. Ngã Chấp đã phá rồi thì mới thật sự “thường, lạc, ngã, tịnh”. [Ngã nói ở đây] là Ngã trong “thường, lạc, ngã, tịnh”, ắt phải có lòng tin tràn trề vào chính mình thì mới có thể thành công.
(Sớ) Tiểu huệ giả, huệ nhi bất huệ.
(演) 小慧者,慧而不慧。
(Sớ: “Tiểu huệ” là có huệ, nhưng không phải là trí huệ).
Tức là nói: “Thông minh đâm ra bị thông minh làm cho lầm lạc”, thoạt nhìn, dường như rất thông minh, thật ra rất ngu si, vì sao? Tiếp theo đây, lời Sớ sẽ nói cho chúng ta biết.
(Sớ) Lương dĩ Sự y Lý khởi, Lý đắc Sự chương, Sự Lý giao tư, bất khả thiên phế.
(演) 良以事依理起,理得事彰,事理交資,不可偏廢。
(Sớ: Ấy là vì Sự nương theo Lý mà khởi, Lý nhờ Sự mà hiển lộ, Sự và Lý giúp đỡ lẫn nhau, chẳng thể bỏ phế một phía nào).
Lý và Sự chẳng thể bỏ phế một bên nào.
(Diễn) Sự y Lý khởi giả, Sự bất tự Sự, nhân Lý nhi Sự.
(演) 事依理起者,事不自事,因理而事。
(Diễn: “Sự nương vào Lý khởi”: Sự chẳng thể tự có Sự được, do Lý mà có Sự).
Đây là nói Sự chẳng thể tồn tại độc lập, phàm có Sự, ắt có Lý, quyết chẳng thể không có Lý mà sự tướng xuất hiện. Nói theo Tịnh Độ thì:
(Diễn) Nhân tự tánh Di Đà, cố khuyến nhân niệm Di Đà.
(演) 因自性彌陀,故勸人念彌陀。
(Diễn: Do tự tánh Di Đà nên khuyên người ta niệm Di Đà).
Niệm câu A Di Đà Phật là có đạo lý. Nói cách khác, chúng ta nhất định phải hiểu rõ: Nhờ vào danh hiệu của Tây Phương thế giới A Di Đà Phật, nhất định phải niệm cho ra A Di Đà Phật trong tự tánh, đó mới là công đức viên mãn. A Di Đà Phật trong tự tánh là gì? A Di Đà Phật là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Vô Lượng Giác. A Di Đà Phật trong tự tánh là tự tánh vô lượng giác, giác chứ không mê. Quý vị có thể đối với tự tánh giác mà niệm cho giác tánh của chính mình tỏ lộ, có cùng một cảnh giới “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật” như trong Thiền gia. Thiền dùng phương pháp tham cứu để đạt tới cảnh giới này, người niệm Phật dùng một câu A Di Đà Phật cũng có thể đạt tới cảnh giới này. [Câu này nhằm] giảng rõ vì sao chư Phật Như Lai khuyên chúng ta niệm A Di Đà Phật, nhất định phải hiểu ý nghĩa này.
(Diễn) Nhân duy tâm Tịnh Độ, cố khuyến nhân sanh Tịnh Độ.
(演) 因唯心淨土,故勸人生淨土。
(Diễn: Do duy tâm Tịnh Độ, nên khuyên con người sanh về Tịnh Độ).
Khuyên quý vị sanh về Tây Phương Tịnh Độ cũng có đạo lý. Cầu sanh về Tịnh Độ là Sự, “duy tâm Tịnh Độ” là Lý, vì Tây Phương Tịnh Độ do giác tánh của chính mình biến hiện, chẳng phải là pháp ở ngoài tâm. Ví như, tự tâm của chúng ta có thiện niệm, mà cũng có ác niệm. Thiện niệm thanh lương tự tại, ác niệm đủ mọi phiền não. Cầu sanh Tịnh Độ là bỏ vọng niệm, tăng trưởng thiện niệm, thân tâm chúng ta thoải mái dường ấy, cần gì phải tự tìm phiền não. Ý nghĩa là như vậy đó! Tận hư không trọn pháp giới đều chỉ do cái tâm của chính mình hiện ra, Uế Độ là duy tâm, Tịnh Độ vẫn là duy tâm. Đã cùng là duy tâm, vậy thì “tự tâm giữ lấy tự tâm”, hoàn toàn hợp lý, chẳng miễn cưỡng chút nào, mà còn chắc chắn thành tựu. Vì sao? Chẳng cầu nơi người khác! Pháp môn này cầu nơi chính mình, tự tâm cầu tự tâm, còn sợ gì chẳng thể vãng sanh? Do vậy, kẻ ngu cũng có thể vãng sanh. Cái ngu của kẻ ngu ấy chẳng trở ngại niệm Phật, chẳng trở ngại cầu sanh Tịnh Độ, chẳng chướng đạo! Đây là nói rõ Sự phải nương vào Lý để khởi.
(Diễn) Lý đắc Sự chương giả.
(演) 理得事彰者。
(Diễn: “Lý nhờ Sự mà hiển lộ” là…)
Nếu Lý mà không có Sự, Lý ấy cũng không thể hiển lộ.
(Diễn) Lý bất tự chương, do Sự nãi chương.
(演) 理不自彰,由事乃彰。
(Diễn: Lý chẳng thể tự phô rõ, phải do Sự mới được phô bày).
“Lý bất tự chương”, “chương” (彰) có nghĩa là rõ ràng, rành rành. Lý chẳng thể hiển hiện được. Ví như Bố Thí Ba La Mật, Bố Thí là xả, là buông xuống. Chỉ nói xả, nói buông xuống thì chúng là danh từ trừu tượng; chúng ta dùng Sự, đem hết thảy tài vật, đem hết thảy những chuyện cần thiết, mong cầu của chính mình buông xuống, bỏ được, Lý ấy mới hiện rõ ra. Giống như hành động và cách làm của Bàng cư sĩ là tướng viên mãn của Bố Thí Ba La Mật. Quý vị nghĩ xem có đúng hay không? Nếu chúng ta có nhiều tiền của như thế, chẳng cần đến, hãy đem làm chuyện tốt, nhưng chuyện tốt chẳng bằng vô sự. Không cần tới chút tiền của ấy, bỏ đi; chuyện tốt cũng bỏ. Chuyện tốt cũng đều bỏ, đương nhiên chuyện xấu sẽ bỏ sạch sành sanh. Hết thảy thiện – ác, tốt – xấu đều bỏ hết. Đó là tướng viên mãn của Bố Thí Ba La Mật. Nay chúng ta bỏ chuyện xấu, chứ chuyện tốt vẫn chưa bỏ được, tức là còn chưa buông xuống được! Ngài thị hiện tướng như vậy là tướng Ba La Mật viên mãn. Điều này giảng rõ Lý mà không có Sự sẽ không có cách gì hiển lộ được. “Do Sự nãi chương” (Do Sự [nên Lý] mới được phô bày), chúng ta lại xem pháp môn Niệm Phật.
(Diễn) Nhân niệm Di Đà.
(演) 因念彌陀。
(Diễn: Do niệm Di Đà).
Quý vị niệm một câu Nam-mô A Di Đà Phật là Sự. Suốt ngày từ sáng đến tối niệm Phật, xâu chuỗi chẳng rời tay, Phật hiệu chẳng lìa miệng, niệm đến cuối cùng niệm ra tự tánh Di Đà, tức là niệm ra giác tánh, quả thật lục căn đối trước cảnh giới sáu trần bên ngoài là giác chứ không mê, đó là Lý.
(Diễn) Phương hiển tự tánh Di Đà.
(演) 方顯自性彌陀。
(Diễn: Mới hiển lộ tự tánh Di Đà).
Hiển lộ toàn bộ Lý Thể nơi tự tánh.
(Diễn) Nhân cầu Tịnh Độ.
(演) 因求淨土。
(Diễn: Do cầu Tịnh Độ).
Chúng ta cầu nguyện vãng sanh, đó là Sự.
(Diễn) Nãi ngộ duy tâm Tịnh Độ.
(演) 乃悟唯心淨土。
(Diễn: Bèn ngộ duy tâm Tịnh Độ).
Đây là Lý, Lý là gì? Chính là “kiến tánh”, tức là như nhà Thiền gọi là “minh tâm kiến tánh”, nhất định phải dựa vào Sự mới có thể hiển lộ. Cổ đại đức thường nói: “Lịch sự luyện tâm” (trải qua sự việc để rèn luyện cái tâm). Đó gọi là “tu hành”. “Lịch” (歷) là từng trải, chúng ta từ sáng đến tối, không biết đã gặp bao nhiêu người? Gặp bao nhiêu chuyện? Rèn luyện trong mối quan hệ giữa người với người, luyện tâm đấy! Tâm là gì? Tâm là Lý. Phải từ Sự để hiển lộ Lý, đó gọi là tu hành thật sự. Nếu gặp Sự liền mê hoặc, điên đảo thì chẳng gọi là tu hành. Tu hành tuyệt đối chẳng phải là niệm suông một câu Phật hiệu! Suốt ngày từ sáng đến tối niệm Phật, lễ Phật, mà chẳng liên quan gì với cuộc sống của chúng ta, chẳng ăn khớp với cuộc sống của chúng ta, chẳng gọi là tu hành.
Phật pháp là cuộc sống, chẳng trật khớp với cuộc sống của chúng ta. Chẳng những sau khi kiến tánh không trật khớp, mà trước khi kiến tánh cũng chẳng trật khớp. Học một phần, liền có một phần thụ dụng, học hai phần, bèn có hai phần thụ dụng. Học sống động, vận dụng sống động, chẳng phải là học chết cứng. Những kẻ học chết cứng, ăn không tiêu, chính là hạng “thủ ngu” như đang được nói ở đây, họ chẳng hiểu nghĩa chân thật của Như Lai.
Ở đây nói là “chúng sanh bất thể Phật ý”, tức là chẳng thấu hiểu ý Phật. Nhất định phải học sống động, vận dụng sống động thì mới gọi là “tu hành thật sự”, chính quý vị phải thụ dụng được! Cảnh giới của chính mình nhất định phải mỗi ngày một nâng cao, phiền não mỗi ngày một giảm nhẹ, trí huệ mỗi ngày một tăng trưởng, tín tâm và nguyện lực của quý vị ngày càng mạnh, hiện tượng ấy mới là thật sự đạt được thụ dụng trong Phật pháp. Nói tới chỗ này, những câu tiếp theo đây chẳng khó hiểu cho lắm.
(Diễn) Do thị tâm thị Phật, phương nãi thị tâm tác Phật.
(演) 由是心是佛,方乃是心作佛。
(Diễn: Do tâm này là Phật, nên tâm này mới làm Phật).
“Tâm” là Lý, “Phật” là sự tướng. Vì “tâm này là Phật”, nên đến cuối cùng “tâm này làm Phật”, thành Phật.
(Diễn) Nhân thị tâm tác Phật, phương hiển tự tâm thị Phật.
(演) 因是心作佛,方顯自心是佛。
(Diễn: Do tâm này làm Phật, nên mới thấy rõ tự tâm là Phật).
Lý và Sự giúp nhau thành tựu, làm nhân duyên cho nhau. Đạt đến cảnh giới này, Lý và Sự là một, không hai, hoàn toàn viên dung, như nước và sữa hòa lẫn thành một Thể. Trong lời Sớ, Liên Trì đại sư nói là “Lý Sự giao tư”, “tư” (資) là giúp đỡ, Sự giúp cho Lý hiển, Lý giúp cho Sự thành. Chúng làm nhân duyên cho nhau. Do điều này, Lý và Sự “bất khả thiên phế” (chẳng thể bỏ một bên nào), chúng ta nhất định phải nhớ kỹ điều này. Hiện thời, đối với chúng ta, Lý là gì? Lý là chúng ta nghiên cứu kinh. Từ kinh điển, chú giải, chúng ta nghiên cứu, thảo luận, hòng hiểu rõ những đạo lý ấy. Sự là gì? Sự là mỗi ngày từ sáng đến tối, trong mười hai thời chấp trì danh hiệu, đó là Sự. Hai đằng phải tiến hành đồng thời, quyết chẳng thể bỏ một bên nào. Nhất là như trong phần trên đã nói: Thâm nhập một môn. Khi chưa thành công, tuyệt đối chớ nên thay đổi pháp môn, tuyệt đối chớ nên đổi theo đường lối khác.
Đọc tụng Đại Thừa, kinh Di Đà là Đại Thừa, đặc biệt là Di Đà Sớ Sao, kinh Di Đà là một quyển kinh văn mỏng tanh như vậy, chúng ta niệm đã quá nhiều, niệm chán ra rồi, chẳng còn thích thú gì hết! Sớ Sao hay lắm! Sớ Sao gần như đã trích lục tinh hoa của Đại Tạng Kinh. Đọc Sớ Sao là đọc tinh hoa của hết thảy các kinh, mà tinh hoa của hết thảy các kinh chỉ nhằm sáng tỏ đạo lý trong kinh Di Đà. Do vậy, đọc tụng Di Đà Sớ Sao là đọc tụng Đại Thừa, vì người khác diễn nói cũng là chuyên môn diễn nói pháp môn này. Lý Sự viên dung, Lý Sự viên tu, đó gọi là “khéo học”.
(Sớ) Trước thử chấp bỉ, quyết tệ đẳng nhĩ.
(演) 著此執彼,厥弊等耳。
(Sớ: Chấp bên này hay chấp bên kia, mắc lỗi như nhau).
Hai lỗi này giống nhau, kẻ ngu chấp Sự phế Lý, kẻ tiểu huệ chấp Lý phế Sự, [hai hạng người này] đều chẳng thể đắc nhất tâm, đều chẳng thể đạt đến công phu thành phiến. Nói cách khác, đều chẳng thể vãng sanh. Vì sao? Không có thành tựu, hai căn bệnh này cùng lầm lạc như nhau.
(Sớ) Đồng mông dụ toàn ngu.
(演) 童蒙喻全愚。
(Sớ: Kẻ hoàn toàn ngu mê ví như trẻ nhỏ).
“Đồng mông” là trẻ nhỏ, chúng chấp Sự mê Lý. Ví như xưa kia, trẻ nhỏ lớp Tiểu Học đọc sách cổ không hiểu. Chỉ là đọc, học thuộc lòng. Dạy trẻ nhỏ chú trọng học thuộc, chẳng giảng giải. Vì sao không giảng giải? Trí huệ của chúng chưa mở mang, có giảng cho chúng nó, chúng nó cũng không hiểu, chỉ dạy chúng nó học thuộc. Có tốt hay không? Tốt đẹp rất lớn. Tuy trẻ nhỏ trí huệ chưa mở mang, nhưng trí nhớ tốt, phàm những thứ gì cần nhớ, lúc ấy đều dạy cho chúng nhớ, đến mười hai, mười ba tuổi mới dần dần hiểu sự việc, trí huệ mở mang thì mới nghe giảng.
Tại Trung Quốc, trong quá khứ, dạy học được chia thành hai giai đoạn: Tiểu Học chú trọng đọc tụng, đọc thuộc lòng; Thái Học tương đương với Đại Học hiện thời, chú trọng giảng giải, nghiên cứu, thảo luận. Do vậy, khi dạy trẻ trong độ tuổi Tiểu Học, học sinh rất khổ, nhưng đến lúc học Thái Học, rất vui, đọc sách vui vẻ, hết sức tự tại. Vì sao? Tất cả những kinh sách cần nghiên cứu thảo luận đã hoàn toàn học thuộc rồi. Do vậy, vào học không cần mang theo sách, giảng đến trang mấy, dòng thứ mấy, chữ nào cũng đều biết cả. Thầy cũng thuộc lòng, trò cũng thuộc lòng.
Do vậy, không cần dạy học trong lớp học. Cổ nhân dạy học, quá nửa dẫn học trò du sơn ngoạn thủy, vừa đi vừa giảng, tự tại lắm! Con người hiện tại không có phước khí ấy, vì sao? Con người hiện thời không học thuộc sách, cho nên vào Đại Học vẫn phải mang theo một cái cặp to, học hành không vui sướng gì! Trước kia, đi học là sung sướng, khổ thì chỉ khổ vài năm, trẻ nhỏ chịu khổ một tí, nó cũng chẳng cảm thấy khổ lắm. Do vậy, dạy trẻ nhỏ là…
(Sớ) Hôn trĩ vị khai, cẩn năng độc văn, liễu bất giải nghĩa.
(演) 昏稚未開,僅能讀文,了不解義。
(Sớ: Tối tăm, non nớt, đầu óc chưa mở mang, chỉ có thể đọc văn từ, trọn chẳng hiểu nghĩa).
Trước kia, trẻ nhỏ bảy tuổi đi học, đại khái [từ bảy tuổi] đến khoảng mười tuổi thuộc giai đoạn “đồng mông”. Quý vị đọc sách Ngũ Chủng Di Quy sẽ hiểu rõ đại lược tình huống dạy dỗ trẻ nhỏ vào thời cổ ở Trung Quốc; quý vị sẽ hiểu rõ phương thức của họ quả thật khá cao minh. Cái được chúng ta gọi là “phương pháp giáo dục khoa học” hiện thời quả thật chẳng thể sánh bằng phương thức áp dụng trong thời ấy. Phương pháp giáo dục thời ấy quả thật có ưu điểm, phối hợp với ý nghĩa của kinh để nói thì…
(Sớ) Sở vị chung nhật niệm Phật, bất tri Phật niệm giả dã.
(演) 所謂終日念佛,不知佛念者也。
(Sớ: Đó gọi là “suốt ngày niệm Phật, mà chẳng biết vị Phật mà ta niệm là gì”).
Đây là tỷ dụ những kẻ không hiểu giáo lý, mỗi ngày từ sáng đến tối niệm A Di Đà Phật, một ngày niệm mấy ngàn câu, mấy vạn câu. Trong mỗi niệm, cầu A Di Đà Phật đến tiếp dẫn người ấy vãng sanh vào lúc lâm chung, có được vãng sanh hay không? Được chứ! Đới nghiệp vãng sanh, phẩm vị không cao, vì sao? Chưa mở mang trí huệ, không niệm ra được Phật Di Đà trong tự tánh. Niệm ra được tự tánh Di Đà, sẽ là Thượng Phẩm Thượng Sanh, thuộc về Lý nhất tâm bất loạn. Chẳng hiểu Lý, tối đa là niệm đến mức công phu thành phiến. Do vậy, nhất định phải hiểu Lý.
Đủ thấy đối với pháp môn Niệm Phật này, kinh Di Đà chẳng thể không giảng, chẳng thể không nghiên cứu. Nếu nói người niệm Phật chỉ niệm một câu Di Đà, thật thà niệm Phật là tốt rồi, chẳng cần phải nghiên cứu kinh, vậy thì vì sao Liên Trì đại sư chú giải tỉ mỉ dường ấy? Vì sao Ngẫu Ích đại sư phải viết Yếu Giải? Đều nhằm giảng giải cho quý vị! Đặc biệt là Sớ Sao, mênh mông, lớn lao, tinh vi, sâu xa, chỉ sợ quý vị không hiểu rõ, hoặc chỉ sợ quý vị tuy hiểu nhưng chưa thấu triệt. Đủ thấy người niệm Phật phải hiểu Lý, phải triệt để hiểu rõ đạo lý này thì một câu niệm Phật của chúng ta mới đắc lực. Nói “đắc lực” là niệm ra được vị Phật Di Đà trong tự tánh.
(Sớ) Bần sĩ dụ tiểu huệ.
(演) 貧士喻小慧。
(Sớ: Kẻ nghèo ví như hạng tiểu huệ).
Đây là nói tới kẻ chấp Lý bỏ Sự. Những hạng chấp Lý mê muội Sự được ví như hạng tiểu huệ. Ở đây có một đoạn công án, tức là một câu chuyện nhỏ.
(Sớ) Tích hữu quẫn nhân.
(演) 昔有窘人。
(Sớ: Xưa kia có kẻ cùng quẫn).
[“Quẫn nhân”] tức là người nghèo cùng, khốn khổ, gặp cảnh khó khăn.
(Sớ) Lộ hoạch di khoán.
(演) 路獲遺券。
(Sớ: Trên đường nhặt được tờ bằng khoán đánh rơi).
Trên đường nhặt được tờ khế ước, tức giấy chứng nhận quyền sở hữu.
(Sớ) Kiến kỳ sở tải điền, viên, cung thất, kim, bạch, mễ, túc, chủng chủng số mục, đại hỷ quá vọng, tự vân cự phú, bất tri sổ tha nhân bảo, ư kỷ hà thiệp?
(演) 見其所載田園宮室,金帛米粟,種種數目,大喜
過望。自云巨富,不知數他人寶,於己何涉。
(Sớ: Thấy trong tờ bằng khoán ấy chép số lượng và danh mục các thứ ruộng, vườn, nhà cửa, phòng ốc, vàng, lụa, gạo, thóc, mừng rỡ quá sức mong đợi, tự bảo “giàu to”, chẳng biết là đang đếm những món quý báu của người khác, chẳng dính dáng gì tới mình).
Chính mình nghèo khôn xiết kể, trên đường nhặt được chứng từ ghi quyền sở hữu của người khác, trên ấy liệt kê đủ thứ số lượng các món tài sản, vàng, bạc, món báu, người ấy tự cho rằng ta đã phát tài. Thật ra, những món ấy của người khác, có liên quan gì tới mình đâu? Tự mình chẳng tu sẽ chẳng đạt được. Ngàn vạn phần đừng nghe kinh dạy: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”, [bèn nghĩ] Tây Phương Cực Lạc thế giới do tự tánh của chính mình biến hiện, ta còn phải tu gì nữa? Tây Phương Cực Lạc thế giới là của ta! [Có ý nghĩ ấy, tức là] chẳng khác gì kẻ cuồng, hiểu lầm mất rồi! Tuy do Tánh Đức hiển lộ, không sai, nói về mặt Lý thì chắc chắn thông suốt, nhưng [trên mặt Sự, nếu] không có Tu Đức, chính mình sẽ chẳng thể thụ dụng bất cứ một thứ gì do Tánh Đức hiển lộ được. Đủ thấy: Chẳng thể phế Sự, nhất định phải biết Sự tu (tu hành nơi mặt Sự).
Sự tu thì phải tu hành thật sự. Quý vị phải đặc biệt hiểu rõ ý nghĩa được bao hàm trong hai chữ “tu hành”. Hành (行) là hành vi, thân thể chúng ta tạo tác, lời lẽ phát ra từ miệng, ý niệm trong ý đều là hành vi; sửa đổi cho đúng những hành vi sai lầm thì gọi là “tu hành”. Ví như Lục Ba La Mật của Bồ Tát là sáu cương lãnh lớn trong tu hành. Vì chúng ta có tâm tham, nên đức Phật dạy chúng ta tu bố thí, tu xả, xả gì vậy? Xả tâm tham! Vì chúng ta thường tạo ác nghiệp, nên đức Phật dạy chúng ta trì giới; trì giới là uốn nắn, sửa đổi ác nghiệp, đổi ác hướng lành. Ta có nóng giận, đức Phật dạy chúng ta tu nhẫn nhục, dùng nhẫn nhục để sửa lỗi nóng giận, cho đến dùng Bát Nhã để sửa đổi sự ngu si của chúng ta. Do đây biết: Sáu căn bệnh ấy chính là những hành vi sai lầm, đức Phật dùng phương pháp Lục Độ để sửa đổi hành vi sai lầm, đó gọi là “tu hành”. Đủ thấy: Tu hành quả thật là trải qua sự việc để rèn luyện cái tâm trong hết thảy hoàn cảnh nhân sự (quan hệ giữa con người với nhau), quyết chẳng phải là nói tôi mỗi ngày niệm Phật bao nhiêu câu, mỗi ngày lễ Phật bao nhiêu lạy, mỗi ngày ngồi tịnh tọa mấy tiếng. Trong tâm tham – sân – si vẫn chưa đoạn, chẳng gọi là “tu hành”. Vì sao? Những căn bệnh, những hành vi sai lầm ấy trọn chưa thể uốn nắn, sửa sai cho đúng.
(Diễn) Sổ tha bảo giả, Hoa Nghiêm vân: “Như nhân sổ tha bảo, tự vô bán tiền phân”.
(演) 數他寶者。華嚴云:如人數他寶,自無半錢分。
(Diễn: “Đếm món báu của người khác”: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Như người đếm món báu của người khác, chính mình chẳng có nửa đồng”). Mang ý nghĩa này.
(Sớ) Sở vị: Tuy tri “tức Phật tức tâm”, phán nhiên tâm bất thị Phật giả dã.
(演) 所謂雖知即佛即心,判然心不是佛者也。
(Sớ: Ý nói: Tuy biết “Phật chính là tâm, tâm chính là Phật”, nhưng rành rành tâm chưa phải là Phật vậy).
Nói theo Lý thì không sai, “tâm này chính là Phật, Phật chính là tâm”, Quán Kinh dạy: “Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật” (tâm này là Phật, tâm này làm Phật), đó là Lý. Chúng ta nay đang như thế nào? Tâm chẳng phải là Phật, Phật chẳng phải là tâm.
(Diễn) Phán nhiên tâm bất thị Phật giả, thị khẩu khẩu đàm không, bộ bộ hành hữu, khiết đắc nhục dĩ bão, lai tầm tăng thuyết Thiền giả.
(演) 判然心不是佛者,是口口談空,步步行有,喫得
肉已飽,來尋僧說禪者。
(Diễn: “Rành rành tâm chẳng phải là Phật”: Tức là miệng luôn nói là Không, nhưng bước nào cũng là Có. Ăn thịt no kềnh, đến tìm Tăng nói chuyện Thiền).
Câu này có nghĩa là gì? Miệng đúng, tâm sai! Tâm và miệng chẳng thể hợp nhất, Lý và Sự chẳng thể viên dung. Rượu thịt ăn no kềnh, tìm pháp sư bàn Thiền, có phải là nực cười hay chăng? Đấy là tâm chẳng phải là Phật, Phật chẳng phải là tâm; lời nói và việc làm của chính kẻ đó hoàn toàn khác nhau. Tiếp theo đây là lời tổng kết:
(Sớ) Thị cố, ước Lý, tắc vô khả niệm, ước Sự, tắc vô khả niệm trung ngô cố niệm chi. Dĩ niệm tức vô niệm cố, Lý Sự song tu, tức Bổn Trí nhi cầu Phật Trí, phù nhiên hậu vị chi Đại Trí dã.
(演) 是故約理則無可念,約事則無可念中吾固念之。
以念即無念故,理事雙修,即本智而求佛智,夫然後謂之大智也。
(Sớ: Vì thế, ước theo mặt Lý thì không có gì để có thể niệm, ước theo Sự thì trong cái không có gì để có thể niệm, ta cứ kiên cố niệm. Do niệm chính là vô niệm nên Lý và Sự cùng tu, do từ Bổn Trí mà cầu Phật Trí nên sau đấy mới gọi là Đại Trí vậy).
Mấy câu này rất khẩn yếu, ý nghĩa rất sâu.
(Diễn) Thị cố hạ thân chánh nghĩa, ước Lý tắc vô khả niệm giả.
(演) 是故下伸正義。約理則無可念者。
(Diễn: Từ chữ “vì thế” trở đi nhằm trình bày ý nghĩa chính xác:
“Ước theo Lý thì không có gì để có thể niệm” là…)
Mấy câu từ chữ “thị cố” [trong lời Sớ vừa dẫn trên đây] trở đi, trình bày ý nghĩa chính xác [về Lý và Sự của niệm Phật]. Nếu nói theo Lý, “vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần”, không có Phật mà cũng không có chúng sanh. Nói theo Lý thì không có gì để niệm!
(Diễn) Dĩ Thật Tướng Lý trung, tuyệt tư, tuyệt nghị.
(演) 以實相理中絕思絕議。
(Diễn: Vì trong Lý Thật Tướng, dứt bặt nghĩ bàn).
Thật Tướng là Lý nhất tâm bất loạn. Lý nhất tâm bất loạn chẳng thể nghĩ bàn!
(Diễn) Cử tâm tức thác, động niệm tức quai cố.
(演) 舉心即錯,動念即乖故。
(Diễn: Vì dấy tâm liền trật, khởi niệm liền sai).
Chẳng thể dấy lên ý niệm, khởi ý niệm bèn trật. Khởi ý niệm bèn trật, còn có gì để có thể nói được nữa? Đó gọi là “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”, đây là ước theo Lý để nói. Nếu ước theo Sự để nói, trong vô niệm có thể hữu niệm, Lý chẳng ngại Sự, Sự chẳng ngại Lý.
(Diễn) Niệm tức vô niệm giả, dĩ tức Sự tức Lý, tức niệm vô niệm.
(演) 念即無念者,以即事即理,即念無念。
(Diễn: “Niệm chính là vô niệm”: Do Sự chính là Lý, Lý chính là Sự, nên niệm là vô niệm).
“Niệm” là Sự, “vô niệm” là Lý. Lý chính là Sự, Sự chính là Lý; do vậy, niệm là vô niệm, vô niệm là niệm.
(Diễn) Xả niệm nhi cầu vô niệm, thị do bát ba cầu thủy, diệt khí cầu kim, thị Đoạn Diệt Kiến, khoát đạt không, phi vô niệm bổn thể dã.
(演) 捨念而求無念,是猶撥波求水,滅器求金,是斷滅見,豁達空,非無念本體也。
(Diễn: Bỏ niệm để cầu vô niệm, khác nào gạt bỏ sóng để cầu nước, diệt các món đồ để tìm vàng, đó là kiến giải Đoạn Diệt, là rỗng không, chẳng phải là bổn thể của vô niệm).
Quý vị phải nhớ kỹ mấy câu này vì chúng ta rất dễ phạm lỗi to lớn. Chúng ta thường tách rời hữu niệm và vô niệm thành hai thứ, [ngỡ hữu niệm và vô niệm] hoàn toàn chẳng tương đồng, đâu biết Hữu và Vô là một, không hai. Chúng ta hằng ngày niệm Tâm Kinh, nhưng mấy ai có thể hiểu được ý nghĩa trong ấy? Tâm Kinh có nói mấy câu: “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc”. Sắc và Không, Sắc là có, Không là không, Có và Không là một, chẳng hai. Không là nói về Lý, Sắc là nói về Sự, Sự và Lý là một, không hai! Do vậy, Lý và Sự đều chẳng thể phế. Vì sao không thể? Lý chính là Sự, Sự chính là Lý.
Vừa nghe nói “niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”, bèn nghĩ không niệm vẫn là niệm, ta khỏi cần niệm nữa! Há chẳng phải là lầm lẫn ư? Nghĩ như vậy là gì? “Đoạn Diệt Kiến, khoát đạt không”, chẳng phải là vô niệm như đức Phật đã nói, quý vị đã hiểu lầm ý Phật rồi! Đức Phật nói vô niệm là nói tới Thể; niệm và vô niệm là một, không hai. Đấy mới là vô niệm thật sự. Vì thế mới nói “Lý Sự song tu”.
(Diễn) Tức Bổn Trí nhi cầu Phật Trí giả, Bổn Trí tức bổn hữu chi trí, bất nhân tu đắc, bất do học thành. Bổn tự cụ túc giả, sở vị Bổn Giác thị dã.
(演) 即本智而求佛智者,本智即本有之智,不因修得
,不由學成。本自具足者,所謂本覺是也。
(Diễn: “Từ ngay Bổn Trí mà cầu Phật Trí”: Bổn Trí là trí vốn sẵn có, chẳng do tu mà được, chẳng do học mà thành. Vốn tự đầy đủ, cái được gọi là Bổn Giác chính là nó đấy).
Bổn Trí là trí huệ sẵn có, là Bổn Giác như Mã Minh Bồ Tát đã nói trong Khởi Tín Luận: “Bổn Giác vốn có, bất giác vốn không”. Vì vậy, trí vốn có thì ai mà chẳng có? Ai nấy đều có! “Bất nhân tu đắc, bất do học thành” (chẳng do tu mà được, chẳng do học mà thành), quý vị vốn có sẵn, trong bổn tánh vốn sẵn đầy đủ [Bổn Trí], chẳng cần phải học để đạt được.
Dùng Bổn Trí cầu Phật Trí. Khởi Tín Luận gọi Phật Trí là Thỉ Giác, gọi Bổn Trí là Bổn Giác.
(Diễn) Phật Trí do đoạn Hoặc nhi hiển, tu chứng nhi thành, xuất triền phương đắc, sở vị Thỉ Giác thị dã. Bổn Trí ước Lý cụ, Phật Trí ước Sự tạo dã.
(演) 佛智由斷惑而顯,修證而成,出纏方得,所謂始覺是也。本智約理具,佛智約事造也。
(Diễn: Phật Trí là do đoạn phiền não mà hiển lộ, do tu chứng mà thành, thoát khỏi trói buộc thì mới đạt được. Cái được gọi là Thỉ Giác chính là nó đấy. Bổn Trí ước theo mặt Lý thì sẵn có, Phật Trí ước theo mặt Sự thì nó do [tu tập] mà thành).
Về mặt Lý, Bổn Trí sẵn trọn đủ, nó là Lý. Phật Trí là “sự tạo” (tạo tác trên mặt Sự), [tức là] do tu mà thành. Không có Tu Đức, Tánh Đức chẳng thể hiện tiền. Không có Tánh Đức, Tu Đức cũng chẳng thể thành tựu. Đủ thấy mối quan hệ mật thiết giữa Lý và Sự! Nói thật ra, chúng là một Thể. Do điều này, người thật sự là bậc đại trí huệ, chắc chắn chẳng phế Lý, phế Sự. Chúng ta đọc kinh Lăng Nghiêm thấy Đại Thế Chí Bồ Tát tu pháp môn Niệm Phật, “đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế” (nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối). Nhiếp trọn sáu căn là Lý, tịnh niệm tiếp nối là Sự. Một câu A Di Đà Phật từng tiếng liên tục, trong mười hai thời chẳng gián đoạn, đấy là gương sáng niệm Phật, có Sự lẫn Lý. Đẳng Giác Bồ Tát còn như thế, huống hồ chúng ta là kẻ mới học! Hy vọng các đồng tu phải khéo gắng hết sức mình. Hôm nay chúng tôi giảng đến đây!
— o0o —
Tập 34
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn mươi hai:
Di Đà Sớ Sao là một bộ kinh lớn, tuy kinh văn không dài, nhưng Liên Trì đại sư đem tâm đắc tu học suốt một đời nêu tỏ trong bản kinh này. Không chỉ như vậy, từ nội dung của Sớ Sao chúng ta thấy: Trên thực tế, lão nhân gia đã quán nhiếp hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian trong bộ kinh điển này. Do vậy, Ngẫu Ích đại sư tán thán bộ sách này là “bác đại tinh thâm” (mênh mông, to lớn, tinh vi, sâu xa) chẳng quá lố một tí nào!
Không chỉ trong thời đại hiện tại, nói thật ra, Phật pháp kể từ thời đại Thích Ca Mâu Ni Phật khai sáng, đức Phật dạy chúng ta điều gì? Tuy nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, nhưng thật ra, chỉ là bất đắc dĩ mà nói, phương tiện thiện xảo mà nói, chứ nói chân thật thì chỉ có một môn là pháp môn Niệm Phật! Kinh Hoa Nghiêm nói: “Duy hữu Nhất Thừa pháp, vô nhị, diệc vô tam” (Chỉ có pháp Nhất Thừa, không hai, cũng không ba)[8]. Nhất Thừa là gì? Thật thà niệm Phật là pháp Nhất Thừa. Cũng có những vị đồng tu nghe rồi chẳng phục, cho là người niệm Phật chúng ta tự mình khoác lác, nhưng nếu quý vị tìm tòi kỹ càng, bất luận tại Trung Quốc hay ngoại quốc, trong thời cổ hoặc thời đại hiện tại, không có một ai chẳng tôn trọng kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm là căn bản pháp luân, là Nhất Thừa Viên Giáo, điều này được xưa nay, trong ngoài nước đều công nhận. Kinh Hoa Nghiêm giảng điều gì? Thưa quý vị, giảng về Niệm Phật. Niệm vị Phật nào? Niệm A Di Đà Phật. Nếu quý vị chẳng tin, cứ mở kinh Hoa Nghiêm ra xem, đến cuối cùng, kinh nói mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc, tức là dạy quý vị niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Đấy là pháp môn bí mật của Nhất Thừa Viên Giáo, nguyên lai là như vậy đó!
Lại xem kỹ càng nội dung bộ kinh ấy, Thiện Tài đồng tử nêu gương tu hành, từ pháp hội của Văn Thù Bồ Tát đặt vững cơ sở, cơ sở gì vậy? Tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh là tín tâm. Trong hội Hoa Nghiêm, ngài Văn Thù tượng trưng cho Tín. Kinh Hoa Nghiêm chia [các địa vị Bồ Tát] thành Thập Tín, Thập Hạnh, Thập Trụ, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, ngài Văn Thù tượng trưng cho Tín. Nói cách khác, chúng ta có thể tin tưởng pháp môn này tức là đã tốt nghiệp trong pháp hội của ngài Văn Thù. Đi ra tham học, vị thầy thứ nhất là tỳ-kheo Đức Vân, dạy Thiện Tài pháp môn Niệm Phật, vị thầy cuối cùng là Phổ Hiền Bồ Tát, chẳng những dạy Ngài niệm Phật, mà còn khuyên Ngài vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Từ chỗ này, chúng ta có thể thấu hiểu: Mở đầu và kết thúc đều là niệm Phật.
Nếu chúng ta hỏi: Thiện Tài đồng tử tham phỏng năm mươi mốt vị thiện tri thức[9], Ngài tu pháp môn gì? Nhất định phải biết rõ điều này, Ngài tu pháp môn niệm A Di Đà Phật. [Đã tu] pháp môn niệm A Di Đà Phật, vì sao vẫn phải tham phỏng năm mươi mốt vị thiện tri thức? Thật ra, năm mươi mốt vị thiện tri thức tượng trưng cho tám vạn bốn ngàn pháp môn, đại diện cho vô lượng pháp môn; nhằm bảo với chúng ta ý nghĩa này: Vô lượng vô biên pháp môn bày ra trước mặt quý vị, chính mình phải như thế nào? Rành mạch, phân minh, rõ ràng, rành rẽ, như như bất động, vẫn là một câu Di Đà niệm đến tột cùng, đấy là bí quyết của kinh Hoa Nghiêm, chúng ta nhất định phải nhận biết rõ ràng. Do vậy, pháp môn này là pháp môn bậc nhất, kinh này là kinh bậc nhất. Pháp hội tại nơi đây của mọi người chúng ta là pháp hội tối thù thắng bậc nhất, nhân duyên này quả thật chẳng dễ dàng, chúng ta phải nên quý tiếc!
Nói đến vãng sanh, gần đây nhất chúng tôi lại thấy một trường hợp. Chúng tôi ở Los Angeles một ngày, gặp được một vị đồng tu kể với tôi: Lão liên hữu ở Đài Trung Liên Xã là cư sĩ Sử Hoằng Hy đã vãng sanh. Ông ta biết trước lúc mất, không bệnh tật, qua đời, niệm Phật thành công. Do vậy, thầy Lý ở Đài Trung nghe tin này hết sức hoan hỷ. Vị lão cư sĩ ấy đã bảy mươi bảy tuổi, hôm trước ngày vãng sanh, cụ bảo vợ: “Tôi sắp vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới”. Bà vợ mắng ông chồng ăn nói lăng nhăng, vì cụ rất bình thường, chẳng bệnh tật gì! Đến ngày hôm sau cũng rất bình thường, sáng sớm vẫn ăn điểm tâm như thường lệ, buổi trưa nghe nói cụ còn ăn một chén bạch mộc nhĩ[10], mười một giờ rưỡi cụ mất, còn viết di chúc để lại. Quý vị thấy rất tự tại! Không bị bệnh, tôi tin tưởng Sử cư sĩ vãng sanh có ảnh hưởng không gì lớn bằng đối với Phật giáo Los Angeles. Người niệm Phật thù thắng như vậy, ra đi tự tại ngần ấy, tướng lành tốt đẹp ngần ấy, điều này giống như trong Cơ Đốc Giáo nói là “kiến chứng” (làm chứng, testimony). Cụ chứng minh cho chúng ta thấy, đời này chẳng để luống uổng!
Vì thế, niệm Phật nhất định phải hiểu lý luận, phải hiểu cảnh giới. Trong cuộc đời này của chúng ta, phải coi chuyện này là đại sự bậc nhất, những chuyện khác đều là chuyện nhỏ nhặt! Ăn no, mặc ấm là được rồi, nhất tâm nhất ý niệm Phật cầu sanh về thế giới Tây Phương. Không chỉ muốn sanh về thế giới Tây Phương, mà còn hy vọng phẩm vị cao hơn, như vậy mới là tốt đẹp! Nếu quý vị muốn đến Tây Phương Cực Lạc thế giới,thì bộ Di Đà Sớ Sao này là đường lối tốt nhất, Liên Trì đại sư hướng dẫn, khiến cho chúng ta trước hết sẽ thông hiểu rành rẽ cái cảnh giới Tây
Phương trước rồi sẽ hâm mộ, hướng về, nỗ lực tu học.
Xin xem lời tựa, đoạn thứ hai là Biệt Tán.
(Tự) Nhiên trước Sự nhi niệm năng tương kế, bất hư nhập phẩm chi công; chấp Lý nhi tâm thật vị minh, phản thọ lạc không chi họa.
(序) 然著事而念能相繼,不虛入品之功,執理而心實未明,反受落空之禍。
(Tựa: Nhưng chấp Sự mà có thể niệm liên tục, chẳng uổng công lao, được nhập phẩm vị, chấp Lý nhưng chưa thật sự minh tâm, đâm ra mắc họa chẳng đạt kết quả gì).
Niệm Phật có Sự niệm và Lý niệm. Tôi khuyên quý vị đừng học Lý niệm, hãy học Sự niệm, nhưng phải hiểu rõ Lý. Hiểu rõ Lý có chỗ tốt đẹp nào? Dễ phá chấp trước, phá Ngã Chấp thì mới có thể chứng Sự nhất tâm bất loạn, phá Pháp Chấp có thể chứng Lý nhất tâm bất loạn. Chẳng hiểu Lý, chẳng dễ gì phá trừ chấp trước! Do vậy, nhất định phải hiểu Lý. Sự niệm, dẫu chẳng thể đột phá hai thứ chấp trước, vẫn có thể niệm đến mức công phu thành phiến, đới nghiệp vãng sanh. Do vậy nói “bất hư nhập phẩm chi công”, “phẩm” (品) là phẩm vị, thấp nhất là Hạ Phẩm Hạ Sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, người ấy dự vào phẩm vị. Nói cách khác, “chấp Sự nhi niệm năng tương kế” (chấp vào Sự để niệm, nhưng niệm liên tục), người ấy quyết định vãng sanh.
Nếu quý vị “chấp Lý nhi tâm thật vị minh” (chấp Lý mà chưa thật sự minh tâm), chưa đạt đến minh tâm kiến tánh, sẽ chẳng có thành tựu bằng người Hạ Phẩm Hạ Sanh. Người ta Hạ Phẩm Hạ Sanh, còn quý vị chẳng đạt gì cả! Thật là đáng tiếc!
(Diễn) Tương kế, vị nhất tự nhất tự phân minh, nhất cú nhất cú tiếp tục.
(演) 相繼,謂一字一字分明,一句一句接續。
(Diễn: “Nối tiếp” là từng chữ phân minh, từng câu tiếp nối).
“Nhất tự nhất tự phân minh”: Chúng ta niệm sáu chữ Nam-mô A Di Đà Phật hay bốn chữ A Di Đà Phật, từng chữ rõ ràng. Cũng có những vị đồng tu hỏi tôi: Rốt cuộc chúng ta niệm bốn chữ hay là niệm sáu chữ? Bản chú giải này do Liên Trì đại sư trước tác. Trong Trúc Song Tùy Bút, Liên Trì đại sư có chép: Thuở ấy, có người hỏi Ngài: “Lão nhân gia dạy người ta niệm Phật như thế nào?” Ngài nói: “Tôi dạy người ta niệm sáu chữ Nam-mô A Di Đà Phật”. Người ta hỏi: “Còn chính lão nhân gia niệm thì sao?” Ngài đáp: “Tôi niệm A Di Đà Phật, chẳng thêm chữ Nam-mô”. Nam-mô là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là “cung kính, quy y”. Niệm Nam-mô A Di Đà Phật tức là “quy y A Di Đà Phật, cung kính A Di Đà Phật”. Do vậy, người ta hỏi: “Do nhân duyên gì vậy?” Lão nhân gia nói: “Bản thân tôi chẳng còn nghĩ đến luân hồi trong đời sau. Đời này quyết định phải vãng sanh. Do vậy niệm bốn chữ, gạt bỏ những lời lẽ khách sáo”. Kinh Di Đà nói về chấp trì danh hiệu, danh hiệu là bốn chữ, chấp trì danh hiệu là đúng. Vì sao khuyên người thêm vào chữ Nam-mô? Là vì người khác đối với thế giới Sa Bà vẫn còn lưu luyến, vẫn chưa mong vãng sanh. Do vậy, kết thiện duyên với A Di Đà Phật, thêm vào chữ Quy Y, thêm vào chữ tỏ vẻ cung kính.
Do đây có thể biết: Nếu chúng ta thật sự quyết tâm trong một đời này muốn cầu sanh về thế giới Tây Phương, chẳng muốn đời sau sanh trong nhân gian nữa, quý vị có thể học theo Liên Trì đại sư, niệm bốn chữ, chữ nào chữ nấy phân minh, câu nào câu nấy liên tục chẳng gián đoạn. Trong tâm chớ để gián đoạn câu Phật hiệu này, niệm niệm tiếp nối, đó gọi là công phu. Nếu gián đoạn, sẽ chẳng gọi là công phu. “Công phu” trong pháp môn này chẳng phải là thứ võ công của Thiếu Lâm Tự, mà là một câu Phật hiệu không gián đoạn, đó gọi là công phu. Cũng có người hỏi: “Chúng tôi phải làm việc, chúng tôi phải suy xét vấn đề, hoặc trong lúc nói năng, phải trả lời người khác, làm như thế nào đây?” Khi ấy, hãy buông Phật hiệu xuống, chuyên tâm làm việc. Làm xong việc, lập tức dấy lên Phật hiệu, như vậy là được!
Có thể thấy pháp môn này giống như kinh Hoa Nghiêm: Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Nói thì dễ dàng, thực hiện chẳng dễ dàng! Nếu quý vị không tin, hãy thử xem, sẽ thấy Phật hiệu có bị gián đoạn hay không? Nhất định bị gián đoạn. Hễ gián đoạn thì sao? Vọng niệm dấy lên ngay, khởi vọng tưởng liền. Có Phật hiệu thì chẳng có vọng tưởng; Phật hiệu vừa đoạn, vọng tưởng dấy lên ngay. Do vậy, ắt phải có người nhắc nhở, tức là như trước kia mọi người niệm Phật phải cộng tu, cộng tu là mọi người cùng dìu dắt lẫn nhau; do vậy mới có Niệm Phật Đường. Có thể đến Niệm Phật Đường niệm Phật là có phước báo lớn! Đời trước tu có phước, nên mới có cơ duyên đến Niệm Phật Đường. Hiện thời chúng ta không có Niệm Phật Đường, nói cách khác là thiếu phước báo; nhưng nói đi thì phải nói lại, mọi người không có phước báo, nhưng cá nhân quý vị còn có phước báo thì vấn đề là quý vị có biết hưởng phước hay không, quý vị có thể hưởng thụ phước báo ấy hay chăng?
Nói một người có phước báo là như thế nào? Ví như, chúng ta mỗi Chủ Nhật đều có hội niệm Phật, mọi người cùng nhau cộng tu. Khi chúng ta cộng tu, ở nơi này có thâu âm, thâu thành băng ghi âm. Cầm băng ghi âm ấy về nhà, mở ra nghe giống như chúng ta đang cộng tu với nhau. Nhất là hiện thời có máy thâu âm loại nhỏ, có thể mang theo bên mình, bỏ trong túi áo, gắn ống nghe (headset), trong mười hai thời chẳng gián đoạn. Máy thâu âm ấy còn tự động lật băng, tiện lợi lắm! Đấy chẳng phải là phước báo hay sao? Do vậy, mỗi cá nhân quý vị có phước, quý vị bỏ trong túi mang theo bên mình để nghe, gắn ống nghe vào tai, máy tự động xoay tua, một ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ Phật hiệu chẳng gián đoạn, quý vị có phước báo lớn lắm! Chẳng khác gì quý vị đang ở trong Niệm Phật Đường, lại còn chẳng trở ngại việc làm, chẳng mất thời gian. Đủ thấy con người hiện thời phải biết lợi dụng [khoa học kỹ thuật], quý vị có phước báo lớn hơn cổ nhân. Cổ nhân rời khỏi Niệm Phật Đường, Phật hiệu chẳng còn nữa. Hiện tại, rời khỏi Niệm Phật Đường, đi đường, vừa đi [vừa nghe] Phật hiệu không gián đoạn, thậm chí khi ngủ say, Phật hiệu cũng chẳng gián đoạn. Phước báo ấy lớn hơn cổ nhân rất nhiều! Quý vị phải biết sử dụng, phải biết lợi dụng! Nói cách khác, quý vị phải biết hưởng. Hiện tại, quý vị có phước báo, có biết hưởng hay không? Nếu chẳng biết hưởng, không có cách nào hết! Nếu quý vị biết hưởng, ai nấy đều có đại phước báo, ai nấy trong một đời này chắc chắn có thể vãng sanh; đấy là do quý vị có chịu hưởng phước ấy hay chăng? Đây là giảng rõ về “tịnh niệm tương kế”.
(Diễn) Bất hư nhập phẩm giả, vị đản năng niệm niệm tiếp tục, vô hữu gián đoạn, tắc dĩ năng phục vọng.
(演) 不虛入品者,謂但能念念接續,無有間斷,則已能伏妄。
(Diễn: “Chẳng luống công, được nhập phẩm vị”, ý nói: Chỉ có thể niệm niệm tiếp tục, chẳng gián đoạn là đã có thể khuất phục vọng).
Lời này là thật, chẳng giả tí nào. Trong tâm quý vị niệm niệm là A Di Đà Phật, tự nhiên chẳng có vọng niệm, không có vọng tưởng. Hễ Phật hiệu chẳng có thì gọi là “thất niệm”. Sau khi thất niệm, sẽ có hai hiện tượng: Một là tăng trưởng tà kiến, khởi vọng tưởng, tưởng Đông, nghĩ Tây. Một hiện tượng khác là tuy ý niệm gì cũng không có, nhưng tăng trưởng vô minh. Quý vị thấy đó: Nếu chẳng khởi tà kiến, sẽ dấy vô minh! Tà kiến và vô minh là căn bản sanh tử, là căn bản của lục đạo luân hồi. Làm sao để thoát khỏi luân hồi? Làm sao để khỏi sanh tử? Muốn vượt thoát luân hồi, đoạn sạch sanh tử, diệu pháp duy nhất là Phật hiệu liên tục, chẳng để nó bị gián đoạn giữa chừng, niệm niệm tiếp nối, cho nên có thể chế ngự vọng.
(Diễn) Đắc thiểu phần tịnh, khả thành mạt phẩm.
(演) 得少分淨,可成末品。
(Diễn: Được ít phần tịnh, có thể thành tựu phẩm cuối cùng).
“Tịnh” là tâm thanh tịnh. Tuy tâm ấy chưa đạt đến thanh tịnh thật sự, nhưng trong khi tâm quý vị có Phật hiệu thì nó là thanh tịnh. Phật hiệu chẳng gián đoạn một phút thì quý vị được thanh tịnh trong một phút. Một giờ chẳng gián đoạn, quý vị được thanh tịnh một giờ. Một ngày chẳng gián đoạn, quý vị được thanh tịnh một ngày, phải nỗ lực! Đó gọi là “tu Tịnh nghiệp”. Do vậy, có chút phần thanh tịnh sẽ “khả thành mạt phẩm” (có thể thành tựu phẩm cuối cùng). Mạt phẩm chính là Hạ Phẩm Hạ Sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Đây là nêu lên một thí dụ để nói. Nếu quý vị niệm Phật vãng sanh, tuyệt đối chẳng phải là Hạ Phẩm Hạ Sanh, địa vị thấp nhất của quý vị cũng cao hơn phẩm vị ấy nhiều lắm!
(Diễn) Hựu hoặc thử nhân, túc hữu linh căn, tức ư thử thời, đốn minh đế lý, tùy kỳ thiển thâm, hoặc trung, hoặc thượng, câu bất khả tri, cố viết “bất hư”.
(演) 又或此人夙有靈根,即於此時頓明諦理,隨其淺深,或中或上,俱不可知,故曰不虛。
(Diễn: Hoặc lại có người do đã có linh căn từ trước, ngay trong lúc ấy bèn nhanh chóng hiểu đế lý, tùy theo túc căn cạn hay sâu, mà vãng sanh bậc Trung hoặc bậc Thượng, đều không thể biết, nên nói là “chẳng luống uổng”).
Mấy câu này là nói bổ sung, ý nghĩa hết sức viên mãn. Người quả thật có túc căn thì trong một đời này, chúng ta phát tâm học Phật, hoặc là phát tâm chưa được mấy ngày, vừa mới học Phật, nghe ở đây được một tiếng rưỡi, nghe rồi cảm thấy rất hứng thú, nghe xong lại muốn nghe thêm, chứng tỏ quý vị học Phật chẳng phải chỉ trong một đời này, mà là đã trải nhiều đời nhiều kiếp học Phật. Chẳng những học Phật, mà còn tu pháp môn này. Đó gọi là quý vị có túc căn. Trong đời quá khứ đã tu học, vì sao chẳng thể vãng sanh? Tôi vừa mới nói đó thôi! Công phu của quý vị bị gián đoạn, không thể liên tục. Nói cách khác, một ngày trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, lúc tâm thanh tịnh thì ít, lúc tâm khởi vọng tưởng thì nhiều, lúc hôn trầm thì nhiều. Do vậy, quý vị chẳng thể thành tựu!
Điều kiện duy nhất để vãng sanh thế giới Tây Phương là giữ được cái tâm thanh tịnh. Tâm tịnh thì cõi nước tịnh; trong hai mươi bốn giờ, tâm thanh tịnh phải hơn mười hai tiếng. Nếu tâm thanh tịnh mười hai tiếng, chẳng thanh tịnh mười hai tiếng, cơ hội vãng sanh của quý vị là năm mươi trên năm mươi, không đảm bảo! Nếu mỗi ngày chỉ có hai ba tiếng đồng hồ thanh tịnh, còn hai mươi mốt, hai mươi hai tiếng chẳng thanh tịnh mà mong được vãng sanh thì trong đời này không có cách gì hết, quý vị đi thi chẳng đậu! Chúng ta đời đời kiếp kiếp đều niệm Phật, nhưng thi trượt là do chưa đạt đến sáu mươi điểm! Vì thế, trong đời này gặp gỡ, lại tiếp tục tu tập, hy vọng đời này thi đậu. Cũng có thể là do trong đời quá khứ nhân duyên chẳng đủ, chưa phát minh ra [máy niệm Phật] có thể mang theo bên mình; đời này đã có cơ hội, mọi người hãy khéo lợi dụng nó. Vì thế, tôi khuyên các đồng tu, những món tiền [chi tiêu] khác có thể giảm bớt, nhưng tiền để mua [máy Niệm Phật hay máy thâu âm] mang theo thân để nghe nhất định chẳng thể bớt. Chúng là thiện tri thức của chúng ta, trợ niệm, nhắc nhở chúng ta [nhớ tới Phật hiệu]. Nếu người nhà chẳng phản đối, trong nhà quý vị mở băng niệm Phật cho mọi người nghe. Nếu người nhà phản đối thì một mình quý vị nghe, đừng làm trở ngại người khác.
“Túc căn” cũng có sâu hay cạn khác nhau! Có người túc căn sâu dầy, vừa tiếp xúc liền “đốn minh đế lý” (nhanh chóng hiểu lý chân thật), “đốn” (頓) là trong khoảng sát-na, “minh” (明) là hiểu rõ, “đế lý” (諦理) là chân lý. Nói theo thuật ngữ Phật pháp, đế lý là Chân Đế Khổ – Tập – Diệt – Đạo, quý vị giác ngộ liền! Sự giác ngộ đầu tiên là thế gian khổ, thật sự khổ! Đời người trăm tuổi, cũng là trong khoảng khảy ngón tay đã qua. Đối với chuyện này, các đồng tu trẻ tuổi còn chưa cảm nhận được, chứ những người từ năm mươi tuổi trở lên đối với chuyện này khá mẫn cảm, vì sao mẫn cảm? Vô thường! Các đồng tu trẻ tuổi cũng chớ nên đắc ý, vì sao? Trên nẻo suối vàng không phân biệt già hay trẻ! Quý vị đến nhà đòn (tang nghi quán[11], nhà quàn, funeral home), ra nghĩa trang mà xem, bao nhiêu kẻ tuổi trẻ! Mười mấy tuổi, hai mươi tuổi đã chết, rất nhiều! Mạng người vô thường, sanh tử là chuyện lớn. Nếu chẳng thể giải quyết vấn đề này, chúng ta không cần bàn tới nữa! Đã có thể giải quyết, có thể vượt thoát, cớ sao chúng ta không làm? Hiểu rõ nhân quả thế gian rồi, Nhị Đế xuất thế gian tức Diệt Đế và Đạo Đế (nhân quả xuất thế gian) cũng hiểu rõ, có thể đốn ngộ. Đốn ngộ là một chuyện, thù thắng nhất là đốn chứng. Ngộ có hai thứ: Giải ngộ và chứng ngộ. Nếu đốn chứng thì kinh gọi là Lý nhất tâm bất loạn, đắc Thượng Phẩm Thượng Sanh. Nếu là giải ngộ, sẽ là Trung Phẩm, chứ không phải Thượng Phẩm.
“Hoặc Trung, hoặc Thượng”: Thế giới Tây Phương có bốn cõi, trong mỗi một cõi có ba bậc chín phẩm, [chín phẩm] nhân với bốn [cõi] thành ba mươi sáu; phân chia đại lược thành ba mươi sáu đẳng cấp. Quý vị vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới trong bất cứ đẳng cấp nào thì cũng tùy thuộc vào nỗ lực của chính mình, quyết định có thể thành tựu. Do vậy nói “bất hư” (chẳng luống uổng), chắc chắn có thể thành tựu. Hãy nhớ: Phải từng chữ phân minh, niệm niệm tiếp nối.
Đoạn tiếp theo giảng về Lý. Chấp Lý là chuyện đáng sợ nhất, vì nó là hiểu lầm.
(Diễn) “Minh” vị ư tự bổn tâm hốt nhiên khế hợp, tức sở vị: “Nhất phát, nhất thiết phát” dã.
(演) 明謂於自本心忽然契合,即所謂一發一切發也。
(Diễn: “Minh” là đột nhiên khế hợp bổn tâm, tức là nói: “Một thứ phát, hết thảy đều phát”).
Chấp Lý nhưng chưa minh tâm, “minh” có nghĩa là gì? “Vị ư tự bổn tâm hốt nhiên khế hợp” (nghĩa là đột nhiên khế hợp bổn tâm). “Nhất phát, nhất thiết phát” , “phát” ở đây là nêu thí dụ, thật ra là như kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Một tức hết thảy, hết thảy chính là một”. Cách nói này quá trừu tượng, chúng ta chẳng dễ gì hiểu được! Do vậy, ở đây tôi nêu lên một chuyện: “Phát” là phát tâm, nêu một chuyện để nói “một tức hết thảy, hết thảy chính là một”. Trong Thiền Tông gọi nó là “minh tâm kiến tánh”. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư đã giảng cảnh giới minh tâm kiến tánh rất minh bạch. Quý vị thấy người ấy “bổn tâm hốt nhiên khế hợp” (đột nhiên khế hợp bổn tâm), đó gọi là kiến tánh, hoặc đại triệt đại ngộ. “Hốt nhiên khế hợp”: Khế hợp gì vậy? Khế hợp bằng cách nào? Khởi Tín Luận nói: “Thỉ Giác hợp Bổn Giác”, đó là khế hợp. Hiện thời, tâm ta thanh tịnh, dùng cái tâm thanh tịnh ấy – tâm thanh tịnh ấy là Thỉ Giác – chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật là Thỉ Giác, Chân Như bổn tánh của chúng ta là Bổn Giác. Niệm một câu A Di Đà Phật là Thỉ Giác, niệm niệm là Thỉ Giác; hễ nó khế hợp với Bổn Giác sẽ là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Đối với cảnh giới này, Lục Tổ nói rất hay: “Hà kỳ tự tánh, bổn lai thanh tịnh, hà kỳ tự tánh, bổn lai cụ túc” (Nào ngờ tự tánh vốn sẵn thanh tịnh, nào ngờ tự tánh vốn sẵn đầy đủ) viên mãn, chẳng thiếu khuyết mảy may nào! “Hà kỳ tự tánh, năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ tự tánh có thể sanh vạn pháp), đấy là kiến tánh, là “phát một thứ, sẽ phát hết thảy”.
“Phát” cũng có thể nói là “phát minh” (làm sáng tỏ, nêu rõ ra), tức là hiểu rõ hết thảy. Đã hiểu rõ thông đạt một chuyện, hết thảy đều hiểu rõ, hết thảy đều thông đạt, hết thảy Sự Lý thế gian và xuất thế gian đều chẳng có chướng ngại, đó gọi là “phát”, sáng tỏ. Đó là đúng! Đạt đến cảnh giới ấy, sẽ có thể [“một thứ phát, hết thảy đều phát”]. Trong cảnh giới ấy, niệm Phật chính là “niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”. Niệm là giác, giác chứ không mê; niệm là chân, chân chứ không vọng. Chân tánh và giác tánh của chúng ta hiện tiền, không có tạp niệm, chẳng có vọng niệm, đó gọi là “niệm Phật”. Nếu tâm địa hết sức thanh tịnh, chẳng có vọng niệm nào, tuy chẳng niệm Phật hiệu, mà cũng là niệm. Niệm Phật nhằm thanh tịnh cái tâm, tâm thanh tịnh chính là niệm Phật. Đạt đến mức độ ấy, sẽ có thể không cần niệm, không niệm mà vẫn là niệm, được rồi! Nếu chưa đạt đến cảnh giới ấy, quý vị nói “vô niệm là niệm”, tôi suốt ngày từ sáng đến tối chẳng niệm là niệm, “phản thọ lạc không chi họa” (đâm ra mắc họa chẳng đạt được gì), hỏng bét rồi!
Thật ra, thật sự đạt đến công phu này, người ấy còn niệm Phật hay là không? Người ấy vẫn niệm! Vì sao vẫn niệm? Vô niệm mà niệm, niệm mà vô niệm! Người ấy vẫn niệm, tuyệt đối chẳng thể nói là không niệm. Đại Thế Chí Bồ Tát là bậc Đẳng Giác Bồ Tát, trong hội Lăng Nghiêm, Ngài đã dạy chúng ta: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế” (Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối), Ngài vẫn niệm. Do đây có thể biết: Đẳng Giác Bồ Tát tuy đã chứng lý viên mãn, vẫn chấp trì danh hiệu, Ngài hiểu Lý, nhưng vẫn y như cũ, chẳng phế Sự. Chúng ta chẳng hiểu đạo lý này nên bỏ Sự, đương nhiên chẳng có kết quả gì!
(Diễn) Phản thọ họa giả, vị nhược thị tu hành nhân, tắc đọa tà ngoại.
(演) 反受禍者,謂若是修行人,則墮邪外。
(Diễn: “Đâm ra mắc họa” nghĩa là: Tuy là người tu hành, mà đọa trong tà môn, ngoại đạo).
“Tà ngoại” là tà môn, ngoại đạo, ở đây nói tới ngoại đạo ngay trong cửa Phật. Ngoại đạo ở ngoài Phật pháp có thể dễ dàng phân biệt, chứ ngoại đạo trong cửa Phật, chẳng dễ gì biện định được!
(Diễn) Nhược phàm phu, ngoại đạo, tắc phước tận thọ luân.
(演) 若凡夫外道,則福盡受輪。
(Diễn: Nếu là phàm phu, ngoại đạo, khi hết phước sẽ phải luân hồi).
Đây là hai hạng người: Một là người tu hành. Người tu hành đọa trong tà kiến nên biến thành ngoại đạo. Người ấy chẳng thể thành tựu trong một đời này. Nếu là phàm phu hoặc là ngoại đạo, khi hưởng hết phước báo, phải luân hồi y như cũ! Nếu chúng ta hỏi: Những người tu hành đọa trong tà môn, ngoại đạo, khi phước báo hết, người ấy có phải luân hồi hay không? Vẫn phải luân hồi giống hệt. Vì sao biết họ phải luân hồi giống hệt? Vì đời trước chúng ta là những người giống như vậy, hiện tại lại xoay chuyển luân hồi. Nếu đời trước chúng ta chẳng phải là hạng người như vậy, quý vị đã sớm về Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ chẳng đến nơi đây! Quý vị chẳng nghe kinh ở chỗ tôi, mà nghe kinh nơi A Di Đà Phật trong thế giới Cực Lạc. Do vậy, trong đời trước, bọn ta mắc họa đọa lạc hư luống, ý niệm sai lầm!
(Diễn) Nhược khẩu khẩu đàm không, bộ bộ hành hữu giả, tắc kính đọa tam đồ, vô hữu hưu tức, cố vân “thọ họa”.
(演) 若口口談空,步步行有者,則徑墮三途,無有休息,故云受禍。
(Diễn: Nếu miệng luôn nói Không, bước bước hành Có, sẽ nhanh chóng đọa trong tam đồ, chẳng hề ngưng nghỉ, nên nói là “mắc họa”).
“Khẩu khẩu đàm Không” là nói Lý suông, đàm huyền thuyết diệu. “Bộ bộ hành Hữu”, “hành” là ngũ dục, lục trần, tiếng tăm, lợi dưỡng. “Hữu” ở đây là tam hữu, tức Dục Giới Hữu, Sắc Giới Hữu, Vô Sắc Giới Hữu. Làm sao quý vị không đọa trong tam đồ cho được? Đó gọi là “mắc họa”, họa ấy là đại họa. Đâm ra mắc họa chẳng đạt kết quả gì!
(Sớ) Thượng văn song yết nhị bệnh.
(演) 上文雙揭二病。
(Sớ: Đoạn văn trên đây nêu ra hai thứ bệnh).
“Thượng văn” là phần Biệt Tán, “song yết nhị bệnh”: [Nêu ra] hai căn bệnh.
(Sớ) Kim ư nhị bệnh, biệt cử kỳ vưu.
(演) 今於二病,別舉其尤。
(Sớ: Nay đối với hai thứ bệnh, riêng nêu lên căn bệnh nặng nhất).
Hai thứ bệnh: Một là chấp Sự, hai là chấp Lý. “Vưu” (尤) là bệnh nặng nhất trong hai thứ ấy. Chấp trước là bệnh, hai thứ ấy đều là chấp trước, đều là bệnh. Bệnh chấp Không sẽ gặp đại họa, đọa tam đồ. Bệnh chấp Có, tuy vẫn có thể vãng sanh, nhưng phẩm vị chẳng cao; đều chẳng phải là hiện tượng tốt đẹp, đều gọi là Bệnh.
(Sớ) Vị trước Sự nhi tín tâm bất thiết, cố vô túc luận.
(演) 謂著事而信心不切,固無足論。
(Sớ: Nghĩa là: Nếu chấp Sự mà tín tâm chẳng tha thiết, chẳng đáng để bàn tới).
“Trước Sự nhi tín tâm bất thiết” (chấp Sự mà tín tâm chẳng tha thiết), chẳng cần phải bàn tới nữa! Tu pháp môn này, cơ sở là tín tâm. Trong sách Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã nói hết sức minh bạch: Điều thứ nhất là phải tin vào chính mình. Quý vị phải biết: Phật, Bồ Tát gia trì, bảo vệ, giúp đỡ người có tín tâm. Không có tín tâm thì Phật, Bồ Tát tuy có oai đức, có trí huệ, thần lực, vẫn chẳng giúp được! Phật, Bồ Tát có thể giúp đỡ ai? Người có tín tâm! Quý vị có mười phần tín tâm, các Ngài có thể giúp quý vị mười phần. Quý vị có một phần tín tâm, các Ngài có thể giúp quý vị một phần. Các Ngài giúp đỡ quý vị tỷ lệ thuận với tín tâm.
Do vậy, chính mình phải có tín tâm đầy đủ, tự tin ta trong một đời quyết định vãng sanh Tịnh Độ, đời sau tuyệt đối chẳng luân hồi. Ta có tín tâm tràn trề, nên Phật, Bồ Tát tận hết sức giúp đỡ ta. Ta có tín tâm, tuy hiện tại thân thể ta còn ở trong thế gian này, nhưng ta đã là người trong thế giới Cực Lạc, chẳng còn là người của thế giới Sa Bà nữa. Quý vị không tin thì vẫn là người trong thế giới Sa Bà. Tôi tin, tôi chẳng phải là người trong thế giới Sa Bà. Chuyện này phải hỏi chính mình! Phải có tín tâm đầy ắp, tín tâm quyết định, chúng ta mới có thể thành tựu.
“Tín tâm bất thiết, cố vô túc luận” (Tín tâm chẳng tha thiết, chẳng đáng bàn tới), không có cách nào hết! Tuy là cả đời niệm Phật mà chẳng thể vãng sanh. Chẳng thể vãng sanh, nhưng cũng có điều hay! Niệm Phật là gieo viễn nhân vãng sanh cho đời sau, kết duyên với thế giới Tây Phương; quý vị niệm Phật trong thế gian này cũng là phước báo. Tuy là phước báo, nhưng quý vị phải hiểu: Không nhất định sẽ hưởng [phước báo ấy] trong đường nào! Hưởng phước trong đường trời người là thù thắng nhất, trong quỷ đạo phước báo cũng lớn, trong súc sanh đạo cũng có phước báo lớn. Chúng ta thấy người ngoại quốc nuôi những con chó nhỏ, mèo nhỏ, phước báo của chúng lớn hơn loài người chúng ta, được chăm sóc không sót một điều nhỏ nhặt nào. Hiện thời, chó ở ngoại quốc có phòng mạch chuyên chăm sóc chó, mỗi ngày còn phải tắm rửa cho chúng, hầu hạ cho chúng nó thoải mái, dẫn chó đi tản bộ, dẫn chó đi chơi, phước báo rất lớn! Đây là do tu phước trong đời trước, đọa làm thân súc sanh. Vì thế, chúng ta tu phước trong đời này, đời sau không nhất định hưởng phước trong nhân gian, không chừng sanh trong súc sanh đạo hay ngạ quỷ đạo; phước cố nhiên được hưởng, nhưng không nhất định trong đường nào, phải biết điều này!
(Sớ) Giả sử chuyên trì danh hiệu, niệm niệm tương kế, vô hữu gián đoạn, tuy hoặc bất minh đế lý, dĩ năng thành tựu tịnh thân, phẩm vị túng ty, vãng sanh tất hĩ. Sở vị sĩ nhân tác bảng vĩ đăng khoa diệc bất ác, đản khủng bảng thượng vô danh nhĩ. An đắc dĩ thủ ngu bệnh chi!
(演) 假使專持名號,念念相繼,無有間斷,雖或不明諦理,已能成就淨身,品位縱卑,往生必矣。所謂士人作榜尾登科亦不惡,但恐榜上無名耳。安得以守愚病之!
(Sớ: Giả sử chuyên trì danh hiệu, niệm niệm tiếp nối chẳng gián đoạn, dẫu chưa hiểu rõ đế lý, đã có thể thành tựu thân thanh tịnh, phẩm vị dẫu hèn, ắt được vãng sanh. Đó gọi là học trò tên đề cuối bảng, vẫn là thi đậu, chẳng xấu hổ, chỉ sợ trên bảng chẳng có tên. Há nên coi “giữ phận ngu” là khuyết điểm ư?)
Sợ rằng trên bảng không có tên! Chứ trên bảng có tên dù là ghi tên chót bảng, cũng là đã vãng sanh rồi, cũng đã thành công rồi!
(Diễn) Trước Sự nhi tín bất thiết giả.
(演) 著事而信不切者。
(Diễn: Chấp Sự mà lòng tin chẳng tha thiết).
Nêu lên một trường hợp hết sức thực tế.
(Diễn) Như kim thế nhân, khẩu niệm Di Đà, tâm trì ngũ dục, không đàm Tịnh Độ, hệ niệm Sa Bà dã.
(演) 如今世人,口念彌陀,心馳五欲,空談淨土,繫念娑婆也。
(Diễn: Như người trong cõi đời này, miệng niệm Di Đà, tâm đuổi theo ngũ dục, bàn suông Tịnh Độ, tâm dính chặt Sa Bà).
Chúng ta phải răn dè cẩn thận chuyện này! Miệng niệm Di Đà, trong tâm vẫn tham luyến ngũ dục, lục trần thế gian, hằng ngày niệm Kệ Hồi Hướng cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng vẫn chẳng bỏ được thế giới Sa Bà trong hiện tại. Đó là miệng đúng, tâm sai, chẳng thể thành công! Đó gọi là “trước Sự nhi tín bất thiết” (chấp vào Sự nhưng tín tâm chẳng thiết tha). Người niệm Phật chân chánh, hết thảy tình duyên thế gian đều phải buông xuống hết; nếu có một chuyện gì không buông xuống được, vướng mắc trong lòng, đến cuối cùng nhất định bị lỡ làng. Phàm những ai biết trước lúc mất, tự tại vãng sanh, đều là những người đã buông bỏ sạch sành sanh.
Tôi vừa mới nhắc tới Sử cư sĩ, cụ có mười người con, đều sống ở Mỹ, có người tin tưởng Phật, có người chẳng tin Phật, phản đối Phật, có người sự nghiệp thành tựu, có người cũng rất bất đắc chí. Sử cư sĩ chẳng có chuyện gì vướng mắc trong lòng, tâm cụ thanh tịnh, trừ niệm Phật ra, chuyện gì cũng không màng, là thật sự buông xuống! Do vậy, cụ mới có thể biết trước lúc mất.
Chúng ta cũng thấy người niệm Phật mà “con gái tôi còn chưa gả chồng, con trai tôi chưa kết hôn”, không vãng sanh được, vì sao? Phiền não quá nhiều, chuyện vướng mắc trong lòng quá nhiều! Dẫu cho con gái gả chồng, con trai đã kết hôn, lại còn chưa sanh cháu! Cháu sanh rồi thì chúng chưa khôn lớn! Lắm chuyện quá, vĩnh viễn không xong được! Dẫu niệm Phật, trong đời này, người ấy chẳng có phần nơi thế giới Tây Phương!
(Diễn) Thành tựu tịnh thân giả, vị tam nghiệp hào vô nhiễm ô.
(演) 成就淨身者,謂三業毫無染污。
(Diễn: “Thành tựu tịnh thân” nghĩa là ba nghiệp chẳng ô nhiễm mảy may).
“Tam nghiệp” là thân, miệng, ý. Quan trọng nhất là ý nghiệp, tâm địa thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần. Nói “chẳng nhiễm mảy trần” thì Trần là ngũ dục, lục trần, tài, sắc, danh, lợi, ngủ nghỉ, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thảy đều buông xuống. Trong tâm, trừ A Di Đà Phật ra, chẳng vướng mắc gì, đó gọi là “thành tựu tịnh thân”. Vì vậy, thứ gì quý vị cũng phải bỏ hết. Lại thưa cùng quý vị, chỉ có thứ gì quý vị cũng đều bỏ hết thì thứ gì cũng mới viên mãn. Ngày nay, quý vị tài sản chẳng viên mãn, vì sao? Chẳng buông xuống! Chẳng buông xuống nên không viên mãn.
Tất cả đều buông xuống, sẽ đắc đại viên mãn. Viên mãn là gì? Quyết định chẳng thiếu khuyết. Quý vị không tin là vì quý vị có nghiệp chướng, nghiệp chướng gây chướng ngại cho lòng tin của quý vị. Nếu quý vị thật sự buông xuống, mới thật sự hiểu rõ Phật, Bồ Tát nói chẳng sai, vì sao? Đúng là đắc đại viên mãn. Do vậy, quý vị chẳng chịu buông xuống, nên tiền bạc chi dùng rất khổ sở. Tôi đắc tự tại, tôi được đại viên mãn nơi tiền tài. Chuyện gì cũng buông xuống thì chuyện gì cũng viên mãn, thứ gì cũng buông xuống được, sẽ đắc đại viên mãn.
(Diễn) Tức sở vị thuần thanh tuyệt điểm, nhất điều bạch luyện dã.
(演) 即所謂純清絕點,一條白練也。
(Diễn: Đấy gọi là trong veo đến tột bực như một dải lụa tẩy gột trắng ngần).
“Bạch luyện” là nói tới thác nước[12], nước hết sức trong, nhìn từ mặt nước giống như một dải trắng ngần chẳng nhiễm mảy trần.
(Diễn) Vĩnh Minh vân.
(演) 永明云。
(Diễn: Ngài Vĩnh Minh nói).
Vĩnh Minh là Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, là vị tổ đời thứ sáu của Tịnh Độ Tông.
(Diễn) Cầu Tịnh Độ giả, túng nhiêu vị minh đạo nhãn, dã tu thành tựu tịnh thân.
(演) 求淨土者,縱饒未明道眼,也須成就淨身。
(Diễn: Người cầu sanh về Tịnh Độ, dẫu đạo nhãn chưa sáng tỏ, vẫn cần phải thành tựu tịnh thân).
“Đạo nhãn” là minh tâm kiến tánh, cũng là Lý nhất tâm bất loạn. Nếu công phu chưa đạt đến cảnh giới ấy, ắt cũng cần phải thanh tịnh thân tâm, chẳng nhiễm mảy trần. Đạt đến cảnh giới ấy, chắc chắn vãng sanh, phẩm vị cũng khá cao, chẳng ở trong Hạ Phẩm Hạ Sanh.
(Sớ) Nãi chí chấp Lý nhi tâm thật liễu minh, diệc bất tất luận.
(演) 乃至執理而心實了明,亦不必論。
(Sớ: Còn như chấp Lý mà tâm đã thật sự liễu giải thông suốt, cũng chẳng cần phải bàn tới).
Người ấy chấp Lý, nhưng tâm thật sự hiểu rõ, thật sự minh tâm kiến tánh. Thật sự đạt đến minh tâm kiến tánh thì niệm và không niệm đúng là chẳng sao cả! Người ấy không niệm Phật cũng vẫn vãng sanh, chỉ cần người ấy muốn vãng sanh, muốn ra đi liền được. Vì sao? Người ấy có công phu “chẳng niệm mà cũng có thể vãng sanh”. Chẳng niệm mà cũng có thể vãng sanh, đâu có lạ lùng gì! Vì sao? Trong sách Di Đà Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã nói: “Đắc sanh dữ phủ, tại ư tín nguyện chi hữu vô” (Được vãng sanh hay không là do có tín nguyện hay không?), nói rất rõ ràng! Có thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới hay không, chẳng nói tới niệm, chẳng nói tới chấp trì danh hiệu, chỉ nói tới tín nguyện. Quý vị phải hiểu. Đây là đối với người minh tâm kiến tánh mà nói, người ấy chưa hề niệm một câu Phật hiệu nào, nhưng người ấy tin tưởng, muốn sanh về đó, người ấy liền sanh, lại còn là Thượng Phẩm Thượng Sanh, chẳng cần niệm Phật. Khi chưa minh tâm kiến tánh, cần phải niệm Phật! Do vậy, Ngài lại nói: “Phẩm vị cao hạ, tại ư trì danh chi thiển thâm” (Phẩm vị cao hay thấp là do công trì danh cạn hay sâu). Quý vị phải hiểu đạo lý này, đó là Lý lẫn Sự đều phải chiếu cố.
Thật sự hiểu rõ cái tâm, minh tâm kiến tánh rồi thì quý vị niệm hay chẳng niệm đều chẳng cần phải nhắc tới. Quý vị niệm cũng được, mà không niệm cũng được, hóa ra “quý vị muốn vãng sanh thì quý vị quyết định vãng sanh” là nói về hạng người này. Chúng ta chưa đạt đến công phu ấy! “Tâm thật sự liễu minh”, thưa quý vị, Kiến Tư phiền não đã đoạn, Trần Sa phiền não cũng đoạn, bốn mươi mốt phẩm vô minh tối thiểu phá được một phẩm, quý vị nghĩ xem cảnh giới của người ấy là gì? Nay chúng ta ngay cả Kiến Tư còn chưa đoạn được, ngay cả Thân Kiến trong Kiến Hoặc vẫn còn chưa thể phá được. Phàm phu lè tè sát đất, tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc, tám mươi mốt phẩm Tư Hoặc hoàn toàn có đủ, làm sao có thể sánh bằng bậc kiến tánh? Con người quý nhất là tự biết rõ, hiểu chính mình có thân phận như thế nào, biết căn bệnh của chính mình ở chỗ nào thì mới có thể cho thuốc đúng bệnh, thuốc uống vào, bệnh lành!
Tại ngoại quốc, từng có người hỏi tôi: Sám trừ nghiệp chướng có phải là lễ Lương Hoàng Sám, lễ Thủy Sám hay không? Lạy Lương Hoàng Sám xong, Thủy Sám cũng đã lạy rồi, nghiệp chướng có tiêu trừ hay chăng? Chẳng những không tiêu trừ, mà còn tăng thêm chẳng ít. Tôi nói lời này câu nào cũng chân thật! Chẳng những không tiêu nghiệp chướng mà còn tăng trưởng nghiệp chướng. Sám trừ nghiệp chướng là gì? Quý vị mỗi ngày nghĩ đến lầm lỗi, có thể sửa lỗi thì gọi là sám trừ nghiệp chướng. Mỗi ngày suy nghĩ, hôm nay ta làm sai những chuyện gì? Chuyện nào hoặc ý niệm nào chẳng đúng pháp? Mỗi ngày có thể phản tỉnh tội lỗi của chính mình, sửa đổi khuyết điểm của chính mình, đó gọi là sám trừ nghiệp chướng. Đối với khởi tâm động niệm, hết thảy hành vi, cho đến trong công việc của chính mình, giảng kinh, dạy học cũng giống như vậy, ngày ngày cải tiến. Cải tiến là tiêu nghiệp chướng. Ngày ngày có tiến bộ! Chẳng cải tiến, nghiệp chướng chẳng tiêu trừ. Đó là chân chánh cầu sám hối. Do vậy, sám hối là tinh tấn, là mỗi ngày một mới hơn.
Vì thế, ở Mỹ Quốc, người Mỹ kinh doanh không khá hơn người Nhật Bản. Công xưởng nào của người Mỹ hễ không làm ra tiền, ngay lập tức họ cắt giảm nhân viên, sa thải công nhân, hoặc công nhân bất mãn chủ nhân liền bãi công. Bãi công gây tổn thất quả thật hết sức nghiêm trọng. Người Nhật không giống như họ! Công xưởng của người Nhật Bản không làm ra tiền, chủ nhân giảm tiền lương của viên chức cao cấp. Chiêu này lợi hại lắm, công nhân thấy chủ nhân không lãnh tiền lương, viên chức cao cấp bị giảm lương, công nhân cấp dưới bèn ra sức làm việc, vì sao? Công nhân không bị giảm lương, nhân viên cao cấp bị giảm lương, cách làm ấy hợp lý; cho nên công nhân chịu bán sức. Công nhân bất mãn chủ nhân, muốn phản kháng, khi kháng nghị bèn buộc dải khăn trắng lên đầu, vẫn làm việc như thường lệ. Người Mỹ làm sao có thể hơn được người Nhật! Dùng Phật pháp để nói thì họ thật sự tiêu trừ nghiệp chướng. Do vậy, nhất định phải áp dụng Phật pháp vào trong cuộc sống của chính mình. Phật pháp chẳng phải là bàn suông, Phật pháp là cuộc sống thực tiễn. Do vậy, mục tiêu của Phật pháp là phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, thật sự lìa khổ, thật sự được vui!
(Diễn) Tâm thật liễu minh, vị tam trí nhất tâm trung đắc.
(演) 心實了明,謂三智一心中得。
(Diễn: “Tâm thật sự liễu minh” có nghĩa là đã đắc nhất tâm nơi Tam Trí).
“Tam Trí” là Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng Trí, và Nhất Thiết Chủng Trí. “Nhất tâm trung đắc” là khai ngộ, Thiền Tông gọi là đại triệt đại ngộ.
(Diễn) Dĩ đăng Sơ Địa.
(演) 已登初地。
(Diễn: Đã đạt Sơ Địa).
“Sơ Địa” là Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo. Sơ Địa của Biệt Giáo được gọi là Sơ Trụ trong Viên Giáo.
(Diễn) Nhập Vô Sanh Nhẫn.
(演) 入無生忍。
(Diễn: Nhập Vô Sanh Nhẫn).
Thật sự chứng đắc hết thảy các pháp bất sanh bất diệt.
(Diễn) Ư tự bổn tâm hữu đại khai ngộ giả.
(演) 於自本心有大開悟者。
(Diễn: Đối với bổn tâm của chính mình có khai ngộ to lớn).
Người như vậy tuy chẳng niệm Phật, chỉ cần tin tưởng pháp môn này, chỉ cần muốn [vãng sanh], sẽ vãng sanh. Người ấy vãng sanh bèn là Lý nhất tâm bất loạn, sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm.
“Chấp Lý nhi tâm thật liễu minh, diệc bất tất luận” (tuy chấp Lý nhưng thật sự liễu giải cái tâm, cũng chẳng cần phải bàn tới nữa), chẳng cần phải nhắc tới họ! Tiếp theo đây là thảo luận về hạng người “tâm thật vị minh, phản thọ lạc không chi họa” (chưa thật sự hiểu tâm, đâm ra mắc họa chẳng đạt được gì).
(Sớ) Giả sử sính trì cuồng huệ, đam trước ngoan hư, ư tự bổn tâm tằng vị khai ngộ, nhi khinh đàm Tịnh Độ, miệt thị vãng sanh, vi hại phi tế, sở vị: Khoát đạt không, bát nhân quả, mãng mãng đãng đãng chiêu ương họa giả dã.
(演) 假使騁馳狂慧,耽著頑虛,於自本心曾未開悟,而輕談淨土,蔑視往生,為害非細,所謂豁達空、撥因果,莽莽蕩蕩招殃禍者也。
(Sớ: Giả sử là kẻ cuồng huệ luông tuồng, đắm chấp hư vô trơ trơ, đối với bổn tâm chưa hề khai ngộ, mà thốt lời rẻ rúng Tịnh Độ, coi rẻ sự vãng sanh, gây hại chẳng nhỏ. [Hạng người đó] gọi là kẻ khoát đạt rỗng tuếch, bài bác nhân quả, chuốc lấy tai ương, họa hại mênh mông bát ngát vậy!)
Liên Trì đại sư bàn về một hạng người, hạng người này trong hiện tại quả thật chẳng ít. Ở ngoại quốc, có nhiều nơi đang tin tưởng Thiền, tin tưởng Mật, cho rằng những môn ấy thành tựu nhanh chóng; thật ra, đại đa số những người ấy là mê muội, mù quáng tin theo. Tôi đi các nơi trong những năm qua, có không ít người giác ngộ, quay đầu niệm A Di Đà Phật. Phàm là Sự sẽ đều có Lý; quý vị phải suy nghĩ nhiều về những đạo lý ấy thử xem nói theo Lý có thông suốt hay không! Nếu quý vị muốn tu Thiền, chẳng cần phải nói tới những môn Thiền bậc cao, môn Thiền thấp nhất là Sơ Thiền trong Tứ Thiền, đấy là [Thiền Định của] Sắc Giới Thiên, chưa thoát khỏi tam giới, vẫn phải sanh tử luân hồi. Điều kiện của Sơ Thiền là gì? Thoát ly Dục Giới. Dục Giới là ngũ dục: Tài, sắc, danh, ăn uống, ngủ nghỉ. Khi ngũ dục hiện tiền, thật sự chẳng động tâm thì mới là Sơ Thiền. Tôi hỏi quý vị nhé: Đối với tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, quý vị còn động tâm hay chăng? Nếu quý vị vẫn còn động tâm, đó là khẩu đầu Thiền, dã hồ Thiền, vô ích! Vẫn phải đọa lạc trong tam đồ, chẳng đủ tư cách tham Thiền! Mọi người nghe điều này bèn sợ hãi, suy nghĩ thấy chính mình đối với tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ sợ rằng vẫn còn động tâm, chỉ đành quay đầu niệm Phật, đới nghiệp vãng sanh. [Nếu quý vị nói]: “Tôi đã nhạt nhẽo đối với ngũ dục, lục trần nhiều lắm, nhưng vẫn chưa đoạn được”, vẫn chưa được! Quý vị vẫn ở trong Dục Giới, chưa sanh lên Sắc Giới, chẳng dễ dàng đâu nhé!
Nói tới Mật, càng rối ren, phiền phức hơn. Hiển Giáo học chưa thông, đâu có tư cách học Mật! Mật là gia hạnh (hạnh phụ thêm) của Hiển Giáo. Trong Mật Giáo nói “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay trong cái thân này), không sai! Giống như quý vị đến trường tham quan lớp học dành cho Tiến Sĩ, họ học mấy tháng bèn tốt nghiệp, lấy được học vị Tiến Sĩ. Quý vị cũng đến tham gia lớp Tiến Sĩ, hai ba tháng sau cũng lấy được học vị Tiến Sĩ, có được hay chăng? Không được! Vì sao? Quý vị chưa học Đại Học, Trung Học, Tiểu Học, lẽ nào học ngay vào lớp Tiến Sĩ cho được? Chẳng thể nào có chuyện ấy! Quý vị phải hiểu: Mật Giáo được kiến lập trên cơ sở Hiển Giáo.
Nếu chúng ta hỏi: Trong tương lai có cần phải học Mật hay không? Phải học! Chẳng học Mật, sẽ chẳng thể thành Phật, nhưng học Mật khi nào? Bát Địa Bồ Tát! Ở đây nói tới Sơ Địa, vừa chứng Sơ Địa, vẫn chưa đủ tư cách! Minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ trong Thiền Tông vẫn chưa đủ tư cách. Vì sao? Vừa mới chứng Sơ Địa! Bát Địa Bồ Tát gọi là Bất Động Địa, mới có tư cách học Mật, vị ấy đương nhiên tức thân thành Phật. Quý vị phải tự hỏi chính mình, rốt cuộc ta là Bồ Tát thuộc địa vị nào? Phải hiểu rõ ràng! Trừ địa vị ấy ra, muốn tức thân thành Phật thì còn có cách nào khác hay chăng? Thưa quý vị, có! Niệm A Di Đà Phật là tức thân thành Phật. Nếu quý vị không tin, hãy đọc kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử thành Phật từ nơi nhục thân, Ngài thành tựu trong một đời. Ngài tu pháp môn nào vậy? Pháp môn Niệm Phật, pháp môn niệm A Di Đà Phật. Do vậy, pháp môn Niệm Phật là pháp môn thù thắng nhất trong Phật pháp.
(Diễn) Bất chánh chi vị cuồng.
(演) 不正之謂狂。
(Diễn: Bất chánh thì gọi là cuồng).
Kẻ ấy không đi theo đường chánh, nên gọi là Cuồng.
(Diễn) Cuồng huệ giả, tuy hữu trí huệ, phi chân huệ dã.
(演) 狂慧者,雖有智慧,非真慧也。
(Diễn: Cuồng huệ: Tuy có trí huệ, nhưng không phải là trí huệ chân thật).
Những người ấy chẳng phải là không thông minh, mà rất thông minh, nhưng chẳng phải là trí huệ chân thật. Trí thông minh ấy do phân biệt, chấp trước mà có, chẳng từ cái tâm thanh tịnh lưu xuất ra.
(Diễn) Hữu tùng học vấn đắc giả, hữu tùng công phu đắc giả, hữu tùng tà sư đắc giả, chủng chủng bất đồng.
(演) 有從學問得者,有從工夫得者,有從邪師得者,
種種不同。
(Diễn: Có kẻ do học vấn mà được thông minh, có kẻ do công phu mà thành thông minh, có kẻ do tà sư mà thông minh, đủ loại khác nhau).
Những kẻ ấy đều chẳng phải là trí huệ chân thật, dẫu từ công phu mà có, vẫn chẳng phải là trí huệ chân thật. Vì sao? Công phu phải tương ứng với lý luận mới được. Công phu và lý luận, cảnh giới chẳng tương ứng thì trí huệ đạt được vẫn là tà tri tà kiến. Từ cổ đến nay, tu đạo cầu học vì sao cần có thầy tốt? Không có thầy tốt có được hay chăng? Không được! Trong Đàn Kinh, đoạn chép về Vĩnh Gia đại sư có nói rất rõ ràng: “Không có thầy mà tự ngộ, trước thời Oai Âm Vương Phật thì được. Kể từ sau Oai Âm Vương Phật, không thầy mà tự ngộ, đều là thiên nhiên ngoại đạo”. Do vậy, pháp thế gian hay xuất thế gian đều phải có sư thừa, đều phải có thầy chỉ dạy. Không có thầy chỉ dạy, sẽ là tu mù, luyện đui! Nhưng trong số thầy dạy, có tà, có chánh, kinh Lăng Nghiêm nói: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”. Nếu quý vị gặp được một vị thầy tốt, quý vị rất may mắn. Chẳng dễ gì gặp được! Minh sư khó cầu! Gặp phải một vị tà sư, phiền phức rất lớn. Tà tri tà kiến có các thứ khác nhau, đó là tà huệ!
(Diễn) Trì sính giả, đại suất vị thập phương chư Phật nhất khẩu thốn tận, hà xứ cánh mịch Di Đà, thập phương thế giới triệt để hiên phiên, hà phương biệt cầu Tịnh Độ. Tái thuyết niệm Phật cầu sanh, tảo thị bát vu an bính, đầu thượng gia đầu dã.
(演) 馳騁者,大率謂十方諸佛一口吞盡,何處更覓彌陀,十方世界徹底掀翻,何方別求淨土。再說念佛求生,早是缽盂安柄,頭上加頭也。
(Diễn: “Sính trì”[13] là nói chung chung: Mười phương chư Phật một miệng nuốt sạch, chỗ nào tìm được Di Đà nữa? Mười phương thế giới lật ngược hết lên, riêng cầu Tịnh Độ ở chỗ nào? Lại nói: Niệm Phật cầu sanh, đúng là lắp cán vào bát, trên đầu chồng thêm đầu).
Đây là lời lẽ của những kẻ chẳng thật sự đại triệt đại ngộ trong Thiền Tông, là hạng biết một, hiểu nửa, tự cho mình là người hành Thiền, chê cười người niệm Phật. Những lời lẽ ấy hoàn toàn nói theo mặt Lý, nói theo Lý chẳng sai! Họ nói những lời ấy, nhưng có thật sự hiểu hay chăng? Nếu thật sự hiểu, họ sẽ chẳng thốt ra! Thật sự hiểu được thì đó lại là một cách nói, vì sao? Thật sự hiểu được Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Người ấy còn có chướng ngại, “trên đầu chồng thêm đầu” là có chướng ngại. Đã có chướng ngại thì nói cách khác, kẻ ấy chẳng thông hiểu!
Gần đây nhất, có người nêu lên chuyện chẳng thể đới nghiệp, chỉ có thể tiêu nghiệp vãng sanh! Do vậy, những người tu Tịnh Độ trong lòng hoảng hốt. Tôi vừa đến nước Mỹ, lão cư sĩ Châu Tuyên Đức liền hỏi ngay: “Làm thế nào đây? Rốt cuộc như thế nào mới là đúng, đới nghiệp vãng sanh hay tiêu nghiệp? Tôi nói với cụ: “Đới nghiệp và tiêu nghiệp là một, chẳng phải hai. Có gì đáng để kinh hoảng sợ hãi hay chăng? Mang theo một chút, tiêu một chút. Tiêu một chút, mang theo một chút. Chỉ có Phật mới có thể không đới nghiệp. Đẳng Giác Bồ Tát còn có một phẩm sanh tướng vô minh, vẫn là đới nghiệp! Tuy kinh luận Tịnh Độ không có văn tự nói rõ chuyện đới nghiệp, nhưng tôi hỏi cụ: Trong kinh luận Tịnh Độ có ba bậc chín phẩm hay chăng?” Có! Đã nói ba bậc chín phẩm mà nếu chẳng đới nghiệp, lẽ nào có ba bậc chín phẩm? Mang theo ít thì phẩm vị cao, mang theo nhiều thì phẩm vị ít. Đó là nói đới nghiệp. Nếu nói tiêu nghiệp thì tiêu nghiệp nhiều phẩm vị cao, tiêu nghiệp ít, phẩm vị thấp. Tiêu nghiệp và đới nghiệp chẳng phải là một ư?
(Diễn) Bất minh vị chi ngoan. Ngoan hư giả, tuy trước Không lý, phi Chân Không dã. Như si nhân khẩu khẩu đàm Không, phàm phu Tứ Vô Sắc Định, ngoại đạo Vô Tưởng, dĩ cập Phi Phi Tưởng Ấm Cảnh Không Ma, nãi chí viên hư vô tâm, chủng chủng bất nhất.
(演) 不明謂之頑,頑虛者,雖著空理,非真空也。如痴人口口談空,凡夫四無色定,外道無想,以及非非想陰境空魔,乃至圓虛無心,種種不一。
(Diễn: Chẳng hiểu rõ thì gọi là “ngoan” (trơ trơ). “Ngoan hư”: Tuy chấp vào lý Không, nhưng chẳng phải là Chân Không. Như kẻ si miệng luôn bàn về lẽ Không, Tứ Vô Sắc Định của phàm phu, Vô Tưởng Định của ngoại đạo, và Phi Phi Tưởng, Không Ma trong Ấm cảnh, cho đến vô tâm viên hư, đủ thứ khác nhau).
Đoạn này hoàn toàn nói về những cảnh giới đều được nhắc tới trong kinh Lăng Nghiêm, những cảnh giới ấy được gọi là “ngoan hư”, đây cũng là căn bệnh lớn. Họ chẳng thấy được Lý thật sự và Sự thật sự, nói cách khác, vẫn là hiểu lầm, nghe Phật pháp mà hiểu lầm ý nghĩa, hiểu lầm tông chỉ của Phật, nên mới sanh ra những bệnh ấy. “Phàm phu Tứ Vô Sắc Định” là Tứ Không Thiên, “ngoại đạo Vô Tưởng Định” là sanh trong Vô Tưởng Thiên, “Phi Phi Tưởng Ấm Cảnh Không Ma” là cảnh giới của Tứ Thiền và Tứ Không. Những người ấy tưởng những cảnh giới đó là Niết Bàn viên mãn rốt ráo, đây là một thứ hiểu lầm to lớn. Vì vậy, phàm những ai sanh vào Tứ Thiền, Tứ Không Thiên, khi thọ mạng đã hết, nhất định đọa lạc, vì sao? Họ tự cho rằng ta đã chứng đắc cảnh giới Niết Bàn, cuối cùng cảnh giới ấy diệt mất, [bèn oán trách] “Phật vốn là nói dối, lừa gạt chúng ta”, báng Phật, báng Pháp, cho nên họ bị đọa lạc. “Chủng chủng bất nhất” (đủ thứ khác nhau), cảnh giới rất nhiều!
(Diễn) Đam trước giả, đại suất kiên thủ chấp giả, nhất hướng nhập Không, các các tự vị thành Vô Thượng Đạo dã.
(演) 耽著者,大率堅守執者,一向入空,各各自謂成無上道也。
(Diễn: Đắm chấp: Nói chung là chấp giữ chặt chẽ, một mực nhập vào Không, ai nấy tự bảo ta đã thành Vô Thượng Đạo).
Tôi vừa mới nói những điều này!
(Diễn) Khinh đàm, vị hình ư khẩu. Miệt thị, vị tồn ư tâm.
(演) 輕談,謂形於口。蔑視,謂存於心。
(Diễn: “Thốt lời rẻ rúng” là thể hiện ra miệng, “coi rẻ” là nghĩ trong lòng).
“Khinh đàm” là coi rẻ, “miệt thị” là nghĩ trong lòng. Trong tâm coi thường, miệng thốt lời hủy báng, đây là nói về hạng người như vậy. “Khinh đàm Tịnh Độ” là phê bình Tịnh Độ, coi thường pháp môn này, tự cho Thiền hoặc Mật là thù thắng nhất, cao nhất, lỗi lầm ở chỗ này. “Vi hại phi tế” (gây hại chẳng nhỏ), đấy là mối hại lớn. Ngày nay Thiền và Mật nhìn từ bên ngoài thấy rất thịnh hành, nhưng đối với sự tu hành trong Phật giáo gây hại không nhỏ, chúng ta phải tự hiểu điều này. Những thứ ấy đối với Phật pháp là có điều tệ, chứ không có lợi. Từ xưa đến nay, tại Trung Quốc, chánh pháp đã tồn tại lâu dài, chúng ta phải có tín tâm nơi chính mình. Hãy đọc Cao Tăng Truyện, xem ngữ lục của các tông, đọc Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, bao nhiêu người thành tựu! Đó đều là sự thật.
Hiện thời vãng sanh chính mắt chúng ta thấy, đích thân nghe, ở ngay trước mắt, mà nếu vẫn chẳng tin tưởng, chẳng còn cách nào hết! Hôm nay đã hết giờ rồi!
— o0o —
Tập 35
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn mươi bốn:
(Sớ) Vấn: Hà cố bất cữu độn nhân, phản ức lợi giả?
(演) 問:何故不咎鈍人,反抑利者。
(Sớ: Hỏi: Sao không bắt lỗi kẻ độn căn, mà ngược lại chèn ép bậc lợi căn?)
Sau khi đại sư giải thích xong, chắc cũng có người ôm lòng hoài nghi: Vì sao chẳng quở trách kẻ căn tánh trung hạ, lại đặc biệt quở trách bậc thượng căn lợi trí? “Cữu” (咎) có nghĩa là chê trách. Trong phần trước nói đến “cuồng huệ, ngoan hư”, những loại người ấy đều là những kẻ được coi là thông minh, trí huệ trong hiện tại. Nói thông minh thì được, chứ bảo là trí huệ thì chưa chắc, vì sao vậy? Quý vị phải hiểu: Trong nhà Phật thường nói tới “bát nạn”, tức là tám thứ nạn mà con người gặp phải. Không chỉ gây chướng ngại cho mặt Hành và Chứng, mà còn chướng ngại đối với mặt lý giải, nên gọi là “tao nạn” (gặp nạn). Trong tám nạn ấy, có một thứ gọi là Thế Trí Biện Thông, trong đoạn này nói về hạng người ấy, cậy vào sự thông minh và biện tài của bản thân, chẳng chịu sốt sắng tu học, chẳng chịu thật thà tu học.
(Sớ) Đáp: Lợi giả thị tài cao cử, thường vị viễn thắng độn nhân.
(演) 答:利者恃才高舉,常謂遠勝鈍人。
(Sớ: Đáp: Kẻ lợi căn thường cậy tài, ngạo nghễ, ngã mạn, thường nói: “Ta vượt xa những kẻ độn căn”).
Đây là nguyên nhân và lý do khiến họ mắc nạn: Thường tự cho là mình thông minh, trí huệ cao cả, kết quả xôi hỏng bỏng không! Thật sự có thành tựu là những người thật thà, luôn tự cảm thấy mình chẳng bằng ai. Kẻ thường cảm thấy mình chẳng bằng ai sẽ thành tựu dễ dàng! Vì sao? Họ khiêm hư. Kẻ ngạo nghễ, ngã mạn chẳng những học Phật không thể thành tựu, mà đối với học vấn thật sự trong thế gian cũng chẳng thể thành tựu được! Trong Luận Ngữ, Khổng lão phu tử nói: “Như hữu Châu Công chi tài chi mỹ”, [nghĩa là] giả sử có người tài hoa, đức năng giống như Châu Công[14], Châu Công là thánh nhân, nhưng người ấy có khuyết điểm, “sử kiêu thả lận” (mà nếu ngạo mạn lại còn keo kiệt), ngạo mạn, coi thường người khác, keo kiệt, “kỳ dư tắc bất túc quán hĩ” (thì những điểm [tài đức] khác chẳng đáng để xét tới nữa), chẳng cần nói tới người ấy nữa! Tài hoa của kẻ đó là giả, chẳng thật. Đủ thấy ngạo mạn thì học vấn thế gian cũng chẳng thể thành tựu, huống gì Phật pháp? Tổ sư đại đức thường quở trách hạng người thông minh lợi căn ấy!
(Diễn) Bất cữu độn nhân, phản ức lợi giả, vị trước Sự độn căn, bất tri Lý tánh, ưng đương ha trách, khai kỳ huệ tánh, phá kỳ ngu mông, sử do Sự nhập Lý, khả dã. Hà nãi xả bỉ ngu phu, phản ức lợi giả?
(演) 不咎鈍人,反抑利者,謂著事鈍根,不知理性,應當呵責,開其慧性,破其愚蒙,使由事入理可也。何乃捨彼愚夫,反抑利者?
(Diễn: “Chẳng bắt tội kẻ độn căn, ngược lại chèn ép người lợi căn”, ý nói: Đối với kẻ độn căn chấp trước Sự, chẳng biết Lý tánh, lẽ ra nên quở trách, để mở mang huệ tánh, phá trừ sự ngu si, mê muội cho họ, khiến cho họ sẽ từ Sự mà nhập Lý thì mới là điều nên làm. Sao lại bỏ kẻ ngu phu ấy, ngược ngạo chèn ép người lợi căn vậy?)
Đây là ý nghĩ của người hỏi, mấy câu này nói rất rõ ràng. Người độn căn thua kẻ thông minh trí huệ, nhưng hạng người này có ưu điểm: Thật thà! “Chấp Sự”: Chấp trước Sự, [bảo họ] niệm Phật mỗi ngày niệm một vạn tiếng, họ thật thà niệm một vạn tiếng, [bảo họ] niệm hai vạn tiếng, họ thật thà niệm hai vạn tiếng, chấp Sự, chấp tướng tu hành. Lý luận của pháp môn Niệm Phật hết sức sâu, cổ đại đức nói: “Duy Phật dữ Phật phương năng cứu cánh” (chỉ có Phật và Phật mới có thể thấu hiểu rốt ráo), Đẳng Giác Bồ Tát còn chưa hiểu rốt ráo lý ấy. Đủ thấy đạo lý này rất sâu! Một cuốn kinh Di Đà mỏng tanh, chúng ta đọc cũng chẳng thấy có cảm giác gì. Thế mà bộ chú giải này của Liên Trì đại sư là hai cuốn dày cộm; nếu chúng tôi giảng mỗi ngày, cũng phải mất một năm mới có thể giảng viên mãn. Ở đây, chúng tôi có thâu âm, ba trăm ba mươi lăm cuốn, một bộ kinh Di Đà đấy nhé! Có giảng hết ý nghĩa được chăng? Thưa quý vị, chỉ là nói một phần trong vạn phần của ý nghĩa kinh Di Đà mà thôi! Do đây biết: Đạo lý này sâu xa, lý luận vi diệu.
Người chẳng hiểu Lý có thể vãng sanh hay chăng? Đây là chuyện chúng ta hết sức quan tâm. Giả sử không hiểu Lý chẳng thể vãng sanh, chúng ta sẽ gặp khó khăn trước mắt liền, chẳng biết làm cách nào mới tốt đẹp! Nói thật ra, chẳng hiểu rõ Lý cũng có thể vãng sanh, chúng ta hãy an lòng. Hiểu rõ đạo lý này, chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới rồi sẽ lại học, học trực tiếp với A Di Đà Phật, phải như vậy thì mới có thể rốt ráo. Chẳng hiểu Lý, phẩm vị vãng sanh thấp một chút, đừng sợ! Ngược lại, chính mình đã đến thế giới Tây Phương rồi! Giống như đi học, bắt đầu từ lớp Một, không sao hết, tôi đã được vào học, có thể học hết lớp Một sẽ có thể tốt nghiệp. Người hiểu Lý phẩm vị cao một chút, có thể học nhảy lớp, có ý nghĩa như vậy. Hiểu rõ đạo lý này, một mặt phải Sự Trì, chú trọng nơi Sự Trì, một mặt nghiên cứu lý luận, lý luận có thể giúp cho chúng ta nâng cao phẩm vị, điều này hết sức trọng yếu! Nếu chỉ bàn lý luận, chẳng chú trọng Sự Trì, đâm ra sẽ mắc họa chẳng đạt kết quả gì, chẳng có phần nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Học Phật thì quý vị phải biết: Phật pháp từ đầu đến cuối lấy trí huệ làm mục tiêu, như câu nói: “Do Giới sanh Định, do Định khai Huệ”. Trí huệ mở mang sẽ có thể phá mê, khai ngộ, lìa khổ, được vui. Do vậy, học Phật phải mở mang trí huệ. Pháp môn Niệm Phật tợ hồ chú trọng cầu nguyện vãng sanh, chẳng chú trọng mở mang trí huệ. Do vậy, có những kẻ coi thường pháp môn này, cho rằng Thiền và Giáo cao minh hơn rất nhiều. Thật ra là hiểu lầm! Trí huệ do đâu mà khai? Từ tâm thanh tịnh mà khai, tâm đã thanh tịnh bèn khởi tác dụng là trí huệ. Những người có học vấn trong thế gian và xuất thế gian thường ví tâm ta như nước, tức tâm thủy. Khi nước bất động, chẳng có sóng mòi, bình tịnh, nó có tác dụng giống như tấm gương soi rõ ràng cảnh giới bên ngoài, đó gọi là trí huệ. Tâm thủy trong tâm dấy lên sóng mòi, vẫn có tác dụng, cũng soi được cảnh giới bên ngoài, nhưng soi thành méo mó, vặn vẹo, chẳng hoàn chỉnh. Hiện thời, tâm thủy của chúng ta dấy lên sóng mòi, phiền não nặng là gió to, sóng cả; phiền não nhẹ là gió nhỏ, sóng bé, nói chung là chẳng bình tịnh. Do vậy, đối với hết thảy sự lý thế gian và xuất thế gian, ta cũng biết được phần nào, chẳng hoàn chỉnh. Do biết phiến diện, nên dễ phát sanh hiểu lầm. Chẳng hạn như biết mặt này, chẳng biết mặt kia, chấp trước mặt này, phủ định mặt khác, đó là lầm lỗi. Chẳng thể thấy mọi mặt được, đó chính là vì tâm thủy của chúng ta dấy lên sóng mòi.
Thưa quý vị, pháp môn Niệm Phật chú trọng tu Định, khởi sự từ chỗ này. Nhất tâm bất loạn là Định, nhưng phương pháp này lại hết sức thuận tiện. Thưa quý vị, công phu chân chánh chẳng phải ở nơi công khóa sáng tối. Quý vị ấn định công khóa sáng tối: Buổi sáng niệm một quyển kinh Di Đà, niệm mấy ngàn câu Phật hiệu, điều này cố nhiên rất quan trọng, dưỡng thành thói quen niệm Phật. Thế nhưng công phu ấy phải được vận dụng trong cuộc sống thường nhật. Nếu quý vị không vận dụng được, sẽ giống như đi học tốt nghiệp xong, ra ngoài đời không sử dụng được, sở học vô dụng! Đấy chẳng phải là uổng công học hành ư? Nếu quý vị vận dụng công khóa sáng tối vào cuộc sống, suốt ngày từ sáng đến tối đãi người, tiếp vật, khởi tâm, động niệm, chớ để công phu ấy gián đoạn, giữ cho một câu Phật hiệu miên mật giống như kinh Lăng Nghiêm dạy: “Ức Phật, niệm Phật, hiện tiền đương lai, tất định kiến Phật” (Nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai, nhất định thấy Phật). Ức (憶) là gì? Trong tâm có, trong tâm thường nghĩ đến Phật, nơi miệng thường niệm Phật. Đặc biệt là khi phiền não dấy lên, khi ý niệm vừa dấy lên, chẳng cần biết thiện niệm hay ác niệm, chỉ cần ý niệm dấy lên, ngay lập tức đổi nó thành A Di Đà Phật. Đó gọi là công phu. Đấy là quý vị vận dụng công khóa sáng tối vào cuộc sống, công phu đắc lực. Nói cách khác, quý vị chẳng thể có ý niệm nào khác, chỉ có một ý niệm. Hễ nó dấy lên, ý niệm thứ hai bèn là A Di Đà Phật, chẳng để cho vọng niệm tiếp nối. Một thời gian lâu sau, tâm quý vị sẽ dần dần định.
Do vậy, pháp môn này chú trọng tu Định, đặc biệt là trong giai đoạn hiện tại, nói thật ra, đây là công phu ổn thỏa, thích đáng, thực tiễn. Quý vị đừng ham cao chuộng xa, chỉ cầu nội tâm bình lặng. Tâm tĩnh đến cùng cực, trí huệ sẽ mở mang. Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Tịnh cực, quang thông đạt” (Tịnh đến cùng cực thì quang minh (trí huệ) sẽ thông đạt). Quang ấy chính là trí huệ, sẽ thông đạt. Do vậy, công phu niệm Phật gồm ba giai đoạn. Tầng thứ nhất là công phu thành phiến, công phu gom thành một khối, ép thành một khối giống như chúng tôi vừa mới nói: Trong tâm quý vị vừa dấy lên một ý niệm, lập tức đổi nó thành A Di Đà Phật. Đó là sức mạnh của Phật hiệu, chế phục vọng niệm, chẳng cho nó dấy lên, ép thành một khối. Đạt đến cảnh giới ấy sẽ có thể vãng sanh, sẽ có phần trong Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Có những đồng tu thường đến hỏi: “Con phiền não, nghiệp chướng quá nặng, tạo tội nghiệp quá sâu, có thể vãng sanh hay chăng?” Người ấy rất hoài nghi, tội nghiệp trong đời này, tội nghiệp trong đời trước, tội nghiệp trong nhiều đời, nhiều kiếp, làm thế nào đây? Có được vãng sanh hay chăng? Nếu quý vị thường hoài nghi như thế, quả thật là đại chướng ngại. Chương Hạ Phẩm Hạ Sanh trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, tức là chương nói về phép Quán thứ mười sáu, đức Phật đã giảng: Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm chung mười niệm hay một niệm, đều có thể vãng sanh. Tôi nghĩ, các đồng tu tuy tạo tội nghiệp, vẫn chưa tội nặng đến mức đó! Vấn đề là một niệm khi lâm chung của quý vị có đúng là Phật hiệu hay không? Vấn đề ở chỗ này! Nếu một niệm lúc lâm chung đích xác là Phật hiệu, tin tưởng pháp môn Tịnh Độ, đã phát nguyện, lại chịu niệm, chắc chắn vãng sanh. Liên Trì đại sư và Ngẫu Ích đại sư đã nói rất rõ ràng, bản thân chúng ta phải tin tưởng!
Do vậy, lúc bình thường niệm Phật công phu thành phiến, đấy thật sự là sám trừ nghiệp chướng, gọi là “chân sám hối”. Quý vị hiểu nghiệp chướng là gì? Trong tâm có ý niệm là nghiệp chướng. “Chân tâm vô niệm”: Trong chân tâm không có ý niệm, không có vọng niệm. Hễ khởi tâm động niệm thì đều là vọng tâm, vọng tâm là nghiệp chướng, là sanh diệt tâm. Do đây, có thể biết rằng: Niệm một câu Phật hiệu nhằm chế phục vọng niệm, tiêu nghiệp chướng, sám trừ nghiệp chướng. Niệm niệm sám trừ nghiệp chướng, niệm niệm Định – Huệ viên mãn, còn có pháp môn nào thù thắng hơn pháp môn này? Tôi học Phật ba mươi mấy năm, chưa tìm ra bất cứ pháp môn nào thù thắng hơn pháp môn này. Điều này là chân thật, chẳng hư dối; nhưng phải hiểu Lý. Không hiểu rõ Lý, tuy vẫn có thể vãng sanh, nhưng nó gây chướng ngại khiến phẩm vị của quý vị sẽ cao hay thấp. Do vậy, càng hiểu rõ Lý càng tốt. Chẳng thể hiểu Lý thì Hạ Phẩm Hạ Sanh cũng được, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ lo chuyện ấy cũng được. Tốt nhất là Lý và Sự quân bình, đó là lý tưởng nhất, Định và Huệ dễ dàng thành tựu. Có thể thấy là đại sư hoàn toàn chẳng bỏ những kẻ độn căn, Ngài nói rất có lý.
(Diễn) Cái dĩ độn nhân tự tri bất như, cân cân tự thủ, vô kiêu, vô thị, vô quá, vô phi.
(演) 蓋以鈍人自知不如,斤斤自守,無驕無恃,無過無非。
(Diễn: Ấy là vì người độn căn tự biết chẳng bằng ai, tự giữ gìn cẩn thận từng chút một, chẳng kiêu ngạo, chẳng ỷ y, không lỗi, không sai).
Nhất định vãng sanh. Do vậy, thường là người thông minh chẳng bằng kẻ ngu! Quả thật, ít có kẻ thông minh hay có tri thức vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, do họ có nhiều chướng ngại. Những bà cụ không biết chữ, chẳng hiểu biết gì, rất dễ vãng sanh! Họ chính là những người được nói tới ở đây. Những kẻ có học vấn, đúng như cổ nhân đã nói: “Thông minh phản bị thông minh ngộ” (Thông minh đâm ra bị thông minh gây lầm lạc), chẳng bằng bà cụ già, “vô kiêu, vô thị, vô quá, vô phi” (không kiêu, không ỷ mình, không lầm lỗi, không sai trái), thật thà niệm Phật, bà ta thật sự vãng sanh.
(Diễn) Lợi giả bất nhiên, cố ức chi dã.
(演) 利者不然,故抑之也。
(Diễn: Kẻ lợi căn không như vậy, cho nên phải chèn ép họ).
Người lợi căn chẳng thật thà; do vậy, họ học này nọ hết sức khó khăn. Tuy thông minh một chút, nhưng thông minh không được sử dụng đúng đắn, đấy là khuyết điểm của họ. Sự quở trách ở đây mang ý nghĩa ấy.
Chúng ta quay lại xem lời Sớ, lời đáp là “lợi giả ỷ tài cao cử” (kẻ lợi căn thường ỷ tài, cao ngạo), “cao cử” là ngạo nghễ, ngã mạn, “thường vị viễn thắng độn nhân” (thường nói mình vượt xa kẻ độn căn), tự cho mình là đúng, nghĩ mọi người chẳng sánh bằng mình.
(Sớ) Kim vị thử thuyết, sử chi họa hổ phất tựu, phản lạc nhất trù.
(演) 今為此說,使之畫虎弗就,反落一籌。
(Sớ: Nay vì hạng người này mà nói, khiến cho họ là những kẻ vẽ cọp chẳng thành, đâm ra thua mất một thẻ[15]).
Tôi vừa mới nói ý nghĩa này!
(Sớ) Ký bỉ tri phi, hồi tâm niệm Phật, phi viết ức chi, thật tích chi nhĩ.
(演) 冀彼知非,回心念佛,非曰抑之,實惜之耳。
(Sớ: Mong họ biết sai, hồi tâm niệm Phật, chứ không phải là chèn ép họ, thật ra là tiếc nuối cho họ).
Hai câu này nói quá hay, chẳng phải là chê trách, hạ thấp họ, mà thật ra là tiếc nuối giùm họ: Người thông minh trí huệ chịu niệm Phật, phẩm vị chắc chắn chẳng thuộc Trung Hạ phẩm. Lần này, tại Los Angeles, tôi gặp dịp cư sĩ Sử Hoằng Hy vãng sanh. Cụ năm nay bảy mươi bảy tuổi, viết di chúc rõ ràng, bảo với vợ: “Tôi biết trước lúc mất, không bị bệnh”. Trước hôm cụ qua đời một ngày, [nói mình] sắp về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Bà vợ không tin, bảo ông cụ ăn nói lăng nhăng. Ngày hôm sau, cụ vãng sanh. Buổi sáng hôm sau rất bình thường, sáng dậy ăn điểm tâm, đến trưa, bà cụ nấu cho chồng một chén bạch mộc nhĩ, cụ cũng ăn, mười một giờ rưỡi qua đời. Quý vị thấy đó, rất tự tại! Năm trước, ở Hương Cảng, tôi cũng gặp một vị lão cư sĩ, tám mươi mấy tuổi, cụ biết trước lúc mất một tháng, báo tin cho pháp sư Sướng Hoài. Tôi tin cư sĩ Sử Hoằng Hy tuyệt đối chẳng phải là đến ngày hôm trước mới biết, tôi tin cụ nhất định đã biết từ sớm, thật đấy, chẳng giả tí nào! Cụ sang thế giới Tây Phương làm Phật. Những người ấy đều là tấm gương sống động cho chúng ta, phải thật sự buông xuống mới đạt được cảm ứng. Đấy là người niệm Phật thành công. Chẳng chịu thật thà tu, chẳng chịu buông xuống, tức là tự mình chướng ngại chính mình. Do vậy, lời lẽ này của đại sư quả thật là mến tiếc những kẻ thông minh trí huệ, đặc biệt răn nhắc chúng ta: Niệm Phật phải chú trọng Sự Trì, ngàn vạn phần đừng nên chấp Lý phế Sự, kẻo hỏng mất. Phải biết trong thời kỳ Mạt Pháp, thật sự thành tựu chỉ có pháp môn này.
Trước mắt, Điền phu nhân cũng là một tấm gương tốt, cũng có rất nhiều người quý vị biết bà ta, tức cư sĩ Diệp Mạn[16]! Tôi biết bà ta chưa lâu, tuy nghe nói bà ta rất nổi tiếng, nhưng trước kia tôi không biết người này. Tôi từng nghe người khác kể, trước kia, khi bà ta giảng giải Phật Học bèn hủy báng Tịnh Độ, bảo Tịnh Độ chẳng đáng một đồng, bà ta học Thiền. Năm ngoái, tôi sang giảng kinh ở Los Angeles, bà ta đến nghe một lần, sau đấy trở về Đài Loan, bà ta thường đến nghe kinh, nghe xong, bảo tôi: “Tôi nghĩ mà rất hổ thẹn, đại khái là trừ niệm Phật ra, không có con đường thứ hai nào dễ đi cả!” Năm nay tôi ở Mỹ, bà ta cũng đi các nơi giảng giải Phật học, bà nói khác hẳn lúc trước một trăm tám mươi độ, hoàn toàn tán thán Tịnh Độ, chẳng giảng Thiền, thật chẳng dễ dàng!
Tịnh Độ thành tựu là đới nghiệp vãng sanh, là công phu thành phiến, thứ công phu này mỗi cá nhân chúng ta đều có thể làm được, thật sự có thể thành tựu. Thiền và Mật, theo tôi thấy đều chẳng thể thành tựu. Chắc cũng có vị muốn nói: “Thầy chưa hề tham Thiền!” Tuy tôi chưa hề tham Thiền, nhưng khẩu đầu Thiền rất cao minh! Trong nhà Thiền, trọng yếu nhất là kinh Kim Cang, Lục Tổ Đàn Kinh, Chứng Đạo Ca của Vĩnh Gia đại sư, Thiền Tông Tập, Đại Châu Hòa Thượng Ngữ Lục, tôi đều giảng nhiều lần. Do vậy, nói tới Khẩu Đầu Thiền, không ai sánh bằng tôi, tôi biết giảng, nhưng quý vị hỏi tôi: “Làm được hay không?” Thưa quý vị, tôi không làm được! Tôi nói được, nhưng không làm được. Tôi nói thật với quý vị, đừng nói tới những thứ Thượng Thượng Thiền xuất thế gian, Thiền Định thấp nhất trong thế gian tôi làm chưa được, đều chẳng dễ gì tu tập được.
Trong Thiền, thấp nhất là Sơ Thiền Thiên của Sắc Giới, tách khỏi Dục Giới. Dục Giới là gì? Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, tiếng tăm, lợi dưỡng. Những thứ tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ bày ra trước mắt, quý vị có còn động tâm hay chăng? Nếu vẫn còn động tâm, Thiền của quý vị là Khẩu Đầu Thiền, là Dã Hồ Thiền, tôi cũng nói được mà! Quý vị động tâm thì nói cách khác, quý vị chẳng rời khỏi Dục Giới, chẳng thể vượt thoát Dục Giới trong tam giới! Pháp sư Quảng Khâm suốt đời tham Thiền, nay dạy người khác niệm Phật. Lão hòa thượng Hư Vân trong cuốn Khai Thị Lục cuối cùng của Ngài, hơn chín mươi phần trăm là khuyên người khác niệm Phật.
Mật lại càng chẳng cần phải nói nữa. Những thói tệ của Mật rất nhiều, không cách nào kể xiết[17]. Thầy của tôi là Thượng Sư Mật Tông, Phật pháp của tôi được Chương Gia đại sư đặt vững nền tảng, tôi theo học với Ngài ba năm. Do vậy, những lề lối trong Mật Tông tôi hoàn toàn biết rõ. Không phải là tôi không hiểu, tôi cũng hiểu, tôi cũng là kẻ rất am hiểu! [Mật Tông] chắc chắn chẳng phải là kẻ sơ học mà hòng tu được! Mật và Thiền có tốt hay không? Tốt chứ! Quá tốt! Có phải học hay không? Phải học! Khi nào học? Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới mới học. A Di Đà Phật là vị Kim Cang Thượng Sư cao minh nhất, học với Ngài, tuyệt đối chẳng bị đi vào ngõ rẽ, con đường này ổn thỏa, thích đáng hơn nhiều! Hiện thời, trong thế gian này, tìm một vị thầy, trong kinh Lăng Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni nói rất hay, trong thời đại hiện tại, “tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”, yêu ma quỷ quái đều xuất gia, đều mặc ca-sa, đều dùng thân phận đại pháp sư xuất hiện trong thế gian, đều là yêu ma, quỷ quái, quý vị học với họ, lẽ nào chẳng lạc đường?
Do vậy, ngày nay tìm thầy khó lắm! Có người hỏi: Ông chẳng phải là yêu ma quỷ quái ư? Lẽ nào ông là thiện tri thức thật sự ư? Tôi thưa với quý vị, tôi chẳng phải là thiện tri thức, cũng chẳng phải là yêu ma, quỷ quái. Tôi giảng kinh ở các nơi, tôi chẳng dám tự nhận lấy thân phận làm thầy, chúng ta là đồng học. Chúng ta có thầy, thầy là ai? Là Liên Trì đại sư. Bản chú giải này là của Liên Trì đại sư, chúng ta tôn Liên Trì đại sư làm thầy. Nay tôi ở đây cùng với quý vị nghiên cứu lời giáo huấn của thầy, vị thầy này khá lắm! Năm trăm năm trước mọi người đều công nhận Ngài là thiện tri thức. Ngoài vị thầy này ra, còn có một vị thầy nữa: Ấn Quang đại sư. Nay chúng ta học với hai vị: Học theo ngài Liên Trì và ngài Ấn Quang. Do vậy, chúng ta đọc tụng, nghiên cứu, thảo luận, phạm vi giới hạn trong Liên Trì Đại Sư Toàn Tập và Ấn Quang Đại Sư Văn Sao. Chúng ta có hai thứ ấy, quyết định có thể vãng sanh, quyết định chẳng bị hỏng chuyện.
Do vậy, tôi với mọi người có thân phận đồng học, tôi học sớm hơn quý vị vài năm, chỉ như thế mà thôi! Phải nhận biết đường lối rõ ràng, thầy đã chọn chắc rồi! Người hiện thời thì sao? Tôi là phàm phu mắt thịt, tôi nhìn không ra, chẳng dám, vạn nhất gặp phải yêu ma quỷ quái, làm thế nào bây giờ? Chẳng phải là hỏng mất đại sự ư? Vì thế, đối với người hiện thời, chúng ta không có huệ nhãn để chọn lựa, chúng ta tìm cổ nhân. Cổ nhân được mọi người công nhận, tìm cổ nhân tôn làm thầy, làm tư thục đệ tử của cổ nhân sẽ không mắc khuyết điểm quá lớn, chúng ta có thể an tâm. Do vậy, nếu quý vị hỏi “thầy của ông là ai?” Thầy của tôi là Liên Trì đại sư, mọi người chẳng nói gì được nữa!
Tam, kết thán.
(Tự) Toại sử thùy thủ đồ cần, ỷ môn không vọng, thượng cô Phật hóa, hạ phụ kỷ linh, kim sanh dĩ cập đa sanh, nhất ngộ nhi thành bách ngộ, cam tâm khổ thú, thúc thủ tử môn, vô cứu, vô quy, khả bi, khả thống.
三、結歎。
(序) 遂使垂手徒勤,倚門空望,上孤佛化,下負己靈。今生以及多生,一誤而成百誤,甘心苦趣,束手死門,無救無歸,可悲可痛。
(Ba, kết lại lời than thở.
Tựa: Khiến cho [đấng Từ Phụ] uổng công siêng khổ duỗi tay [tiếp dẫn], tựa cửa ngóng nhìn suông, trên cô phụ sự giáo hóa của Phật, dưới phụ bạc linh tánh của chính mình, đời này cùng nhiều đời, lầm lẫn một điều thành trăm điều lầm lẫn, cam lòng ở trong nẻo khổ, bó tay nơi cửa tử, không được cứu, không chỗ quay về, đáng buồn, đáng đau thay!)
Đây là tổng kết ý nghĩa của đoạn văn trước đó: Những kẻ tự cậy mình thông minh, chẳng thuộc loại cuồng huệ thì cũng là tu mù, thật đáng tiếc! Mấy câu này của đại sư cảm thán vô hạn.
(Diễn) Toại sử thùy thủ đồ cần giả.
(演) 遂使垂手徒勤者。
(Diễn: Khiến cho [đấng Từ Phụ] uổng công siêng khổ duỗi tay [tiếp dẫn]).
Câu này nói về A Di Đà Phật.
(Diễn) Di Đà từ phụ, chung nhật thùy kim sắc tý, tiếp dẫn niệm Phật chúng sanh, chúng sanh bất khẳng niệm Phật, thị thùy thủ đồ cần.
(演) 彌陀慈父,終日垂金色臂,接引念佛眾生,眾生不肯念佛,是垂手徒勤。
(Diễn: Di Đà từ phụ, suốt ngày duỗi cánh tay sắc vàng, nhằm tiếp dẫn chúng sanh niệm Phật, nhưng chúng sanh chẳng chịu niệm Phật, đó là “uổng công siêng năng duỗi cánh tay”).
Quý vị nhìn thấy tượng A Di Đà Phật duỗi tay, thời thời khắc khắc mong quý vị đến, quý vị chẳng chịu đến, có cách nào bây giờ? Quý vị phải chịu đến, phải niệm Phật. Pháp môn này chỉ cần đầy đủ ba điều kiện: Tín, Nguyện, Hạnh. Đầy đủ ba điều kiện này, chắc chắn vãng sanh. Ba điều kiện này là nội dung của bộ kinh này. Do vậy, chúng ta tốn thời gian mấy năm để nỗ lực nghiên cứu, thảo luận bộ kinh này rất đáng công! Hiểu rõ lý luận, sẽ hiểu phương pháp, tin sâu, phát nguyện, y giáo phụng hành, một đời này của chúng ta là thân cuối cùng luân hồi trong sáu nẻo của thế giới Sa Bà, đời sau chẳng luân hồi nữa, đời sau vượt thoát lục đạo. Chuyện này rất có ý nghĩa, chúng ta mới thật sự chẳng bỏ uổng đời này. Con người sống trong thế gian này, những “được, mất” trong thế gian này là giả, chẳng thật, được sanh về thế giới Tây Phương là thật, chẳng giả! Do vậy, nhất định phải hiểu rõ chân – giả, thị – phi.
(Diễn) Di Đà chung nhật vọng chúng sanh cầu sanh Tịnh Độ, như từ mẫu ỷ môn vọng tử, chúng sanh bất khẳng niệm Phật, thị ỷ môn không vọng.
(演) 彌陀終日望眾生求生淨土,如慈母倚門望子,眾生不肯念佛,是倚門空望。
(Diễn: Phật Di Đà suốt ngày mong chúng sanh cầu sanh về Tịnh Độ như mẹ hiền tựa cửa ngóng chờ con, chúng sanh chẳng chịu niệm Phật là “tựa cửa ngóng nhìn suông”).
Đây là nói tỷ dụ. Mấy câu dưới đây là nói theo phương diện biểu thị pháp. Biểu thị pháp rất trọng yếu; hiểu những pháp được biểu thị thì mới thật sự hiểu được nghĩa thú trong bộ kinh này.
(Diễn) Nhược ước Lý quán giả.
(演) 若約理觀者。
(Diễn: Nếu nhìn theo mặt Lý thì…)
Nhìn từ mặt Lý.
(Diễn) Thủ biểu đề huề chi bi.
(演) 手表提攜之悲。
(Diễn: Tay biểu thị lòng bi nâng đỡ).
Bi tâm, [Phật duỗi tay] biểu thị đại từ đại bi.
(Diễn) Mục biểu chiếu liễu chi Trí.
(演) 目表照了之智。
(Diễn: Mắt biểu thị Trí chiếu soi thấu suốt).
Con mắt biểu thị trí huệ. Tay là tay từ bi, mắt là mắt trí huệ.
(Diễn) Đồng thể chi bi, bất ly chúng sanh, vi thùy thủ thâm uyên. Tự nhiên chi trí, biến tại lục thú, vi ỷ môn vọng tử.
(演) 同體之悲,不離眾生,為垂手深淵。自然之智,遍在六趣,為倚門望子。
(Diễn: Lòng Bi đồng thể, chẳng lìa chúng sanh, là duỗi tay xuống tận vực sâu. Trí tự nhiên trọn khắp sáu đường là tựa cửa ngóng chờ con).
Mấy câu này thật sự rất quan trọng, nói rõ mối quan hệ giữa A Di Đà Phật và chúng ta. Nếu mối quan hệ này chẳng mật thiết, chúng ta sẽ hoài nghi Ngài: Ngài muốn tôi đến nơi đó là vì ý gì? Tôi còn suy xét, so đo, để khỏi bị Ngài lừa! Trước hết, phải hiểu rõ mối quan hệ, nếu đó là người thân của chúng ta như cha mẹ, quý vị sẽ an tâm, chẳng còn phải đắn đo nữa. Vậy thì A Di Đà Phật rốt cuộc là người như thế nào đối với chúng ta? Ngài và chúng ta có cùng một Thể. Nói ra điều này chắc mọi người rất khó tin tưởng! Quả thật chẳng dễ gì tin tưởng được! Nhưng câu nào trong kinh điển cũng là lời chân thật, tuyệt đối chẳng phải là vọng ngữ. Nếu muốn hiểu rõ chuyện này, phải đổ công sức kha khá nơi bộ Di Đà Sớ Sao này. Một bộ Di Đà Sớ Sao là đủ rồi! Nói thật ra, những lý luận ấy nằm trong Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Viên Giác, nhưng kinh văn của các bộ đại kinh, đại luận hoàn toàn được trích dẫn trong bản chú giải Di Đà Kinh Sớ Sao này. Do vậy, quý vị đọc bộ này là đủ rồi, chẳng cần phải đọc những bộ đại kinh, đại luận nữa, có bộ sách này là được rồi!
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (nên quán tánh pháp giới, hết thảy chỉ do tâm tạo). Mười pháp giới, trên từ Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, dưới là lục đạo chúng sanh, được gọi là mười pháp giới. Mười pháp giới do đâu mà có? Từ tự tánh của chúng ta biến hiện ra. A Di Đà Phật và Tây Phương Tịnh Độ chẳng ra ngoài lệ ấy, từ tự tánh giác của chúng ta biến hiện ra. Hiện tại, thế giới Sa Bà của chúng ta cũng do tự tánh biến hiện ra, do tự tánh mê biến hiện ra. Trong tự tánh của chúng ta có mê và ngộ, giác thì biến hiện thành cảnh giới của Phật, Bồ Tát; mê thì biến hiện thành cảnh giới của lục đạo luân hồi. Trong khóa tụng chúng ta cũng đọc thấy: “Tam thế nhất thiết Phật, cộng đồng nhất Pháp Thân, nhất tâm, nhất trí huệ” (Ba đời hết thảy Phật, cùng chung một Pháp Thân, một tâm, một trí huệ), hoàn toàn nói về tự tánh. Do vậy, nói theo tự tánh thì gọi là lòng Bi đồng thể.
Chúng ta và A Di Đà Phật có cùng một bản thể, Triết Học hiện đại gọi [bản thể ấy] là bản thể của nhân sinh vũ trụ. Chúng ta có cùng một bản thể, cùng một căn bản. Do vậy, gọi là “đồng thể đại bi, vô duyên đại từ”, “duyên” là điều kiện, “từ” là yêu thương. “Vô duyên” là không có điều kiện, là từ bi thật sự. Nếu quý vị chẳng hiểu rõ đồng thể cho lắm, chúng tôi nêu lên một tỷ dụ. Ví như tay trái của chúng ta bị muỗi chích, tay phải liền xua đuổi nó. Tay phải giúp đỡ tay trái, vì sao tay phải muốn giúp đỡ? Đồng thể!
Chúng ta và A Di Đà Phật có quan hệ như vậy, A Di Đà Phật rõ ràng đồng thể với chúng ta. Chúng ta nghĩ Ngài chẳng đồng thể với chúng ta, đã quên sạch rồi; thật ra, thật sự là đồng thể, quan hệ hết sức thân mật, nên Ngài mới thường duỗi tay tiếp dẫn chúng ta, nhưng bản thân chúng ta mê mất, quên tuốt, chẳng thừa nhận.
(Diễn) Đồ cần không vọng, thị Chân Như nội huân vô minh, nhi vô minh toàn bất cố Chân Như dã.
(演) 徒勤空望,是真如內熏無明,而無明全不顧真如也。
(Diễn: “Uổng công siêng năng, ngóng chờ suông” là Chân Như hun đúc vô minh bên trong, nhưng vô minh hoàn toàn chẳng đoái hoài Chân Như).
“Chân Như nội huân vô minh” là A Di Đà Phật tiếp dẫn; “vô minh toàn bất cố Chân Như” là chúng ta chẳng muốn niệm Phật, chẳng cầu vãng sanh. Đây là nói theo Lý, nhưng cần hiểu rằng: Lý là Lý trong Sự, Sự là Sự trong Lý, Lý và Sự là một, chẳng phải hai. Hiểu rõ Lý, quý vị mới tin tưởng Sự này; có tin tưởng Sự này thì mới có thể thông đạt Lý. Như vậy thì mới có thể thật sự đạt đến Lý Sự vô ngại.
Chúng sanh mê hoặc, điên đảo, cô phụ sự giáo hóa của đức Phật, “thượng cô Phật hóa” (trên phụ bạc sự giáo hóa của Phật), chữ Phật ở đây chỉ hai vị Phật: Thứ nhất là phụ bạc Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta, chúng ta chẳng nghe, tự cho mình là đúng, đó là cô phụ sự giáo hóa của Phật. Đối với chúng sanh, đức Phật giáo hóa mỗi người mỗi khác. Ví như cha mẹ dạy con cái, cá tánh và tính tình của mỗi đứa con khác nhau. Có đứa rất vâng lời, có đứa rất lì lợm. Do vậy, chẳng thể dùng một phương pháp để dạy bảo chúng nó. Đối với chúng sanh rất vâng lời, dạy kẻ ấy niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, chẳng cần phải nhọc lòng, nhất định thành tựu. Đối với chúng sanh rất lì lợm, dùng đủ mọi phương pháp để điều phục kẻ ấy, rất cực lòng! Phải tốn một thời gian dài mới có thể thành tựu. Trong kinh, đức Phật đã nói rất rõ ràng: “Thời kỳ Chánh Pháp, Giới Luật thành tựu; thời kỳ Tượng Pháp, Thiền Định thành tựu; thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh Độ thành tựu”. Nay chúng ta đang sống trong thời kỳ Mạt Pháp, nếu quý vị tu Tịnh Độ là rất vâng lời. Nếu quý vị học Thiền, học Giới, tức là không chịu nghe lời, cô phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Đồng thời lại cô phụ A Di Đà Phật.
A Di Đà Phật hằng ngày trông ngóng chúng ta sanh về Tây Phương, chúng ta chẳng chịu về. Nhất định phải hiểu rõ nỗi khổ tâm của Phật, Bồ Tát. Do vậy, trên chẳng xứng với Phật, dưới chẳng xứng với chính mình. Nếu chính mình không có cơ duyên này thì chẳng nói làm chi, cơ duyên khó có được! Thật sự đúng như trong bài Khai Kinh Kệ đã nói, “trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ”. Đời này, chúng ta thật sự nhiều thiện căn, nhiều phước đức, nên mới gặp được duyên phận này, quả thật chẳng dễ gì gặp được! “Hạ phụ kỷ linh” (dưới là phụ bạc linh tánh của chính mình), chúng ta gặp được, nếu chẳng chịu học đàng hoàng, tức là cô phụ chính mình.
Nếu quý vị suy nghĩ nhiều phen, [sẽ thấy] cửa Phật rộng lớn, tám vạn bốn ngàn pháp môn, cớ sao quý vị gặp đúng một môn này? Đúng là chẳng dễ dàng. Do vậy, gặp được thì phải thật sự tu. Quý vị chẳng chịu nỗ lực, [tức là] cô phụ chính mình đấy!
(Diễn) Kim sanh, đa sanh, nhất ngộ bách ngộ giả, kim sanh ngộ thử thù thắng pháp môn.
(演) 今生多生,一誤百誤者,今生遇此殊勝法門。
(Diễn: “Đời này, nhiều đời, lầm một, lầm cả trăm”: Đời này gặp được pháp môn thù thắng này).
Thật đúng là thù thắng.
(Diễn) Như cửu khách tha hương, sạ văn gia tín, ưng đương dũng mãnh tinh tấn, cầu nguyện vãng sanh.
(演) 如久客他鄉,乍聞家信,應當勇猛精進,求願往生。
(Diễn: Như khách xa quê lâu ngày, vừa mới nghe tin nhà, hãy nên dũng mãnh, tinh tấn cầu nguyện vãng sanh).
Chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay sanh tử luân hồi trong lục đạo, đây là nỗi sỉ nhục không chi lớn bằng! Những người cùng ở với chúng ta trong thuở ấy, ai sẽ thành Phật thì đã thành Phật, ai nguyện làm Bồ Tát thì đã là Bồ Tát, chúng ta vẫn ở trong sanh tử luân hồi, chúng ta phải nên cảnh giác điều này. Đừng nói đời quá khứ, hãy nói về đời hiện tại này, trong số các đồng tu, tôi vừa mới nhắc tới cư sĩ Sử Hoằng Hy, cụ đã vãng sanh, đã giải thoát rồi, đúng là lìa khỏi tam giới lục đạo. Nay chúng ta vẫn chưa xuất ly! Sử cư sĩ cả đời thất ý trên con đường công danh: Sau khi đất nước độc lập, cụ làm tư lệnh quân đồn trú ở Cơ Long; tiên sinh Bành Mạnh Tập làm tư lệnh quân đội đồn trú ở Cao Hùng, đường công danh rất đắc ý, còn đường công danh của cụ Sử chẳng thuận lợi! Sau khi làm tư lệnh quân đồn trú, cụ làm sĩ quan tham mưu cao cấp tại Bộ Quốc Phòng mãi cho đến khi nghỉ hưu. Suốt đời chẳng toại chí. Do vậy, cụ thật thà niệm Phật, nay cụ đã thành Phật, chúng ta đâu thể sánh bằng!
Vì thế, được hay mất không nhất định, mất cái này, được cái khác. Cái mà cụ thật sự đạt được lần này không một ai có thể sánh bằng. Đây là một vị đồng tu ở ngay trước mắt chúng ta, chúng ta phải nỗ lực theo gót cụ, chớ nên tụt hậu. Nếu chúng ta vãng sanh, vẫn phải bị bệnh một trận rồi mới vãng sanh thì chúng ta vẫn chẳng bằng cụ, cụ không bị bệnh! Đấy mới là chẳng cô phụ chính mình, mới là chẳng cô phụ những vị lão đồng tham. Tu những pháp môn khác, chẳng trông cậy được, thật đấy! Chúng ta thấy rất nhiều trường hợp nhãn tiền rồi! Do vậy, hãy nên dũng mãnh, tinh tấn cầu nguyện vãng sanh.
(Diễn) Nhi nãi du du dương dương, mạc nhiên bất cố, khởi phi đại ngộ?
(演) 而乃悠悠揚揚,漠然不顧,豈非大誤。
(Diễn: Mà cứ rề rà, mặc kệ chẳng đoái hoài, há chẳng phải là lầm lẫn to lớn ư?)
Như vậy thì sẽ làm hỏng đại sự liễu sanh tử đấy nhé! Đời này trong thế gian, chúng ta phải coi đại sự sanh tử là chuyện lớn bậc nhất, chuyện gì lầm lẫn cũng chẳng sao, chuyện này chẳng thể lỡ làng được! Nếu lỡ làng đời này, phiền phức lớn lắm!
(Diễn) Hựu bất duy kim sanh chi ngộ, kim sanh dĩ cập đa sanh, nhất ngộ nhi thành bách ngộ dã.
(演) 又不唯今生之誤,今生以及多生,一誤而成百誤也。
(Diễn: Lại nữa, chẳng phải chỉ lầm lạc đời này, mà đời này cùng với nhiều đời, lầm lạc một điều, trở thành trăm điều lầm lạc)
Nếu chúng ta bỏ uổng đời này, đời sau có được làm thân người hay chăng? Chẳng dám quả quyết! Nếu muốn đời sau được làm thân người, đời này quý vị phải thực hiện Ngũ Giới Thập Thiện thì mới đạt tới tiêu chuẩn. Tuy đã thọ Ngũ Giới, thậm chí thọ Bồ Tát Giới, nhưng quý vị chưa làm đúng cách thì vô ích! Khó! Quá ư là khó! Trong kinh điển, đức Phật đã nói rất nhiều: Sau khi đã mất thân người, lại được làm thân người là chuyện hết sức khó khăn! Dẫu được làm thân người, có cơ hội nghe nói tới Phật pháp hay không? Quý vị thấy toàn thế giới ngày nay có bốn mươi ức người, bao nhiêu người được nghe Phật pháp? Tỷ lệ không cân xứng! Quý vị có được may mắn như thế hay chăng? Có được nghe Phật pháp hay chăng? Dẫu được nghe Phật pháp, có được nghe Tịnh Độ nữa hay chăng? Người nghe Phật pháp cũng chẳng ít, có mấy ai được nghe Tịnh Độ? Cứ loại bỏ từng tầng một, loại trừ đến cuối cùng, chẳng còn sót lại mấy ai!
Do vậy, đời này chúng ta gặp được cơ duyên này, quyết định chẳng để luống uổng. Đời quá khứ, có lẽ là chúng ta cũng bỏ lỡ nhiều lượt rồi, đời này chớ nên bỏ lỡ lần nữa! Dưới đây, sách Diễn Nghĩa dẫn một câu nói của cổ nhân để kết luận.
(Diễn) Cổ vân: “Hiệp lộ tương phùng như bất tiến, giá hồi yếu kiến định hoàn nan”, thị dã.
(演) 古云:狹路相逢如不薦,這回要見定還難,是也。
(Diễn: Cổ nhân nói: “Đường hẹp gặp nhau không đón lấy, lần sau muốn gặp khó khôn cùng!” là nói về chuyện này vậy)
Đây là tỷ dụ những ý nghĩa vừa được nói trên đây, nhất định phải thành tựu, chẳng thể lỡ làng lần nữa! Nếu chẳng sốt sắng tu học, chính là quý vị “cam tâm khổ thú, thúc thủ tử môn, vô cứu, vô quy, khả bi, khả thống” (đành lòng ở trong nẻo khổ, bó tay nơi cửa tử, không ai cứu, không nơi quay về, đáng buồn, đáng đau). “Khổ thú” là lục đạo luân hồi trong thế giới Sa Bà. Quý vị cam tâm luân hồi trong lục đạo, còn có cách nào nữa đây? Đời người có ý nghĩa gì? Đời người có gì đáng giá? Ngày nay, nhiều người cao đàm khoát luận (bàn luận những chuyện viễn vông, thiếu thực tế), bàn luận ý nghĩa và giá trị của đời người. Thật ra, nói xuyên suốt thì đời người từ lúc lọt lòng cho đến khi bước vào mộ, mỗi ngày càng gần [cái chết] hơn, chẳng chịu bỏ lỡ mỗi phút, mỗi giây nào, đời người có ý nghĩa như vậy đó, có giá trị như vậy đó, đợi đến khi Diêm Vương bắt, quý vị mang theo được thứ gì ra đi? Thứ gì cũng chẳng mang theo được. Nói cách khác, chẳng có ai không đang chờ chết! Phải giác ngộ, đấy chính là “bó tay nơi cửa tử, không ai cứu, không chỗ quay về”! Có thể trốn thoát hay chăng? Được chứ! Người chịu niệm Phật, thật sự có thể thoát khỏi sự khống chế của vua Diêm La, quý vị phải chịu tu!
Năm nay, tôi ở ngoại quốc hơi lâu một chút, ở Hương Cảng hai tháng, ở nước Mỹ bảy tháng. Sau khi trở về, nghe có người nói: Tôi muốn bỏ lửng, không trông nom đạo tràng này, bỏ chạy, có rất nhiều nơi trách móc. Thật ra, nếu mọi người chịu lắng lòng suy nghĩ, quý vị sẽ hiểu đấy là chuyện tôi nên làm. Đặc biệt là ở Mỹ, tại Mỹ không có Tịnh Độ. Tại Mỹ cũng không có ai dám nói Tịnh Độ, vì sao? Quý vị nói Tịnh Độ, mọi người sẽ chê cười. Vì sợ người ta chê cười, dẫu chính mình niệm Phật, nhưng người ta hỏi tới, vẫn chẳng dám thừa nhận mình là người niệm Phật, vẫn phải nói tôi tham Thiền, vẫn phải nói giả dối, khởi vọng ngữ, giữ thể diện, quý vị nói xem còn có cách nào nữa chăng? Tôi sang Mỹ hoằng dương Tịnh Độ, lót đường từ ba năm trước. Do vậy, năm đầu tiên tôi không giảng Tịnh Độ, mà giảng Mật, giảng Thiền, tôi biết giảng! Tôi ở Mỹ quốc giảng kinh Kim Cang, Lục Tổ Đàn Kinh, giảng Mật cũng chẳng ít, lót đường mà! Rồi tôi bảo họ: Thiền và Mật tôi đều hiểu, tôi chẳng phải là kẻ không thông hiểu [những pháp môn ấy]. Giáo tôi cũng hiểu, năm ngoái, tôi sang đó giảng kinh Hoa Nghiêm. Năm nay, tôi sang đó giảng Tịnh Độ, mọi người chẳng dị nghị. Những gì quý vị hiểu tôi đều hiểu, tức là tôi hiểu những pháp đó, chứ quý vị vẫn chưa hiểu! Cho nên rất nhiều người học Thiền, học Mật đều quay đầu. Có người quay đầu hoàn toàn, có người quay đầu nửa chừng, quay đầu nửa chừng là sao? Khi họ nghe giảng thì tin tưởng, cũng niệm Phật. Quý vị hỏi họ: “Ông còn cần đến Thiền và Mật hay không?” “Tôi tạm thời vẫn chưa buông xuống được!” Vẫn là muốn thử xem có linh hay không! Còn thử xem linh hay không là quay đầu nửa chừng, chưa quay đầu hoàn toàn! Đủ thấy là tôi sang ngoại quốc chẳng uổng công, quả thật đã khiến cho không ít người quay đầu. Quay đầu là bờ!
(Sớ) Thùy thủ giả, cổ vân: “Tẩu nịch viện chi dĩ thủ”. Ỷ môn giả, Vương Tôn Cổ mẫu vân: “Nhữ triêu xuất nhi bất hoàn, tắc ngô ỷ môn nhi vọng”.
(演) 垂手者,古云:嫂溺援之以手。倚門者,王孫賈
母云:汝朝出而不還,則吾倚門而望。
(Sớ: “Duỗi tay” là như cổ nhân nói: “Chị dâu chết đuối, [em chồng] đưa tay cứu giúp”. “Tựa cửa” là như mẹ ông Vương Tôn Cổ nói: “Buổi sáng ngươi ra khỏi nhà [mà tối] chưa về, ta tựa cửa trông ngóng”).
Những điều này không cần phải nói nhiều. “Duỗi tay” và “tựa cửa” đều có điển cố, đều là những từ ngữ có xuất xứ.
(Sớ) Kim vị chúng sanh một ư khổ thú.
(演) 今謂眾生沒於苦趣。
(Sớ: Ở đây có ý nói: Chúng sanh chìm đắm trong nẻo khổ).
“Một” (沒) có nghĩa là thoạt xuất hiện, thoạt biến mất. “Khổ thú”: Nói thật ra, sáu nẻo đều khổ, chứ chẳng phải chỉ có tam đồ. Tam đồ quá khổ! Nay chúng ta sanh trong nhân gian, hãy suy nghĩ cặn kẽ, trong thế gian này có vui sướng hay chăng? Nếu nói thế gian có vui sướng, quý vị đã mê hoặc, điên đảo. Nếu quý vị hiểu đời người là khổ, quý vị đã giác ngộ. Thế gian không có vui, chỉ có khổ, chẳng vui!
Vui là gì? Vui là khổ tạm thời ngưng nghỉ. Quý vị cảm thấy vui, thật ra là [khổ] tạm ngừng mà thôi! Ví như quý vị một bữa không ăn, đói bụng rất khổ, đến khi cho quý vị ăn một bữa, vui sướng, chữa trị cái bệnh khổ ấy. Thế nhưng mấy tiếng đồng hồ sau lại không được rồi, bệnh khổ lại đổ ra, lại phải trị liệu lần nữa. Đấy là rất khổ! Thân thể này là cái thân bệnh, bị bệnh đói, mỗi ngày phải “uống thuốc” ba lần, mỗi lần không uống thuốc sẽ chẳng cảm thấy tự tại. Quý vị thật sự nghĩ thông suốt chuyện này, sẽ hiểu con người thật sự khổ sở, chẳng vui sướng. Trời lạnh phải mặc y phục, trời nóng phải toát mồ hôi, khổ quá! Sao không khổ cho được? Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, không có những nỗi khổ ấy, hằng ngày chẳng cần ăn, không ăn cơm bao năm cũng chẳng đói, tự tại lắm! Chúng ta thường nói “vị y thực bôn ba” (bươn chải vì cơm áo), Tây Phương Cực Lạc thế giới không nghe nói những lời này! Có chỗ tốt lành này, chúng ta nhất định muốn sang đó mới là người thông minh. “Một ư khổ thú” (chìm đắm trong nẻo khổ), tam giới đều là khổ!
(Sớ) Phật viện chi như thùy thủ thâm uyên.
(演) 佛援之如垂手深淵。
(Sớ: Phật giúp đỡ như duỗi tay [cứu người sa chân nơi] vực thẳm).
Đức Phật đến giúp đỡ chúng ta, làm Tăng Thượng Duyên cho chúng ta, giống như chúng ta rơi trong biển cả rất sâu, đức Phật duỗi tay giúp đỡ, cứu độ chúng ta.
(Sớ) Chúng sanh bối giác hiệp trần, Phật niệm chi như ỷ môn vọng tử.
(演) 眾生背覺合塵,佛念之如倚門望子。
(Sớ: Chúng sanh trái nghịch tánh giác, xuôi theo trần lao, đức Phật nghĩ nhớ như mẹ tựa cửa ngóng con).
“Giác” (覺) là giác ngộ, “trần” (塵) là trần lao, mê hoặc. Chúng sanh trái nghịch tánh giác của chính mình, tâm bị cảnh giới xoay chuyển, “trần” là lục trần. Tâm chuyển theo cảnh, khổ lắm! Hôm nay có đồng tu đến hỏi tôi: Trong nhà ông ta thờ một bức tượng Thích Ca Mâu Ni Phật, có người bảo ông ta: “Không được! Thờ tượng Phật thì hết thảy duyên phận đều chẳng dám đến nhà nữa”. Tôi nói: “Duyên phận gì?” [Ông ta trả lời]: “Thăng quan, phát tài, sanh con đẻ cái, những duyên phận ấy đều chẳng dám tới”. Tôi bảo ông ta: “Ai bảo ông thế?” Ông ta nói: “Có người bảo với con”. “Tôi cho ông biết: Kẻ ấy là yêu ma quỷ quái! Từ xưa đến nay, hoặc ngay trong hiện tại, bao nhiêu người thờ hình tượng Phật, Bồ Tát, trong nhà chuyện gì cũng cát tường như ý”. Quý vị hãy đọc A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung Kinh, cúng dường Phật, Bồ Tát, chỉ có kẻ nào chẳng dám tới? Yêu ma quỷ quái chẳng dám đến cửa. Kẻ nói lời ấy đúng là yêu ma quỷ quái, mong quý vị sẽ vứt tượng Phật, Bồ Tát đi để chúng nó vào cửa cho tiện. Hiện thời, quá nhiều lời lẽ bịa đặt, yêu ngôn mê hoặc lòng người, trong tâm chúng ta luôn phải hiểu rõ! Nói cách khác, người học Phật đừng nên đoán mạng, xem tướng, xem Phong Thủy, đừng dùng tới chúng! Người học Phật không gì chẳng tự tại, không gì chẳng cát tường. Phong Thủy tốt là gì? Quý vị thấy đó, trong tâm rất hoan hỷ, rất thỏa ý, đó là Phong Thủy tốt. Đừng nghe những lời bịa đặt đồn thổi của kẻ khác, thật đáng thương! Bị người ta lợi dụng, nói những câu khó nghe, bị người khác xoay mòng mòng, đó mới là ngu si! Do vậy, đừng tin tưởng những thứ đó, phải tin vào chính mình. Niệm niệm thân tâm thanh tịnh, hãy nên trái trần, hiệp giác, đó mới là đúng. Đừng bị cảnh giới chuyển, phải chuyển cảnh giới!
(Sớ) Viện chi tuy ân, niệm chi tuy thiết, thâm trầm bất khởi, viễn thệ vô hoàn, thị cô Phật hóa dã.
(演) 援之雖殷,念之雖切,深沉不起,遠逝無還,是孤佛化也。
(Sớ: Tuy giúp đỡ ân cần, dẫu nghĩ nhớ thiết tha, nhưng [lòng phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ] chìm sâu, chẳng dấy lên, trốn đi xa chẳng trở về, đó là cô phụ sự giáo hóa của Phật vậy).
Những điều này đều nhằm tỷ dụ [chúng sanh] cô phụ sự giáo hóa của Phật, chẳng chịu quay đầu.
(Sớ) Hạ phụ giả.
(演) 下負者。
(Sớ: Dưới là phụ bạc…)
“Hạ phụ” là cô phụ chính mình.
(Sớ) Phàm quyết hữu tâm, định đương tác Phật.
(演) 凡厥有心,定當作佛。
(Sớ: Phàm những ai có tâm, nhất định sẽ thành Phật).
Câu này có nghĩa là phàm những ai có tâm, đều có thể thành Phật, nhất định thành Phật. Vậy thì phải hỏi: Quý vị có tâm hay không? Quý vị có tâm! Mắt có thể thấy, tai có thể nghe, đó là tâm. Đã có thấy, nghe, hay, biết, lẽ đâu chẳng thể thành Phật? Ở đây, tôi muốn bảo quý vị Phật là gì, phải nhận thức rõ ràng. “Trí giác viên mãn” thì gọi là Phật. Nói cách khác, quý vị có trí huệ viên mãn, có giác tánh viên mãn, sự viên mãn này vốn sẵn viên mãn. Trong kinh Hoa Nghiêm và Viên Giác, đức Phật đã nói rất rõ ràng, những kinh điển khác không nói, vì đây chẳng phải là những điều đức Phật thường nói. Trong những bộ kinh ấy (tức kinh Hoa Nghiêm và Viên Giác), đức Phật nói lời chân thật, “nhất thiết chúng sanh bổn lai thành Phật” (hết thảy chúng sanh vốn sẵn thành Phật), vốn sẵn là Phật! Vốn sẵn là Phật, mà nay quý vị biến thành phàm phu là vì quý vị đã trái nghịch giác tánh của chính mình, mê mất rồi! Tuy là mê, trí huệ viên mãn và giác tánh viên mãn của quý vị có bị tổn thất hay chăng? Chắc chắn chẳng bị tổn thất, vẫn là viên mãn, nhưng chính quý vị không thừa nhận, tự mình quên mất. Khi nào quý vị giác ngộ, nó sẽ viên mãn y như cũ. Giác tánh đã vốn có thì chúng ta có thể khôi phục hay chăng? Đương nhiên là có thể khôi phục! Mê là hư vọng, là giả, nhất định có thể đoạn được! Giác là chân, chắc chắn có thể chứng đắc. Chính mình phải có tín tâm. Do vậy, nhất định sẽ thành Phật.
(Sớ) Cố Phật giáo trì danh.
(演) 故佛教持名。
(Sớ: Do vậy, Phật dạy trì danh).
Đây là một phương pháp thiện xảo nhất để quý vị phá mê, khôi phục sự viên giác của chính mình: Niệm Phật. Niệm A Di Đà Phật, hoặc là niệm sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật”, sáu chữ này đều là tiếng Phạn, thật sự chẳng khác gì thần chú. Mật Tông trì chú, Nam-mô A Di Đà Phật là vô thượng chú. Cuối Tâm kinh có nói: “Thị đại thần chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú” (là đại thần chú, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng), chú ấy là gì? A Di Đà Phật là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú không có gì sánh bằng. Tôi giảng Tâm Kinh là giảng theo cách này. Nam-mô có nghĩa là quy y, A dịch là Vô, Di Đà dịch là Lượng, Phật dịch là Giác, dịch hoàn toàn sang nghĩa tiếng Hán là “quy y Vô Lượng Giác”. Giác là chẳng mê! Quy là trở lại, từ đâu mà trở lại? Từ mê quay trở lại, nương theo Giác. Vô lượng là thứ gì ta cũng phải giác. Do vậy, niệm một câu Phật hiệu này, thứ gì cũng phải giác! Câu Phật hiệu này nhắc nhở quý vị thời thời khắc khắc phải giác ngộ, giác chứ không mê. Giác chẳng mê là Phật, mê chẳng giác là phàm phu.
Do vậy, nhất định sẽ thành Phật. Đức Phật dạy chúng ta phương pháp thiện xảo như vậy đó!
(Sớ) Dục nhân niệm ngã tự tâm, thành ngã tự Phật.
(演) 欲人念我自心,成我自佛。
(Sớ: Muốn cho con người niệm tự tâm của chính mình, thành vị Phật của chính mình).
Hiểu ý nghĩa này rồi, Phật hiệu là tự tâm của chính mình. Quy y Vô Lượng Giác là quy y giác tánh của chính mình. Do vậy, niệm Phật là niệm giác tánh của chính mình, thành “tự Phật”, chứ không phải vị Phật của ai khác. Thật sự có một vị A Di Đà Phật, Ngài đã thành tựu như vậy, Ngài đem phương pháp này dạy chúng ta. Dạy chúng ta để ai nấy đều có thể thành tựu, nhưng sợ chúng ta còn có chướng ngại, gặp khó khăn, nên kiến lập một đạo tràng ở Tây Phương để giúp đỡ chúng ta, giúp cho chúng ta thành tựu. Cơ duyên này quả thật quá thù thắng.
(Sớ) Nhi mạc nhiên bất tín, ninh bất phụ kỷ linh hồ.
(演) 而漠然不信,寧不負己靈乎。
(Sớ: Mà vẫn lơ là chẳng tin, há chẳng phải là phụ bạc linh tánh của chính mình ư?)
Đối với Lý Sự chân thật trong chương này, nếu chúng ta chẳng tin tưởng, chẳng chịu phát nguyện, chẳng chịu tu học, đấy thật sự là cô phụ chính mình. Hôm nay đã hết giờ rồi!