A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA
QUYỂN 1 – Tập 1-4
Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
卷一
明古杭雲棲寺沙門袾宏述
明雲棲寺古德法師演義
民國淨業學人釋淨空演講
越南譯本
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong
A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Quyển 1 – Tập 1-4
阿彌陀經疏鈔演義
卷一
明古杭雲棲寺沙門袾宏述
明雲棲寺古德法師演義
民國淨業學人釋淨空演講
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Địa điểm: Đài Loan Cảnh Mỹ Hoa Tạng Đồ Thư Quán
Thời gian: Tháng 12 năm 1984
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong
— o0o —
Tập 1
Chư vị đồng tu! Hôm nay chúng tôi tuyên giảng bộ Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa lần thứ ba.
Kể từ hôm nay, [Hoa Tạng] Đồ Thư Quán chính thức kiến lập Liên Trì Hải Hội. Chúng tôi đã từng giảng bộ [A Di Đà Kinh] Sớ Sao hai lần, [chứ đọc bộ sách này] thì đương nhiên càng đọc nhiều lần hơn. Đối với đức hạnh, sự tu học, sự giáo hóa của Liên Trì đại sư lão nhân gia, chúng ta đều cảm thấy bội phục năm vóc sát đất. Trong đó, điều quan trọng nhất là phải học theo đại sư giống như Ngẫu Ích đại sư vậy. Ngẫu Ích đại sư là tư thục đệ tử của tổ Liên Trì, có nghĩa là sau khi Liên Trì đại sư đã vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, tổ Ngẫu Ích mới bắt đầu học Phật, ngưỡng mộ Liên Trì đại sư, lấy di giáo của Liên Trì đại sư làm phương châm tu học của chính mình. Cách thức này rất đáng cho chúng ta học theo.
Hôm nay, kiến lập Liên Trì Hải Hội ở nơi đây, tôn Liên Trì đại sư làm thầy để nương theo, mọi người chúng ta là đồng học, là đồng tham bạn lữ. Chúng ta chiếu theo tác phẩm chú sớ này của đại sư để nghiêm túc giảng giải, học tập, tu hành, mong sao trong một đời này chẳng phụ bạc niềm kỳ vọng của tổ Liên Trì đối với chúng ta, mai sau ai nấy đều Thượng Phẩm Thượng Sanh, hoa nở thấy Phật thì hội này mới thật sự là một hội thù thắng. Những điều khác chúng tôi sẽ nói chút sơ lược vì phân lượng của bộ sách này khá dài, khi bước vào phần kinh văn, quý vị sẽ tự nhiên hiểu rõ.
Bây giờ, xin quý vị mở quyển kinh ra. Chúng ta dùng bản in này gồm hai tập Thượng và Hạ. Tập Thượng là Sớ Sao, tập Hạ là phần chú giải Sớ Sao, tức cuốn [Sớ Sao] Diễn Nghĩa. Diễn Nghĩa là phần chú giải lời Sao. Trước hết, chúng ta hãy xem tựa đề kinh.
Phật thuyết A Di Đà Kinh Sớ Sao quyển đệ nhất.
Minh Cổ Hàng Vân Thê Tự sa-môn Châu Hoằng thuật.
佛說阿彌陀經疏鈔卷第一 明古杭雲棲寺沙門袾宏述
(Phật thuyết A Di Đà Kinh Sớ Sao, quyển thứ nhất,
Đời Minh, sa-môn Châu Hoằng chùa Vân Thê đất Cổ Hàng soạn).
Hai hàng này, hàng thứ nhất là “kinh đề” (tựa đề kinh), hàng thứ hai “nhân đề” (ghi tên người biên soạn), chữ “nhân” (人) này không phải là người dịch kinh mà là người chú giải.
Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Định Bổn, quyển nhất.
Vân Thê Cổ Đức pháp sư diễn nghĩa, môn nhân Từ Phàm, Trí Nguyện định bổn.
彌陀經疏鈔演義定本卷一 雲棲古德法師演義,門人慈帆智願定本。
(Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, bản hoàn chỉnh, quyển một.
Pháp sư Cổ Đức chùa Vân Thê diễn nghĩa, học trò là Từ Phàm và Trí Nguyện chỉnh lý).
Trước hết, chúng tôi nói đại lược cội nguồn [tác phẩm này] cho quý vị biết. Kinh này là do Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật giảng tại tinh xá Kỳ Viên ở nước Xá Vệ, tôn giả A Nan kết tập, chép thành Phạn bản. Sau khi kinh được truyền đến Trung Quốc, nguyên văn tiếng Phạn được dịch sang tiếng Hán bởi một vị pháp sư là Cưu Ma La Thập đại sư. Từ xưa đến nay, bộ kinh này có rất nhiều bản chú giải. Sau khi đọc đến phần văn bản chính thức, chúng ta sẽ thảo luận [vấn đề này]. Cuốn Sớ Sao này do vị tổ sư đời thứ tám của Tịnh Độ Tông, sống vào đời Minh, là Liên Trì đại sư biên soạn. Sớ là giải thích kinh, chú giải kinh. Lời chú giải quá sâu, sợ người đời sau đọc không hiểu nên lại chú giải lời chú giải, đó là Sao (Sao là chú giải Sớ). Sớ và Sao đều do đại sư tự viết, Diễn Nghĩa là chú giải lời Sao vì lời Sao vẫn còn quá sâu. Học trò của Ngài (mà cũng là thị giả của Liên Trì đại sư) là pháp sư Cổ Đức, thân cận tổ Liên Trì nhiều năm. Sau khi tổ sư vãng sanh, những tác phẩm của Ngài được lưu truyền hậu thế, đều do pháp sư Cổ Đức chỉnh lý, khắc ván, lưu thông, đúng là đối với chúng ta có ân đức không chi lớn bằng. Càng khó có hơn nữa là do bản Sớ Sao này quá hay, Sư cũng sợ người đời sau khó thể thấu hiểu ý nghĩa chân thật của tổ sư nên đã dựa theo những lời giảng nghĩa của đại sư để ghi lại những điều tâm đắc trong khi chính Ngài theo hầu đại sư, soạn thành bộ Diễn Nghĩa, nhằm giúp đỡ hàng hậu học chúng ta. Đấy là lai lịch của bộ Diễn Nghĩa.
Cuốn [Diễn Nghĩa] này lưu thông rất ít. Có thể nói là không ai chẳng biết bộ A Di Đà Kinh Sớ Sao, nhưng rất ít người biết đến Sớ Sao Diễn Nghĩa. Có rất nhiều pháp sư tu Tịnh Độ chưa hề thấy cuốn sách này. Có thể nói là tôi rất may mắn, lúc mới xuất gia đọc Vạn Tục Tạng, trong Vạn Tục Tạng có thâu nhập tác phẩm này. Vì vậy, lần đầu tiên tôi đọc Vạn Tục Tạng, tôi biết A Di Đà Kinh Sớ Sao có một bản chú giải rất hay là Diễn Nghĩa. Do vậy, khi giảng A Di Đà Kinh Sớ Sao lần thứ nhất, tôi dùng văn bản trong Vạn Tục Tạng, dùng bản Diễn Nghĩa trong tạng ấy. Lúc đó, chưa có bản in lưu hành riêng. Lần thứ hai, khi giảng bộ kinh này, tôi tìm được một bản in tại Hương Cảng. Đấy chính là cuốn Hạ trong cuốn sách quý vị đang xem. Bản này ngẫu nhiên tìm được tại Hương Cảng, khi trông thấy nó, tôi hết sức vui mừng. Tôi tìm được bản này từ Tàng Kinh Lâu của Đông Lâm Niệm Phật Đường. Tôi hỏi các pháp sư ở nơi ấy: “Quý vị có biết tác phẩm A Di Đà Kinh Sớ Sao của Liên Trì đại sư hay không?” Họ nói: “Biết chứ”. Tôi nói: “Sớ Sao còn có một bản chú giải, quý vị có biết hay không?” Họ thưa: “Chưa từng nghe nói ạ!” Tôi chỉ vào kệ đựng sách, bảo: “Ở đây nè, quý vị lấy ra đi”. Bọn họ đem sách ra, mới biết nó đã nằm trên kệ sách bao nhiêu năm rồi mà chẳng ai biết cả. Tôi nói: “Được rồi! Để tôi mang cuốn sách này về Đài Loan ấn hành, lưu thông”. Sau khi quay về bèn in tác phẩm này, in gộp chung cuốn Thượng và cuốn Hạ, tạo thành bộ Sớ Sao Diễn Nghĩa, bản này được lưu thông lần đầu tiên tại Đài Loan, trong quá khứ chưa có ai in cả. Mở hai tác phẩm này ra để đọc và đối chiếu cảm thấy chẳng thuận tiện cho lắm; hiện thời chúng tôi muốn in A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, tức là chiếu theo từng đoạn mà gộp chung [phần Sớ Sao và phần Diễn Nghĩa] lại, nhằm tạo thành một bản sẽ chẳng cần phải lật qua, giở lại. Hiện giờ chúng tôi đang làm chuyện này, sau khi làm xong sẽ hết sức có ý nghĩa, sẽ có ích rất lớn cho những người niệm Phật tu học Tịnh Độ.
Bộ kinh này được in theo lối đóng gáy bằng chỉ, chia thành bốn cuốn[1], bản chúng ta đang dùng là Hợp Đính Bản (bản in gộp chung nhiều tác phẩm). Cuốn thứ nhất hoàn toàn là phần Huyền Nghĩa, hết sức trọng yếu, chúng ta phải khảo cứu, nghiên cứu tác phẩm này. Quý vị xem cuốn Hạ, mở đầu là:
(Diễn) Đề nghĩa.
(演) 題義
(Diễn[2]: Ý nghĩa tựa đề sách)
Đây là phần giải thích tựa đề.
(Diễn) Khai quyển.
(演) 開卷。
(Diễn: Quyển mở đầu).
“Khai quyển” ở đây có nghĩa là cuốn mở đầu của Quyển Thượng, vì [Diễn Nghĩa] là phần chú giải quyển Thượng.
(Diễn) Phật thuyết đẳng bát tự thị pháp đề.
(演) 佛說等八字是法題。
(Diễn: Tám chữ “Phật thuyết….” là tựa đề của Pháp Bảo).
“Pháp” là Pháp Bảo, tựa đề của kinh điển là tám chữ “Phật Thuyết A Di Đà Kinh Sớ Sao”.
(Diễn) Hậu học đẳng thập nhị tự thị nhân đề.
(演) 後學等十二字是人題。
(Diễn: Mười hai chữ “hậu học…” là phần nói về người biên soạn).
Hai chữ “hậu học” không thấy trong bản chúng ta đang dùng hiện thời, vì đã được thay bằng chữ Minh (đời Minh). Đây là bản in dựa theo bản khắc ván của Kim Lăng Khắc Kinh Xứ. Vào đời Thanh, hai chữ “hậu học” được đổi thành chữ Minh, vì Liên Trì đại sư là người đời Minh.
Thuở ấy, Ngài không dùng chữ này. Ngài tự ghi tựa đề là “hậu học Cổ Hàng Vân Thê Tự sa-môn Châu Hoằng thuật”, vốn ghi như vậy. Do vậy, trong bút ký của pháp sư Cổ Đức vẫn dùng chữ giống như trong nguyên bản. Hiện thời hai chữ “hậu học” đổi thành chữ Minh, đổi thành tên triều đại. Đây là “nhân đề”.
(Diễn) Pháp đề hạ, tự tế thích.
(演) 法題下,自細釋。
(Diễn: Dưới phần pháp đề, sẽ có phần giải thích chi tiết).
Dưới đó là lời giải thích ý nghĩa tựa đề của bản Sớ Sao này.
(Diễn) Kim nhập văn chi tiên, lý ưng lược trần tổng nhất. Đề trung ước hữu tứ đối.
(演) 今入文之先,理應略陳總一。題中約有四對。
(Diễn: Nay trước khi bước vào phần kinh văn, theo đúng lý, phải trình bày đại lược tổng quát. Trong đề mục, đại lược có bốn cặp [ý nghĩa]).
Đây cũng là nói đại khái.
(Diễn) Nhất, thông biệt nhất đối. Thông tắc “kinh” chi nhất tự, biệt tắc “Phật thuyết” đẳng ngũ tự.
(演) 一、 通別一對 。通則經之一字 ,別則佛說等五字。
(Diễn: Cặp thứ nhất là thông đề và biệt đề. Thông đề là một chữ “kinh”. Biệt đề là năm chữ “Phật thuyết A Di Đà”).
Đây là nói về tựa đề kinh gồm sáu chữ “Phật Thuyết A Di Đà Kinh”. Chữ “Kinh” là Thông Đề (tựa đề chung của tất cả các bản kinh Phật), phàm những lời Phật dạy đều gọi là Kinh. “Phật Thuyết A Di Đà” là Biệt Đề (tựa đề riêng), phần này mỗi bộ kinh mỗi khác, nhằm chuyên chỉ bộ kinh này.
(Diễn) Nhị, Năng Sở nhất đối. Năng thị năng thuyên, tức Kinh chi nhất tự. Sở tức sở thuyên, tức thượng ngũ tự.
(演) 二、能所一對。能是能詮,即經之一字;所即所詮,即上五字。
(Diễn: Cặp thứ hai là Năng và Sở. Năng là năng thuyên (chủ thể giảng giải), tức là một chữ Kinh. Sở là sở thuyên (pháp được giảng giải bởi kinh này), chính là năm chữ trước đó).
“Năng thuyên” là chữ “Kinh”. “Sở thuyên” là “Phật Thuyết A Di Đà”. Thông Đề là Năng Thuyên, Biệt Đề là Sở Thuyên.
(Diễn) Tam, giáo lý nhất đối. Phật thuyết kinh thị giáo, A Di Đà tức thị lý.
(演) 三、教理一對。佛說經是教,阿彌陀即是理。
(Diễn: Cặp thứ ba là giáo và lý. Phật nói kinh là giáo, A Di Đà là lý).
Lý là gì? Trong phần sau sẽ đề cập, ở đây không cần phải nói nhiều.
(Diễn) Tứ, nhân pháp nhất đối. Phật thuyết tức thị nhân, A Di Đà tức thị pháp.
(演) 四、人法一對。佛說即是人,阿彌陀即是法。
(Diễn: Cặp thứ tư là nhân và pháp.“Phật thuyết” chính là nhân, A Di Đà chính là pháp).
“Phật” là Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. “A Di Đà” cũng là Nhân, mà cũng có thể coi là Pháp, vì ý nghĩa của từ ngữ “A Di Đà” là pháp. Đây cũng là danh hiệu của đức giáo chủ cõi Tây Phương, Ngài lấy pháp này làm danh hiệu của chính mình. Chúng ta thường nói tựa đề “A Di Đà Kinh”chỉ dùng Nhân để đặt tên, nhưng Liên Trì đại sư đã giảng rõ trong tựa đề kinh vừa có Nhân vừa có Pháp. Trong phần sau, sẽ giảng cặn kẽ, mỗi chữ đều được giải thích.
(Diễn) Thủ, Phật tự.
(演) 首佛字。
(Diễn: Trước hết là chữ Phật).
Tựa đề kinh là “Phật Thuyết A Di Đà Kinh Sớ Sao”. “Phật” là chữ thứ nhất.
(Diễn) Tức Thích Ca Mâu Ni Phật.
(演) 即釋迦牟尼佛。
(Diễn: Chính là Thích Ca Mâu Ni Phật).
[Chữ Phật thứ nhất trong tựa đề kinh] chỉ đức Bổn Sư của chúng ta. Những ý nghĩa được giảng tiếp theo đây hết sức quan trọng, mong mọi người hãy đặc biệt chú ý, đừng nên giống như đang nghe kể chuyện xưa tích cũ.
(Diễn) Tùng Đâu Suất giáng sanh vương cung, vi Tất Đạt thái tử.
(演) 從兜率降生王宮,為悉達太子。
(Diễn: Từ trời Đâu Suất giáng sanh cung vua, làm thái tử Tất Đạt).
Đức Phật thị hiện tất nhiên trước hết dùng thân phận Bổ Xứ Bồ Tát, tức là Hậu Bổ Phật, dùng thân phận này để xuất hiện. Hậu Bổ Phật trụ ở nơi nào vậy? Trụ trong tầng trời thứ tư của Dục Giới, tức nội viện của Đâu Suất Thiên. Đâu Suất (Tushita) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tri Túc (biết đủ). Quý vị hãy suy nghĩ ý nghĩa này, Tri Túc! Tri túc ắt thường lạc, không có một pháp nào chẳng ban cho chúng ta sự khải thị rất lớn. Nội viện là chỗ Bồ Tát ở. Do vậy, Đâu Suất Thiên là Phàm Thánh Đồng Cư Độ trong thế giới Sa Bà. Trong thế giới Sa Bà, trong hai mươi tám tầng trời thuộc tam giới và ngay trên địa cầu, có tất cả ba nơi là Phàm Thánh Đồng Cư Độ:
- Chúng ta thuộc nhân gian, Phàm Thánh Đồng Cư Độ ở ngay trên địa cầu. Bồ Tát, La Hán cũng sống trên địa cầu, nhưng chúng ta mắt
thịt không trông thấy họ.
- Tầng trời thứ tư của Dục Giới là Phàm Thánh Đồng Cư Độ, gồm nội viện và ngoại viện. Ngoại viện là phàm phu thiên, nội viện là thánh nhân. Tuy là Phàm Thánh Đồng Cư, nhưng chư thiên Đâu Suất không trông thấy nội viện. Những vị Bồ Tát thuộc nội viện cũng không qua lại với chư thiên trời Đâu Suất, tình hình giống như trong nhân gian của chúng ta.
- Ngũ Bất Hoàn Thiên thuộc tầng trời thứ tư của Thiền Thiên, cũng là chỗ ở của thánh nhân.
Ba nơi này đều là Phàm Thánh Đồng Cư Độ. Tịnh Độ, chỗ ở của hàng Đẳng Giác Bồ Tát, là nơi tuyệt diệu nhất. Cõi Phàm Thánh Đồng Cư nơi họ ở chính là Tịnh Độ, chẳng phải là uế độ, tự tại biết bao nhiêu! Họ có thể bỏ sự tự tại, bỏ sự thụ dụng của chính mình để giáng sanh trong nhân gian. Nhân gian là đời ác ngũ trược. Dẫu giáng sanh trong cung vua nơi nhân gian, vẫn là đời ác ngũ trược. Nhìn theo quan điểm của phàm phu chúng ta mà nói thì họ hy sinh quá lớn. Giống như đang ở trong cung vua, nay bị đem tống giam trong ngục, hy sinh quá lớn. Vì sao vậy? Bỏ mình vì người khác, nhằm cứu độ những chúng sanh khổ nạn, họ có thể bỏ sự thụ dụng, sự hưởng thụ của chính mình để sanh vào nhân gian. Điều này ban cho chúng ta một sự khải thị rất lớn nhằm dạy chúng ta phải học theo.
Phật pháp là thật sự thực hiện hết sức triệt để, làm cho chúng ta thấy. Sách Lễ Ký có câu “An an nhi năng thiên” (ở yên nơi yên ổn, mà nếu cần thì vẫn có thể dời đi) chính là nói về ý nghĩa này. Hai chữ An này có nghĩa là thân cũng an mà tâm cũng an. Thân lẫn tâm đều an ổn, rất tự tại. Họ có thể buông bỏ, vì sao có thể buông bỏ? Vì độ chúng sanh. Ta vì muốn phục vụ chúng sanh, vì muốn cứu độ hết thảy chúng sanh, bèn buông bỏ hoàn cảnh yên vui, thỏa thích, phục vụ đại chúng không sợ khổ sở, khó khăn. Đấy mới là bậc vĩ nhân, đáng gọi là đại nhân vật. Trong Phật pháp, [những người ấy được] gọi là bậc đại anh hùng. Điện Phật gọi là Đại Hùng Bảo Điện chính là vì ý nghĩa này. Họ có thể hứng chịu những nỗi khổ người khác chẳng thể chịu đựng được, có thể nhẫn chịu những khổ nạn người khác chẳng thể nhẫn chịu được. Nếu làm được những điều người khác chẳng thể làm được thì là đại nhân vật. Do vậy, đối với những chỗ này, chúng ta chớ nên coi thường đọc lướt qua. Nhà Nho gọi đó là “an an nhi năng thiên”.
Sanh trong vương cung là nhằm thuận tiện dạy học, ý nghĩa rất sâu. Do vậy, Phật xuất hiện trong nhân gian đều mang thân phận Thái Tử. Người thế gian cầu mong điều gì? Phú quý, vinh hoa, tiếng tăm, lợi dưỡng. Ngài vừa sanh ra đều đạt được những điều ấy, sanh ra dưới thân phận Thái Tử. Khi phụ vương qua đời, Ngài sẽ là quốc vương. Trong thế gian thường nói “quý vi Thiên Tử, phú hữu tứ hải” (sang quý như Thiên Tử, giàu khắp bốn biển). Trong nhân gian, phú quý đến cực điểm, nhưng Ngài [bỏ hết để] tu hành, đến [thế gian này] để hoằng pháp lợi sanh, chứ không nhằm cầu vinh hoa, phú quý, mà là để dạy chúng ta bỏ vinh hoa, phú quý. Có thể bỏ được!
(Diễn) Xuất gia khổ hạnh lục niên, thành Đẳng Chánh Giác giả.
(演) 出家苦行六年,成等正覺者。
(Diễn: Xuất gia khổ hạnh sáu năm, thành Đẳng Chánh Giác).
Thuở ấy, tại Ấn Độ có hết sức nhiều tôn giáo, tức là chín mươi sáu thứ ngoại đạo. Phần lớn những kẻ ngoại đạo ấy đều xuất gia tu hành, tu tịnh hạnh. Họ tu khổ hạnh phần lớn là ba năm, mỗi người xuất gia nhất định phải tu khổ hạnh ba năm. Đức Phật thị hiện, “quý vị tu ba năm, tôi tu sáu năm”. Thời gian dài hơn các tôn giáo khác, chịu khổ nhiều hơn các nhà tôn giáo khác. Do vậy, sau này, đức Phật đi hoằng pháp, có thể hàng phục ngoại đạo, ngoại đạo không có cách gì cãi được. Những kinh luận của ngoại đạo đọc, đức Phật đều đã đọc qua. Những hạnh môn ngoại đạo đã tu, đức Phật đều đã từng tu. Sau đấy, đức Phật mới kết luận: “Những thứ các ông tu học đều chẳng phải là rốt ráo!” Đức Phật có thể nói như vậy vì Ngài đã từng trải. Nếu chưa từng trải qua, ngoại đạo sẽ coi thường, không có cách nào nhiếp thọ họ được! “Những thứ của chúng tôi mà các ông chưa từng học, chưa từng thấy, các ông làm sao biết được?” Kinh điển của chín mươi sáu phái ngoại đạo, Phật đều đã từng đọc, từng tu. Do cảnh giới rốt ráo tối cao của ngoại đạo đức Phật đều hiểu rõ nên có thể nhiếp thọ và hàng phục ngoại đạo. Bao nhiêu ngoại đạo theo Phật xuất gia tu hành, đạo lý là ở chỗ này. Quý vị hãy nghĩ xem, Phật dụng tâm khổ sở, thật sự từ bi đến cùng cực. Chúng ta hãy nên bắt chước điều này, phải học tập. Ngày nay chúng ta chẳng thể thành tựu, nguyên nhân là do chưa buông xuống, sợ phải chịu khổ. Hãy so sánh giữa chúng ta và Thích Ca Mâu Ni Phật, thân phận của Ngài ra sao? Thân phận của chúng ta như thế nào? Vinh hoa phú quý bậc nhất trong thế gian Phật còn bỏ được, vào Tuyết Sơn chịu đựng khổ sở ngần ấy, Ngài có thể làm được. Vì sao chúng ta không thể làm được? Ngài có thể thành tựu, vì sao chúng ta không thể thành tựu? Suy nghĩ sẽ hiểu ngay. Mấy hàng chữ này nói rõ sự thị hiện của đức Phật, đấy là thân giáo (sự giáo hóa bằng hành động trực tiếp), dụng ý hết sức sâu đậm.
“Thành Đẳng Chánh Giác giả”: Phải đặc biệt chú ý mấy chữ này, không nói là “thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”. Người thành Đẳng Chánh Giác là Bồ Tát, tức là thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác. Bởi lẽ, đức Thế Tôn thị hiện thành Tạng Giáo Phật (quả vị Phật thuộc Tạng Giáo) trong tứ giáo. Tạng Giáo Phật là Chánh Đẳng Chánh Giác. Chỉ có quả vị Phật trong Viên Giáo mới có thể gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chỉ có một, còn đối với Đẳng Chánh Giác Phật thì Biệt Giáo Phật, Thông Giáo Phật, Tạng Giáo Phật đều gọi là Đẳng Chánh Giác, đều là những vị Phật mà kinh luận thường nói là “tu ba đại A-tăng-kỳ kiếp mới thành”. Thật ra, Thích Ca Mâu Ni Phật đã thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác từ lâu. Ở đây là thị hiện, bởi lẽ, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo là Liệt Ứng Thân. Đấy là Đẳng Chánh Giác. Nếu thị hiện Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thì như trong bài kệ tán Phật có câu “bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di, cám mục trừng thanh tứ đại hải”, thân tướng Phật ấy [theo như Quán Kinh đã dạy] là “Phật có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo”, mắt thịt của phàm phu sẽ chẳng thể thấy được đức Phật thị hiện trước chúng ta, quá lớn mà! Hiểu rõ điều này sẽ chẳng thể nào coi thường, nhìn lướt qua mặt chữ!
(Diễn) Nhược thích kỳ nghĩa.
(演) 若釋其義。
(Diễn: Nếu giải thích ý nghĩa của chữ ấy)
Nếu chúng ta giải thích những ý nghĩa bao hàm trong chữ Phật.
(Diễn) Tắc Phật tự thị Phạn ngữ.
(演) 則佛字是梵語。
(Diễn: Thì chữ Phật là tiếng Phạn).
Phật là gọi tắt của chữ Phật Đà (Buddha).
(Diễn) Thử phiên Giác Giả.
(演) 此翻覺者。
(Diễn: Cõi này dịch là đấng giác ngộ).
“Thử” (cõi này) là Trung Quốc. Trong văn tự Trung Quốc, ý nghĩa của chữ Phật là “Giác Giả”. Tiếp đó, lại giải thích thêm như sau:
(Diễn) Vị giác liễu Tánh Tướng chi giả.
(演) 謂覺了性相之者。
(Diễn: Có nghĩa là bậc giác ngộ trọn vẹn Tánh và Tướng).
Nói theo thuật ngữ triết học hiện đại thì Tánh là bản thể của muôn vật trong vũ trụ, Tướng là hiện tượng của muôn vật trong vũ trụ. Trong Phật pháp gọi Tánh là Pháp Tánh, hoặc Chân Như bổn tánh, gọi Tướng là Pháp Tướng, tức là những thứ y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Nói cách khác, đối với bản thể, hiện tượng, đương nhiên kể cả tác dụng của toàn bộ vũ trụ, nhân sinh, Phật đều thấu hiểu triệt để, không có một pháp nào Ngài chẳng hiểu rõ; vì thế gọi là Phật.
(Diễn) Cụ hữu tam nghĩa. Nhất, tự giác, giác tri tự tâm bổn vô sanh diệt.
(演) 具有三義。一、自覺,覺知自心本無生滅。
(Diễn: Gồm có ba nghĩa. Một là tự giác, hiểu biết tự tâm vốn chẳng sanh diệt).
“Tự giác”: Hiện thời chúng ta tự mình mê hoặc, tự giác là giác ngộ bản thân. Nói cách khác, [tự giác] là nhận thức chính mình. Hiện thời chúng ta chẳng hiểu rõ chính mình, tự mê. Đã hiểu rõ chính mình thì gọi là “tự giác”. Tự giác đạt đến mức viên mãn nhất, rốt ráo nhất chính là thấu hiểu tự tâm. Toàn bộ sự tu học trong Phật pháp bao gồm trong hai chữ “tự tâm”. Nhà Thiền nói: “Nhược nhân thức đắc tâm, đại địa vô thốn thổ” (Nếu ai hiểu được tâm, đại địa không tấc đất). Tu học Phật pháp là phải tu học tự tâm. “Tự tâm vốn chẳng sanh diệt”: Nhìn từ câu này, chúng ta thật sự đang mê. Suốt ngày từ sáng đến tối, chúng ta nghĩ đến sanh lão bệnh tử, có sanh diệt, chẳng biết chính mình thật sự là bất sanh, bất diệt. Khi nào quý vị chứng được bất sanh, bất diệt, quý vị sẽ thành Phật. Nói cách khác, quý vị chẳng tự mê. Quý vị còn cảm thấy mình có sanh, có diệt, thì vẫn đang mê mất chính mình. Cảnh giới ấy hết sức cao, phải như thế nào mới có thể giác ngộ chính mình chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng đến, chẳng đi? Quý vị hãy nên nghiên cứu kỹ lưỡng bộ A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa này. Chúng tôi hạn định ba năm; nếu quý vị tích cực tu học, sẽ tìm được câu trả lời cho câu hỏi ấy. Không chỉ tìm được câu trả lời mà người có trình độ từ bậc trung trở lên sẽ có thể chứng đắc. Sự chứng đắc ấy chính là liễu sanh tử, vượt thoát tam giới, sẽ có phần trong Liên Trì Hải Hội. Hiện thời, ở nơi đây, chúng tôi cũng có lập ra chứng thư thân phận Liên Trì Hải Hội, mong quý vị hãy tới nhận lấy, thật sự phát tâm, mọi người cùng nhau tu học. Chúng ta dùng thời gian ba năm để cầu đạt được kết quả ấy.
(Diễn) Nhị, giác tha, giác nhất thiết pháp vô bất thị như.
(演) 二、覺他,覺一切法無不是如。
(Diễn: Hai là giác tha, nhận biết hết thảy pháp không gì chẳng phải là Như).
Chữ “tha” chỉ cảnh giới. Ngoài thân mình ra đều gọi là Tha. Quý vị phải nhớ kỹ, ngoài thân mình ra, chứ không nói là “ngoài tự tâm”, vì cái Tha ấy vẫn được bao gồm trong tự tâm. Chỉ có thể nói đến Thân, ngoài thân mình ra là Tha. Do vậy, trong phần sau mới nói “Tự, Tha bất nhị”, [Tự và Tha] đều do cùng một tâm biến hiện. “Giác Tha, giác nhất thiết pháp vô bất thị Như”: Thật ra, chữ Như có ý nghĩa vô cùng tận, chẳng thể nghĩ bàn. Câu thứ nhất mở đầu kinh văn là “như thị ngã văn”, chữ Như ở đây (tức chữ Như dùng trong lời diễn nghĩa) chính là chữ Như trong “như thị ngã văn” đầu mỗi bản kinh. “Giác nhất thiết pháp vô bất thị Như”: Nếu chúng ta nói cách khác, sử dụng thuật ngữ của Thiền Tông, sẽ là “vô hữu nhất pháp bất thị Tánh” (chẳng có một pháp nào không phải là Tánh). Nhà Thiền nói “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Ý nghĩa của chữ Như là “Tướng vừa được nói như thế ấy thì Tướng giống như Tánh, Tánh giống như Tướng”. Cổ đại đức thường dùng tỷ dụ để giảng rõ đạo lý này, các Ngài nói: “Dĩ kim tác khí, khí khí giai kim” (Dùng vàng để làm thành đồ vật, món nào cũng đều là vàng). Đem vàng ví với Tánh, đem đồ vật ví với Tướng. Tướng có phải là vàng hay chăng? Tướng là vàng, vàng là Tướng. Ý nghĩa này được nói rất rõ ràng, chúng ta nghe xong cũng hiểu rất rõ, nhưng mà như thế nào? Chúng ta chẳng thể hợp Tánh và Tướng lại được. Chúng ta chấp trước Tướng, chẳng thấy Tánh. Khi nào quý vị có thể thấy được Tánh trong hết thảy Tướng được biến hiện, quý vị sẽ thấy được Như.
Thiên Thai đại sư đã đạt cảnh giới ấy. Ngài giảng kinh Pháp Hoa, giảng đến phần Thập Như Thị bèn mở rộng Thập Như Thị ra thành Bách Giới Thiên Như, không một pháp nào chẳng Như, không một pháp nào chẳng phải là như vậy, Ngài nhập cảnh giới ấy. Tuy nhập cảnh giới ấy, lão nhân gia rất khiêm hư, rất khách sáo, chẳng thừa nhận. Khi Ngài vãng sanh, học trò hỏi Ngài: “Lão nhân gia vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, rốt ráo thuộc phẩm vị nào?” Ngài bảo mọi người: “Ngũ Phẩm vị”. Địa vị Ngũ Phẩm chưa kiến tánh, nhưng Ngài chú giải kinh Pháp Hoa, quý vị đọc bộ Pháp Hoa Kinh Văn Cú sẽ thấy [người thuộc] địa vị Ngũ Phẩm chẳng thể giảng như vậy được. Đại sư quá khiêm hư. Vì sao khiêm hư? Ngài có lý riêng, đại từ đại bi mà! Nếu Ngài đem cảnh giới của chính mình là “minh tâm kiến tánh, Lý nhất tâm bất loạn, thượng phẩm thượng sanh” nói ra thì chúng ta nghe xong, thấy Ngài rốt cuộc là bậc tổ sư một thuở, chúng ta chẳng có phần, chúng ta làm không được, chỉ đành ngưỡng mộ mà thôi! Ngài nói Ngài thuộc địa vị Ngũ Phẩm vãng sanh thì “điều này được đấy, ta cũng có thể làm được”, cổ vũ, khích lệ chúng ta rất lớn. Địa vị Ngũ Phẩm đã có thể vãng sanh thì chúng ta ai nấy đều có thể vãng sanh. Không phải ai trong số chúng ta cũng có thể minh tâm kiến tánh, nhưng địa vị Ngũ Phẩm thì mỗi người chúng ta đều có thể làm được. Từ chỗ này, chúng ta cảm nhận đại ân đại đức của Phật, Bồ Tát, tổ sư đối với chúng ta, thời thời khắc khắc niệm niệm thị hiện, ngôn từ trong câu nói nào cũng nhằm nhiếp thọ hết thảy chúng sanh, đều là Tăng Thượng Duyên đắc độ cho hết thảy chúng sanh, mà cũng là Tăng Thượng Duyên vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đấy là ý nghĩa Giác Tha.
(Diễn) Tam, giác mãn, nhị giác lý viên xưng chi vi Mãn.
(演) 三、覺滿,二覺理圓稱之為滿。
(Diễn: Ba là giác mãn. Lý của hai thứ giác đều viên mãn thì gọi là Mãn).
“Nhị giác” là Tự Giác và Giác Tha. Tự Giác lẫn Giác Tha đều viên mãn thì gọi là Giác Mãn. Giác Mãn cũng có mức độ khác nhau. Ví như quả vị Phật trong Tứ Giáo đều gọi là Giác Mãn; [quả vị Phật trong] Tạng Giáo, Thông Giáo, Biệt Giáo tuy gọi là Giác Mãn, nhưng hoàn toàn chẳng phải là thật sự viên mãn. Chỉ có quả vị Phật trong Viên Giáo mới là thật sự viên mãn. Đối với ba ý nghĩa này, có thể nói là rất nhiều kinh luận đều nói theo cách này.
(Diễn) Nhược chuẩn Khởi Tín, diệc chương tam nghĩa.
(演) 若準起信亦彰三義。
(Diễn: Nếu dựa theo Đại Thừa Khởi Tín Luận thì luận ấy cũng nêu ra ba ý nghĩa [của chữ Phật]).
“Chuẩn” là chuẩn tắc (準則: tiêu chuẩn, chừng mực). Nếu lấy Khởi Tín Luận làm tiêu chuẩn, tức là nói theo Khởi Tín Luận thì luận ấy cũng giảng rõ chữ Phật có ba ý nghĩa, tức là ba thứ Giác. Khởi Tín Luận giảng ý nghĩa thứ nhất như sau:
(Diễn) Nhất, Thỉ Giác, tức Năng Chứng Trí.
(演) 一、始覺,即能證智。
(Diễn: Một là Thỉ Giác, tức trí có khả năng chứng biết).
“Thỉ” (始) là bắt đầu. Các vị đồng tu tham dự buổi giảng hôm nay, dường như đối với Tam Giác được giảng trong Khởi Tín Luận, chúng ta đều có Tương Tự Thỉ Giác. Nếu không có Thỉ Giác thì hôm nay quý vị không thể đến đây tham dự pháp hội này. Quý vị chịu phát tâm đến tham gia pháp hội này, tức là quý vị bắt đầu giác ngộ. Vì sao Thỉ Giác của chúng ta là Tương Tự Thỉ Giác, chứ không phải là Thỉ Giác thật sự? Tương Tự Thỉ Giác vẫn là Thỉ Giác chân thật, chẳng phải là giả, chẳng qua là thời gian rất ngắn ngủi, tạm bợ, niệm này vừa giác, niệm kế tiếp lại mê. Nói cách khác, trong cuộc sống thường nhật của chúng ta, thời gian giác thì ít, thời gian mê lại nhiều. Giác chưa chống nổi mê, vẫn bị mê vọng lôi đi. Đấy là Tương Tự Thỉ Giác. Nếu là Thỉ Giác thật sự thì sau khi chứng đắc sẽ vĩnh viễn không lùi. Nói cách khác, sức giác ngộ của quý vị có thể chống cự được mê. Nhưng dù giác trong khoảng sát-na, như thường nói là “hỏa thạch, điện quang” (lửa xẹt do đập vào đá, ánh sáng của tia chớp) cũng hết sức khó có, hết sức quý báu, chúng ta phải trân quý. Bởi lẽ, nếu chúng ta có quang minh trong sát-na ấy thì sẽ có sát-na thứ hai, có sát-na thứ hai sẽ có sát-na thứ ba, hy vọng quang minh sẽ ngày càng tăng trưởng, đừng giảm bớt. Từ Thỉ Giác sẽ dần dần biến thành Bổn Giác. Có mở đầu thì hy vọng sẽ có thể dần dần khế nhập. Thỉ Giác là Năng Chứng, Bổn Giác là Sở Chứng.
(Diễn) Nhị, Bổn Giác, tức Sở Chứng Lý.
(演) 二、本覺,即所證理。
(Diễn: Hai là Bổn Giác, tức là Lý được chứng bởi [Thỉ Giác]).
Bổn Giác là Lý được chứng. Bổn Giác là trí huệ Bát Nhã chúng ta sẵn có. Nói cách khác, ai nấy đều có Bổn Giác, Bổn Giác bị mê, biến thành Bất Giác. Phàm phu bất giác. Do chúng ta có Bổn Giác, Bổn Giác là Phật, cho nên kinh Hoa Nghiêm, kinh Viên Giác đã khai thị rõ ràng “nhất thiết chúng sanh bổn lai thành Phật” (hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật). Vì sao vốn đã thành Phật? Vì hết thảy chúng sanh ai nấy đều sẵn có Bổn Giác viên mãn, đương nhiên là Phật. Nhưng trong hiện tại, chúng ta là những vị Phật điên đảo, mê hoặc, còn Phật là một vị Phật tự tại giác ngộ, thụ dụng khác nhau. Đức Phật thấy chúng ta mê hoặc, điên đảo, bèn dùng các thứ phương tiện khuyên dụ, hướng dẫn, khơi gợi, mong cho chúng ta hoát nhiên giác ngộ, khôi phục Bổn Giác. Đấy là “Phật độ chúng sanh”; nhưng chúng ta phải tự mình khôi phục, dựa vào sức Phật khuyên dụ, hướng dẫn, còn thật sự giác ngộ phải do chính mình. Chính mình một mực chẳng giác, chỉ ỷ vào sự khuyên dụ, hướng dẫn của Phật sẽ chẳng thể thành công. Vì vậy, chính mình nhất định phải giác ngộ. Nếu quý vị giác ngộ, sẽ chú ý thấy Phật, Bồ Tát ở bất cứ nơi đâu, mỗi một cử chỉ, mỗi một hành động, mỗi một lời nói, mỗi một hành vi, đều nhằm khơi gợi, phát khởi cho chúng ta. Tôi vừa mới nói đó, Phật Thích Ca từ trời Đâu Suất giáng sanh trong vương cung, thị hiện xuất gia khổ hạnh sáu năm, cho đến thuyết pháp lợi sanh, đều nhằm nêu gương cho chúng ta, mong mỏi chúng ta sẽ tự mình có thể đại triệt đại ngộ. Chúng ta thấy được ý nghĩa này thì đó là Thỉ Giác, sẽ ngầm hợp với tác dụng của Lý Thể trong Bổn Giác.
(Diễn) Tam, Cứu Cánh Giác, tức Trí dữ Lý minh, Thỉ Bổn bất nhị.
(演) 三、究竟覺,即智與理冥,始本不二。
(Diễn: Ba là Cứu Cánh Giác, tức Trí ngầm hợp Lý, Thỉ và Bổn chẳng hai).
Năng Chứng Trí và Sở Chứng Lý là một, chẳng phải hai. Đấy là Cứu Cánh Giác, là thành Phật. Nói “thành Phật” chính là thành tựu Cứu Cánh Giác, thật sự giác ngộ. Hiện thời, chúng ta chẳng vào được cửa, vấn đề ở đâu? Chúng ta chưa thể thống nhất [Trí và Lý], Năng Chứng Trí và Sở Chứng Lý vẫn là hai, chưa phải là một. Năng và Sở là hai, chưa phải là một! Hễ là hai sẽ chẳng vào được cửa. Ở đây, quý vị phải đặc biệt chú ý chỗ này. Trong Đàn Kinh, pháp sư Ấn Tông cũng là một vị pháp sư lỗi lạc. Ngài là một vị pháp sư giảng kinh, khi gặp Lục Tổ, từng thỉnh giáo Lục Tổ về tông chỉ của tổ Hoàng Mai. Sau khi Tổ đã nói, Sư lại nêu câu hỏi: “Ngài Hoàng Mai có nhắc tới giải thoát và Thiền Định hay không?” Ngay khi ấy, Lục Tổ cũng nhắc nhở Sư: “Thiền Định, giải thoát chẳng phải là Phật pháp”. Quý vị nghe như vậy, cảm thấy rất lạ lùng! Trong đại kinh, đại luận suốt ngày từ sáng đến tối nói về Thiền Định, giải thoát, cớ sao Thiền Định, giải thoát lại chẳng phải là Phật pháp? Dụng ý của Tổ nằm trong câu tiếp theo: “Thiền Định, giải thoát là hai pháp, hai pháp chẳng phải là Phật pháp. Phật pháp là pháp Bất Nhị”. Nói cách khác, Năng Chứng Trí và Sở Chứng Lý nếu là hai pháp sẽ chẳng phải là Phật pháp. Lý và Trí hệt như nhau, Lý và Trí chẳng hai thì đó là Phật pháp. Phật pháp là giác pháp, chứ không phải là mê pháp.
Hiện thời, có thể nói là từ sáng đến tối, ngay cả trong khi ngủ, chúng ta không thật thà, vẫn còn nằm mộng. Khi tỉnh và khi mộng tức là hai pháp, có khi nào quý vị gộp chúng thành một hay chưa? Khi nào quý vị thật sự trụ trong pháp môn Bất Nhị sẽ vào được cửa. Khi nào quý vị nhập pháp môn Bất Nhị, quý vị sẽ là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Bậc Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo thuộc địa vị Kiến Đạo trong pháp Đại Thừa, từ ngày hôm ấy quý vị bắt đầu thấy được Đạo, thấy đạo gì vậy? Thấy vạn pháp đều là Như, thấy Tánh và Tướng không hai. Nếu áp dụng điều này vào niệm Phật, thì thưa quý vị, quý vị bắt đầu chứng Lý nhất tâm bất loạn, quý vị vãng sanh Thật Báo Trang Nghiêm Độ trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, Thượng Phẩm Thượng Sanh, hoa nở thấy Phật. Chúng tôi hết sức ân cần, tha thiết mong quý vị đồng tu hãy khéo lợi dụng thời gian ba năm để đạt đến mục tiêu này, chẳng riêng gì Phật Thích Ca, Phật Di Đà ân cần tha thiết mong mỏi như vậy, mà mười phương ba đời hết thảy chư Phật không một vị nào chẳng mong mỏi chúng ta làm được như vậy. Nếu chúng ta thật sự làm được, sẽ là thật sự báo ân Phật, mới thật sự là kẻ báo ân vậy.
(Diễn) Kim kinh sở vân Phật giả, nãi thị tam giác câu viên, Thích Ca Thế Tôn dã.
(演) 今經所云佛者,乃是三覺俱圓,釋迦世尊也。
(Diễn: Đức Phật được nói trong kinh này chính là Thích Ca Thế Tôn ba thứ giác đều trọn đủ).
Mấy câu này có ý nghĩa khác với mấy câu phía trên. Trong phần trước, nói Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành quả vị Phật trong Tạng Giáo, vì sao vậy? Vì [sách Diễn Nghĩa ghi]: “Thành Chánh Đẳng Giác”. Đấy là nói theo mặt Tích, còn câu này giảng theo mặt Bổn. Nói theo Bổn thì Thích Ca Mâu Ni Phật đã viên mãn cả ba thứ giác từ rất lâu, nhìn từ mặt Bổn thì Ngài là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong Viên Giáo. Nhìn từ phương diện thị hiện (Tích), Ngài là Đẳng Chánh Giác. Giống như Trí Giả đại sư lão nhân gia thị hiện vãng sanh trong địa vị Ngũ Phẩm, đấy là nói theo sự thị hiện nơi Tích. Nói theo Bổn thì mức độ thấp nhất cũng phải là Đẳng Chánh Giác. Nếu không phải là Đẳng Chánh Giác, chắc chắn Ngài sẽ không thể viết bộ Pháp Hoa Kinh Văn Cú được!
(Diễn) Hựu, Phật Địa Luận, thuyết Phật hữu kỳ thập nghĩa, Thiên Thai lục tức, Hoa Nghiêm thập thân, tường cụ hậu văn.
(演) 又佛地論,說佛有其十義。天台六即,華嚴十身
,詳具後文。
(Diễn: Lại nữa, Phật Địa Luận nói chữ Phật có mười nghĩa, ngài Thiên Thai lập ra giáo thuyết Lục Tức Phật, kinh Hoa Nghiêm giảng Phật có mười thân sẽ được trình bày tường tận trong phần sau).
Trong Phật Địa Luận nói Phật có mười ý nghĩa. Thông thường, [các nhà chú giải giảng] chữ Phật có ba ý nghĩa, hay ba thứ giác. Khởi Tín Luận cũng nêu ra ba ý nghĩa. Trí Giả đại sư lập ra giáo nghĩa Lục Tức Phật. Kinh Hoa Nghiêm nói tới mười thân Phật. Đấy đều là tách ra hay gộp vào khác nhau. Chúng đều là ý nghĩa của chữ thứ nhất, tức chữ Phật trong tựa đề kinh này.
(Diễn) Thuyết giả, dĩ tuyên diễn đắc danh.
(演) 說者,以宣演得名。
(Diễn: Thuyết là do nói, diễn mà thành tên)
“Tuyên” (宣) là tuyên dương, nói bằng miệng. “Diễn”(演) là biểu diễn, động tác. Nhất cử, nhất động, các nét biểu lộ tình cảm trên khuôn mặt, đều gọi là “diễn”. Quý vị phải hiểu: Sự thụ dụng do nghe kinh ngay tại chỗ giảng đã bị giảm bớt nếu nghe kinh từ băng thâu hình trên TV. Tuy cũng thấy được hình tướng, nhưng ý vị khác nhau. Nếu nghe băng thâu âm thì sự thụ dụng lại giảm hơn nữa, chẳng thể bằng nghe kinh ngay tại chỗ giảng. Vậy là sao? Thật ra là bất đắc dĩ mới dùng phương pháp này. Nghe kinh ngay tại chỗ phải có nhân duyên, quyết định chẳng thể buông bỏ, buông bỏ rồi thì sẽ đúng như trong Kệ Khai Kinh đã nói: “Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ” (Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ). Ở đây, chẳng phải là tôi nói với quý vị tôi giảng hay như thế nào, mà là hội giảng kinh này khó thể gặp gỡ, suốt cuộc đời chúng ta, cớ sao có nhân duyên, thiện căn, phước đức như vậy, gặp được bộ A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, có nhiều đồng học như vậy ở cùng một chỗ với nhau để cùng tu học, nghiên cứu, thảo luận, rất ư là khó! Nhân duyên này thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Suy nghĩ cặn kẽ, trên toàn thế giới ngày nay, pháp hội giảng Sớ Sao Diễn Nghĩa này hầu như chỉ mình chúng ta là có. Chúng ta biết khắp Đài Loan không nơi nào có, những nơi khác chẳng thể nào có được, thì mới thấy pháp hội này thù thắng. Do tuyên dương, biểu diễn mà được gọi là Thuyết. Chữ Thuyết bao hàm nhiều ý nghĩa như vậy đó.
(Diễn) Sướng duyệt vi nghĩa.
(演) 暢悅為義。
(Diễn: Lưu loát, vui sướng là ý nghĩa [của chữ Thuyết]).
“Sướng” (暢) là thoải mái, lưu loát, không có chướng ngại. “Duyệt” (悅) là vui vẻ. Niềm vui ấy từ trong nội tâm phát sanh. Cả hai câu này nhằm giải thích chữ Thuyết (說). Thoải mái, lưu loát, vui sướng như thế nào? Chúng ta không cách nào tưởng tượng được. Tiếp theo đây, đại sư lại giải thích. Đoạn tiếp theo đây nhằm chú giải câu “sướng duyệt vi nghĩa”.
(Diễn) Tứ vô ngại biện vi Thể.
(演) 四無礙辯為體。
(Diễn: Bốn thứ vô ngại biện tài là Thể [của chữ Thuyết]).
Tứ Vô Ngại Biện là bốn món vô ngại biện tài.
Thứ nhất là Nghĩa Vô Ngại, hoàn toàn thông đạt đạo lý, không chướng ngại. Đây là điều thứ nhất, trọng yếu nhất trong Tứ Vô Ngại Biện. Những đạo lý thế gian và xuất thế gian đều hiểu rõ, quyết định không hiểu sai lầm, điều gì cũng đều hiểu rõ.
Thứ hai là Pháp Vô Ngại, tức là thông đạt pháp tướng. Nếu dùng Tánh và Tướng để giải thích thì Nghĩa là Pháp Tánh, còn nếu dùng danh từ triết học để giải thích thì thông đạt bản thể là Nghĩa Vô Ngại. Trong Phật giáo gọi thông đạt hiện tượng là “thông đạt Pháp Tướng”; đấy là Pháp Vô Ngại.
Thứ ba là Từ Vô Ngại, Từ (詞) là “ngôn từ, lời lẽ”, [Từ Vô Ngại] là ngôn ngữ không bị chướng ngại. Trong đoạn trên, Nghĩa là Lý, Pháp là Sự, Sự vô ngại. Ngôn từ vô ngại, quý vị ăn nói rất khéo, có khả năng diễn đạt, có thể nói rất rõ ràng những điều chính mình đã chứng, đã thấy, đã nghe, khiến cho người khác thấu hiểu, đấy là Từ Vô Ngại.
Thứ tư là Nhạo Thuyết Vô Ngại. Nhạo (樂) là yêu thích, ưa thích, nói một cách thích thú. Nếu ba điều trước đó đều có đủ mà người ấy chẳng hào hứng, chẳng thích nói thì cũng chẳng có cách nào cả. Người ấy thích nói, thích đem những điều chính mình đã biết dâng tặng người khác nhằm lợi ích chúng sanh, đấy là Đại Bi. Ba điều trước là Đại Trí, điều cuối cùng này là Đại Bi. Đại Bi là động lực, thích nói, thích giúp đỡ người khác.
(Diễn) “Sướng” tắc sướng xuất thế chi bổn hoài.
(演) 暢則暢出世之本懷。
(Diễn: “Sướng” là thỏa thích hoài bão xuất thế).
Quý vị hãy nghĩ xem vì sao đức Phật từ trời Đâu Suất giáng sanh vào vương cung, vì sao Phật lìa bỏ ngôi vua xuất gia, khổ hạnh, cả đời ba y một bát, ngày ăn một bữa, ngủ dưới cội cây, vì sao phải sống như thế? Vì lẽ gì? Đây là nói tới bổn hoài (điều ấp ủ trong lòng), vì độ chúng sanh. Thị hiện như vậy để dạy quý vị: Nếu quý vị mong thật sự đạt đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, quý vị hãy bỏ sạch hết thảy mọi sự trong thế gian thì mới có tư cách thực hiện được. Nếu vẫn còn có tơ hào vướng mắc nào thì đấy là chướng ngại. Đừng nói là nó sẽ chướng ngại Chánh Đẳng Chánh Giác, ngay cả Hạ Hạ Phẩm vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng bị chướng ngại, chuyện này phiền phức lắm. Do vậy, nhất định phải xả. Nếu chính đức Phật chẳng xả, làm sao bảo người khác xả cho được? Nếu chính mình chẳng xả sạch sẽ, người khác nghe Ngài nói sẽ chẳng tin tưởng. Chính Phật đã thật sự xả sạch sành sanh, người thuở đó trông thấy Phật sẽ bội phục năm vóc sát đất. Người đời sau đọc sách nhà Phật cũng chẳng thể nào không kính phục Ngài. Thật sự xả được sẽ không có chướng ngại. Quý vị có chướng ngại thì phải phản tỉnh, quý vị không buông xuống, không xả sạch sành sanh nên mới có chướng ngại. Câu này nói về bổn hoài xuất thế của đức Phật: Do Ngài có thể đạt được mục tiêu, là giúp đỡ chúng sanh nên hết sức vui sướng. Do vậy, “sướng” là nói về bản thân đức Phật.
(Diễn) “Duyệt” tắc duyệt chúng sanh chi hoạch ích.
(演) 悅則悅眾生之獲益。
(Diễn: “Duyệt” là vui vẻ vì chúng sanh được lợi ích).
Đức Phật xuất hiện trong thế gian, chúng sanh được lợi ích. Chúng sanh căn cơ chín muồi sẽ đắc độ, chúng sanh căn cơ chưa chín muồi sẽ được Phật giúp cho chín muồi. Chúng sanh chưa gieo thiện căn sẽ được Phật giúp gieo thiện căn. Chúng sanh đã gieo thiện căn được Phật giúp cho tăng trưởng. Nói cách khác, hết thảy chúng sanh không ai chẳng được lợi ích. Do vậy, Phật vui thích, đây là nói theo lối thông thường. Kinh này lại còn có ý nghĩa đặc biệt, có ý vị càng sâu đậm hơn nữa. Tiếp theo đó, sách viết:
(Diễn) Kim dĩ Như Lai cửu tu cửu chứng Niệm Phật tam-muội.
(演) 今以如來久修久證念佛三昧。
(Diễn: Nay đem pháp Niệm Phật tam-muội của Như Lai tu chứng đã lâu).
Đây là cách nói riêng trong kinh này. Chúng ta hãy chú ý chữ Cửu (久) trong từ ngữ “cửu tu cửu chứng”. Chữ này chỉ có thể áp dụng cho địa vị Phật trong Viên Giáo, chứ không thể áp dụng cho quả vị Phật trong Tạng Giáo, Thông Giáo hay Biệt Giáo. “Cửu tu cửu chứng”: Kinh Phạm Võng nói Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật, đến thị hiện trong thế gian lần này là lần thứ tám ngàn. Lão nhân gia thật sự đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chúng ta phải thấu hiểu: Phật đã chứng đến mức rốt ráo nhất, viên mãn nhất. Trong hết thảy pháp môn, pháp môn vô thượng bậc nhất là Niệm Phật tam-muội, tức Tây Phương Tịnh Độ. Nếu quý vị đọc trọn khắp ngàn kinh vạn luận, thật sự đọc hiểu thấu, quý vị sẽ biết kinh này là kinh bậc nhất trong hết thảy các kinh, trì danh niệm Phật là pháp môn bậc nhất trong vô lượng pháp môn. Hiện thời, đạo tràng này của chúng ta là đạo tràng bậc nhất trong mười phương pháp giới. Quý vị tham gia tại nơi này, chẳng thẹn với các vị thượng thiện nhân, nhất định phải tự mình trân quý, đừng ra khỏi đạo tràng này lại trở thành kém cỏi hơn. [Nếu] ở trong đạo tràng này là thượng thiện, nhưng rời khỏi đạo tràng này liền biến thành hạ thiện, đấy là lui sụt, chớ nên như vậy! Phải gìn giữ, phải tinh tấn. Tôi học Phật hơn ba mươi năm, giảng kinh hai mươi lăm năm mới tìm ra bí mật này của Phật giáo. Trong quá khứ, nó ở ngay trước mặt mà tôi bỏ lỡ, không nhận biết rõ ràng, đến bây giờ mới thật sự nhận thấy. Đức Phật nói bộ kinh này, nói ra pháp môn này, vui sướng cực điểm.
(Diễn) Uẩn chi tại hoài, thích đắc cơ nghi, tùy dĩ Tứ Biện tuyên diễn, sướng duyệt bổn hoài, linh tùy cơ hoạch ích, cố vân Thuyết dã.
(演) 蘊之在懷,適得機宜,隨以四辯宣演,暢悅本懷 ,令隨機獲益,故云說也。
(Diễn: Ôm ấp trong lòng, gặp đúng căn cơ, thời tiết, bèn dùng Tứ Biện Tài để tuyên diễn, thỏa thích bổn hoài, khiến cho từng loại căn cơ được lợi ích, nên nói là Thuyết).
Quả thật rất khó được! Có đại nhân duyên tốt đẹp như thế này, có đầy đủ cơ duyên nói ra pháp môn này, cho thấy chúng sanh trong thế giới này căn cơ đã chín muồi, có người tin tưởng, có người có thể tiếp nhận, có người chịu nương theo pháp môn này tu học để thành Phật trong một đời. Bất cứ pháp môn nào khác cũng đều chẳng thể thành Phật ngay trong một đời. Chỉ có pháp môn này là thành Phật trong một đời. Bất cứ pháp môn nào cũng chẳng ổn thỏa, thích đáng cho lắm, chỉ có pháp môn này ổn thỏa, thích đáng nhất. Vĩnh Minh đại sư nói: “Vạn tu vạn nhân khứ” (vạn người tu, vạn người về), chẳng sót một ai. Nhưng quý vị tu hành cũng có điều kiện là phải đúng lý, đúng pháp. Lý ở chỗ nào? Sách Sớ Sao Diễn Nghĩa sẽ giảng rõ ràng lý ấy, quý vị phải hiểu đạo lý ấy. Pháp ấy có cách niệm như thế nào? Phương pháp ấy cũng nằm trong sách Sớ Sao Diễn Nghĩa.
Chúng tôi vừa giảng xong bộ Di Đà Kinh Yếu Giải, thưa quý vị, một câu Phật hiệu đầy đủ sâu xa Tam Học, Tam Huệ, Tam Tư Lương, lẽ nào chẳng vui sướng? Mỗi một tiếng Phật hiệu đều bao gồm tám giáo, nhiếp trọn năm tông, đúng là mầu nhiệm chẳng thể diễn tả được! Một câu A Di Đà Phật này chính là pháp môn Đại Tổng Trì của mười phương ba đời chư Phật, có mấy ai hiểu rõ ràng? Hiện thời, tôi đặc biệt cho in lời khai thị về pháp Niệm Phật của Ngẫu Ích đại sư thành một tờ riêng để tặng quý vị; tốt nhất là quý vị hãy đọc thuộc lòng. Nếu quý vị thật sự học thuộc lòng lời khai thị ấy, hiểu được ý nghĩa, nhất định quý vị sẽ chết sạch tấm lòng mong ngóng, so đo, nhất tâm niệm Phật, sẽ thành tựu trong một đời này. Nói cách khác, tên của quý vị sẽ được treo cao trong Liên Trì Hải Hội.
— o0o —
Tập 2
Giải thích tựa đề kinh, lần trước đã giảng đến hai chữ “Phật Thuyết”. Hôm nay chúng ta bắt đầu từ chữ “A Di Đà”.
(Diễn) A Di Đà, thị Phạn ngữ, thử vân Vô Lượng, dĩ công đức, trí huệ, thân tướng, quang minh, nhất thiết giai tất vô lượng cố. Thị vô lượng Phật vãng tích nhân trung, vi Pháp Tạng tỳ-kheo thời, phát tứ thập bát nguyện, kim tại Tây Phương, nhiếp niệm Phật nhân quy vu Tịnh Độ. Cố Thích Ca Như Lai vị chúng tuyên dương dã.
(演) 阿彌陀,是梵語,此云無量,以功德智慧身相光
明一切皆悉無量故。是無量佛往昔因中,為法藏比丘時,發四十八願,今在西方攝念佛人歸于淨土,故釋迦如來為眾宣揚也。
(Diễn: A Di Đà là tiếng Phạn, cõi này dịch là Vô Lượng, do công đức, trí huệ, thân tướng, quang minh, hết thảy đều vô lượng vậy. Vị Vô Lượng Phật này trong quá khứ khi tu nhân, là tỳ-kheo Pháp Tạng, đã phát ra bốn mươi tám nguyện, nay đang ở Tây Phương nhiếp thọ người niệm Phật về cõi Tịnh Độ. Vì thế, Thích Ca Như Lai tuyên dương cho đại chúng biết).
Đoạn này giới thiệu đơn giản những điểm trọng yếu trong danh hiệu đức Phật, ý nghĩa hết sức tinh tường, xác đáng. A Di Đà là tiếng Ấn Độ, dịch sang tiếng Hán, A dịch là Vô, Di Đà dịch là Lượng. A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng. Thông thường chúng ta gọi Ngài là Vô Lượng Thọ Phật hoặc Vô Lượng Quang Phật; thật ra, Thọ và Quang chỉ là một phần trong vô lượng mà thôi. Không có cách nào diễn đạt hoàn toàn những nghĩa lý trong danh hiệu đức Phật. Trên thực tế, hai chữ Vô Lượng hết sức hay.
Tiếp đó, sách Diễn Nghĩa nói đại lược về “công đức”. Hai chữ này cũng cần phải giải thích một cách đơn giản. Công là nói về công phu, Đức là cái quý vị thâu hoạch, có được. Quý vị dùng một phần công phu, nhất định có một phần thâu hoạch. Chữ Đức này có cùng một ý nghĩa với chữ Đắc (得) trong “đắc thất, đắc đáo” (được mất, đạt được). Công phu là gì? Giới – Định – Huệ là công phu. Chẳng hạn như bố thí chủ yếu trừ keo kiệt, tham lam; nếu bố thí thật sự khiến cho chúng ta trừ bỏ được phiền não keo kiệt, tham lam thì nó là công phu, đạt được tâm địa thanh lương, tự tại, giống như Lục Tổ đại sư nói: “Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai?” (Vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần). Như vậy, cái quý vị đạt được chính là đạt được tâm thanh tịnh. Công đức phải do chính mình tu. Trong nhà Phật hiện thời, chúng ta thường dùng tiền của để bố thí. Chỉ là bố thí thì chẳng thể trở thành công đức, vì trong ấy không có công phu; không có công phu sẽ chẳng thể đoạn được keo kiệt, tham lam. Tuy tu bố thí, nhưng sức mạnh của bố thí chẳng đủ để trừ keo kiệt, tham lam, chẳng đạt được công phu, chẳng thể trở thành công phu. Có lúc chẳng những không thể trở thành công phu mà còn hoàn toàn ngược lại, tức là nghe trong nhà Phật nói “xả nhất, đắc vạn báo” (xả một phần, được quả báo vạn phần) thì mới chịu bố thí. Đấy chính là mua bán kiếm lời trong thế gian, không có lợi ích nào to lớn hơn. Ngày hôm nay bố thí một đồng, ngày mai sẽ được quả báo một vạn đồng; vậy thì hãy mau bố thí! Bố thí kiểu đó chẳng những không thể đoạn được tham lam, keo kiệt, mà ngược lại còn tăng trưởng keo kiệt, tham lam. Vì sao người ấy bố thí? Vì tâm keo kiệt, tham lam mà bố thí, chứ không phải vì Phật pháp mà bố thí; Phật pháp dạy “do đoạn keo kiệt, tham lam mà bố thí”. Trong Phật môn, dùng cái tâm keo kiệt, tham lam để bố thí thì có đạt được gì hay chăng? Có chứ, nhưng không phải là công đức, mà là phước đức, hay phước báo.
Đâm ra, quý vị bố thí hoàn toàn trở thành có phước. Quả báo là phước báo hữu lậu trong tam giới. Rộng gieo phước điền, không sai, nhưng chẳng thể gọi là “công đức”. Phải phân biệt rõ ràng giữa phước đức hay là công đức! Công đức khác với phước đức. Phước đức có thể trao cho người khác, phước báo của tôi rất lớn, tôi không hưởng, tôi có thể tặng cho quý vị hưởng, quý vị hưởng được; chứ công đức thì không được. Công đức là trí huệ, tài nghệ của tôi, không cách gì trao cho người khác được! Thiền Định, Bát Nhã, Trì Giới của tôi cũng không có cách nào trao cho người khác được. Công đức nhất định phải do chính mình tu, chính mình đạt được, còn phước đức do chính mình tu có thể ban cho người khác. Người khác tu cũng có thể ban [phước đức của họ] cho chúng ta. Ngày mai, đạo tràng này sẽ cử hành pháp hội tế lễ tổ tiên vào tiết Đông Chí, chúng ta có thể hồi hướng phước đức do chính mình tu được cho lịch đại tổ tiên. Tụng kinh cũng giống như vậy, đối với chính mình thì là công đức, chúng ta hồi hướng công đức ấy cho tổ tiên thì họ sẽ được hưởng phước đức.
“Công đức vô lượng”: Tam Học, Lục Độ, vạn hạnh không điều nào chẳng viên mãn; đấy là công đức vô lượng. “Trí huệ vô lượng”: Quyền Trí và Thật Trí đều viên mãn. “Thân tướng vô lượng”: Trong Đại Kinh có nói: “Thân có vô lượng tướng, mỗi một tướng có vô lượng hảo”. Đấy là vô lượng. Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện Liệt Ứng Thân, ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo. Do vậy, tướng và hảo đều chẳng thể gọi là vô lượng, mà là hữu lượng. Tướng hảo và quang minh của A Di Đà Phật là vô lượng. “Quang minh vô lượng”: Quang minh có thường quang và phóng quang. Thường quang lẫn phóng quang đều vô lượng, chẳng thể nghĩ bàn! Thuở đức Phật tại thế, thường quang của Ngài chiếu xa tám thước, kinh điển có khi ghi chép là một trượng (mười thước), quang minh chẳng lớn lắm. Đối với quang minh của A Di Đà Phật, thường quang chiếu tận hư không, trọn hết pháp giới, thật sự vô lượng. Tiếp đó là lời tổng kết: “Nhất thiết giai tất vô lượng” (hết thảy đều là vô lượng), do vậy, gọi Ngài là Vô Lượng Phật. Chữ Phật dịch nghĩa sang tiếng Hán là Giác. Ý nghĩa này càng sâu hơn, dịch toàn bộ danh hiệu A Di Đà Phật sang tiếng Hán thì là Vô Lượng Giác. Trong bất cứ cảnh giới nào, Phật đều giác chứ không mê, chuyện gì cũng giác, pháp nào cũng giác, không có gì chẳng giác, đó gọi là Vô Lượng Giác. Không những là Tự Giác mà còn có thể giúp cho kẻ khác giác ngộ, vì thế gọi là A Di Đà Phật.
Tiếp đó, sách Diễn Nghĩa nêu đại lược nguồn gốc của danh hiệu. “Thị Vô Lượng Phật vãng tích nhân trung” (Vô Lượng Phật trong quá khứ khi tu nhân). Sự tích này được chép trong kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta thường gọi kinh Vô Lượng Thọ là Đại Bổn A Di Đà Kinh. Kinh Vô Lượng Thọ chép A Di Đà Phật lúc ban đầu phát nguyện tu hành, “khi làm tỳ-kheo Pháp Tạng, phát ra bốn mươi tám nguyện”. Thuở ấy, Ngài mang thân phận quốc vương, lìa bỏ ngôi vua, xuất gia. Quý vị nghĩ xem, nếu xuất gia chẳng tốt đẹp hơn làm quốc vương, cớ sao Ngài lại chịu bỏ ngôi vua đi xuất gia? Người thế gian mong cầu công danh, phú quý. Phú quý trong nhân gian không chi cao tột hơn đế vương. Do vậy, nói: “Quý vi thiên tử, phú hữu tứ hải” (thiên tử sang quý, giàu có khắp bốn biển), chẳng thể sánh bằng người xuất gia, thà nguyện bỏ ngôi vua, xuất gia tu hành làm tỳ-kheo. Tỳ-kheo (Bhiksu) là từ ngữ để gọi chung người xuất gia. Pháp Tạng (Dharmākara) là pháp danh của Ngài, nên gọi là tỳ-kheo Pháp Tạng. Ngài xuất gia trong pháp hội của Thế Tự Tại Vương Phật (Lokeśvararāja), khi xuất gia đã phát ra bốn mươi tám nguyện.
“Kim tại Tây Phương” (hiện ở tại Tây Phương): Quý vị phải nhớ kỹ, đây là Tây Phương của thế giới Sa Bà, chứ không phải là Tây Phương của địa cầu. Địa cầu của chúng ta không có Tây Phương vì nó xoay chuyển, quý vị nói Tây Phương thì hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau nó lại trở thành Đông Phương mất rồi. Ở đây, [sách Diễn Nghĩa] nói tới Tây Phương của thế giới Sa Bà. Thế giới Sa Bà là động hay bất động? Cũng động, nhưng vì thế giới quá lớn, từ lúc Thích Ca Mâu Ni Phật giảng bộ kinh này mãi cho đến hiện thời là ba ngàn năm, trong đại vũ trụ, thế giới chỉ chuyển động đôi chút, phương vị không thay đổi. Sa Bà là một đại thế giới, là một hệ Ngân Hà. Hệ Ngân Hà của chúng ta cũng lưu động, phạm vi của hệ Ngân Hà quá lớn, suốt ba ngàn năm, góc độ của nó chỉ chuyển dịch một vài độ mà thôi, phương hướng chung vẫn chẳng thay đổi. Do vậy, cho đến hiện thời, [nói thế giới Cực Lạc] ở Tây Phương vẫn chính xác. Tây Phương thế giới cách thế giới của chúng ta khá xa; đừng nên sợ hãi khoảng cách xa xôi ấy, rất dễ dàng đến nơi đó, điều này cũng chừa lại để thảo luận sau.
“Nhiếp niệm Phật nhân quy vu Tịnh Độ” (Nhiếp người niệm Phật trở về Tịnh Độ): Nhiếp (攝) là nhiếp thọ (攝受), có nghĩa là đức Phật vui thích tiếp dẫn những đồng học niệm Phật, bằng lòng giúp đỡ những vị đồng học niệm Phật. Chỉ cần bằng lòng về thế giới của Ngài, Ngài đều hết sức hoan nghênh, [những người ấy] đều được hưởng sự đãi ngộ bình đẳng, chẳng thể nói là có sai khác gì! “Cố Thích Ca Như Lai vị chúng tuyên dương dã” (Vì thế, Thích Ca Như Lai tuyên dương cho đại chúng biết): Vì những duyên này, Thích Ca Mâu Ni Phật mới tuyên dương chuyện này cho chúng ta biết, mong chúng ta sẽ tin nhận, y giáo phụng hành, tương lai đều có thể sanh về Tây Phương thân cận A Di Đà Phật.
(Diễn) Kinh giả, thích hữu đa chủng, bất xuất thường, pháp, quán, nhiếp tứ nghĩa.
(演) 經者,釋有多種,不出常法貫攝四義。
(Diễn: Chữ Kinh có nhiều cách giải thích, nhưng chẳng ngoài bốn nghĩa thường, pháp, quán, nhiếp).
Kinh trong tiếng Ấn Độ là Tu-đa-la (Sūtra), người Hoa dịch là Kinh. Tu-đa-la có rất nhiều ý nghĩa, có ý nghĩa gốc và ý nghĩa mở rộng. Đối với giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, người Hán đều tôn xưng là Kinh. “Kinh” có nghĩa là chân lý siêu việt thời gian, siêu việt không gian, vĩnh viễn chẳng biến đổi thì tôn xưng là Kinh. Phật pháp cũng hội đủ những điều kiện ấy, do vậy khi Phật pháp truyền đến Trung Quốc, đã được dịch là Kinh. Những ý nghĩa trong kinh Phật so với những ý nghĩa của những thứ được người thế gian gọi là “kinh điển” càng phong phú hơn; do vậy, phải đặc biệt chú giải. Các tác phẩm chú giải cũng rất nhiều, trong mười ý nghĩa của kinh Hoa Nghiêm, thường lấy bốn ý nghĩa “thường, pháp, quán, nhiếp” để giải thích. Cách giải thích này phổ biến nhất; ở đây, đại sư cũng dùng bốn nghĩa này.
(Diễn) Thường giả, tam thế bất dịch, nhất thiết chư Phật giai như thị thuyết, cố vân Thường.
(演) 常者,三世不易。一切諸佛皆如是說,故云常。
(Diễn: Thường là ba đời chẳng thay đổi, hết thảy chư Phật đều nói như thế nên gọi là Thường).
“Tam thế” là đời quá khứ, đời hiện tại, và đời vị lai. “Dịch” (易) là biến đổi. Thuyết pháp, ý nghĩa vĩnh viễn chẳng thay đổi nên gọi là Thường. “Thường” là chân lý. Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp như vậy, A Di Đà Phật cũng thuyết pháp như vậy, mười phương ba đời hết thảy chư Phật đều thuyết pháp như vậy. Đấy là chân lý chân thật. Quý vị phải biết: Ngôn từ dùng để thuyết pháp có thể chẳng giống nhau, nhiều, ít khác nhau, nhưng ý nghĩa nhất định phải giống nhau. Vì sao? Đều là cảnh giới do Phật đích thân chứng đắc, Phật pháp gọi điều này bằng thuật ngữ “hiện lượng cảnh giới”. Hiện Lượng Cảnh Giới của Phật chẳng do suy lường, chẳng do nghe người khác nói, mà do chính mình đích thân chứng được. Do vậy, nói ra giống hệt nhau, đó gọi là Thường. “Thường” là vĩnh viễn chẳng bị biến đổi, đây là nói về phương diện siêu việt thời gian.
(Diễn) Pháp giả, thập giới đồng quỹ, tứ thánh, lục phàm do chi giải thoát, cố vân Pháp.
(演) 法者,十界同軌。四聖六凡由之解脫,故云法。
(Diễn: Pháp là đường lối chung cho mười pháp giới. Tứ thánh, lục phàm do đây mà được giải thoát nên gọi là Pháp).
“Pháp” có nghĩa là siêu việt không gian. Hết thảy hữu tình chúng sanh trong mười pháp giới đều phải nương theo quỹ đạo này. “Pháp” có nghĩa là “quỹ đạo” (đường lối nhất định) hay quy tắc, giống như xe lửa nhất định phải chạy trên đường rầy, chẳng thể rời khỏi đường rầy. Đường rầy ấy là Pháp. Chữ Pháp này được hiểu theo nghĩa hẹp, chứ không phải là nghĩa rộng, nhằm chỉ điều gì? Pháp chỉ cho Kinh – Luật – Luận Tam Tạng kinh điển. Để đạt được tự tại, giải thoát, tứ thánh, lục phàm đều phải nương theo phương pháp này, rời khỏi phương pháp này sẽ chẳng thể đạt được, nhất định phải chiếu theo phương pháp này để tu hành. Chữ “tứ thánh” chỉ Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, “lục phàm” chỉ lục đạo phàm phu: Trời, người, Tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Chúng ta đọc tới câu này, nếu là người tỉ mỉ, sợ rằng ắt sẽ nẩy sanh câu hỏi: “Nói Bồ Tát mong được giải thoát thì còn chấp nhận được, chứ Phật mà vẫn mong giải thoát ư? Phật là đạt đến quả vị rốt ráo, vì sao còn phải mong giải thoát?” Phật cũng phải mong! Vì sao? Có rất nhiều loại Phật. Phật trong Tạng Giáo, Phật trong Thông Giáo, Phật trong Biệt Giáo đều phải nương theo Tam Tạng Kinh – Luật – Luận để tu hành. Phật quả mà các vị ấy đã chứng chưa phải là địa vị Phật rốt ráo.
Địa vị Phật của họ là Phần Chứng Phật, họ chứng được Chánh Đẳng Chánh Giác, không phải là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Luận về quả vị Phật trong Biệt Giáo, [ta thấy] Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo “phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân”, Thập Địa phá mười phẩm vô minh, Đẳng Giác phá mười một phẩm vô minh; [do vậy], bất quá, Phật [trong Biệt Giáo] phá mười hai phẩm vô minh mà thôi. Vô minh có bốn mươi mốt phẩm, Phật trong Biệt Giáo mới phá được mười hai phẩm nên nếu Ngài chẳng nương theo Tam Tạng Kinh – Luật – Luận để tu hành, sẽ chẳng thể chứng Vô Thượng Bồ Đề. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là quả vị Phật trong Viên Giáo. Phật pháp giới nằm trong mười pháp giới, nhưng Phật pháp giới chẳng bao gồm địa vị Phật trong Viên Giáo, mà bao gồm ba quả vị Phật trong Tạng Giáo, Thông Giáo và Biệt Giáo. Chẳng chiếu theo pháp môn này sẽ không được, sẽ không có cách nào chứng được Vô Thượng Bồ Đề. Đấy là nói về Tam Tạng kinh điển.
Trong đây còn có một ý nghĩa rất sâu, chữ Pháp chuyên chỉ bộ kinh này. Thường, Pháp, Quán, Nhiếp đều nhằm chỉ bộ kinh A Di Đà này. Kinh A Di Đà này có phân lượng rất nặng!
(Diễn) Quán giả, quán xuyên sở ưng tri nghĩa. Nhược vô văn tự, vô dĩ quán xuyên nghĩa lý, hoán nhiên khả quán, cố vân Quán.
(演) 貫者,貫穿所應知義。若無文字,無以貫穿義理
,煥然可觀 , 故云貫。
(Diễn: Quán là xuyên suốt, xếp đặt mạch lạc những nghĩa lý đáng nên biết. Nếu không có văn tự sẽ không có gì để sắp đặt mạch lạc những nghĩa lý sao cho rõ ràng để có thể thấy được, nên gọi là Quán).
“Quán” (貫): Đối với ngôn ngữ, văn từ, hiện thời chúng ta nói tới “chương pháp”, tức là kết cấu, tổ chức có thứ tự, không lộn xộn, đấy là ý nghĩa của chữ Quán. Trong ngôn ngữ văn tự bao hàm những đạo lý, hiện thời chúng ta gọi những đạo lý ấy là “tư tưởng tinh nghiêm” hoặc “tư tưởng kín nhiệm”, đó là dùng ý nghĩa thế gian để nói. Thật ra, Phật pháp lìa khỏi tâm ý thức, chẳng thuộc vào tư tưởng, nhưng những đạo lý trong ấy quả thật có tầng lớp, thứ tự, có hệ thống mạch lạc, chẳng rối ren một tí nào, Lý và Sự đều là như thế.
Tuy trong toàn bộ vũ trụ, sâm la vạn tượng là vô lượng, vô biên, nhưng chẳng loạn. Người thế gian trông thấy tình hình này cảm thấy lạ lùng, [tin rằng] nhất định có người nào đó sắp đặt. Nếu không có ai sắp đặt, vì sao chúng có trật tự tốt đẹp dường ấy? Ai sắp đặt? Do vậy, bèn vọng tưởng cho rằng nhất định phải có một vị thần, có một Thượng Đế sắp xếp. Thật ra, họ chẳng biết vạn pháp vốn có sẵn trật tự. Trong kinh điển, đức Phật dạy chúng ta vũ trụ hình thành, phát triển theo thứ tự thuận, chẳng rối loạn. Từ nhất niệm Chân Như bổn tánh bất giác mà có vô minh. Vô minh bất giác sanh ra Tam Tế, cảnh giới làm duyên tăng trưởng Lục Thô[3], phát triển theo từng tầng một, chẳng loạn! Khi Phật pháp chưa truyền đến Trung Quốc, cổ nhân Trung Quốc cũng dường như
thấu hiểu đạo lý này. Cội gốc của văn hóa Trung Quốc là kinh Dịch, có thể nói cả sáu kinh [của Nho gia] đều là chú giải của kinh Dịch. Kinh Dịch giảng về duyên khởi của vũ trụ như sau: “Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng sanh Bát Quái, Bát Quái sanh vạn vật”[4], cũng rất có trật tự, cũng mạch lạc, chẳng rối ren. Người Trung Quốc không nói tới thần thoại [sáng tạo thế gian], không nói có một người nào an bài [vũ trụ]. Cách quan sát này hết sức gần gũi với cách quan sát trong Phật pháp.
Nhưng không có lời nói và văn tự, sẽ không có cách nào thể hiện những chân lý trong vũ trụ, không có cách nào truyền đạt khiến cho người khác cũng có thể quán sát giống như vậy. Vì thế, lời nói, văn tự rất quan trọng. Thuở Phật tại thế, lấy âm thanh làm giáo thể, Giáo là dạy học, dùng gì để dạy học? Dùng ngôn ngữ. Sau khi Phật diệt độ, hàng đệ tử kết tập tất cả những lời Phật nói, ghi chép thành kinh điển. Hiện thời, chúng ta học Phật dùng kinh điển làm sách giáo khoa. Nhất là trong thời đại hiện tại, nhất định phải ghi nhớ Tứ Y Pháp của Phật. “Y pháp, bất y nhân”: Pháp là kinh điển, phải lấy kinh điển làm căn cứ, đối với kinh điển, tin sâu chẳng nghi, phải tích cực nghiên cứu, tu học. Chúng ta muốn hiểu rõ nghĩa chân thật của vũ trụ nhân sinh, hiểu rõ chân lý thật sự ấy thì nhất định phải đọc kinh, phải nghiên cứu. “Hoán nhiên khả quán” (rõ ràng có thể thấy được): “Hoán nhiên” có nghĩa là hết sức rõ ràng, giống như ánh lửa, ánh sáng của ngọn lửa có độ sáng rất lớn, từ đằng xa cũng có thể trông thấy được.
(Diễn) Nhiếp giả, nhiếp trì nhất thiết chúng sanh. Nhược vô ngữ ngôn, bất năng khai hiểu chúng sanh xuất sanh tử hải, cố vân Nhiếp.
(演) 攝者,攝持一切眾生。若無語言,不能開曉眾生
出生死海故云攝。
(Diễn: Nhiếp là thâu giữ hết thảy chúng sanh. Nếu không có ngôn ngữ, sẽ chẳng thể chỉ bày khiến cho chúng sanh thông hiểu, thoát khỏi biển sanh tử, nên gọi là Nhiếp).
“Nhiếp” (攝) là “nhiếp trì nhất thiết chúng sanh”. Nói đơn giản, Nhiếp giống như một sức mạnh mà chúng ta gọi là “sức hấp dẫn”. Quý vị không tiếp xúc sẽ chẳng thể cảm nhận được. Hễ tiếp xúc rồi sẽ thường mong được thân cận, muốn bỏ cũng chẳng được, có ý vị như thế thì gọi là Nhiếp. Kinh điển quả thật là như thế. Nếu quý vị mở quyển kinh ra, đúng là muốn bỏ chẳng được. Xem một lần hoan hỷ, xem lần thứ hai càng hoan hỷ hơn, xem mười lần, hai mươi lần, một ngàn lần, một vạn lần, xem vĩnh viễn chẳng chán. Đó là Nhiếp. Quý vị đọc báo chí, xem một lần xong, còn có thể đọc lần thứ hai hay không? Vì sao? Những loại văn chương ấy không có chữ Nhiếp này. Nhiếp là muốn bỏ mà chẳng thể được, vì sao kinh Phật có sức mạnh lớn như thế? Vì trong kinh có vô lượng nghĩa. Đọc một lần phát hiện đôi chút, đọc lần nữa, lại phát hiện một chút nữa. Đọc mỗi ngày đều có phát hiện mới, không chết cứng mà sống động. Kinh có cách giảng nhất định hay chăng? Thưa quý vị, kinh không có cách giảng nhất định, vì nếu có cách giảng nhất định sẽ trở thành chết cứng. Ở nơi đây, chúng tôi giảng bộ kinh này, lần thứ nhất là ý nghĩa này, lần thứ hai lại là một ý nghĩa mới, lần thứ ba lại là một ý nghĩa mới khác nữa; mỗi lượt đều khác nhau. Nếu mỗi lần giảng đều dùng văn Bạch Thoại để chép lại sẽ chết cứng. Thứ [văn chương] chết cứng ấy không có sức Nhiếp, mà Thường và Pháp cũng chẳng có, nhiều nhất chỉ được Quán. Trong bốn ý nghĩa chỉ có được ý nghĩa này, ba thứ kia đều không có. Do vậy, mỗi lượt giảng kinh đều có ý nghĩa mới.
Kinh Phật có cách giảng nhất định hay chăng? Không có cách giảng nhất định! Kinh Phật không có ý nghĩa[5], Bát Nhã vô tri, chúng ta bàn nói, thảo luận: Vô lượng nghĩa, không có gì chẳng biết. Do vậy, học Phật chẳng thể chấp chết cứng vào mỗi dòng văn tự, đừng chấp chết cứng nơi ngôn ngữ, muôn vàn phần chớ nên chấp trước. Nhất định phải nhớ lời dạy của Mã Minh Bồ Tát trong Khởi Tín Luận, “ly ngôn thuyết tướng, ly danh tự tướng, ly tâm duyên tướng”. Ly tâm duyên tướng là trong tâm chẳng dấy lên ý nghĩ, chẳng động niệm, không phân biệt, không chấp trước, nghe rất rõ ràng, nghe thông suốt. Nghe pháp như thế sẽ khai ngộ. Nghe không hiểu [bèn vọng tưởng] “tôi suy tưởng sẽ hiểu ngay”, càng nghĩ càng hỏng bét! Suy tưởng là rớt vào thức thứ sáu, rớt vào vọng tưởng. Vọng tưởng thì làm sao khai ngộ cho được? Vọng tưởng chướng ngại ngộ môn, chẳng thể khai ngộ. Ngộ là vừa tiếp xúc liền hiểu rõ rỗng rang, đó là Ngộ. Hễ thông qua suy nghĩ, phán xét, sẽ rớt vào tâm ý thức. Khai ngộ kiểu đó là Thế Trí Biện Thông, chẳng phải là thật sự khai ngộ. Thật sự khai ngộ chẳng dùng tới tâm ý thức. Nếu quý vị lìa tâm ý thức để đọc kinh thì ý vị vô cùng, đúng là khoái lạc khôn sánh. Do vậy, kinh Phật có sức nhiếp trì hết thảy chúng sanh.
“Nếu không có ngôn ngữ, sẽ chẳng thể chỉ bày làm cho chúng sanh thông hiểu, vượt thoát biển sanh tử, nên gọi là Nhiếp”: Phật nhiếp thọ chúng sanh là dùng ngôn giáo nói với thế giới Sa Bà, chúng sanh trong thế giới Sa Bà, Nhĩ Căn nhanh nhạy nhất. Do vậy, dùng âm thanh làm Phật sự. Chúng ta đọc, chẳng nhìn thấy rõ ràng, còn nghe sẽ dễ dàng giác ngộ, dễ thấu hiểu. Thích Ca Mâu Ni dạy học tại Ấn Độ, Khổng Tử dạy học tại Trung Quốc, đều lấy âm thanh làm giáo thể.
(Diễn) Thiên diệp lương quy, bách linh thường quỹ, thuyên chân lợi vật, mục vi Kinh dã.
(演)千葉良規,百靈常軌,詮真利物,目為經也。
(Diễn: Khuôn phép tốt lành trên ngàn cánh sen, đường lối thường hằng của bách linh, nói lẽ chân, lợi ích chúng sanh, thì gọi là Kinh vậy).
Mấy câu này là tổng kết, chữ “thiên diệp” chỉ Lô Xá Na Phật, tức là như kinh Phạm Võng nói, Lô Xá Na Phật ngồi trên hoa sen ngàn cánh. “Lương quy” là khuôn mẫu tốt đẹp nhất, tức là kinh điển. Chữ “bách linh” chỉ Phật, Bồ Tát, cho đến hết thảy thiên long bát bộ muốn xuất ly tam giới, muốn phá mê khai ngộ, đều phải nương theo kinh điển. Lời nói, văn tự là pháp phương tiện. Trong những pháp phương tiện, có những điều chân thật, thì gọi là “thuyên chân”. Pháp thế gian thường nói “văn dĩ tải đạo” (văn có thể chở đạo), đạo là thật, đạo ở chỗ nào? Đạo ở trong văn, nhưng phải hiểu: Văn trọn chẳng phải là đạo, đạo quả thật ở trong văn, nhưng văn lại chẳng phải là đạo. Đạo thật sự ở trong ngôn ngữ, nhưng ngôn ngữ chẳng phải là đạo. Quý vị phải thấu hiểu ý nghĩa này.
Giống như tấm bia chỉ đường. Bia chỉ đường đặt nơi nào đó, chỉ về con đường nào thì gọi là đường đó; nhưng tấm bia ấy hoàn toàn chẳng phải là con đường, mà để chỉ phương hướng. Quý vị đi theo phương hướng ấy, nhất định sẽ đến được con đường ấy. Kinh Lăng Nghiêm nói đến chuyện chỉ mặt trăng, ngón tay dùng để chỉ không phải là mặt trăng; dõi theo ngón tay chỉ, nhất định sẽ có thể thấy được mặt trăng. Thiền Tông có bộ sách Chỉ Nguyệt Lục. Lời nói, văn tự là “ngón tay”, quý vị muốn điều gì? Muốn thấy mặt trăng, chứ đâu có muốn ngón tay! Lìa khỏi ngón tay ấy, quý vị sẽ chẳng thấy được mặt trăng, ắt phải dựa vào ngón tay ấy để ngộ được vầng trăng. Phật pháp là như vậy đấy. Do vậy, quý vị học Phật thì phải học pháp chân thật, ắt cần đến lời nói, cần đến văn tự. Lục Tổ đại sư không biết chữ, nhưng là người thật sự đạt được mặt trăng. Không biết chữ đương nhiên chẳng thể giảng kinh, nhưng quý vị cầm kinh đọc cho Ngài nghe, Ngài sẽ giảng cho quý vị nghe, có thể giảng cho quý vị khai ngộ. Sự cao minh ấy gọi là “giảng kinh thật sự”.
Người chẳng biết giảng kinh đem bộ kinh này giảng đến mức hoa trời rơi tán loạn, khiến cho thính chúng càng nghe càng mê hoặc, càng nghe càng điên đảo, người ấy chẳng phải là khéo nói! Người khéo nói, chỉ miêu tả sơ sài sẽ khiến quý vị “đại triệt đại ngộ”, biết giảng là như vậy đấy! Như thế nào thì mới biết giảng? Ắt phải là chính mình đã thật sự chứng thì quý vị mới biết. Chính mình chưa thật sự thấy, mò mẫm theo văn tự thì làm sao thật sự có cái gì để ban tặng, chỉ dạy người khác? Làm chẳng được chuyện ấy! Do có những thứ chân thật trong ấy, có thể làm cho người khác ngộ nhập, đó gọi là “lợi vật”. Chữ “vật” sử dụng rất khéo, chẳng nói là “lợi người”. Nếu nói nhân hoặc nhân thiên thì trong mười pháp giới chỉ bao gồm hai loại, chẳng thể bao gồm những pháp giới khác. Nói “vật” thì toàn bộ hữu tình chúng sanh đều bao gồm trong ấy. Có như vậy thì mới có thể gọi là Kinh.
Kinh ắt phải hội đủ bốn điều kiện Thường, Pháp, Quán, Nhiếp. Học thuật, văn chương, ngôn thuyết thế gian đạt tới tiêu chuẩn tối cao thì chỉ có thể đạt được một trong bốn tiêu chuẩn này tức là Quán, chứ ba điều kia không hề có. Sách thế gian dẫu hay đến mấy, đọc mãi cũng chán, đọc đến cuối cùng chẳng muốn xem nữa. Vì sao vậy? Ý nghĩa có khi hết, chẳng giống như kinh Phật: Ý nghĩa trong kinh Phật không hề cùng tận, càng đọc càng vui sướng. Chúng ta trình độ nông cạn, đọc sách Khổng Tử một lượt, hai lượt sẽ ngủ gục, [cảm thấy] khô khan, vô vị. Đọc kinh Phật càng chẳng cần phải nói nữa, do nguyên nhân nào? Chưa thấu hiểu được ý vị ấy, không thưởng thức được! Đưa đường ngọt ngào cho quý vị, vừa nếm liền cảm nhận ngay, khá lắm! Học sinh tiểu học đọc sách dành cho cấp tiểu học cảm thấy rất hứng thú, nhưng học sinh trung học chẳng muốn xem, không có ý vị gì hết! Kinh Phật đạt tiêu chuẩn tối cao trong hết thảy các thứ sách vở, xưa nay, những vị tổ sư đại đức sợ chúng ta chẳng đủ trình độ, chẳng thể thưởng thức pháp vị, nên soạn thêm chú giải nhằm giúp đỡ. Vẫn sợ chú giải còn quá sâu, quý vị vẫn chưa thể thưởng thức ý vị được; vì vậy, lại viết chú giải cho sách chú giải. [Do đó], đã có Sớ lại còn có Sao, lại có Diễn Nghĩa, giải thích theo từng tầng một. Sợ các vị đồng học vẫn chưa thưởng thức được ý vị, tôi thưởng thức đôi chút, bèn thưa trình cùng quý vị tại nơi này, không gì chẳng nhằm khuyên dụ, hướng dẫn quý vị đích thân thưởng thức pháp vị thì quý vị mới thật sự đạt được “pháp hỷ sung mãn”.
(Diễn) Hựu thử kinh, Đường dịch vi Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh, kim vi thử danh giả, dĩ Phật danh nhân sở nhạo văn, hựu nhất thiết công đức, ngôn Phật tiện châu cố.
(演) 又此經,唐譯為稱讚淨土佛攝受經。今為此名者
,以佛名人所樂聞,又一切功德,言佛便周故。
(Diễn: Lại nữa, bản dịch đời Đường đề tên kinh này là Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh, nay kinh mang tên này (Phật Thuyết A Di Đà Kinh) là dùng danh hiệu của vị Phật mà mọi người thích nghe [để đặt tên]. Hơn nữa, đối với hết thảy công đức, hễ nói “Phật” thì sẽ trọn đủ).
Đây là nói về kinh này. Bản kinh là [được dùng để chú giải ở đây] do Cưu Ma La Thập đại sư dịch vào đời Diêu Tần. Khi Huyền Trang đại sư sang Ấn Độ, mang theo thái độ hoài nghi ra đi. Ngài đúng là một vị có chuẩn mực học vấn cũng như tu hành cao nhất. Kinh điển dịch từ tiếng ngoại quốc sang tiếng Hán, nếu lỡ dịch sai, chúng ta chiếu theo đó tu học, chẳng phải là oan uổng ư? Tuy người phiên dịch tội lỗi vô lượng, bản thân chúng ta chịu thiệt thòi quá lớn. Hiện thời, bao nhiêu người hoài nghi kinh Phật. Những bản dịch thời ấy rốt cuộc là đáng tin tưởng hay không? Do vậy, hiện thời có những người muốn tìm kinh điển bằng tiếng Phạn để đọc, đọc trực tiếp từ nguyên bản. Thật ra, tìm được nguyên văn kinh điển rồi, quý vị đọc có hiểu hay chăng? Tuy đọc thông suốt văn tự, nhưng ý nghĩa nằm ngoài ngôn ngữ, chẳng thuộc trong văn tự, sẽ phiền phức rất lớn. Huyền Trang đại sư mang nỗi hoài nghi ấy, sợ cổ nhân như La Thập đại sư phiên dịch chẳng đáng tin cậy cho lắm, nên đích thân sang Ấn Độ, ở lại Ấn Độ suốt mười bảy năm. Thời gian ra đi và trở về tổng cộng mười chín năm. Thuở ấy, cưỡi ngựa, đi đường bộ, giao thông chẳng thuận tiện, từ Ấn Độ đến [kinh đô] Trường An của Trung Quốc gần như đi mất một năm mới tới nơi, đi về mất mười chín năm. Ngài trở về, đối với kinh điển do cổ đức đã dịch chẳng nói một câu nào, hoàn toàn chính xác. Nguyên bản kinh A Di Đà, tức bản tiếng Phạn, tại Ấn Độ Ngài đã từng xem, cũng đem về, chính mình cũng phiên dịch một lượt. Kinh dùng để phiên dịch lần này là cùng một bản tiếng Phạn [với bản của ngài La Thập dịch], Huyền Trang đại sư dịch một lần nữa mang tựa đề là Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh. Nguyên bản giống nhau, do hai người dịch nên lời dịch khác nhau, nhưng ý nghĩa trong ấy quyết định là giống nhau.
Con người hiện thời đúng là “cang cường nan hóa” (ương ngạnh, khó giáo hóa) như kinh Địa Tạng đã nói, cảm tình quá nặng, đấy chính là căn bản của luân hồi sanh tử. Lần này chúng tôi đặc biệt in bản chú giải kinh A Di Đà của Khuy Cơ đại sư cúng dường quý vị, Ngài chú giải rất hay. Tôi biếu tặng bản chú giải ấy là vì còn có một ý nghĩa sâu xa hơn: Nhắc nhở quý vị “y pháp, bất y nhân”. Ngài Huyền Trang là thân giáo sư của ngài Khuy Cơ, tức là thầy ngài Khuy Cơ. Khuy Cơ là đồ đệ đắc ý nhất của Huyền Trang đại sư, là người kế thừa. Thầy phiên dịch kinh A Di Đà, Ngài muốn soạn chú giải, chọn dùng bản dịch của ngài Cưu Ma La Thập, chẳng dùng bản dịch của thầy mình. Nếu là hiện thời, nhất định thầy sẽ rất cáu kỉnh: “Đối với bản dịch của ta, ngươi là đồ đệ, chú giải kinh bèn chẳng dùng bản dịch của ta, lại dùng bản dịch của Cưu Ma La Thập để làm chi? Khác nào chê bản dịch của ta không bằng bản dịch của Cưu Ma La Thập?” Bản chú giải ấy cũng được Huyền Trang đại sư vui vẻ chấp nhận, không nổi nóng, không trách móc. Ngài Khuy Cơ chẳng dùng bản dịch của thầy, mà dùng bản dịch của Cưu Ma La Thập, đấy là “y pháp, bất y nhân”. Trong hiện tại, nhất định Ngài sẽ dùng bản dịch của thầy, chẳng dùng bản dịch của cổ đại đức, vì sao? Thói quen tình cảm mà! Theo thói quen tình cảm sẽ chẳng thể liễu sanh tử được!
Lão nhân gia thị hiện như vậy nhằm dạy chúng ta “y pháp, bất y nhân”. Bản dịch của thầy cũng hay như bản dịch của cổ nhân. Tuy hay như nhau, nhưng bản của cổ nhân đã được lưu thông, vậy thì dùng bản của cổ nhân. Bản dịch của Huyền Trang đại sư được đưa vào Đại Tạng Kinh, chứ không lưu thông riêng lẻ. Điều này ban cho bọn chúng sanh đời sau như chúng ta một khải thị rất lớn: Ngày nay chúng ta bái một vị nào làm thầy, thầy trò khó thể chia cắt. Quý vị thấy người ta như thế nào? Người ta hết thảy vì pháp, như vậy là đúng. Do vậy, ở chỗ này đặc biệt nêu ra: [Kinh này] có bản dịch khác của Huyền Trang đại sư, Phật vốn đặt tên cho kinh này Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh, ý nghĩa nguyên thủy trong tiếng Phạn là như vậy; nhưng La Thập đại sư chẳng dùng tựa đề kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đã đặt, Ngài dùng danh hiệu A Di Đà Phật làm tựa đề kinh. Đấy là một sáng tạo của La Thập đại sư. Ngài phiên dịch rất nhiều kinh, đều chiếu theo tên kinh do đức Phật đã đặt, chỉ khi dịch kinh này, Ngài hoàn toàn chẳng dùng tên kinh do đức Phật đã đặt, mà tự mình lấy danh hiệu A Di Đà Phật để đặt tên kinh. Đây cũng là một kiến giải đặc biệt, độc đáo của Ngài.
Ngài có lý riêng, đạo lý gì vậy? “Phật danh nhân sở nhạo văn” (danh hiệu của vị Phật được mọi người thích nghe): Nhạo (樂) là yêu thích. Danh hiệu A Di Đà Phật được mọi người thích nghe, thích niệm, yêu thích ý nghĩa sau đây: Vô Lượng Giác. Chúng ta niệm danh hiệu vị Phật này tức là trong mỗi niệm nhắc nhở chính mình phải giác chứ đừng mê. Ví như mắt của chúng ta thấy Sắc, khởi lên một niệm tâm tham, liền A Di Đà Phật! Đấy là vô lượng giác. Tâm tham là mê, một câu A Di Đà Phật, tâm tham chẳng còn nữa, giác rồi, giác là chẳng mê nữa. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, vừa mới khởi tâm động niệm, bèn A Di Đà Phật! Ngay lập tức vọng niệm ấy bị đè xuống. Đấy là vô lượng vô biên công đức. Do vậy, danh hiệu Phật là tu hành, nhắc nhở bản thân quý vị thời thời khắc khắc, ở bất cứ nơi đâu, thuận cảnh hay nghịch cảnh đều phải giác, đừng mê.
“Hựu nhất thiết công đức, ngôn Phật tiện châu cố” (Lại nữa, hết thảy công đức, hễ nói Phật sẽ trọn đủ). Phật chứng được công đức viên mãn rốt ráo. Phật là gì? Phật là giác, trong giác tánh vốn sẵn trọn đủ hết thảy công đức. Lý và Sự đều phải hiểu rõ. Trên mặt Sự, chúng ta trông thấy tượng Phật, lập tức hiểu rõ, phải giác ngộ, phải cầu giác ngộ. Phật tượng trưng cho Giác, A Di Đà Phật tượng trưng Vô Lượng Giác. Giới thiệu tựa đề kinh đến đây. Ở đây là nói đại lược, trong phần sau sẽ nói cặn kẽ.
(Diễn) Sớ giả, sớ dã, thông dã.
(演) 疏者,疏也,通也。
(Diễn: Sớ là giải thích, làm cho thông suốt).
“Sớ” là giải thích thông suốt.
(Diễn) Vị kinh trung nghĩa lý thậm thâm vi diệu.
(演) 謂經中義理甚深微妙。
(Diễn: Ý nói nghĩa lý trong kinh vi diệu rất sâu).
Đây là sự thật, câu này chẳng sai tí nào.
(Diễn) Vị dị khuy trắc cố.
(演) 未易窺測故。
(Diễn: Chưa dễ suy lường để thấu hiểu đôi chút được).
Người thường đúng là không có cách nào thấu hiểu; vì vậy, trong kinh Hoa Nghiêm có chép: “Phật pháp vô nhân thuyết, tuy trí mạc năng giải” (Phật pháp không có ai nói, dẫu là người có trí cũng chẳng thể hiểu được). Trí ấy chính là Thế Trí Biện Thông. Những người như tiến sĩ trong thế gian cũng chẳng hiểu Phật pháp, vì sao? Vì những vị tiến sĩ rớt vào tâm ý thức, họ là phàm phu. Phật pháp là lìa tâm ý thức; ngôn ngữ và văn tự của Phật pháp từ trong Chân Như bổn tánh lưu lộ. Người thông minh trí huệ trong thế gian dùng tâm ý thức; công năng của ý thức hết sức lớn, đối với bên ngoài, nó duyên tận hư không, khắp pháp giới, đối với bên trong, nó duyên tới thức thứ tám, nhưng chẳng thể duyên bổn tánh. Do vậy, dùng cái tâm ý thức để tu hành sẽ chẳng thể kiến tánh. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói rất hay: Dùng cái tâm ý thức để tu hành, tu chính xác nhất, không đi sai đường, đúng lý, đúng pháp, chỉ có thể chứng đắc A La Hán hay Bích Chi Phật mà thôi, chẳng thể thấy tánh. Điều này giảng rõ vì sao kẻ Thế Trí Biện Thông chẳng hiểu Phật pháp. Đừng nói là kẻ Thế Trí Biện Thông trong nhân gian không có cách nào hiểu, ngay cả chư thiên thông minh trí huệ cũng không có cách nào! Vậy thì, ai có thể nói được? Người minh tâm kiến tánh, người như vậy sẽ nói được, không sai! Người ấy thật sự thông đạt, vì sao? Chính người ấy chứng đắc. Phật thấy được tánh, người ấy cũng thấy được. Phật thấy viên mãn, còn người ấy thấy một phần, hai phần, vẫn là thật, chẳng phải giả. Do vậy, người ấy và Phật có cùng một tri kiến, chánh tri, chánh kiến. Người như vậy mới có thể giảng kinh, mới có thể chú giải kinh.
Từ trước đến nay, cổ đức chẳng dám khinh dễ cất bút chú giải kinh điển, vì sao? Sợ trách nhiệm nhân quả, sợ sai một chữ chuyển ngữ phải đọa làm thân chồn hoang năm trăm đời. Lầm một chữ mà phải chịu quả báo lớn như vậy, nếu sai lầm ý nghĩa thì sẽ như thế nào đây, không xong rồi! Trước kia, người ta tin nhân quả, sợ nhân quả, cho nên chú tâm cẩn thận. Thật sự có ngộ xứ, có kiến địa, thấy tánh rồi mới dám [chú giải]. Sau khi minh tâm kiến tánh, quý vị nhất định phải hoằng kinh. Quý vị không hoằng kinh thì chẳng xứng với chư Phật, Bồ Tát. Chưa đạt đến trình độ ấy thì quý vị phải tự tu, đấy là Bồ Tát. Sau khi đã đến trình độ ấy, nhất định phải lợi ích chúng sanh, phải lưu thông đại pháp. Đó gọi là Bồ Tát đạo, là Bồ Tát hạnh.
Giảng kinh cũng giống như vậy, không có kiến địa sẽ chẳng thể giảng. Đến hiện tại thì sao? Người giảng kinh chúng ta có phải là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh hay chưa? Chưa hề! Chưa hề thì đúng là to gan làm càn rồi, cũng giảng kinh ở nơi đây. Thật ra, chúng tôi ở trên giảng đài đã nhiều năm như vậy, đã sớm nói rõ ràng với quý vị: Tôi không phải là giảng kinh mà là học kinh, không dám nói là “giảng”, mà là đang học tập. Cách học tập như thế nào? Chiếu theo lời cổ đức chú giải để giảng, chẳng phải là giảng kinh, mà là giảng lời chú giải của cổ nhân. Lời chú giải của cổ nhân viết bằng văn Văn Ngôn, chúng tôi dùng ngôn ngữ thông thường để chuyển thành văn Bạch Thoại, trên giảng đài chỉ dịch lại lời cổ nhân mà thôi, chẳng dám nói là giảng kinh, đương nhiên cũng chẳng dám nói tới chuyện chú giải kinh.
(Diễn) Dĩ sớ sớ thông, sử vô nghi trệ dã.
(演) 以疏疏通,使無疑滯也。
(Diễn: Dùng lời sớ để giải thích thông suốt, khiến cho [người đọc kinh] không bị nghi ngờ, vướng mắc [đối với những ý nghĩa rất sâu vi diệu ấy])
Nghĩa lý rất sâu, dùng lời sớ để giải thích thông suốt, dùng lời sớ để giúp chúng ta phá trừ nghi hoặc, thúc đẩy chúng ta hướng thượng, chẳng đến nỗi ở lỳ trong cảnh giới ấy.
(Diễn) Hựu diệc sớ lý chi nghĩa, cổ vân: “Nhân hữu phát hề, đán đán sớ lý, thân hữu tâm hề, hồ bất như thị”.
(演)又亦疏理之義。古云,人有髮兮,旦旦疏理,身有心兮,胡不如是。
(Diễn: Lại nữa, Sớ còn có nghĩa là “chải gỡ, sắp xếp”. Cổ nhân nói: “Người có đầu tóc, chải gỡ mỗi sáng, thân có cái tâm, sao chẳng làm vậy?”).
Đây là dùng tỷ dụ để nói. Cổ nhân thường để tóc dài, hằng ngày phải chải gỡ đầu tóc; chẳng chải đầu, tóc sẽ rối bù. Quý vị biết chải gỡ đầu tóc cho gọn gàng tề chỉnh, quý vị có tâm thì trong tâm từ sáng đến tối ngàn muôn đầu mối, rối loạn lung tung, còn phiền phức hơn là đầu tóc, vì sao chẳng chải, chẳng gỡ? Chữ Sớ mang ý nghĩa ấy! Quý vị hãy chỉnh sửa những loạn tưởng khiến cho tâm có lớp lang, thứ tự.
(Diễn) Kim nãi sớ lý kinh trung áo lý, sử nhân đắc khai thông tâm địa dã.
(演) 今乃疏理經中奧理,使人得開通心地也。
(Diễn: Nay bèn sắp xếp gọn gàng những lý uyên áo trong kinh khiến cho tâm địa con người được khai thông).
Đây là nói rõ ý nghĩa vì sao cổ nhân viết Sớ: Nhằm sắp xếp, hệ thống những đạo lý uyên áo, nhiệm mầu trong kinh, xếp đặt mạch lạc từng điều một nhằm giới thiệu với chúng ta, khiến cho bọn hậu học chúng ta đọc xong sẽ tâm khai, ý giải, hiểu rõ thông suốt những nghĩa lý trong kinh. Chữ Sớ mang ý nghĩa này, tức là chú giải kinh vậy.
(Diễn) Sao giả, sao lược dã.
(演) 鈔者,抄略也。
(Diễn: Sao là chú giải sơ lược).
“Sao” là chú giải giản lược, không phải là chú giải cặn kẽ. Chú giải giản lược gọi là Sao, tức là ghi chép lặt vặt, viết bút ký.
(Diễn) Tùy thuận bổn sớ lược gia giải thích.
(演) 隨順本疏略加解釋。
(Diễn:Thuận theo lời sớ giải chánh yếu mà giải thích sơ lược thêm).
Do Sớ là chú giải kinh, sợ trong lời Sớ còn có chỗ khó hiểu, bèn chú giải giản lược những câu, chữ khó, tức là chú giải lời chú giải. “Sớ” nhằm chú kinh, tức là chú giải lời Kinh. “Sao” nhằm chú sớ, tức là chú giải lời Sớ.
(Diễn) Sử kinh sớ diệu nghĩa hoán nhiên băng thích dã.
(演) 使經疏妙義渙然冰釋也。
(Diễn: Khiến cho những diệu nghĩa trong lời sớ giải kinh được sáng tỏ, rành mạch).
Khiến cho chúng ta càng đọc càng hiểu rõ. Ngày nay chúng ta đọc Diễn Nghĩa, Diễn Nghĩa là chú giải lời Sao. Trong lời chú giải lại có lời chú giải nữa, tức là đối với lời chú giải lại có lời giải thích, tức là trong lời chú giải còn có lời chú giải, rồi từ bục giảng, chúng tôi lại giải thích thêm nữa, tức là bốn tầng chú giải. Cho thấy ý nghĩa trong kinh thật sự quá sâu, quá vi diệu. Do vậy phải chú giải nhiều lần. Chúng ta nhìn thấy rất phức tạp, nhưng có đầu mối, có mạch lạc. Chúng ta dùng công phu ba năm để đọc bộ A Di Đà Kinh này, ba năm không lâu đâu! Trong ba năm, quý vị thật sự thông đạt những nghĩa lý vi diệu rất sâu trong kinh A Di Đà, tín tâm kiên cố, đầy đủ ba món tư lương Tín – Nguyện – Hạnh, sẽ thành Phật trong một đời. Người ta thành Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp, quý vị ba năm thành Phật, có pháp nào nhanh bằng như vậy? Trong cuốn Thông Tán Sớ, đại sư Khuy Cơ nói: “Pháp môn này là đại pháp viên đốn, rất nhanh chóng”. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp nào có thể thành tựu trong ba năm? Pháp môn này nhất định thành tựu trong ba năm! Quý vị có thể đọc Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Vãng Sanh Truyện, xưa nay những người tu hành pháp này ba năm thành công nhiều lắm. Tôi nói như vậy sẽ có những người lần sau không dám đến nữa, vì sao vậy? Ba năm sau phải chết rồi, thọ mạng chỉ còn ba năm, không dám đến đạo tràng này nữa, hoảng hồn bỏ chạy mất. Nói cách khác, quý vị vẫn còn tham luyến thế giới Sa Bà này, tuy cõi Cực Lạc của A Di Đà Phật tốt đẹp nhưng hiện thời vẫn chưa muốn sang đó, vẫn bằng lòng chịu tội nhiều năm ở nơi đây. Nơi kia, cơm áo tự nhiên, sống trong nhà cửa là cung điện bằng bảy báu, dưới đất chẳng phải là lát đá vụn mà là đất lưu ly. Mặt đường chẳng trải nhựa, mà lót bằng vàng ròng, vàng ròng làm đất. Nơi tốt đẹp như vậy vẫn chẳng muốn đến, còn có cách nào nữa đây?
Quý vị phải biết ba năm quyết định thành tựu, thành tựu như thế nào? Thành tựu là tự tại. Sau khi thành tựu muốn đi là đi, muốn ở lại bao nhiêu ngày sẽ ở lại bấy nhiêu ngày, đó là tự tại. Nói cách khác, sống chết chẳng còn nữa, đến đi tự do. Sau khi thành công, không ra đi chẳng phải vì lưu luyến thế giới này, mà là hy vọng dẫn thêm mấy người cùng đi. Một người ra đi rất tốt đẹp, ở bên đó sẽ hoan nghênh quý vị; dẫn cả một nhóm người đến đó, bên đó sẽ nồng nhiệt hoan nghênh đón tiếp quý vị, càng tốt đẹp hơn. Hy vọng sau khi quý vị thành công sẽ dẫn nhiều người đi theo, đấy là hoằng dương pháp môn này, khuyên khắp mọi người tu học pháp môn này, sau khi tự lợi nhất định lợi tha. Chúng ta cầu nhất tâm bất loạn. Nếu chẳng thông đạt Lý, quý vị sẽ có chướng ngại, khó đạt được nhất tâm. Chẳng hiểu phương pháp, chẳng hiểu rõ cảnh giới, toàn bộ đều bị chướng ngại. Trong ba năm ấy, chúng ta phải giải quyết vấn đề, phải hiểu rõ lý luận, thật sự hiểu rành phương pháp, hiểu rõ cảnh giới. Thuận cảnh hay nghịch cảnh đều là Tăng Thượng Duyên để chúng ta tu học nhất tâm bất loạn thì trên con đường Bồ Đề chúng ta sẽ thuận buồm xuôi gió, không có bất lợi gì. Đấy là điều phải nên sốt sắng tu học. Tiếp theo đây, sách Diễn Nghĩa giảng chữ Quyển. Sớ Sao chỉ gồm bốn quyển, quyển thứ năm là Sự Nghi, hiện thời gọi [phần Sự Nghi] là tư liệu tham khảo.
(Diễn) Quyển giả, quyển hoài chi nghĩa, nhất trục chi trung bao hàm vô tận nghĩa lý, vô lượng pháp môn cố.
(演) 卷者 , 卷懷之義 , 一軸之中包含無盡義理、無
量法門故。
(Diễn: “Quyển” nghĩa là cuốn lại, chứa đựng. Trong một quyển bao gồm vô tận nghĩa lý, vô lượng pháp môn).
Sách thời cổ không đóng thành tập như hiện thời, [khi xưa] vẫn chưa có [cách ấy]. Thời Liên Trì đại sư, sách được đóng thành cuốn rất hiếm, phần lớn là [in thành một trang dài] cuộn lại, giống như những bức vẽ chữ (tự họa) được cuộn lại trong hiện thời, từng cuộn, từng cuộn một, nên gọi là “quyển tử”. Thời Đường – Tống, sách đều là quyển tử. Đổi quyển tử thành sách đóng thành từng tập thì cách đóng sách như vậy gọi là Phương Sách. Loại phương sách này đầu tiên được đóng bằng cách dùng chỉ khâu gáy từng trang. Từ quyển tử đổi thành phương sách, có thể nói là một cuộc đại cách mạng trong phương diện sách vở, ai làm điều này? Tử Bách đại sư đời Minh. Tử Bách đại sư đề xướng: Quyển tử chẳng dễ giữ gìn, hãy đổi thành phương sách. Kinh Phật đổi từ lối quyển tử sang phương sách do Hám Sơn đại sư mở đầu, Ngài đề xướng in Gia Hưng Tạng. Gia Hưng Tạng là Trung Hoa Đại Tạng Kinh được biên tập lần thứ hai, do Tử Bách đại sư khởi xướng, quyên mộ khắc ván, khắc xong, cứ mỗi một trang được đóng thành tập, gọi là Phương Sách Đại Tạng Kinh. Trước kia, kinh Phật là chiếp bản[6], đấy là cách thức ấn hành kinh Phật, cổ nhân Trung Quốc sử dụng phương thức quyển tử. Do vậy, “quyển” là chữ được dùng vào trong thuở phiên dịch đầu tiên. Sau này tuy đã đổi thành cách phương sách, nhưng vẫn dùng chữ Quyển. Mỗi một quyển là một tập sách.
Trong một trục, vì quyển tử thì phải có trục, giống như cách chúng ta bồi tranh, phía dưới cùng có một cái trục, tức là có một cái lõi bằng gỗ ở giữa cho dễ cuốn lại, dễ bảo tồn, chẳng dễ dàng bị hư hoại. Vì vậy, “nhất trục” là một quyển. Trong một quyển kinh văn bao hàm vô tận nghĩa lý, vô lượng pháp môn. Hai câu này cũng chẳng nói quá lố, mà xác thực là như vậy. Trong lời khai thị của Ngẫu Ích đại sư, đã trích dẫn lời Liên Trì đại sư như sau: “Nhất cú Di Đà cai la bát giáo, viên nhiếp ngũ tông” (Một câu Di Đà bao trọn tám giáo, nhiếp trọn năm tông), tức là một câu A Di Đà Phật bao gồm toàn bộ Phật pháp. Bởi lẽ, ở Trung Quốc, nhắc tới Phật pháp, thường nói “Tông Môn và Giáo Hạ” sẽ bao gồm toàn bộ Phật pháp. Chữ “Tông Môn” chỉ Thiền Tông, ngoài Thiền Tông ra, [các tông phái khác] đều bao gồm trong Giáo Hạ. Ngũ tông là năm chi phái trong Thiền Tông, được hình thành sau thời Lục Tổ đại sư, như tông Lâm Tế, tông Tào Động… đều là Tông Môn. “Bát giáo” là nói theo cách phán giáo của ngài Thiên Thai: Hóa nghi tứ giáo và hóa pháp tứ giáo. Ngài phán định những pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm thành Tạng, Thông, Biệt, Viên. Tám giáo hóa nghi và hóa pháp bao gồm toàn bộ Phật pháp. Câu này chỉ rõ một câu A Di Đà Phật bao gồm tất cả Phật pháp trong ấy, chẳng sót một pháp nào.
Có mấy ai biết được cái hay của A Di Đà Phật? Người niệm Phật tuy đông, nhưng tu mù luyện đui, chẳng hiểu được chỗ hay trong pháp môn. Do vậy, rất khó thể thụ dụng. Người giảng bộ kinh này, thông thường giảng trong Phật thất hoặc trong pháp hội bảy ngày là giảng xong. Suốt bảy ngày, ngay cả tựa đề kinh chúng tôi còn chưa giảng xong, chỉ là giảng sơ sài mà thôi, giảng một lượt hàm hồ, mờ mịt như vậy thì cũng chẳng có cách nào hiểu rõ những nghĩa lý trong ấy. Xưa kia, trong cuốn Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa, cư sĩ Giang Vị Nông đề xướng, chủ trương: Nếu không giảng kinh thì thôi, hễ giảng thì nhất định phải giảng thật sâu, nhất định phải giảng cặn kẽ thì mới có thể làm cho người khác thụ dụng được. Nếu giảng sơ sài sẽ chỉ phù hợp với người căn tánh cao, tu hành lâu năm; chứ giảng cho hàng sơ học như chúng ta nhất định phải giảng sâu, phải giảng cặn kẽ, đừng sợ phiền!
Đại sư lại nói: “Nhất đán vãng sanh, vĩnh vô thoái chuyển, chủng chủng pháp môn, hàm đắc hiện tiền” (Một mai vãng sanh vĩnh viễn chẳng thoái chuyển, các thứ pháp môn đều được hiện tiền). Mấy câu này là niềm an ủi không chi lớn hơn cho những kẻ thích nghiên cứu giáo pháp như chúng tôi. Chúng ta muốn học pháp này, học pháp nọ thì đến đâu để học? Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng cần phải học trong thế gian này. Trong thế gian này, tìm không ra thầy tốt và bạn đồng tham tốt. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới học với A Di Đà Phật, học với các vị Bồ Tát, tuyệt đối chính xác, không sai lầm. Vì sao không khéo dành thời gian mấy năm để niệm Phật, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới hoàn thành học nghiệp của chính mình? Trong thế gian này, nhất định là trong thời hiện tại, kinh Lăng Nghiêm nói: “Mạt Pháp thời kỳ, tà sư thuyết pháp như Hằng hà sa” (Thời kỳ Mạt Pháp, tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng). Quý vị có huệ nhãn gì để phân biệt tà hay chánh? Gặp một vị thầy tốt khó khăn lắm, chỉ có thể gặp, chứ chẳng thể cầu. Tà sư quá nhiều, chỗ nào cũng thấy, học Phật khó khăn lắm.
Vì sao chẳng chết sạch ý niệm so đo, khiêm hư sát đất niệm Phật? Niệm đến nhất tâm bất loạn, tâm địa thanh tịnh, quý vị liền có huệ nhãn và pháp nhãn. Nói cách khác, quý vị có năng lực phân biệt tà – chánh, thị – phi, chân – vọng; tâm chẳng thanh tịnh sẽ không có năng lực phân biệt. Đủ thấy nhất tâm rất trọng yếu! Nếu nói đến các pháp môn khác thì đức Phật dạy: “Nhược nhân đản niệm Di Đà Phật, thị danh vô thượng thâm diệu Thiền” (Nếu ai chỉ niệm Di Đà Phật thì gọi là vô thượng thâm diệu Thiền). Có rất nhiều người thích Thiền, coi thường niệm Phật, nghĩ Thiền là cao, chẳng hiểu niệm Phật còn cao hơn Thiền! Kinh Lăng Nghiêm gọi pháp môn Niệm Phật này là Lăng Nghiêm Đại Định, là pháp môn đặc biệt trong hội Lăng Nghiêm. Quý vị phải hiểu rõ: Những pháp môn đặc biệt được nêu ra trong kinh ấy, chẳng xếp theo thứ tự thuận. Những pháp xếp theo thứ tự thuận là pháp môn thông thường. Kinh Lăng Nghiêm có hai pháp môn đặc biệt:
– Một là Quán Thế Âm Bồ Tát Nhĩ Căn Viên Thông Chương, nếu xếp theo thứ tự thuận, đáng lẽ phải xếp vào hàng thứ hai. Lục Căn, Lục Trần, Lục Thức, Thất Đại, xếp theo thứ tự ấy. Lục Căn là Nhãn, Nhĩ… Nhĩ Căn phải xếp vào thứ hai, nhưng lại rút pháp này ra, xếp vào cuối cùng, nhằm bảo với chúng ta đây là pháp môn đặc biệt.
– Pháp kia là Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương, cũng là pháp môn đặc biệt. Trong Thất Đại, xếp theo thứ tự thuận là Căn Đại. Thất Đại là Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Kiến, Thức. Căn Đại là Kiến, đáng lẽ phải xếp trước Thức. Thức do Di Lặc Bồ Tát làm đại biểu. Đáng lẽ [phải xếp Đại Thế Chí Bồ Tát] trước Di Lặc Bồ Tát, nhưng lại để ra sau. Hai pháp môn đặc biệt này nhằm dạy chúng ta: Chúng sanh trong thế giới Sa Bà căn tai lanh lợi nhất. Niệm Phật thỏa đáng nhất, chẳng phải đã chỉ ra minh bạch hay sao? Vì thế, Lăng Nghiêm Đại Định là gì vậy? Chính là pháp này. Đọc kinh Lăng Nghiêm mà chẳng hiểu Niệm Phật là Lăng Nghiêm Đại Định, oan uổng quá! Đọc kinh Hoa Nghiêm mà chẳng hiểu trong năm mươi ba lần tham học, môn tu học chánh yếu của Thiện Tài đồng tử là pháp môn Niệm Phật thì cũng rất oan uổng! Vị thiện tri thức thứ nhất của Thiện Tài đồng tử là tỳ-kheo Đức Vân dạy Thiện Tài niệm Phật. Cuối cùng, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương hướng dẫn về Cực Lạc, một vị mở đầu, một vị kết thúc, đủ thấy đây là pháp môn tu học chủ yếu, từ đầu đến cuối chưa hề rời lìa.
Những môn khác là vô lượng vô biên pháp môn, lấy năm mươi mốt vị Bồ Tát làm đại diện, là những pháp môn trợ tu, dùng cũng được, không dùng cũng chẳng sao! Chẳng dùng thì một pháp môn này sẽ thành vô thượng đạo. Đọc kinh Hoa Nghiêm không thấy được đường nẻo này sẽ uổng công đọc kinh Hoa Nghiêm. Đọc Lăng Nghiêm mà chẳng hiểu pháp môn Niệm Phật, đọc Hoa Nghiêm mà chẳng biết Niệm Phật, đấy là không nhìn rõ ý nghĩa kinh, chưa niệm kinh thông suốt! Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh, tam tụ tịnh giới, lục độ, vạn hạnh, đều nằm trong một câu gồm bốn chữ A Di Đà Phật, môn nào cũng trọn đủ.
Quý vị đắc Định, Định Cộng Giới, quý vị đắc nhất tâm bất loạn, Đạo Cộng Giới, lẽ nào chẳng trọn đủ? Chúng ta mới thật sự hiểu một câu A Di Đà Phật chẳng thể nghĩ bàn, mới thật sự chịu nắm chặt một câu A Di Đà Phật như giữ mạng căn, nhất thời, nhất khắc trọn chẳng buông lung. Hiểu được, nắm chắc điều này, trong một đời thành Phật, quyết định không nghi hoặc. Bây giờ đã hết giờ rồi.
— o0o —
Tập 3
Xin mở cuốn Hạ của bộ kinh, chúng ta đang đọc phần Nhân Đề.
(Diễn) Minh Cổ Hàng Vân Thê Tự sa-môn Châu Hoằng thuật.
(演) 明古杭雲棲寺沙門袾宏述 .
(Diễn: Đời Minh, sa-môn Châu Hoằng chùa Vân Thê tại Cổ Hàng thuật).
Đây là tác giả của bộ Sớ Sao. Liên Trì đại sư viết Sớ Sao, tựa đề trong nguyên bản ghi là “hậu học Cổ Hàng Vân Thê Tự”. Về sau, người khắc in do thấy đại sư là người đời Minh nên đã bỏ bớt hai chữ “hậu học”, thay bằng chữ Minh để [độc giả] vừa đọc liền biết ngay Ngài là người sống vào đời Minh.
(Diễn) Nhân đề trung, học giả, hiệu dã. Hậu giác giả, tất hiệu tiên giác chi sở vi. Cố cổ nhân hữu đại triệt chi hậu, nãi chung thân cư học địa giả. Kim đại sư tự xưng hậu học, diệc thử ý dã.
(演) 人題中 。學者 ,效也。後覺者,必效先覺之所為,故古人有大徹之後,乃終身居學地者。今大師自稱後學,亦此意也 .
(Diễn: Trong phần Nhân Đề, “học” là phỏng theo. Kẻ hậu giác ắt sẽ noi theo hành động của bậc tiên giác (người giác ngộ trước). Vì thế, cổ nhân sau khi đại triệt, bèn suốt đời giữ địa vị là người cầu học. Nay đại sư tự xưng là “hậu học” cũng do ý này).
Tiếp theo đó là giới thiệu Liên Trì đại sư. Trước hết, giảng ý nghĩa của chữ “hậu học”. “Học” cũng có nghĩa là giác, mà cũng có nghĩa là “phỏng theo” (bắt chước theo, làm theo). Kẻ hậu giác nhất định phải phỏng theo hành vi của bậc “tiên tri, tiên giác” (hiểu biết trước, giác ngộ trước). Hành vi của những vị ấy chính là cách thức để cầu giác ngộ. Vị ấy giác ngộ như thế nào? Chứng quả như thế nào? Những điều ấy đáng để chúng ta bắt chước làm theo, đáng để chúng ta học theo. Cổ nhân nêu gương tu học cho chúng ta: Sau khi đại triệt đại ngộ vẫn giống hệt như kẻ mới học; khiêm hư như thế đó, hiếu học như vậy đó, rất khó có. Chúng ta càng phải nên học theo điểm này, nhất định chớ nên “được chút ít đã cho là đủ”, học được chút xíu đã tự cảm thấy ta rất ngon lành, cảm thấy bản thân ta hơn hết thảy mọi người, ngạo mạn, ngông cuồng! Đấy chính là chướng ngại. Người thật sự hữu tu hữu học nhất định hết sức khiêm hư, mãi cho đến khi chứng địa vị Như Lai vẫn khiêm hư như thế, quý vị thấy có vị Phật nào chẳng khiêm hư hay chăng? Phàm những ai dính mắc tập khí ngạo mạn nhất định sẽ chẳng có thành tựu. Trong hết thảy các kinh, chúng ta chẳng thấy có vị Bồ Tát hay Phật nào ngạo mạn, ngay cả tập khí ngạo mạn cũng chẳng thấy. A La Hán có tập khí ngạo mạn, nhưng từ Bích Chi Phật trở lên đều không có, tuyệt đối chẳng vướng mắc tập khí ngạo mạn; nhưng những kẻ tu học về sau này, chúng ta thường thấy họ ngạo mạn đầy dẫy. Phải đặc biệt tự mình kiểm điểm, thường là [chính mình] chẳng hay chẳng biết, dường như là học vấn tăng trưởng một phần thì ngã mạn cũng tăng trưởng một phần, đích xác là có trường hợp như vậy.
Thậm chí, chúng tôi còn nghe nói trong thế gian thật sự có chuyện như thế này: Con cái coi thường cha, cha không biết chữ, làm ruộng, vun vén cho con cái tốt nghiệp đại học. Con cái tự cảm thấy mình giỏi giang quá, cha chẳng hiểu biết gì hết, chưa từng đi học; [con cái] trở về nhà, ngay cả cha mẹ cũng xem thường. Quý vị hãy suy nghĩ: Học vấn của gã ấy là gì vậy? Làm cho cha mẹ hối hận không kịp. Thuở ấy, giá mà bảo con đi làm ruộng sẽ tốt hơn, nó còn biết hiếu thuận với cha mẹ. Đâu ngờ học vấn càng cao, tròng mắt sẽ dần dần trợn ngược lên đỉnh đầu, chẳng thấy ai hết! Tập khí phiền não ngày càng tăng trưởng. Đấy chẳng phải là học vấn! Tục ngữ thường nói: “Học vấn thâm thời, ý khí bình” (Khi học vấn sâu xa, ý chí, tánh tình bình ổn), đấy mới là học vấn thật sự. Đương nhiên [kẻ ngạo mạn] càng chẳng phải là giác ngộ như trong Phật pháp đã nói; kẻ mê hoặc điên đảo mới có tập khí tham, sân, si, mạn, người giác ngộ quyết định chẳng thể có tập khí ấy. Do vậy, kẻ mê, người giác, chúng ta có thể quan sát được! Hãy đặc biệt hồi quang phản chiếu, xét xem chính mình có thật sự giác ngộ hay chăng? Hay là mỗi ngày một mê sâu hơn? Điều này khẩn yếu đấy nhé! Liên Trì đại sư là nhân vật như thế nào? Nếu không phải là Phật tái lai thì cũng là Bồ Tát tái lai. Tuy chúng ta chẳng biết bổn địa của Ngài, nhưng xác thực Ngài chẳng phải là kẻ tầm thường. Ngài trở thành bậc “nhất đại tổ sư” trong thế gian mà vẫn khiêm hư như thế đó, xưng là “hậu học” cũng là do ý nghĩa này, phỏng theo cổ đại đức mà tự xưng là “hậu học”.
Trong phần Nhân Đề, nguyên bản ghi là “hậu học”, người đời sau sửa lại. Sửa lại cũng đúng; bởi lẽ, thuở ấy, Ngài xưng là hậu học thì chính xác, sau khi nhà Minh diệt vong là đến nhà Thanh, ắt phải ghi thêm triều đại vào đầu câu để [người đọc] biết Ngài là người sống vào thời đại nào. Do vậy, đổi thành chữ Minh. Ngài là người sống vào đời Minh.
(Diễn) Cổ Hàng, cổ xưng Hàng Châu.
(演) 古杭,古稱杭州。
(Diễn: Cổ Hàng là chỗ thời xưa gọi là Hàng Châu).
Quê Ngài ở Hàng Châu. Cổ Hàng là nơi được gọi là Hàng Châu vào thời cổ.
(Diễn) Nam Tống kiến đô canh danh Lâm An.
(演) 南宋建都更名臨安。
(Diễn: Thời Nam Tống, lập kinh đô tại đó, đổi tên thành Lâm An).
Kinh đô của nhà Tống vốn là thành Biện Lương, nay là huyện Khai Phong, tỉnh Hà Nam. Thuở ấy, quân Kim xâm lăng, nhà Tống không có cách nào kháng cự, Tống Cao Tông dời đô đến Hàng Châu hiện thời, trong lịch sử gọi là “nhà Nam Tống”, Nhạc Phi sống vào thời này.
Sau khi dời đô đến chỗ này, bèn đổi tên nơi này thành Lâm An.
(Diễn) Kim viết Hàng Châu, phục cổ dã.
(演) 今曰杭州復古也。
(Diễn: Nay gọi là Hàng Châu, tức là khôi phục tên cổ).
Hiện thời lại gọi là Hàng Châu, tức là tên được đổi lần nữa vào đời Minh. Mãi cho đến hiện thời vẫn gọi là Hàng Châu, đây là địa danh.
(Diễn) Vân Thê Tự danh.
(演) 雲棲寺名。
(Diễn: Vân Thê là tên chùa).
Đây là đạo tràng của đại sư.
(Diễn) Tại Ngũ Vân sơn chi lộc.
(演) 在五雲山之麓。
(Diễn: Dưới chân núi Ngũ Vân).
“Lộc” (麓) là chân núi. Nơi này cũng thuộc Hàng Châu.
(Diễn) Tiên thị sơn chi điên, hữu ngũ sắc thụy vân bàn toàn kỳ thượng, nhân dĩ danh sơn dĩ.
(演) 先是山之顛 ,有五色瑞雲盤旋其上 ,因以名山
已。
(Diễn: Trước kia, do đỉnh núi có mây lành năm sắc vây quanh phía trên nên đặt tên núi như vậy).
Đây là trình bày lý do vì sao núi Ngũ Vân có tên như vậy; tức là do có mây năm sắc thường tụ trên đỉnh núi, nên gọi là Ngũ Vân sơn.
(Diễn) Nhi ngũ vân phi tập sơn Tây ổ trung, kinh cửu bất tán, thời nhân dị chi, hiệu vi Vân Thê Ổ.
(演) 而五雲飛集山西塢中,經久不散,時人異之,號為雲棲塢。
(Diễn: Nhưng mây năm sắc trôi về tụ tập nơi hang núi phía Tây một thời gian dài chẳng tan, người thời ấy lấy làm lạ, bèn đặt tên là “hang mây đậu”).
“Ổ” (塢) là hang núi. Mây từ đỉnh núi dần dần hạ xuống hang núi, mây lành năm sắc thường xuyên chẳng tan.
Mọi người bèn gọi hang núi ấy là Vân Thê Ổ (hang mây đậu), giống như mây ngưng đậu tại nơi ấy. Đoạn này nói rõ lai lịch của chùa Vân Thê.
(Diễn) Tống thời hữu Chí Phùng thiền sư kiến tự.
(演) 宋時有志逢禪師建寺。
(Diễn: Vào thời Tống, có thiền sư Chí Phùng dựng chùa [tại nơi ấy]).
Dựng chùa tại nơi ấy. Chùa có tên là Vân Thê Tự.
(Diễn) Hiệu viết Vân Thê Tự. Tuế cửu vu phế, đại sư ái kỳ sầm tịch, phu tọa kỳ gian, thời nhân vi chi cấu thất, tự phục hưng yên.
(演) 號曰雲棲寺。歲久蕪廢,大師愛其岑寂,趺坐其間,時人為之搆室,寺復興焉。
(Diễn: Tên là Vân Thê Tự. Lâu ngày chùa hoang vu, bỏ phế. Đại sư thích vẻ thanh vắng của nó, bèn tịnh tọa nơi ấy. Người thời ấy bèn dựng nhà cho Sư, chùa lại được hưng thịnh).
Phong cảnh nơi ấy hết sức đẹp, rất thanh vắng. Mọi người không ai đến nơi ấy, chùa lâu ngày không được sửa chữa, không ai ở. Từ đời Tống sang đời Minh còn có nhà Nguyên ở giữa, đại sư là người sống vào cuối đời Minh; tính ra, thời gian phải từ sáu trăm năm trở lên. Ngôi chùa ấy không được tu bổ đã lâu, trở thành nơi hoang vu, bỏ phế. Liên Trì đại sư đến nơi ấy, thích hoàn cảnh của nơi ấy, hoàn cảnh hết sức thanh vắng. Chính Ngài vốn không có ý nghĩ phục hưng ngôi chùa, chỉ cất một am tranh trong đống hoang tàn để trụ tại nơi đó. Về sau, bị người ta nhận biết, mọi người đến thân cận Sư, nhận thấy Ngài thật sự là một vị cao tăng hữu đạo.
Do vậy, người đến thân cận ngày càng nhiều, nơi ấy đông đảo hơn, hàng cư sĩ, trưởng giả dần dần biết đến Sư. Mọi người phát tâm khôi phục ngôi chùa ấy, hiện nay chính là chùa Vân Thê, trở thành một tùng lâm đạo tràng. Ngôi đại điện trong chùa này có tên là Thần Vận Điện, vì được thần lực giúp kiến tạo. Ngôi chùa này rất nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc là do đức hạnh của đại sư chiêu cảm. Cổ nhân thường nói: “Bất phạ một hữu miếu, chỉ phạ một hữu đạo” (Chẳng sợ không có chùa, chỉ sợ không có đạo). Đại sư hữu đạo, tuy không có chùa, đã có quỷ thần giúp Ngài kiến lập, cảm động tứ phương học nhân dần dần kéo tới tụ tập tại đạo tràng ấy. Đạo tràng ấy tự nhiên phục hưng.
(Diễn) Sa-môn, thử vân Cần Tức, cần tu Giới, Định, Huệ, tức diệt tham, sân, si.
(演) 沙門,此云勤息,勤修戒定慧,息滅貪瞋痴。
(Diễn: Sa-môn, Hán dịch là Cần Tức, [nghĩa là] siêng tu Giới – Định – Huệ, dứt diệt tham, sân, si).
“Sa-môn”: Đây cũng là đại sư khiêm hư tự xưng. Sa-môn (Śramana) là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là “Cần Tức”, có nghĩa là “cần tu Giới, Định, Huệ, tức diệt tham, sân, si” (siêng tu Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si), nên gọi là Sa-môn. Sa-môn là tiếng dùng để gọi chung những người tu hành tại Ấn Độ vào thời cổ. Chúng ta biết: Vào thời cổ, Ấn Độ là đất nước của tôn giáo. Trong kinh Phật thường nói tới chín mươi sáu thứ ngoại đạo. Những loại ngoại đạo ấy khá cao minh, công phu của họ có thể đạt đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên, có thần thông, có Thiền Định (Tứ Thiền Bát Định). Người xuất gia tu hành rất nhiều, gọi chung là Sa-môn. Nhìn từ chỗ này, không riêng gì Phật pháp phải đoạn tham, sân, si, mà những ngoại đạo tại Ấn Độ cũng phải đoạn tham, sân, si, có giống như Phật pháp hay không? Không giống! Phật pháp là thật sự đoạn, còn họ chỉ là “phục đoạn” (đè nén, chế ngự).
Công phu Thiền Định sâu, tham, sân, si chẳng dấy lên hiện hành, Tứ Thiền Bát Định đều là phục đoạn. A La Hán đạt đến Đệ Cửu Định mới thật sự đoạn trừ, hễ đoạn trừ bèn thoát khỏi tam giới, siêu việt sanh tử luân hồi. Sanh tử luân hồi vì sao mà có? Do tham, sân, si biến hiện.
Nếu chúng ta hỏi: Trong tương lai có còn phải luân hồi hay chăng thì quý vị đừng hỏi ai khác, hãy hỏi chính mình có đoạn được tham, sân, si hay chưa? Thật sự chẳng còn tham, sân, si thì sẽ không có luân hồi. Tham, sân, si là nhân; lục đạo luân hồi là quả báo. Có nhân ắt có quả. Đoạn trừ nhân thì đương nhiên quả chẳng còn nữa. Chẳng đoạn tham, sân, si, quyết định chẳng tránh khỏi luân hồi, tham, sân, si, khá là phiền phức. Nếu tham cầu ngũ dục, lục trần, tiếng tăm, lợi dưỡng trong thế gian, quá nửa là quả báo trong tam đồ. Nếu tham cầu Phật pháp, tham cầu thiện nghiệp, chưa đoạn tham, sân, si, quả báo sẽ thuộc về ba đường lành, chẳng ra khỏi lục đạo. Muốn thoát lục đạo, nhất định phải đoạn tham, sân, si, đấy là điều chúng ta phải nhất định nhớ kỹ.
Danh xưng Sa-môn sau khi được truyền đến Trung Quốc bèn biến thành tiếng gọi chung những người xuất gia trong Phật giáo; [người tu hành trong] những đạo khác tại Trung Quốc chẳng xưng là Sa-môn. Sa-môn là [danh xưng] khiêm hư, là tiếng xưng hô của người còn thuộc địa vị học hỏi, giống như tiếng xưng hô của kẻ làm học trò. Trong kinh nói Sa-môn có bốn loại khác nhau, ở đây, nêu ra như sau:
(Diễn) Hữu thắng đạo, thuyết đạo, hoạt đạo, ô đạo, tứ chủng bất đồng.
(演) 有勝道、說道、活道、汙道四種不同。
(Diễn: Có bốn loại khác nhau là thắng đạo, thuyết đạo, hoạt đạo
và ô đạo).
Người xuất gia có thể chia thành bốn loại.
(Diễn) Thắng tức Phật, Bồ Tát đẳng.
(演) 勝即佛菩薩等。
(Diễn: Thắng đạo sa-môn là những vị như Phật, Bồ Tát v.v…)
Thắng đạo sa-môn: “Thắng” là thù thắng. Bậc sa-môn thù thắng nhất chính là Giới – Định – Huệ viên mãn, tiêu diệt sạch sành sanh tham, sân, si. Thắng đạo sa-môn chính là Phật, Bồ Tát. Quý vị đọc đến chỗ này cảm thấy lạ lùng, vì sao Phật còn ở địa vị tu học? Phật trong Tạng Giáo, Thông Giáo, Biệt Giáo đều là học sinh, đều chưa viên mãn, vì các Ngài là Chánh Đẳng Chánh Giác, chưa phải là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Do vậy, quả vị Phật trong ba giáo này đều có thể gọi là sa-môn, chỉ có Phật trong Viên Giáo mới không gọi như vậy. Phật trong Viên Giáo thật sự viên mãn, là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đẳng Giác Bồ Tát vẫn còn phải tu, Ngài chưa viên mãn, còn là học sinh. Phật trong Viên Giáo mới là thật sự tốt nghiệp, viên mãn.
(Diễn) Thuyết vị thuyết chánh pháp giả.
(演) 說謂說正法者。
(Diễn: Thuyết đạo sa-môn nghĩa là người nói chánh pháp).
Thuyết đạo sa-môn là pháp sư giảng kinh, thuyết pháp. Những vị pháp sư này chưa thành vô thượng đạo, cũng thuộc địa vị tu học, đem những gì chính mình tu, chính mình học, cảnh giới do chính mình chứng đắc dâng cho những đồng tu mới học tham khảo, giúp họ tu học. Người nói chánh pháp thì gọi là “thuyết đạo sa-môn”.
(Diễn) Hoạt vị tu thiện phẩm giả.
(演) 活謂修善品者。
(Diễn: Hoạt đạo sa-môn nghĩa là người tu thiện phẩm).
Hoạt đạo sa-môn “vị tu thiện phẩm giả” (nghĩa là người tu thiện phẩm), tức là người thật sự chiếu theo lý luận và phương pháp trong kinh Phật để tu hành.
(Diễn) Ô vị chư tà hạnh giả.
(演) 汙謂諸邪行者。
(Diễn: Ô đạo sa-môn là những kẻ tà hạnh).
Ô đạo sa-môn là những loại sa-môn tuy xuất gia, nhưng chẳng hiểu đạo lý trong Phật pháp, cũng chẳng hiểu phương pháp tu hành, đâm ra trở thành tà tri, tà kiến, rớt vào tiếng tăm, lợi dưỡng.
Chúng ta đừng nên xét nét ai khác, vấn đề là bản thân chúng ta thuộc loại nào? Bất luận là xuất gia hay tại gia, muốn thành tựu đều phải chân tu. Bốn loại này, thắng đạo không cần phải bàn tới, không có vấn đề gì.
Nếu chúng ta hỏi bậc thuyết đạo, tức người nói chánh pháp có tu hành hay là không? Bậc thuyết đạo nhất định tu hành, tu trước rồi nói sau, chứ không phải nói rồi chẳng tu! Các vị ấy có tu, thật sự chứng đắc cảnh giới ấy, chẳng hoài nghi lý luận và phương pháp thì mới có thể nói được; vị ấy nhất định có thể nói được, do chẳng nghi hoặc mảy may nên mới giới thiệu [những phương pháp và lý luận ấy] cho chúng ta. Nếu chính mình chưa chứng đạo, tức là nghe lỏm, nói mò, nghe người khác nói làm sao thì mình cũng nói vậy, không nắm vững, chính mình chưa kiến đạo [thì chẳng thể nói được]. Thời cổ, bậc giảng kinh thuyết pháp đều là hữu tu, hữu chứng. Do vậy, bậc thuyết đạo cao hơn bậc tu đạo một bậc; bậc tu đạo chưa chắc có thể thuyết đạo, còn bậc thuyết đạo nhất định là tu đạo.
Hàng ô đạo tội nghiệp sâu nặng. Cơ hội đọa địa ngục của các chúng sanh không nhiều. Quý vị nghĩ xem: Có mấy ai tạo tội Ngũ Nghịch, Thập Ác? Tội Ngũ Nghịch là “giết cha, giết mẹ” (có mấy ai giết cha, giết mẹ? Không có ai), “làm thân Phật chảy máu” (cũng không có ai), “giết A La Hán” (A La Hán ở đâu quý vị cũng chẳng biết), “phá hòa hợp Tăng”, đấy đều là những chuyện chẳng thể làm được; nhưng kẻ rất dễ đọa địa ngục A Tỳ là ai? Ô đạo sa-môn, tức là như trong kinh thường nói: “Thí như sư tử trùng, hoàn phệ sư tử nhục” (Ví như trùng trong thân sư tử, lại cắn rứt thịt sư tử).
Vào trong cửa Phật để phá hoại Phật pháp, tội nghiệp ấy nặng lắm!
(Diễn) Châu Hoằng, thị pháp húy.
(演) 袾宏,是法諱。
(Diễn: Châu Hoằng là pháp danh của đại sư).
Tên hiệu này là pháp danh của đại sư lão nhân gia. Chữ Châu[7] có hai cách đọc, chữ này còn đọc âm Shū, tức chữ Thù (殊) trong Thù Thắng. Danh hiệu của đại sư vốn dùng chữ Thù trong từ ngữ “thù thắng” (殊勝). Do trong thời đại chuyên chế, sợ người ta chụp mũ “hủy báng”, phiền phức lớn lắm. Hoàng đế nhà Minh họ Châu (朱), nếu quý vị dùng chữ Thù, người ta sẽ tố cáo với hoàng đế: Gã này tâm thuật bất chánh, coi thường hoàng đế, “ngạt châu” (歹朱: họ Châu xấu xa) mà! Rắc rối to, nhất định lại dấy lên vụ án văn tự. Do vậy, lão nhân gia bèn đổi [bộ Ngạt (歹) trong chữ Thù] thành bộ Y (衣).
(Diễn) Hiệu Liên Trì, Nhân Hòa nhân.
(演) 號蓮池,仁和人。
(Diễn: Pháp hiệu là Liên Trì, người xứ Nhân Hòa).
Nhân Hòa: Nơi này hiện thời cũng ở Hàng Châu. Vào đời Hán, nơi này có tên là Tiền Đường, đến thời Ngũ Đại, Ngô Việt Vương đổi tên nơi này thành huyện Tiền Giang, hợp với Tiền Đường gọi là Hàng Châu. Đời Tống, nơi này đổi tên thành Nhân Hòa, hiện thời gọi là Hàng Huyện (huyện Hàng).
Thời Dân Quốc đặt tỉnh lỵ của tỉnh Chiết Giang tại nơi đây, chúng ta gọi chung là Hàng Châu, tức là cả một khu vực Hàng Châu. Nơi này xưa nay có tên gọi thay đổi khác nhau. Tiếp theo đây, sách nói đến sự tích xuất gia của Ngài.
(Diễn) Tùng Tánh Thiên hòa thượng chúc phát.
(演) 從性天和尚祝髮。
(Diễn: Xuống tóc với hòa thượng Tánh Thiên).
“Chúc phát” là “thế độ” (xuống tóc), vị thầy thế độ của Ngài là hòa thượng Tánh Thiên.
(Diễn) Biến tham tri thức.
(演) 遍參知識。
(Diễn: Tham học với khắp các tri thức).
Sau khi thế độ, thầy thế độ tiếp dẫn quý vị vào cửa Phật. “Sư phụ lãnh tấn môn, tu hành tại cá nhân” (thầy dẫn vào cửa Phật, tu hành do chính mình). Trong nhà Phật, vị thầy trọng yếu nhất chính là vị thầy đắc pháp. Trong Thiền Tông, “đắc pháp” là khai ngộ. Quý vị khai ngộ trong hội của vị pháp sư nào thì vị thầy ấy hết sức quan trọng đối với quý vị, vì sao? Pháp Thân huệ mạng từ do vị ấy mà có, [quý vị] được gọi là “pháp tử” [của vị thầy ấy]. Pháp tử quan trọng hơn đồ đệ rất nhiều, trực tiếp đắc pháp mà! Trong Tịnh Độ Tông, tiêu chuẩn không cao như vậy. Tịnh Độ Tông chỉ cần thật sự kiến lập Tín – Nguyện – Hạnh là đắc pháp, chứ không phải là đắc Lý nhất tâm bất loạn, không phải vậy! Bởi lẽ, trong Tịnh Độ, thật sự đầy đủ ba món tư lương Tín – Nguyện – Hạnh sẽ chắc chắn vãng sanh, vãng sanh chính là quyết định thành Phật ngay trong một đời. Điều này hết sức thù thắng, cho dù là Hạ Phẩm Hạ Sanh cũng thành tựu, đấy chính là chỗ hết thảy các pháp môn khác chẳng thể bằng được, chẳng thể so sánh được!
“Biến tham tri thức” là đến cầu học, đến các nơi tham phỏng, gặp được một vị thầy chân chánh bèn muốn ở lại, chẳng thể rời đi. Nơi ấy thật sự có thể thành tựu người khác, lẽ nào lại rời đi? Nếu nơi ấy rất khổ, cơm không có mà ăn thì quý vị là do ăn cơm mà tới hay do tu đạo mà tới? Ở nơi ấy có đạo, nhưng không có cơm ăn thì khi đó phải làm sao? Khi đó, dẫu chết đói cũng phải học đạo, phải có quyết tâm như vậy, quyết định chớ nên lìa khỏi, vì sao? Pháp Thân huệ mạng là khẩn yếu, thân mạng chẳng khẩn yếu. Pháp Thân huệ mạng khẩn yếu, cổ nhân coi trọng điểm này; do vậy, gặp vị thầy thật sự có đạo ở nơi đâu, họ quyết định chẳng lìa bỏ, chẳng giống như chúng ta hiện thời! Hiện thời, chúng ta thấy nơi nào sống thoải mái, tự tại bèn tới đó. Chỗ nào khổ quá, chẳng tới, khổ quá mà! Chẳng cần biết có đạo hay không, trước tiên phải nghe ngóng coi hoàn cảnh ra sao, cuộc sống như thế nào, đãi ngộ ra làm sao, phải bàn định những chuyện đó rồi mới tới, rất khó đạt thành tựu!
(Diễn) Ư Tiếu Nham xứ hữu sở khế nhập.
(演) 於笑巖處有所契入。
(Diễn: Ở nơi ngài Tiếu Nham có chỗ khế nhập).
Tiếu Nham là thiền sư Biến Dung. Vị thiền sư này dạy ngài Liên Trì điều gì? Thuở ấy, vị thiền sư này rất nổi tiếng, Ngài là một vị cao tăng. Khi ấy, ngài Liên Trì là học trò, xuất gia chưa lâu, đến nơi ấy tham phỏng thiền sư, cứ ba bước một lạy, hết sức khiêm hư, lễ dưới tòa của lão Hòa Thượng. Lão Hòa Thượng nói với Ngài pháp nào khiến Ngài khai ngộ? Truyện ký ghi chép rất rõ ràng. Pháp do Hòa Thượng nói chính là lời nói tầm thường quen thuộc, không có một câu nào hiếm hoi, lạ lùng gì cả! Lão Hòa Thượng bảo Ngài: “Ông là người trẻ tuổi, khá lắm! Hãy nhớ kỹ! Trong một đời này, chớ để tiếng tăm, lợi dưỡng làm hại”. Từ câu nói này, Ngài ngộ nhập. Lúc ấy, người đến nghe pháp với Hòa Thượng đang hiện diện nghe nói xong đều cười cợt, người kiền thành như vậy tìm đến, lão Hòa Thượng nhất định giảng diệu pháp, nào ngờ được nghe một câu nói tầm thường quen thuộc. Người cùng nghe đông đảo như vậy đều không thụ dụng được, chỉ có mình Ngài thụ dụng. Đấy chính là như cổ nhân nói: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”.
Những người kia cùng nghe như thế, vì sao chẳng thể thụ dụng? Thiếu lòng thành kính, không có tâm cung kính, nên tuy nghe mà chẳng thể thụ dụng. Liên Trì đại sư nói: “Lão hòa thượng là thiện tri thức thật sự, Ngài dạy tôi một câu hết sức bình thường, chất phác, suốt đời tôi nhất định phải thực hiện được. Ngài chẳng gạt người, chẳng đàm huyền thuyết diệu, cố ý đề cao thân phận của chính mình, Ngài là người chất phác”. Một câu này nói toạc ra khuyết điểm của những kẻ hậu học chúng ta trong đời Mạt, cảnh tỉnh chúng ta. Một đời Ngài đắc lực nhờ vào câu nói ấy của lão Hòa Thượng. Có thể bỏ tiếng tăm, lợi dưỡng thì sẽ thực hiện được. Hễ có tơ hào tiếng tăm, lợi dưỡng thì tiếng tăm, lợi dưỡng giống như thuốc độc, trong một bầu đề-hồ của ta xen lẫn một tí độc dược thì cả bầu sẽ biến thành độc dược. Trong đề-hồ chẳng được xen lẫn tí ti độc dược nào! “Hữu sở khế nhập” nghĩa là Ngài có ngộ nhập.
(Diễn) Toại kết mao thâm cốc, chủ trương Tịnh Độ.
(演) 遂結茅深谷主張淨土。
(Diễn: Bèn dựng lều tranh trong hang sâu, chủ trương Tịnh Độ).
Tại Vân Thê Ổ, vào thời cổ có ngôi chùa Vân Thê, Sư kết lều tranh trong chốn hoang vu để tấn tu, chuyên tu pháp môn Niệm Phật. Đọc truyện ký, ta thấy Ngài chưa từng làm Phật sự, chuyện gì cũng chẳng làm, suốt ngày từ sáng đến tối là một câu A Di Đà Phật. Có một năm, nơi ấy bị hạn hán dữ dội, đã rất lâu trời không mưa, có người nói Ngài đạo đức cao, thật sự là một vị cao tăng hữu đạo, thỉnh Ngài tới cầu mưa. Nghi thức gì Ngài cũng không biết, được rồi! Cầu mưa thì mọi người hãy cùng đi với tôi, Ngài ở đằng trước cầm dẫn khánh, đi ra đồng niệm A Di Đà Phật. Kỳ lạ sao! Ngài đi đến chỗ nào, mưa liền trút xuống nơi đó, thật sự có cảm ứng! Nghi thức nào cũng chẳng có, một câu A Di Đà Phật niệm đến nơi đâu trời đổ mưa xuống nơi đó, cảm ứng đạo giao chẳng thể nghĩ bàn!
(Diễn) Tăng lạp ngũ tuần.
(演) 僧臘五旬。
(Diễn: Tăng lạp năm mươi năm)
“Tăng lạp” là số năm xuất gia, Ngài xuất gia năm mươi năm.
(Diễn) Thế thọ bát thập.
(演) 世壽八十。
(Diễn: Tuổi thọ tám mươi).
Quý vị vừa đọc liền hiểu ngay, Ngài xuất gia năm ba mươi tuổi, viên tịch năm tám mươi tuổi.
(Diễn) Hóa duyên ký tất, niệm Phật nhi thệ.
(演) 化緣既畢,念佛而逝。
(Diễn: Duyên hóa độ đã xong, niệm Phật qua đời).
Ngài là tổ sư đời thứ tám của Tịnh Độ Tông. Trong số các vị Tổ Sư nhiều đời, thành tựu của Ngài hết sức thù thắng, khó có nhất là bộ Sớ Sao này, có thể nói là Ngài hoàn toàn giải thích giáo nghĩa “bác đại tinh thâm” (rộng lớn, tinh tường, sâu xa) của kinh Di Đà cho chúng ta, khiến cho chúng ta thật sự nhận biết pháp môn Tịnh Độ chẳng thể nghĩ bàn.
(Diễn) Thuật giả, truyền thuật dã.
(演) 述者,傳述也。
(Diễn: Thuật là truyền thuật).
Chữ “thuật” cũng hết sức khiêm hư. Thật ra, Ngài trước tác bộ sách này, nhưng chẳng nói là “trước” (soạn) mà nói là “thuật”, thuật nhi bất tác (chỉ kể lại chứ không sáng tác), trần thuật lời cổ thánh tiên hiền, tôi chỉ kể lại những lời ấy mà thôi, chứ tự mình không sáng tác, đây là cách nói khiêm hư.
(Diễn) Nhạc Ký vân: “Tri lễ nhạc chi tình năng tác”.
(演) 樂記云,知禮樂之情能作。
(Diễn: Sách Nhạc Ký chép: “Thông hiểu cái tình nơi lễ nhạc thì mới có thể chế định”)
“Tri” là thật sự hiểu rõ, thông đạt, có thể chế định lễ, soạn nhạc. Lễ Nhạc là giáo học về khuôn phép cho tâm hạnh. Lễ nhằm ước thúc thân thể chúng ta, nhất cử, nhất động, một lời nói, một tiếng cười phải hợp lễ. Lễ là tiêu chuẩn cho hành vi. Nhạc nhằm điều hòa cái tâm, điều dưỡng tánh tình, mừng, giận, buồn, vui vừa phải, chớ nên quá lố! Khổng lão phu tử dạy học, dùng Lễ và Nhạc để làm phương tiện dạy học. Nhà Phật cũng chẳng ra ngoài lệ ấy, hết sức coi trọng Lễ Nhạc, Giới là Lễ, Phạm Bái là Nhạc. Nếu Lễ và Nhạc đều mất thì dạy học chẳng đạt được hiệu quả vì công cụ để dạy học không còn nữa! Kinh văn nói đến lý luận, phương pháp; ắt phải dùng phương tiện để thực hành những lý luận, phương pháp ấy. Phương pháp thực hành là Lễ Nhạc, trong nhà Phật chính là Giới Luật và Phạm Bái. Do vậy, hai môn này rất quan trọng, trước tác chẳng dễ dàng, mà trần thuật cũng chẳng đơn giản.
(Diễn) “Thức lễ nhạc chi văn năng thuật”.
(演) 識禮樂之文能述。
(Diễn: Đọc hiểu ngôn từ của lễ nhạc thì mới có thể trần thuật).
“Thức” (識) là nhận biết, quý vị đọc hiểu tác phẩm của cổ nhân, thật sự thấu hiểu ý nghĩa, sẽ có thể truyền đạo, có thể truyền thuật.
(Diễn) Tác giả vị chi thánh, thuật giả vị chi hiền.
(演) 作者謂之聖,述者謂之賢。
(Diễn: Người trước tác gọi là thánh, người truyền thuật gọi là hiền).
Bậc thánh hiền đấy.
(Diễn) Thử kinh tuy hữu cổ sớ sổ gia hành thế.
(演) 此經雖有古疏數家行世。
(Diễn: Kinh này tuy có mấy bản chú giải từ cổ đã được lưu hành trong cõi đời).
Từ thời xưa đã có người chú giải kinh Di Đà.
(Diễn) Từ tuy thiết nhi thái giản, lý vi lộ nhi bất chương.
(演) 詞雖切而太簡,理微露而不彰。
(Diễn: Lời lẽ tuy thiết thực, nhưng quá đơn giản, lý hơi hé lộ, nhưng chưa phơi bày).
Quý vị hãy nghĩ tới bản chú giải của Khuy Cơ đại sư, bản này có trước thời Liên Trì đại sư. Khuy Cơ đại sư là người đời Đường, Liên Trì đại sư là người đời Minh. Bản chú giải của Khuy Cơ đại sư được lưu truyền đến hiện thời, đương nhiên, Liên Trì đại sư cũng đã đọc, bản này được coi là một bản chú giải kinh Di Đà rất hay. Thật ra, “từ tuy thiết nhi thái giản, lý vi lộ nhi bất chương” (lời lẽ tuy thiết thực, nhưng quá đơn giản, lý hơi tỏ lộ nhưng chưa phơi bày). “Chương” (彰) là rành rành, đạo lý thì có, được bao hàm trong ấy, bậc cao nhân vừa đọc liền thấy ngay; chứ lũ chúng ta khi đọc tác phẩm ấy sẽ chẳng thấy được. Ấy là vì nói không rõ rệt lắm, hoặc là nói chưa đủ rõ rệt, đối với đại sư thì không có vấn đề gì, nhưng người đời sau nghiệp chướng sâu nặng, người trình độ nông cạn mà đọc thì sẽ chẳng thấy được [những đạo lý ấy]. Câu này có ý nói những bản chú giải kinh Di Đà của cổ đại đức trong Vạn Tục Tạng chẳng ít, quả thật rất đơn giản, trọng yếu, nhưng kẻ sơ học đọc những tác phẩm ấy vẫn gặp khó khăn.
(Diễn) Kim tư sớ sao.
(演) 今茲疏鈔。
(Diễn: Do vậy, nay bèn viết sớ và lời sao).
Câu này nói về sự trước tác của lão nhân gia, khác với cổ đức, khác ở chỗ nào? Đoạn dưới đây cho biết:
(Diễn) Hợp Thiên Thai, Hiền Thủ, hội Tánh Tướng nhị tông, Sự Lý song dung, Tông Thuyết kiêm sướng, ngôn tiên thánh chi dục ngôn, phát tiền hiền chi vị phát, khả vị thiên cổ độc sáng. Kim ngôn thuật giả, nãi khiêm từ dã.
(演) 合天台、賢首,會性相二宗,事理雙融,宗說兼暢,言先聖之欲言,發前賢之未發,可謂千古獨創。今言述者,乃謙詞也。
(Diễn: Kết hợp những giáo nghĩa của tông Thiên Thai và tông Hiền Thủ, dung hội hai tông Tánh và Tướng, Sự lẫn Lý đều viên dung, trình bày thông suốt Tông và Thuyết, nói lên những điều bậc tiên thánh muốn nói, nêu ra những điểm tiền hiền chưa nêu, có thể gọi là tác phẩm độc đáo cả ngàn đời. Nay đại sư ghi là “thuật” chính là lời nói khiêm tốn vậy).
Lão nhân gia khiêm hư, chẳng nói là “trước” (sáng tác) mà ghi là “thuật” (truyền thuật). Đoạn này hết sức quan trọng, chúng ta phải đặc biệt lưu ý thì quý vị mới hiểu được giá trị của bộ Sớ Sao thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Thiên Thai là Pháp Hoa Tông do Trí Giả đại sư sáng lập, Hiền Thủ là Hoa Nghiêm Tông. [Thiên Thai và Hiền Thủ] là hai học phái Giáo Hạ chủ yếu tại Trung Quốc. Hai học phái này quả thật có cống hiến rất lớn đối với Phật giáo. Bộ Sớ Sao dựa theo giáo nghĩa của hai học phái này. Đọc bộ Sớ Sao là đem giáo nghĩa của Thiên Thai và Hiền Thủ gộp lại một chỗ.
“Hội Tánh Tướng nhị tông”: “Hội” là dung hội, hai tông Tánh và Tướng là toàn bộ Phật pháp. Phân loại những pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm thì chẳng ngoài Tánh Tông và Tướng Tông. Cổ nhân chú giải kinh Di Đà không theo cách chú giải này. Nói thật ra, đại sư đã vận dụng trọn hết tinh hoa của Phật pháp trong suốt một đời Thích Ca Mâu Ni Phật để phô diễn kinh Di Đà. Vì vậy, bản chú giải kinh Di Đà này có thể đại diện cho toàn bộ Phật pháp. Khi tôi tu học tại Đài Trung, thầy Lý có nói: “Nếu chẳng đọc nửa bộ Đại Tạng Kinh, chắc chắn các anh chẳng hiểu được bộ Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư”. Thật đấy! Hai vị này đều đem toàn bộ Phật pháp dung hội trong kinh Di Đà, hoàn toàn phát huy trong tác phẩm chú giải kinh Di Đà.
“Lý Sự song dung, Tông Thuyết kiêm sướng”[8]: Tông là Tông Môn, là tông chỉ của Thiền Tông. Thuyết là Giáo Hạ. Tông Môn lẫn Giáo Hạ đều dung hợp trong bản chú giải này.
“Ngôn tiên thánh chi dục ngôn”: “Thánh” là Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát hóa độ chúng sanh vì ý nghĩa này. “Phát tiền hiền chi vị phát”: Phát là “phát minh” (nêu tỏ, làm rõ ý nghĩa), chữ “hiền” trong “tiền hiền” (bậc hiền nhân đời trước) chỉ người chú giải. “Thánh” là người nói kinh, tức Thích Ca Mâu Ni Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật nói ra bộ kinh này là vì ý nghĩa này, nhưng quả thật những người chú giải từ thuở xưa chưa có thể “phát minh” trọn vẹn, mãi cho đến Liên Trì đại sư mới thật sự nêu bày thông suốt bổn hoài của Phật. Thích Ca Mâu Ni nói kinh Di Đà, đại sư hoàn toàn lãnh ngộ, liễu giải, càng khó có hơn nữa là Ngài nêu tỏ hoàn toàn, khiến cho mỗi một đồng tu tu học Tịnh Độ đều đạt được lợi ích vô thượng, rất khó! Ở đây, pháp sư Cổ Đức tán thán chẳng quá lố chút nào!
“Khả vị thiên cổ độc sáng” (Có thể nói là tác phẩm độc đáo cả ngàn đời): Lời tán thán Liên Trì đại sư này chẳng nói quá lố, xác thật là như thế. Chúng ta chưa đọc bộ Diễn Nghĩa, chỉ đọc Sớ Sao, sẽ chẳng thấy được ý nghĩa này. Kinh văn đến đây nhằm giới thiệu Liên Trì đại sư một cách đơn giản, giới thiệu đại lược bộ Di Đà Kinh Sớ Sao của Liên Trì đại sư. Chúng ta hiểu rồi thì mới coi trọng bản chú giải này. Nếu không, sẽ ở ngay trước mặt mà chẳng biết giá trị, ở trước mặt mà bỏ lỡ, thật đáng tiếc lắm!
(Sớ) Thử kinh sớ sao, đại văn phân tam: Sơ Thông Tự đại ý, nhị khai chương thích văn, tam kết thích chú ý, vị thuận chư kinh Tự, Chánh, Lưu Thông tam phần, diệc thuận Tịnh nghiệp Tín Hạnh Nguyện cố.
(疏) 此經疏鈔,大文分三:初通序大意,二開章釋文,三結釋咒意。為順諸經序、正、流通三分,亦順淨業信行願故。
(Sớ: Toàn bộ lời Sớ Sao của kinh này được chia thành ba phần: Phần thứ nhất là nêu đại ý của phần Thông Tự, phần thứ hai là chia thành chương đoạn để giải thích kinh văn, phần thứ ba là tổng kết lời giải thích, giảng ý nghĩa của chú Vãng Sanh, nhằm thuận theo thứ tự ba phần Tự, Chánh Tông, Lưu Thông của các kinh, mà cũng thuận theo Tín – Hạnh – Nguyện của Tịnh nghiệp).
Cuốn Thượng là phần trước tác của Liên Trì đại sư, cuốn Hạ là Diễn Nghĩa, tức là phần ghi chép khi pháp sư Cổ Đức nghe giảng, mà cũng là phần chú giải bộ Sớ Sao. Chúng ta có được Pháp Bảo này, càng hiểu thấu triệt bộ Sớ Sao. Những câu nào do Liên Trì đại sư viết, những câu nào do đệ tử của Ngài viết, chúng ta phải nhận biết rõ ràng. Chúng ta lại xem lời chú giải trong phần Diễn Nghĩa, hai hàng đầu trình bày thể lệ chú giải của đại sư, đây chính là thể tài (genre).
(Diễn) Khoa trung Thông Tự đại ý giả, hàm nhị nghĩa.
(演) 科中通序大意者含二義。
(Diễn: Trong Khoa Phán, phần Thông Tự đại ý gồm hai nghĩa).
“Khoa trung”: Trong Phật pháp gọi là Khoa Phán, đoạn thứ nhất là Thông Tự Đại Ý. Thông Tự Đại Ý là gì? Trong Thông Tự Đại Ý có hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất là….
(Diễn) Nhất, Thông Tự nhất kinh đại ý.
(演) 一、通序一經大意。
(Diễn: Thứ nhất, Thông Tự chính là đại ý của một bài kinh).
“Tự” (序) là trần thuật, “Thông” (通) là nói chung, do đối ứng với phần Biệt Tự ở phía sau mà gọi [là Thông Tự], phần Thông Tự có thể nói là [trình bày] thể lệ chung cho toàn bộ hết thảy các kinh.
(Diễn) Dĩ minh tánh, tán kinh nhị khoa, phát huy “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”, vi tu trì chi bổn.
(演) 以明性讚經二科,發揮自性彌陀,唯心淨土,為修持之本。
(Diễn: Dùng hai phần “chỉ rõ tánh” và “khen ngợi kinh” để nêu bật ý nghĩa “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ” nhằm làm cái gốc cho sự tu trì).
Câu này rất trọng yếu, vừa mở đầu liền nêu ra nguyên lý cao nhất để làm căn cứ cho sự tu học trong pháp môn Tịnh Độ. Không có lý luận để làm căn cứ thì chúng ta chẳng thể tin tưởng. Quả thật là có căn cứ lý luận, điều này được nêu rõ trong phần Thông Tự Đại Ý. Bản chú giải này gồm bốn quyển, quyển thứ nhất là Thông Tự Đại Ý. Sau phần Thông Tự Đại Ý là phần Huyền Nghĩa, phần Tự chiếm hết nửa quyển, phần khai triển Thập Môn chiếm hết nửa quyển [còn lại]. Do vậy, trong quyển đầu tiên không có kinh văn, nhưng nó đặc biệt quan trọng. “Minh tánh, tán kinh” là hai đoạn lớn trong phần Thông Tự. Phần Thông Tự gồm năm đoạn lớn, ý chánh trong hai đoạn đầu là “nêu bật ý nghĩa tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Điều này có quan hệ mật thiết, chẳng thể tách rời Thiên Thai, Hiền Thủ, Tánh, Tướng hai tông. Đây là điểm khó có [trong bộ chú giải này]. Sau khi hiểu rõ hoàn toàn thì mới biết tu học pháp môn này ra sao, mới biết cách niệm một câu A Di Đà Phật như thế nào. Trong một câu A Di Đà Phật bao gồm vô lượng vô biên công đức, vì sao vậy? Tương ứng với tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ. Đấy là căn cứ lý luận.
(Diễn) Nhiên hậu, y giải khởi hạnh, chấp trì danh hiệu, cầu nguyện vãng sanh.
(演) 然後依解起行,執持名號,求願往生。
(Diễn: Sau đấy, dựa theo sự hiểu biết mà khởi hạnh, chấp trì danh hiệu, cầu nguyện vãng sanh).
Nói đến tu hành “y giải khởi hạnh, chấp trì danh hiệu, cầu nguyện vãng sanh”, vô cùng quan trọng. Do vậy, người niệm Phật chẳng thể nói là không cần hiểu, “tôi chỉ cần thật thà niệm Phật là được rồi”. Nói chẳng sai, nhưng vấn đề là đâu? Chưa thể thật thà được! Tự cho mình là thật thà, chẳng được! Đấy chính là thiếu thật thà! Tự cho mình là thật thà sẽ chẳng phải là thật thà. Thế nào là người thật thà? Thật sự thông hiểu đạo lý, chẳng có một vọng niệm nào, đấy mới là “thật thà”. “Ta chỉ cần niệm A Di Đà Phật, ta không cần hiểu” thì kẻ ấy vẫn còn vọng niệm, cho nên chẳng thật thà! Vì thế, thật thà chẳng dễ dàng, không đơn giản như vậy! Thật thà niệm Phật, quyết định thành tựu. Nói đơn giản, không có thị phi nhân ngã là người thật thà, còn có thị phi nhân ngã thì làm sao tính là người thật thà cho được? Coi kẻ có thị phi nhân ngã là thật thà thì ai mới là không thật thà? Ai cũng thật thà hết! Chúng ta hãy suy nghĩ: Chúng ta có đoạn được thị phi nhân ngã hay chưa? Nhất định phải cầu giải, y giải khởi hạnh. Ở đây, chữ Giải này có thể chuyên dùng để nói về bộ Sớ Sao này, kể cả Diễn Nghĩa. Chúng ta phải nghiêm túc nghiên cứu, hiểu rõ nó. Hiểu xong, chiếu theo phương pháp, lý luận này để chấp trì danh hiệu, cầu nguyện vãng sanh. Chấp trì danh hiệu là Hạnh, cầu nguyện vãng sanh là mục đích và thành tựu của chúng ta.
(Diễn) Kỳ độn căn giả, đơn do sự tướng, chuyên trì danh hiệu diệc đắc vãng sanh.
(演) 其鈍根者,單由事相,專持名號亦得往生。
(Diễn: Người độn căn, chỉ do sự tướng chuyên trì danh hiệu cũng được vãng sanh).
Mấy câu này là tất yếu! Lời giảng quá sâu, dung hợp tinh hoa của Thiên Thai, Hiền Thủ lẫn hai tông Tánh và Tướng, làm sao mà chẳng sâu? Thật sự là có mức độ khá sâu. Do vậy, quý vị đọc phần Thông Tự đầu sách, so ra còn sâu hơn phần chú giải ở phía sau. Chúng ta căn tánh chậm chạp, cùn nhụt, ngu si, đọc cũng chẳng hiểu, nghe cũng không hiểu, không có hy vọng gì ư? Có chứ! Vẫn còn có hy vọng. Có cơ hội để đọc, để nghe, đừng bỏ lỡ, chớ nên nghĩ: “Ta là kẻ chậm chạp, cùn nhụt, nghe cũng không hiểu, coi như xong, khỏi cần nghe nữa!” Lầm rồi! Nghe không hiểu vẫn cứ phải nghe, đọc không hiểu cũng phải đọc thì mới là đúng. Nghe nhiều sẽ hiểu, xem nhiều sẽ hiểu, cổ nhân đã nói: “Độc thư thiên biến, kỳ nghĩa tự kiến” (Đọc sách ngàn lượt sẽ tự thấy được ý nghĩa). Thử hỏi quý vị đã đọc một ngàn lượt hay chưa? Không có! Không có thì quý vị cứ từ từ đọc đi. Nhất định đọc nhiều, nghe nhiều, tuyệt đối chẳng bỏ lỡ cơ hội, đó gọi là Bồ Tát. Biện pháp là “chỉ do sự tướng” chuyên trì danh hiệu cũng được vãng sanh, đó gọi là Sự Trì. Chấp trì danh hiệu có Sự, có Lý. Sự Trì là do chưa hiểu Lý, chúng ta cứ niệm một câu A Di Đà Phật, chưa hoàn toàn hiểu rõ Lý, chưa thể thấu triệt, còn chưa thông suốt Lý, nhưng một câu Phật hiệu vẫn có thể chế ngự phiền não. Đạo lý này rất rõ ràng, dễ thấy, nhất định phải hiểu điều này. Khi lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần, trong tâm chúng ta vừa mới khởi tâm động niệm, bèn dùng một câu A Di Đà Phật này khuất phục ý niệm ấy, đè nén nó. Điều này chẳng khó hiểu, người căn tánh trung hạ đều hiểu cả!
Tương ứng với “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ” như thế nào, điều này khó hiểu. Đừng sợ không hiểu, chỉ trì theo mặt sự tướng, ta niệm niệm đều có thể chế phục tham, sân, si, niệm niệm đều có thể chế phục phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, trong mỗi niệm có Tín, Nguyện, Hạnh là được rồi, sẽ có thể vãng sanh, sẽ có thể niệm đến mức “công phu thành phiến”, có thể niệm đến mức Sự nhất tâm bất loạn, chưa niệm đến mức Lý nhất tâm bất loạn thì đã rất khá, rất khó có! Nếu hiểu rõ toàn bộ những lý luận ấy thì một câu A Di Đà Phật sẽ là Lý Trì. Trong Lý có Sự, trong Sự chẳng rõ Lý, trong Lý nhất định có Sự, chẳng thể nào nói “hiểu Lý rồi bèn không niệm Phật”, không có đạo lý ấy! [Nếu nghĩ như vậy] là lầm lẫn quá đỗi, là chấp Lý phế Sự. Kẻ chấp Lý phế Sự nhất định chẳng đạt được gì, cổ nhân gọi kẻ ấy là “nói chuyện ăn, đếm của báu”, chẳng tu hành! Phàm là người hiểu lý, trong mười hai thời, một câu Phật hiệu tuyệt đối chẳng gián đoạn giữa chừng, nhất định còn siêng năng, mạnh mẽ hơn người Sự Trì, nhất định còn sốt sắng hơn, thật sự tu hành. Người ấy thông hiểu giá trị. Hễ kẻ nào hiểu Lý mà chẳng chịu hành nơi mặt Sự thì chưa chắc kẻ ấy đã thật sự nhận biết giá trị, mạo nhận là người hiểu giá trị, là giả vờ, là dối mình, lừa người. Quý vị phải hiểu: Lý Trì quyết định chẳng phế bỏ Sự Trì.
(Diễn) Tam căn phổ bị, thượng hạ kiêm thâu, tác mạt pháp tối hậu phương tiện, vi nhất kinh đại chỉ dã.
(演) 三根普被,上下兼收,作末法最後方便。為一經大旨也。
(Diễn: Thích hợp khắp ba căn, thượng căn lẫn độn căn đều thâu tóm, làm phương tiện cuối cùng trong thời Mạt Pháp, đấy chính là ý chỉ to lớn của kinh này vậy).
Khi kinh Phật diệt hết, kinh Di Đà vẫn còn lưu lại một trăm năm. Kinh Di Đà diệt cuối cùng; do vậy, kinh này là phương tiện tối hậu trong thời Mạt Pháp. Trong một trăm năm cuối cùng trước khi pháp hoàn toàn diệt sạch, nếu quý vị gặp kinh Di Đà, chấp trì danh hiệu thì vẫn còn có thể vãng sanh, vẫn còn có thể thành tựu. Bởi lẽ, bộ kinh này không chỉ là bi tâm triệt để của riêng mình Thích Ca Mâu Ni Phật mà còn là bi tâm triệt để của chư Phật, thật sự có thể độ hết thảy chúng sanh, chẳng giống những pháp môn khác. Nói thật ra, những pháp môn khác đại đa số nhằm kết duyên với quý vị, huân tập một chủng tử Phật pháp trong A Lại Da Thức, mong đắc độ ngay trong một đời há dễ dàng ư? Muốn đắc độ trong một đời, chỉ có pháp môn này. Do vậy, quý vị phải nhận biết rõ ràng, bộ kinh này là kinh bậc nhất trong Phật pháp, bỏ pháp môn này sẽ chẳng có cách cứu. Trong một đời này, chúng ta gặp được bộ kinh này, tính ra là do thiện căn, phước đức, nhân duyên nhiều đời nhiều kiếp nên mới được gặp gỡ. Gặp được pháp môn thành Phật ngay trong một đời, còn tìm đâu nữa! Gặp được rồi thì phải thật sự nhận thức, quyết định nắm chặt, chẳng buông lung, hết thảy pháp môn đều có thể buông bỏ, muôn vàn phần chớ nên bỏ pháp môn này.
Đây là vận may thật sự của chúng ta, từ vô lượng kiếp đến nay đều không nắm bắt được, không thể gặp gỡ được. Dẫu có gặp gỡ thì dù gặp cũng không biết giá trị, khác nào chẳng gặp gỡ! Trong đời này, chúng ta có Liên Trì đại sư, pháp sư Cổ Đức giới thiệu cho chúng ta, tâm nhãn mở mang, biết giá trị [của pháp môn này]. Nếu không có hai vị đại thiện tri thức giúp đỡ chúng ta, ở bên cạnh giảng giải, thuyết minh cho chúng ta, chúng ta vẫn chẳng nhận biết giá trị. Đấy là tông chỉ của bộ kinh này, tức tông chỉ của kinh Di Đà là ở chỗ này. Ý nghĩa thứ hai là…
(Diễn) Nhị, Thông Tự tác sớ đại ý.
(演) 二、通序作疏大意。
(Diễn: Hai là trong phần Thông Tự, nêu ra ý chính vì sao phải viết sớ giải).
Đoạn trên là nêu đại ý của kinh này, [vì sao Phật] nói kinh, còn đoạn này nêu ý nghĩa vì sao Liên Trì đại sư viết chú giải.
(Diễn) Dĩ cảm thời thuật ý nhị khoa, minh thử nhất kinh, Sự Lý song dung, Tánh Tướng thông bị.
(演) 以感時述意二科 ,明此一經 ,事理雙融,性相通備。
(Diễn: Dùng hai khoa là Cảm Thời và Thuật Ý để chỉ rõ kinh này Sự lẫn Lý cùng viên dung, Tánh và Tướng đều trọn đủ).
Cảm Thời và Thuật Ý là hai đoạn trong năm đoạn lớn của phần Thông Tự. Cảm Thời là cảm khái trước thời tiết nhân duyên. Chúng ta hiện đang trong thời kỳ Mạt Pháp, Liên Trì đại sư cũng sống trong thời Mạt Pháp, bước vào thời kỳ Mạt Pháp. Trong thời kỳ Mạt Pháp, trừ Tịnh Độ ra, những pháp môn khác rất khó thành tựu. Trong kinh Đại Tập, đức Phật nói: “Thời kỳ Chánh Pháp, Giới Luật thành tựu. Thời kỳ Tượng Pháp, Thiền Định thành tựu. Thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh Độ thành tựu”. Chúng ta đang ở trong thời Mạt Pháp, tu học pháp môn Tịnh Độ đúng là y giáo phụng hành, sẽ là học trò ngoan của Phật. Chúng ta học những pháp môn khác là không nghe lời, vậy là không có cách gì hết, chúng ta phải tự gánh lấy trách nhiệm. Đức Phật luôn nói rõ ràng. Thuật Ý là trình bày ý kiến của chính đại sư, [nêu rõ] ý nghĩa vì sao viết bộ Sớ Sao này. Hai đoạn lớn ấy nhằm nêu rõ bộ kinh này “Sự Lý song dung, Tánh Tướng thông bị” (Sự lẫn Lý cùng viên dung, Tánh và Tướng đều trọn đủ). “Bị” (備) có nghĩa là trọn đủ, đầy đủ. Do đây biết rằng: Hoàn toàn chẳng phải là Liên Trì đại sư đem giáo nghĩa Thiên Thai, Hiền Thủ, Tánh, Tướng dung hợp lại trong bộ kinh này để làm sáng tỏ [nghĩa kinh] mà thật ra là bộ kinh này có trọn đủ các giáo nghĩa của các tông, các phái. Nó vốn sẵn trọn đủ, chẳng qua là đại sư nêu rõ những giáo nghĩa ấy mà thôi, chỉ cho chúng ta thấy. Bộ kinh này quả thật thông với Thiên Thai, Hiền Thủ, Tánh Tông, Tướng Tông. Trong phần sau, tại mỗi nơi, sách Sớ Sao sẽ chỉ ra cho chúng ta thấy.
(Diễn) Thời cơ chấp Tánh, chấp Tướng, các trệ nhất biên.
(演) 時機執性執相,各滯一邊。
(Diễn: Xét theo thời tiết, căn cơ thì chúng sanh chấp Tánh hoặc chấp Tướng, vướng mắc một bên).
“Thời” chỉ thời đại hiện tại. “Cơ” chỉ những chúng sanh học Phật, tức người hiện thời. Người học Phật chấp trước, chấp vào Tánh bèn tham Thiền, chấp vào Tướng bèn học Giáo, đều là chấp lệch một bên, đều chẳng thể viên dung.
(Diễn) Chí linh quảng đại pháp môn, mê nhi bất giác.
(演) 至令廣大法門,迷而不覺。
(Diễn: Đến nỗi đối với pháp môn rộng lớn mà mê hoặc, chẳng giác ngộ).
Thật đáng tiếc, đáng tiếc quá! Vô thượng trân bảo ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ, nhân duyên một đời thành Phật ở ngay trước mặt mà chẳng nhận biết. Quý vị nói xem: Đáng tiếc lắm chứ! Chẳng biết chọn lấy pháp!
(Diễn) Cố kiệt tư lũy tải, sổ Dịch vi biên, tác thử Sớ Sao dã.
(演) 故竭思累載,數易韋編,作此疏鈔也。
(Diễn: Vì vậy dốc hết nhiều năm suy nghĩ, nhiều lần kinh Dịch đứt lề, soạn bộ Sớ Sao này).
Liên Trì đại sư thương xót những chúng sanh trong thời Mạt Pháp, vô thượng pháp môn, vô thượng trân bảo ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ, đáng tiếc quá! Do vậy, Ngài tốn phí thời gian mấy năm, “sổ Dịch vi biên”[9] tức là sửa đi sửa lại bản thảo, sửa nhiều lượt mới hoàn thành công việc trước tác bộ Sớ Sao này. Hai hàng đầu nhằm giải thích thể lệ đại sư dùng để soạn Sớ Sao và được pháp sư Cổ Đức giảng rõ như vậy để khiến chúng ta dễ dàng hiểu được ý nghĩa. Hôm nay tôi giảng tới chỗ này.
— o0o —
Tập 4
Hàng thứ ba trang thứ nhất trong quyển Thượng [cuốn Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa], hoặc trang thứ ba cuốn Hội Bản, hàng thứ hai đọc từ dưới lên.
(Sớ) Thử kinh sớ sao, đại văn phân tam: Sơ Thông Tự đại ý, nhị khai chương thích văn, tam kết thích chú ý, vị thuận chư kinh Tự, Chánh, Lưu Thông tam phần, diệc thuận Tịnh nghiệp Tín – Hạnh – Nguyện cố.
(疏) 此經疏鈔,大文分三:初通序大意,二開章釋文,三結釋咒意。為順諸經序、正、流通三分,亦順淨業信行願故。
(Sớ: Toàn bộ lời Sớ Sao của kinh này được chia thành ba phần: Phần thứ nhất là Thông Tự đại ý, phần thứ hai là chia thành chương đoạn để giải thích kinh văn, phần thứ ba là tổng kết lời giải thích, giảng ý nghĩa của chú Vãng Sanh, nhằm thuận theo thứ tự ba phần Tự, Chánh Tông, Lưu Thông của các kinh, mà cũng thuận theo Tín – Hạnh – Nguyện của Tịnh nghiệp).
Trong lần trước, tôi đã giới thiệu phần Thông Tự Đại Ý. Hôm nay, chúng ta xem phần thứ hai là Khai Chương Thích Văn.
(Diễn) Khai chương giả, thị biệt khai chương đoạn, tức tổng khải Thập Môn thị. Thích Văn giả, thị tiêu thích kinh văn, tức biệt giải văn nghĩa thị. Đại ý tuy minh, bổn văn vị ủy, cố biệt khai chương đoạn, tiêu thích kinh văn, sử nhất kinh huyền văn ủy tất tường tận, nhân nhân hiểu liễu dã.
(演) 開章者,是別開章段,即總啟十門是。釋文者,是消釋經文,即別解文義是。大意雖明,本文未委,故別開章段。消釋經文,使一經玄文委悉詳盡,人人曉了也。
(Diễn: “Khai chương” là tách riêng từng chương từng đoạn, tức là chia ý nghĩa tổng quát của kinh thành mười môn (mười chủ đề lớn, mười thiên sách lớn). “Thích văn” là giải thích trọn vẹn ý nghĩa kinh văn, tức là giải thích ý nghĩa riêng biệt của từng đoạn văn. Phần đại ý tuy rõ ràng, nhưng ý nghĩa của kinh văn chưa được trình bày cặn kẽ, nên tách riêng từng chương, từng đoạn, nhằm giải thích tỉ mỉ ý nghĩa kinh văn, khiến cho huyền nghĩa của bản kinh được giảng giải tường tận, ai nấy đều hiểu rõ).
Văn từ của pháp sư Cổ Đức rất rành mạch, chúng ta thường thấy cách kết cấu giống như vậy trong những bản chú sớ của cổ nhân, [cách kết cấu] được chú giải tường tận như thế này hết sức khó có. “Chương” (章) là chương cú (章句: câu, đoạn), phân đoạn. “Khai chương” là tách riêng thành từng chương, từng đoạn. Tiếp theo đó, đại sư dựa theo cách chia thành mười môn như ngài Hiền Thủ đã làm để tạo thành mười đoạn lớn nhằm giới thiệu đại ý của toàn bản kinh, cách này gọi là “tổng khải thập môn”, chúng ta thường gọi là “huyền nghĩa” hoặc còn gọi là “huyền đàm”. Trong tông Thiên Thai, phần này gọi là Ngũ Trùng Huyền Nghĩa, tức là dùng năm điều, [những cách phân chia thành mười đoạn hay năm điều như vậy] đều gọi là “khai chương”. “Thích văn” là giải thích kinh văn hay chú giải kinh văn; còn “khai chương” nhằm giải thích giảng giải đại ý hay huyền nghĩa của toàn bộ cuốn kinh. Trong phần Huyền Nghĩa, nêu rõ đại ý của toàn bộ cuốn kinh, nhưng hoàn toàn chưa nói tới kinh văn. “Bổn văn vị ủy”: Ủy (委) là nói rõ ràng, cặn kẽ, giảng rõ một cách tường tận, uyển chuyển. [Nói cách khác], phần giải thích kinh văn gồm hai đoạn lớn:
– Huyền đàm.
– Giải thích kinh văn.
Có như vậy mới hòng giải thích tường tận, cặn kẽ những ý nghĩa huyền vi trong kinh văn nhằm mục đích làm cho mỗi một người đọc sẽ đều có thể thấu hiểu rõ rệt.
Phần thứ ba của Sớ Sao là “kết thích chú văn”. Nói thật ra, chú Vãng Sanh hoàn toàn không nằm trong kinh này, vì sao đại sư lại ghép thêm chú văn vào cuối kinh? Có ý nghĩa rất sâu, trong lời chú giải [của pháp sư Cổ Đức], Ngài sẽ giảng rõ.
(Diễn) Kết thích chú ý giả, chú bổn bất khả thích, nhi chú ý khả thích.
(演) 結釋咒意者,咒本不可釋,而咒意可釋。
(Diễn: Phần kết thúc là giải thích ý nghĩa của chú Vãng Sanh. Chú vốn chẳng thể giải thích được, nhưng ý nghĩa của chú thì có thể giải thích).
Vì sao không thể giải thích thần chú? Chú ngữ là ngôn ngữ của lục đạo. Do vậy, phiên âm, không dịch nghĩa; tuy dịch âm, nhưng ý nghĩa của thần chú thì có thể phiên dịch được.
(Diễn) Chú ý giả, bạt nghiệp căn sanh Tịnh Độ dã.
(演) 咒意者,拔業根生淨土也。
(Diễn: Ý nghĩa của chú này là dứt trừ nghiệp căn, sanh về Tịnh Độ).
Ý nghĩa của bài chú này là: Dứt trừ nghiệp chướng căn bản, được sanh về Tịnh Độ.
(Diễn) Thử chú bổn bất phụ kinh.
(演) 此咒本不附經。
(Diễn: Chú này vốn chẳng thuộc vào kinh).
Nói rất rõ ràng. Phía sau kinh Di Đà không có chú, trong kinh Di Đà cũng không có chú, chú này vốn chẳng được ghép vào phía sau bản kinh.
(Diễn) Nhi kim kết quy ư thử vi chi giải thích giả, chánh hiển thử Tịnh Độ pháp môn, Hiển Mật viên thông, Sự Lý vô ngại dã.
(演) 而今結歸於此為之解釋者,正顯此淨土法門,顯密圓通事理無礙也。
(Diễn: Nhưng nay tác phẩm này được kết thúc bằng cách giải thích chú Vãng Sanh, nhằm chỉ rõ pháp môn Tịnh Độ là Hiển Mật viên thông, Sự Lý vô ngại).
Vì sao Liên Trì đại sư đem chú Vãng Sanh ghép vào sau bộ Sớ Sao, rồi lại còn phải giải thích, đạo lý là ở chỗ này: Trong lời chú giải của đại sư đã bao gồm [những giáo nghĩa của các tông] Thiên Thai, Hiền Thủ, hai tông Tánh và Tướng, đúng là “nhiếp trọn năm tông, bao trùm tám giáo”. Ghép thêm chú vào, [nhằm nêu rõ] “Hiển – Mật viên thông, Sự – Lý vô ngại”. Nói cách khác, bản chú giải này chẳng những bao gồm toàn bộ giáo lý do Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng trong suốt bốn mươi chín năm, mà thậm chí những kinh luận do mười phương ba đời hết thảy chư Phật đã nói đều chẳng ra ngoài bản Sớ Sao này được. Ở đây, ta có thể thấy được giá trị của bộ Sớ Sao. Nếu pháp sư Cổ Đức không nhắc nhở chúng ta như thế, quả thật chúng ta rất khó nhận ra. Nếu nói Liên Trì đại sư đã vận dụng tinh hoa của Tông Môn và Giáo Hạ để làm sáng tỏ ý nghĩa kinh A Di Đà, đấy là bản lãnh của Ngài, nhưng có phải là khiên cưỡng ghép thêm [lời giải thích chú Vãng Sanh] hay không? Đây là một câu hỏi lớn.
Chúng ta có nên đồng ý hay không? Đấy cũng là một câu hỏi nữa! Thật ra, không phải như vậy, qua kinh văn, đại sư đã nhận thấy từng câu, từng chữ trong kinh Di Đà đều gồm trọn hết thảy nghĩa, hết thảy nghĩa đương nhiên bao gồm [những giáo nghĩa của tông] Thiên Thai, Hiền Thủ, Hiển Mật viên thông. Người khác không thấy [những điều này], còn Ngài thấy được, nên Ngài vì chúng ta giảng rõ, [những lời giảng ấy] hoàn toàn tương ứng với các tông, các phái, điều này không còn phải bàn gì nữa! Liên Trì đại sư đúng là phi phàm. Pháp nhãn của hàng Bồ Tát chưa chắc đã có thể thấy được rõ ràng như vậy, cũng có thể nói Liên Trì đại sư là bậc ngũ nhãn viên minh, có thể thấy được rõ ràng ý nghĩa của kinh này như vậy, giảng rất rõ ràng như vậy, quả thật rất khó có!
(Diễn) Hựu kiến thử trì danh niệm Phật, thị đại thần chú, đại minh chú, vô thượng vô đẳng đẳng chú dã.
(演) 又見此持名念佛 ,是大神咒 ,大明咒,無上無等等咒也。
(Diễn: Lại thấy cách trì danh niệm Phật này là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng không gì sánh bằng).
Đoạn này nói giống hệt như trong Tâm Kinh. Tâm Kinh là [kinh giảng về] Bát Nhã. Có những người muốn học Mật, quý vị hãy xem câu A Di Đà Phật có phải là Mật Tông hay không? Chú Vãng Sanh này có phải là Mật Tông hay không? Thật sự là Mật Tông. Ở đây, không bàn về chú Vãng Sanh, mà luận về “trì danh niệm Phật”, một câu Nam-mô A Di Đà Phật là chú ngữ, chính là “đại thần chú, đại minh chú, vô thượng vô đẳng đẳng chú”, linh nghiệm hơn chú Lăng Nghiêm rất nhiều! Thật sự hiểu rõ đạo lý này, thông đạt đạo lý này thì quý vị mới có thể thật sự buông xuống hết thảy pháp môn, từ nay trở đi mới chết sạch lòng mong ngóng, không thay đổi, chấp trì danh hiệu, quyết định thành tựu ngay trong một đời này!
(Diễn) Tự, Chánh Tông, Lưu Thông tam phần giả, Tấn Đạo An pháp sư, phán thích Đông lưu nhất đại thời giáo, vi Tự, Chánh, Lưu Thông tam phần.
(演) 序、正宗、流通三分者,晉道安法師,判釋東流一代時教,為序、正、流通三分。
(Diễn: Ba phần Tự, Chánh Tông, Lưu Thông là do pháp sư Đạo An đời Tấn đã phán định giáo pháp cả đời đức Phật truyền sang phương Đông gồm ba phần là Tự, Chánh, Lưu Thông).
Cách phân chia này được đề xướng đầu tiên bởi pháp sư Đạo An vào đời Đông Tấn. Sư là học trò của Cưu Ma La Thập đại sư. Sau khi kinh Phật được truyền đến Trung Quốc, Sư là người đầu tiên đề xướng kinh văn phải gồm có ba đoạn lớn. Đoạn lớn thứ nhất là Tự, đoạn lớn thứ hai là Chánh Thuyết, đoạn lớn thứ ba là Lưu Thông. Thuở ấy, mọi người rất không đồng ý với cách nói này. Về sau, sau khi bộ Phật Địa Luận của Ấn Độ được dịch ra, Thân Quang đại sư phán giáo cũng có cùng quan điểm này. Do vậy, người đời sau mới coi trọng quan điểm của pháp sư Đạo An, không những coi trọng mà còn noi theo. Bất luận giảng kinh hay chú giải kinh đều áp dụng cách phân chia thành ba đoạn lớn này. “Đông lưu” là Phật pháp từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc. “Nhất đại thời giáo” là những pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong một đời Ngài, bất luận một bộ kinh nào cũng đều có thể chia thành ba bộ phận.
(Diễn) Tự giả, đoan tự dã.
(演) 序者,端緒也。
(Diễn: Tự là đầu mối)
“Tự” là mở đầu, duyên khởi. Vì sao đức Phật phải giảng bộ kinh này? Phải nêu ra nguyên do, đây là một phần của kinh.
(Diễn) Như ty chi đắc tự, năng tận nhất kiển chi ty.
(演) 如絲之得緒,能盡一繭之絲。
(Diễn: Như tìm được mối tơ, sẽ gỡ được hết tơ từ cái kén tằm).
Đây là nói tỷ dụ. Tơ tằm kết thành kén, quý vị nhất định phải tìm được mối tơ tằm nằm ở đâu thì mới kéo tơ được. Kinh cũng là giống như
vậy, quý vị phải biết đầu mối ở đâu. Vì vậy, Tự là phần đầu mối.
(Diễn) Kinh chi đắc tự, năng tri nhất kinh chi chỉ.
(演) 經之得序,能知一經之旨。
(Diễn: Biết được phần Tự của một bài kinh, sẽ biết được tông chỉ của bài kinh ấy).
Đọc phần Tự của kinh sẽ biết được tông chỉ của bộ kinh ấy, hiểu được đại ý của bộ kinh ấy.
(Diễn) Hựu, Tự giả, Đông Tây tường dã, như quán tường tự, tắc tri đường áo chi thiển thâm.
(演) 又序者東西牆也,如觀牆序,則知堂奧之淺深。
(Diễn: Lại nữa, Tự là vách tường phía Đông và Tây của một khu nhà. Nếu nhìn vào phần vách tường của một khu nhà, sẽ biết khu nhà ấy có bề dày sâu hay cạn).
Đây cũng là nói tỷ dụ. Trong quá khứ, tại Trung Quốc, nhà cửa chẳng phải là xây dựng tùy tiện, chẳng giống như hiện tại. Hiện thời, chẳng chú ý đến Âm Dương, Ngũ Hành cho lắm. Trước kia, hễ cất nhà, người Trung Quốc luôn chú ý tới Âm Dương, Ngũ Hành: Nhà cửa cất theo lối chánh thống, chánh quy thì phải “tọa Bắc, triều Nam”, [tức là] cửa mở về phương Nam, phía sau nhà là phương Bắc, hai bên nhà là hai phía Đông và Tây. Vách tường phía Đông và Tây gọi là “tự tường” (序牆). Tự tường dài thì phòng ốc có bề sâu, là nhà to. Do vậy, nhìn vào phần tự tường liền biết ngay là phòng ốc sâu hay cạn. Trong quá khứ tại Trung Quốc, nhà cửa xây thành từng lớp. Giữa gian nhà phía trước và phía sau có một khoảng sân nhỏ, có “đan trì”[10]. Đấy là kiến trúc tại Trung Quốc vào thời cổ. Nếu ba thế hệ cùng sống chung một nhà thì nhà cửa sẽ gồm ba lớp, bốn thế hệ sống chung một nhà thì sẽ gồm bốn lớp. Người già sống trong khu nhà ấy, nếu quý vị bước vào nhà họ để gặp những người già ấy, trước hết sẽ gặp họ, rồi gặp cha họ sống ở phía trong, ông nội lại sống ở phía trong nữa, đi vào từng tầng một, chia ra rất rành mạch. Hiện thời kiến trúc kiểu này không còn nữa, xem ra, kiến trúc cổ đại Trung Quốc hết sức có ý nghĩa.
(Diễn) Quán thủ tự, tắc minh toàn kinh chi diệu nghĩa.
(演) 觀首序,則明全經之妙義。
(Diễn: Nhìn vào phần Tự đầu kinh, sẽ hiểu rõ ý nghĩa huyền diệu của cả bộ kinh).
Nghĩa lý u thâm, huyền diệu trong kinh này cũng được phô bày rõ trong phần Tự. Nếu quý vị biết cách nhìn, quả thật quý vị cũng sẽ nhìn ra. Trong một bộ kinh, Tự Phần hết sức quan trọng. Phần thứ hai là Chánh Tông Phần.
(Diễn) Chánh Tông giả, nhất kinh chánh sở tông thượng.
(演) 正宗者,一經正所宗尚。
(Diễn: Chánh Tông là điều chánh yếu được đề cao trong một bộ kinh).
Bộ phận này là chủ thể của cả bộ kinh, mà cũng là phần luận định chánh yếu. Phần trước là phần giới thiệu, còn phần này là phần luận định chánh yếu.
(Diễn) Như Pháp Hoa chi duy hữu Nhất Thừa pháp, vô nhị diệc vô tam.
(演) 如法華之唯有一乘法,無二亦無三。
(Diễn: Như kinh Pháp Hoa chỉ có pháp Nhất Thừa, không có hai mà cũng chẳng có ba thừa).
Đây là nói về phần Chánh Tông của kinh Pháp Hoa. Đương nhiên phần Chánh Tông rất dài, nhưng tinh hoa [của kinh Pháp Hoa] nằm trong mấy câu này. Kinh văn dài như thế, nhưng không gì chẳng nhằm giảng rõ mấy câu này mà thôi. Ý nghĩa của mấy câu này quá sâu, [toàn bộ kinh văn trong phần Chánh Tông] không gì chẳng nhằm giải thích rõ ràng mấy câu này mà thôi. Kinh Pháp Hoa là kinh cuối cùng được đức Phật nói ra, “khai Quyền, hiển Thật”, những kinh do đức Phật nói sau khi giảng kinh Hoa Nghiêm đều là pháp phương tiện, đến thời kinh Pháp Hoa, đức Phật giảng pháp chân thật, đức Phật sắp nhập diệt, đến cuối cùng mới nói pháp chân thật. Pháp chân thật là gì? Pháp chân thật chỉ có pháp Nhất Thừa, đó là thật. Trước kia, giảng Nhị Thừa, Đại Thừa, Tiểu Thừa, giảng pháp [Tam Thừa], tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, giảng Ngũ Thừa, [tức là ngoài ba thừa trên] còn thêm vào Nhân và Thiên, đều là pháp phương tiện, đều là Quyền Giáo. Pháp chân thật chỉ có Nhất Thừa, pháp Nhất Thừa gọi là Viên Giáo Nhất Thừa. Trong những kinh luận do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong suốt bốn mươi chín năm, chỉ có hai bộ giảng về Viên Giáo Nhất Thừa, trước hết, Phật giảng Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh là Viên Giáo Nhất Thừa, cuối cùng nói Diệu Pháp Liên Hoa Kinh cũng là Viên Giáo Nhất Thừa, “không hai, cũng chẳng ba”. Học nhân Thiền Tông hiểu được tông chỉ này; do vậy, sư Ấn Tông hỏi Lục Tổ, Lục Tổ liền bảo thẳng thừng: “Hai pháp chẳng phải là Phật pháp, Phật pháp là pháp chẳng hai”. Ý nghĩa của câu này chính là “duy hữu Nhất Thừa pháp, vô nhị, diệc vô tam”, mang ý nghĩa này! Ấn Tông hỏi Lục Tổ về Thiền Định và Giải Thoát vì Ấn Tông vẫn còn chấp trước vào hai và ba, nên một câu nói của Lục Tổ nhằm chỉ điểm, phá trừ, tức phá trừ chấp trước mà thôi! Đấy là tông chỉ của kinh Pháp Hoa. Tông chỉ của kinh Pháp Hoa là Nhất Chân pháp giới.
(Diễn) Lăng Nghiêm chi phát minh thường trụ chân tâm, chuyên tu viên chiếu tam-muội.
(演) 楞嚴之發明常住真心,專修圓照三昧。
(Diễn: Kinh Lăng Nghiêm nêu tỏ ý nghĩa chân tâm thường trụ, chuyên tu viên chiếu tam-muội).
Đây là Lăng Nghiêm Đại Định, là chánh tông của kinh Lăng Nghiêm, tức tông chỉ của kinh Lăng Nghiêm. Cổ nhân vô cùng tán thán bộ kinh này, bảo: “Khai huệ Lăng Nghiêm, thành Phật Pháp Hoa”, tức là kinh Lăng Nghiêm mở mang trí huệ, kinh Pháp Hoa [chỉ cho hành nhân con đường] thành Phật. Tại Trung Quốc, hễ là người có học, chưa có ai chẳng đọc các kinh Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, và Kim Cang. Trước kia, dù không học Phật, người đọc sách vẫn đọc những kinh này, vì văn chương quá hay, nhất là kinh Lăng Nghiêm, đây là tác phẩm văn chương bậc nhất. Kinh được đọc như một tác phẩm văn học nên được lưu truyền hết sức phổ biến. Kinh Lăng Nghiêm nêu tỏ giáo nghĩa “chân tâm thường trụ”, quả thật là mở mang trí huệ, quả thật là một bộ sách hay để mở mang trí huệ. Phải như thế nào thì chúng ta mới có thể phân biệt chân – vọng, tà – chánh, đúng – sai, thiện – ác? Đọc Lăng Nghiêm rồi sẽ có thể phân biệt, trí huệ hiện tiền. Trong kinh Lăng Nghiêm, điều quan trọng nhất là kinh dạy: Mỗi một cá nhân chúng ta hiện thời đều có chân tâm thường trụ. Điều này quan trọng lắm! Nếu dùng chân tâm thường trụ để tu hành, quý vị nhất định sẽ thành Phật ngay trong một đời này. Nếu quý vị dùng cái tâm sanh diệt, dùng vọng tâm để tu hành, trong một đời này, [chứng quả] cao nhất cũng chẳng qua là thành A La Hán trong Tiểu Thừa mà thôi! Do vậy, ý tưởng chánh yếu nhất của kinh Lăng Nghiêm là dạy chúng ta hãy sử dụng chân tâm, đừng dùng vọng tâm. Quý vị thật sự có chân tâm, nếu dùng vọng tâm để tu Vô Thượng Bồ Đề sẽ chẳng thể nào [thành công] được, khác nào “nấu cát thành cơm”; bởi lẽ, nhân và quả chẳng phù hợp!
Kinh Lăng Nghiêm đúng là bi tâm triệt để của Như Lai, chẳng trách gì tại Ấn Độ vào thời cổ coi kinh này là quốc bảo, Huyền Trang đại sư tới Ấn Độ không thấy kinh Lăng Nghiêm. Người ngoại quốc tiếc pháp; do vậy, Ấn Độ bị mất nước, toàn bộ Phật pháp ở Ấn Độ bị tiêu diệt là vì có nhân quả: Họ tiếc pháp! Họ cất giấu bộ kinh điển hay nhất, chẳng cho người nước ngoài xem. Do vậy, Huyền Trang đại sư không thấy. Ngài Bát Lạt Mật Đế đem kinh này tới Trung Quốc, gặp nhiều khổ nạn to lớn, mấy lượt lén đem đi đều bị hải quan (quan thuế, tuần tra biên phòng) bắt được. Kiểm thấy, họ bắt Sư về, Sư lại còn bị xử phạt. Đến cuối cùng, không còn cách nào, Sư phải chép kinh bằng chữ nhỏ, xẻ thịt nơi bắp tay để giấu vào, dùng kim may lại, mang đi như vậy thật chẳng dễ dàng! Mỗi cá nhân chúng ta tiếc pháp sẽ mắc quả báo ngu si. Một quốc gia tiếc pháp sẽ mắc quả báo trong tương lai Phật pháp tiêu diệt. Cho đến hiện tại, đã hơn một ngàn năm xứ Ấn Độ không có Phật pháp, do vì tiếc pháp đấy! Quả thật, nhân quả báo ứng không sai sót mảy may.
Trung Quốc có nhiều người được thành tựu nơi Phật pháp, nói thật ra, số người được đắc lực do kinh Lăng Nghiêm chiếm một tỷ lệ hết sức lớn, họ biết xả vọng dùng chân. Trong sách Chánh Mạch, Giao Quang đại sư đã nói: “Bỏ Thức, dùng Căn”, tức là bỏ vọng tâm, dùng chân tâm thường trụ, trong một đời này ắt sẽ có thể thành vô thượng đạo. Nếu chúng ta đem lý luận và phương pháp ấy của kinh Lăng Nghiêm áp dụng vào niệm Phật thì trong một đời chúng ta sẽ có thể đạt được Lý nhất tâm bất loạn. Nếu quý vị học các pháp môn khác để đạt được minh tâm kiến tánh, đại khai viên giải sẽ chẳng dễ dàng; nhưng vận dụng lý luận ấy vào phương pháp Niệm Phật thì quả thật trong một đời sẽ có thể đắc Lý nhất tâm. Cũng có các vị hỏi: “Bao lâu mới làm được?” Thời gian dài hay ngắn tùy theo mỗi người mỗi khác, tùy thuộc quý vị có thật sự làm hay không? Có phải là làm chẳng gián đoạn hay không? Nếu quý vị thật sự tu, tu học chẳng gián đoạn thì thưa với quý vị, ba năm sẽ đắc Lý nhất tâm bất loạn. Cổ nhân đã nêu gương, thật sự phi phàm!
Lý nhất tâm bất loạn chính là địa vị Phần Chứng Phật trong Lục Tức Phật như tông Thiên Thai đã nói, tức Chánh Đẳng Chánh Giác. Khó khăn ở chỗ nào? Khó khăn ở chỗ chúng ta không chịu bỏ Thức dùng Căn. Thức là tâm phân biệt, tâm chấp trước. Thức thứ sáu, tức Ý Thức, là phân biệt; thức thứ bảy là chấp trước. Nếu quý vị dùng cái tâm [chấp trước, phân biệt] ấy là không được rồi! Kinh Lăng Nghiêm dạy chúng ta bỏ Ý Thức, tức thức thứ sáu, mà hãy dùng Diệu Quán Sát, bỏ thức thứ bảy để dùng Bình Đẳng Tánh, đó gọi là “bỏ Thức, dùng Căn”. Bỏ được thức thứ sáu và thứ bảy, quý vị mắt nhìn Sắc sẽ là do tánh Thấy mà thấy Sắc tánh. Đó gọi là “minh tâm kiến tánh”. Kiến tánh sẽ minh tâm. Quý vị thấy được Sắc tánh ở bên ngoài nên gọi là kiến tánh. Dùng tánh Nghe để nghe Thanh tánh, tánh Nghe cũng là minh tâm, nghe được Thanh tánh thì cũng gọi là kiến tánh. Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật! Thành Phật quả thật không khó, thật ra thành Phật chẳng cần phải tốn một thời gian rất dài, mấu chốt ở chỗ quý vị có hiểu rõ hay không, quý vị có chịu làm hay không? Nếu quý vị không hiểu, sẽ tu mù luyện đui, không có cách nào hết! Chẳng thể tu mù luyện đui mà hòng tu được những thứ này, mà phải tu học đúng lý, đúng giáo và đúng pháp, công phu chẳng gián đoạn, sẽ thành tựu trong một thời gian rất ngắn. Cổ nhân nói: “Nhất nhật bạo chi, thập nhật hàn chi” (Một ngày nóng, mười ngày lạnh), chẳng thể thành tựu!
Chúng ta hãy nghĩ xem: Một ngày trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, ngẫu nhiên có một niệm hồi quang phản chiếu, ta muốn bỏ Thức dùng Căn, còn chưa dùng được hai giây đã lại dùng Thức mất rồi! Nếu một ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ, quý vị [dùng Căn bỏ Thức] một tiếng đồng hồ thì chưa được! Chẳng thể thành tựu! Dùng một tiếng đồng hồ, gián đoạn hai mươi ba tiếng còn làm gì được nữa? Do vậy, thật sự nói tới “dụng công” thì công phu quyết định chẳng thể gián đoạn. Hễ gián đoạn, chẳng thể gọi là công phu. Công phu phải miên mật, đừng để gián đoạn. Trước kia, trong tùng lâm tự viện có thời khóa hằng ngày, có khóa trình bình thường, mỗi ngày đều là mười sáu tiếng đồng hồ, tức là trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, công khóa chiếm hết mười sáu tiếng. Nó có sức mạnh chế phục vọng tưởng, công phu đắc lực. Hễ nửa nọ nửa kia sẽ không đắc lực. Do vậy, ngày nay chúng ta nói tới chuyện tu hành, quý vị dùng công phu nào, làm thế nào để có thể chế phục phiền não? Mỗi ngày công khóa sáng tối chẳng thiếu sót, nhưng khóa sáng hai tiếng đồng hồ, khóa tối hai tiếng đồng hồ, trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ chỉ mới được bốn tiếng, trong ấy gián đoạn hai mươi tiếng, làm sao có thể thành công cho được? Chẳng thể thành công! Huống chi lại còn dùng vọng tâm, chẳng biết dùng chân tâm!
Người có thể sử dụng chân tâm thì gọi là “phát Bồ Đề tâm”. Phát Bồ Đề tâm là gì? Người phát Bồ Đề tâm chịu dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm. Bất cứ lúc nào, chân thành đãi người tiếp vật thì là tu hành. Trong chân tâm chẳng có vọng niệm, đó gọi là “chuyên tu viên chiếu tam-muội”. Dùng chân tâm là viên chiếu tam-muội, chân tâm là thanh tịnh tâm, chân tâm là bình đẳng tâm, chân tâm là từ bi tâm. Lục Tổ đại sư nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn sẵn trọn đủ”, trọn đủ thanh tịnh, trọn đủ từ bi, trọn đủ bình đẳng, trọn đủ vạn pháp. Do vậy, nó có thể sanh ra vạn pháp, ai nấy đều có! Chân tâm là thường trụ, vọng tâm là sanh diệt. Một niệm khởi lên, niệm kia liền diệt. Chúng ta đang dùng cái tâm sanh diệt, sanh diệt trong từng sát-na, đó là vọng tâm. Khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, hoàn toàn là tâm sanh diệt, tâm ấy là giả. Dùng cái tâm ấy để niệm Phật, có thể niệm đến mức công phu thành phiến, có thể niệm đến Sự nhất tâm bất loạn, nhưng chẳng thể đắc Lý nhất tâm. Nhất định phải dùng chân tâm thì mới có thể đắc Lý nhất tâm. Do vậy, nói kinh Lăng Nghiêm mở mang trí huệ chính là mở mang loại trí huệ ấy. Xả vọng tâm, dùng chân tâm, đấy là người có trí huệ chân chánh, trí huệ của người ấy chẳng hai, chẳng khác với chư Phật, Bồ Tát; bởi lẽ, chư Phật và các vị đại Bồ Tát cũng dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm. Quý vị dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm, có khác gì với chư Phật, Bồ Tát hay chăng? Không khác gì cả! Xin lại xem kinh.
(Diễn) Thử kinh chi y chánh thanh tịnh, tín nguyện vãng sanh thị dã.
(演) 此經之依正清淨,信願往生是也。
(Diễn: Tông chỉ của kinh này là “y báo và chánh báo thanh tịnh, tín nguyện vãng sanh”).
Phần Chánh Tông của kinh này là “y chánh thanh tịnh”. Y là y báo, Chánh là chánh báo, y báo và chánh báo trang nghiêm. Mở đầu phần Chánh Tông, đức Phật nói ra sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo của Tây Phương Cực Lạc thế giới, khuyên chúng ta sanh lòng tin tưởng, khuyên chúng ta phát nguyện, khuyên chúng ta trì danh, “tín nguyện vãng sanh”. Pháp môn này là pháp môn thành Phật trong một đời, nếu quý vị thật sự hiểu rõ, không một ai chẳng chết lòng sát đất tu học. Đừng sợ người khác cười cợt. Người khác cười nhạo quý vị là chuyện ắt phải có, là lẽ đương nhiên. Vì sao? Người không thông suốt, nhìn vào pháp môn này đương nhiên sẽ ha hả cười vang, “hạ sĩ văn đạo” (kẻ căn cơ bậc hạ nghe đạo), ha hả cười to, chẳng cười thì mới là không hợp lý, kẻ ấy không hiểu mà! Kẻ ấy muốn học Thiền, học Mật, tự nghĩ ta cao minh, hắn học là chuyện của hắn, đợi đến khi quý vị thành Phật rồi sẽ đến độ hắn. Hắn chê cười quý vị cũng là có duyên phận với quý vị, có duyên sẽ độ được hắn. “Phật chẳng độ kẻ không có duyên”, hắn khen ngợi quý vị là kết duyên với quý vị, hắn chê cười quý vị cũng là kết duyên. Quý vị thành Phật rồi sẽ đến độ hắn. Chớ nên vì ta học pháp môn này, người khác cười cợt ta, ta bèn học Thiền kẻ khác sẽ khen ngợi ta, vậy thì ta hãy đi học Thiền! Quý vị vì muốn thành Phật hay là vì muốn lấy lòng người khác? Thuận lòng chúng sanh, làm đẹp lòng chúng sanh, sẽ là đời sau kém hẳn đời trước, đời sau thua đời trước, không xong rồi! Đương nhiên phải vâng theo giáo huấn của Như Lai, đừng thuận theo tri kiến của chúng sanh, điều này quan trọng lắm! Chúng sanh tà tri tà kiến, làm sao có thể tùy thuận họ được? Phải tùy thuận chánh tri chánh kiến của Như Lai thì mới là người thông minh, mới là người thật sự yêu thương, quan tâm đến chính mình.
Trong kinh Đại Tập, đức Phật đã nói rất rõ rệt: “Thời kỳ Chánh Pháp, Giới Luật thành tựu. Thời kỳ Tượng Pháp, Thiền Định thành tựu. Thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh Độ thành tựu”. Câu này cũng giống như đức Phật thọ ký trọn khắp hàng đại chúng chúng ta. Ngày nay, chúng ta sanh nhằm thời kỳ Mạt Pháp, chúng ta tu Tịnh Độ thì đúng là y giáo phụng hành, là học trò ngoan của Như Lai. Sanh nhằm thời kỳ Mạt Pháp, lại học Giới Luật, học Thiền, là đã trái nghịch lời Phật giáo huấn. [Những pháp môn ấy] đều do Phật nói, chẳng phải là không hay, nhưng thời cơ đã qua rồi! Tu học trong thời đại hiện tại, chướng ngại rất nhiều, chẳng dễ thành tựu. Vì sao chẳng y giáo phụng hành mà cứ ham cao chuộng xa? Nói thật ra, “cao” thì có pháp môn nào cao hơn kinh Di Đà? Kẻ vô tri không hiểu biết, mở kinh Di Đà ra đọc một lượt từ đầu đến cuối, [chê cười nội dung] chẳng có gì! Giống như chuyện thần thoại, giống kể chuyện xưa tích cũ, không thấy được đường lối trong ấy. Giống như chuyện thần thoại, không có ý nghĩa gì hết, không đáng để mắt tới, vậy là sao? Kẻ ấy nghiệp chướng quá nặng, quá hời hợt!
Trong tác phẩm chú giải này, Liên Trì đại sư đã chỉ rõ bao nhiêu là ý nghĩa trong từng câu từng chữ của bản kinh này. Trong quá khứ, chúng tôi đã giảng từ đầu đến cuối bộ Sớ Sao này hai lượt; lần thứ nhất không giảng Huyền Nghĩa, chúng tôi chỉ giảng đề mục, giảng từ phần giải thích kinh văn trở đi, phần Thông Tự Đại Ý không giảng, phần Khai Chương cũng không giảng. Do không giảng phần Huyền Nghĩa, chúng tôi giảng bốn năm mới xong. Lần thứ hai, giảng toàn bộ, ngay cả phần Huyền Nghĩa lẫn Tự Phần đều giảng, giảng mất năm năm. Chúng tôi lưu lại một bộ băng thâu âm hoàn chỉnh gồm ba trăm ba mươi lăm cuốn. Kinh Di Đà chẳng đơn giản! Giảng lần này còn thù thắng hơn lần giảng thứ hai, cặn kẽ hơn, thấu triệt hơn, hy vọng trong ba năm, mọi người chúng ta cùng nỗ lực đặt cơ sở vững vàng cho pháp môn này.
Thưa quý vị, muốn cầu vãng sanh thì như trong kinh nói “nhược nhất nhật chí nhược thất nhật” (hoặc một ngày cho đến hoặc bảy ngày) sẽ thành, không khó! Khó ở chỗ nào? Công tác chuẩn bị khó khăn. Thật sự ra đi, không khó! Trong hội giảng kinh Hoa Nghiêm ngày hôm qua, chúng tôi cũng nhắc đến vấn đề này, tôi giảng về Căn Bản Trí. Căn Bản Trí là tâm thanh tịnh, tức là như nhà Thiền nói “minh tâm kiến tánh”. Trong buổi giảng, tôi bảo mọi người: Cảnh giới ấy dễ hiện diện nhất trong Thiền Thất hay Phật Thất, chứ lúc bình thường chẳng dễ; nhưng trong các loại Thiền Thất, Phật Thất giống như chúng ta đang làm hiện thời, chúng là pháp hội, cảnh giới ấy chẳng hiện tiền. Thật sự kết thất niệm Phật, trong vòng bảy ngày, Phật hiệu quyết định chẳng được gián đoạn giữa chừng, chớ nên ngủ nghỉ, suốt bảy ngày bảy đêm. Thiền Thất còn khó hơn Phật Thất, chẳng dễ dàng đâu nhé! Trong vòng bảy ngày ấy, yêu cầu người ấy làm điều gì? Trong nhà Phật thường nói: “Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hạnh xứ diệt” (dứt bặt ngôn ngữ, diệt sạch tâm hạnh), phải làm được điều này. Trong vòng bảy ngày, trong tâm chẳng khởi ý niệm, tâm hạnh xứ diệt, chẳng nói câu nào thì mới thấy có công phu. Nhưng lũ chúng ta tập khí phiền não, nghiệp chướng sâu nặng, trong khi ấy, một là vọng niệm tơi bời đè nén không được, căn bệnh ấy gọi là “trạo cử” (lao chao); một chứng bệnh khác là “hôn trầm”, buồn ngủ rũ người ra, ngủ gục, tinh thần trầm trệ. Nói chung là mắc những chứng bệnh ấy. Do vậy, Thiền Thất còn khó hơn Phật Thất. Phật Thất có điểm nào tốt? Có một câu Phật hiệu, câu Phật hiệu có công đức tuyệt diệu, đã có thể đối trị trạo cử lại còn có thể đối trị hôn trầm. So với cách sử dụng tham Thoại Đầu và quán tâm của nhà Thiền quả thật thuận tiện hơn nhiều lắm, có một câu Phật hiệu để khởi lên, nhất định sẽ làm được “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hạnh xứ diệt”, chẳng có vọng tưởng nào! Đấy mới là công phu, khi ấy tâm thanh tịnh sẽ có thể hiện tiền, chẳng đơn giản!
Nếu chẳng hiểu rõ lý luận, không hiểu rõ phương pháp, không thông hiểu cảnh giới, nếu quý vị sử dụng công phu này, thưa với quý vị, rất dễ gặp ma chướng, phiền phức lớn lắm. Ma do đâu mà có? Chính là oán gia trái chủ của quý vị trong đời đời kiếp kiếp. Ngày nay quý vị phát tâm dũng mãnh, mong vượt thoát tam giới, liễu sanh tử, họ sẽ nói: “Ngươi nợ mạng ta, người còn chưa đền mạng ta, ngươi còn nợ mạng và tiền của ta, ngươi còn chưa đền tiền cho ta mà muốn bỏ đi ư?”, họ đến gây rối. Quý vị không tích cực tu hành thì chẳng sao, họ sẽ nói: “Hóa ra ngươi chạy không khỏi, nhất định sẽ có ngày ta báo thù”. Họ ung dung chờ đợi. Quý vị thật sự muốn ra đi, họ sẽ lo ngại, nhanh chóng báo thù, nghiệp chướng xảy đến liền. Chẳng dụng công sẽ chẳng vướng ma chướng, ma coi thường quý vị, ma từ từ chờ đợi quý vị. Nói chung là có lúc ta sẽ báo thù ngươi. Quý vị thật sự muốn ra đi, ma cũng sẽ vội vàng, nhanh chóng gây rối, chẳng gây rối thì sau này sẽ không kịp nữa, ma chướng bèn hiện tiền. Do vậy, bình thường đãi người, tiếp vật, hãy nhớ kỹ một nguyên tắc, tuyệt đối chớ kết oán cừu với người khác. Phật pháp dạy chúng ta “hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”, công đức ấy là tu hành, tu Định – Huệ trong tùy hỷ. Định – Huệ là công đức, đừng kết oán cừu với người khác, nhất định phải tu từ bi, bình đẳng. “Oan gia nên gỡ, đừng nên buộc”, cởi gở oán thù trói buộc chắc chắn là [thái độ tu học] chính xác!
Nói đến chỗ này, chúng tôi đã giới thiệu khái lược chỗ hay của bộ kinh này, tức là công đức lợi ích của cả bộ kinh. Ở nơi này, chúng tôi đã nói với quý vị bao nhiêu lần: Tôi học Phật ba mươi mấy năm, bắt đầu học Phật vào năm Dân Quốc 42 (1953), giảng kinh hai mươi lăm năm mới nhận ra chỗ hay của kinh này, mới nhìn ra được. Hoa Nghiêm, Pháp Hoa chẳng thể sánh bằng, thua quá xa! Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, trở về kinh này. Kinh Hoa Nghiêm được xưng tụng là “kinh trung chi vương” (vua trong các kinh), kinh Di Đà là “vương trung chi vương” (vua của các vua), có mấy ai có thể nhận biết? Không ai nhận biết, thật đáng tiếc quá! Kinh này được gọi là pháp khó tin mà! Không trách mười phương chư Phật đều tán thán, đều khuyên tu. Chạy theo những kinh luận khác sẽ đều là “đối với vật báu thật sự mà vẫn không nhận biết, không biết giá trị”. Nếu đối với những vật báu đều nhận biết thì quý vị mới có thể chọn lựa vật tốt đẹp nhất, có giá trị nhất, quý báu nhất trong số đó, quý vị mới có con mắt biết chọn pháp. Quý vị không có con mắt chọn lựa pháp thì sẽ thấy pháp này cũng khá quá, pháp kia cũng rất tuyệt! Không biết noi theo pháp nào! Có con mắt chọn lựa pháp đương nhiên chẳng dễ dàng, đấy là trí huệ, chứ không phải cảm tình!
Nói tới “tín nguyện vãng sanh”, thành tựu trong một đời, thì [kinh này] cùng với Hoa Nghiêm, Pháp Hoa và hết thảy các đại kinh đại luận xét về Lý chẳng hai, chẳng khác; nếu luận theo mặt Sự, sai khác rất lớn. Trong những pháp môn khác, một đời thành tựu há nói dễ dàng ư? Pháp môn này ngàn phần chân thật, muôn vàn đích xác, thành tựu trong một đời. Nếu nhìn theo phía các pháp môn theo đường lối thông thường thì công phu thành phiến, chế phục phiền não, Sự nhất tâm bất loạn, đoạn phiền não, Lý nhất tâm bất loạn phá vô minh, chẳng khác gì với những điều được giảng trong Giáo Hạ, nhưng phương pháp là sử dụng một câu Phật hiệu. Tuy vậy, phải biết dụng tâm nơi câu Phật hiệu này, vấn đề nằm ở chỗ này. Mọi người chúng ta đều biết niệm, nhưng quý vị dùng cái tâm nào để niệm? Khác nhau! Mỗi cá nhân dùng cái tâm khác nhau nên hiệu quả của Phật hiệu chẳng giống nhau! Âm thanh giống hệt nhau, nhưng mỗi người đắc lực mỗi khác. Ấy là vì mỗi cá nhân dùng cái tâm khác nhau. Nếu quý vị biết dùng chân tâm, quý vị biết dùng chân tâm thường trụ để niệm Phật hiệu này thì sẽ là tuyệt diệu, sẽ là tối thượng thừa. Bởi lẽ, một câu “chân tâm thường trụ” này quả thật trọn đủ viên mãn Tam Học, Tam Huệ, Tam Tư Lương, ba năm nhất định đắc Lý nhất tâm bất loạn, là bậc Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo hoặc Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo. Tu học thông thường thì phải tu hành một hai A-tăng-kỳ kiếp mới tu thành như vậy, còn quý vị tu hai ba năm sẽ đạt được, thuận tiện quá mức! Do quá thuận tiện nên quý vị không tin tưởng, Vì sao có thể đạt được? Vì quý vị dùng chân tâm. Nếu quý vị dùng vọng tâm thì thật sự phải mất hai, ba A-tăng-kỳ kiếp. Do vậy, vấn đề là sử dụng cái tâm, có biết dùng cái tâm hay không? Mấu chốt tu học của chúng ta thật sự ở chỗ này!
(Diễn) Tiền chi Tự, Chánh tự thử, hậu chi Lưu Thông, chánh lưu thông thử dã.
(演) 前之序,正序此,後之流通,正流通此也。
(Diễn: Phần Tự trong đoạn trước nhằm giới thiệu phần Chánh Tông trong phần này, phần Lưu Thông ở đằng sau [phần Chánh Tông] nhằm lưu thông phần Chánh Tông).
Phần Chánh Tông là chủ thể của một bộ kinh, là phần chứa đựng tinh hoa của bộ kinh. Tiếp theo đây, [sách Diễn Nghĩa] giải thích phần Lưu Thông.
(Diễn) Lưu giả, vô trụ.
(演) 流者無住。
(Diễn: Lưu là không trụ).
“Trụ” là ngưng lại, dừng lại ở một chỗ nào đó.
(Diễn) Thông giả, vô tắc, sử thử diệu pháp, tự thử giới dĩ cập tha phương, do hiện tại dĩ cập vị lai, vô hữu lưu ngại, danh vi Lưu Thông.
(演) 通者無塞。使此妙法,自此界以及他方,由現在以及未來,無有留礙,名為流通。
(Diễn: “Thông” là không nghẽn. Khiến cho diệu pháp này từ cõi này lan đến các phương khác, từ hiện tại truyền đến tương lai chẳng bị trở ngại thì gọi là Lưu Thông).
Lưu thông Pháp Bảo công đức vô lượng. Lưu thông Pháp Bảo thuận lòng chư Phật, là đại từ đại bi phổ độ chúng sanh. Do vậy, phải lưu thông Phật pháp. Phật pháp không chú trọng đến quyền lợi, quý vị thấy đằng sau những bản chú giải của các vị đại đức từ xưa, những bản chú giải ấy do các Ngài trước tác, hoàn toàn không ghi thêm câu “giữ bản quyền, in lại ắt sẽ truy cứu trách nhiệm”. Các Ngài đều khuyên người khác lưu thông, “hoan nghênh ấn hành, công đức vô lượng”. Đấy là đại từ đại bi, đấy là chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, thực hành đại nguyện của quý vị. Trước tác của chính mình còn ghi thêm câu “hoan nghênh ấn hành, công đức vô lượng”, huống hồ trước tác của cổ nhân, huống hồ là kinh điển! Tôi thấy hiện thời có rất nhiều kinh điển phía sau có nơi phần bản quyền cũng in thêm câu “giữ bản quyền, in lại ắt sẽ truy cứu trách nhiệm”, ai có bản quyền? Bản quyền kinh A Di Đà thuộc về Cưu Ma La Thập đại sư, Ngài phiên dịch kinh ấy [nhưng không giữ bản quyền], ai sẽ truy cứu? Cưu Ma La Thập đại sư không truy cứu, ai dám truy cứu? Sớ Sao là tác phẩm của Liên Trì đại sư, Liên Trì đại sư không kiện ra tòa, ai dám thay Ngài kiện ra tòa? Trong thời kỳ Mạt Pháp, có những kẻ buôn bán Như Lai, trong kinh đã giảng rất rõ ràng [chuyện này, nhưng họ vẫn] coi Phật pháp như hàng hóa để buôn bán. Trong kinh nói rất rõ rệt: Tội lỗi ấy có quả báo là A Tỳ địa ngục. Chướng ngại lưu thông, quả báo là A Tỳ địa ngục. Hiện tại, những kẻ ấy được lợi ích bé tí teo, sau này mắc khổ quả to đùng! Ngu si đấy! Những đồng tu học Phật chớ nên không biết điều này! Bởi lẽ, Phật pháp phải lưu thông, hễ những thứ gì có lợi ích cho chúng sanh đều nên lưu thông.
(Diễn) Vi thuận giả, ngôn phẫu xuất kinh tâm, phương khiết xuất trần chi đoan tự, cố Thông Tự thuận Tự Phần.
(演) 為順者,言剖出經心,方挈出塵之端緒,故通序
順序分。
(Diễn: Thuận dịp, nói ra những lời mổ xẻ phô bày những điều tâm yếu của bản kinh nên mới nêu ra đầu mối thoát khỏi trần lao; vì thế, phần Thông Tự Đại Ý tương ứng với Tự Phần).
Đặc biệt là trong Sớ Sao, trong Diễn Nghĩa, quả thật đã mổ xẻ những điều tâm yếu trong bộ kinh này, khiến cho chúng ta thật sự nhìn thấy rõ ràng, thật sự hiểu rõ. Có như vậy mới là “khiết xuất trần chi đoan tự” (nêu ra được đầu mối xuất trần): “Khiết” (挈) là đưa ra, bày ra những điều cương lãnh, “trần” (塵) là trần lao, tam giới lục đạo. Từ vô thỉ đến nay không có cách nào để vượt thoát lục đạo luân hồi, lục đạo luân hồi giống như tằm kéo kén, từng tầng, từng tầng một vây kín chúng ta trong ấy, không có ngày thoát ra. Nay tìm được đầu mối tơ, sẽ có biện pháp thoát khỏi. Do vậy, “Thông Tự thuận Tự phần” (phần Thông Tự tương ứng với Tự phần). Sớ Sao gồm bốn quyển, quyển thứ nhất là Thông Tự Đại Ý, Khai Chương Thích Văn, quả thật đã phân tích, trình bày những cương lãnh huyền diệu, trọng yếu của bộ kinh này, khiến cho chúng ta thật sự hiểu rõ pháp môn này, trân quý pháp môn này, [những điều ấy] phù hợp với Tự Phần. Kinh văn của Tự Phần không dài, đến khi bước vào phần kinh văn, chúng tôi sẽ lại giảng cặn kẽ ý nghĩa của toàn bộ Tự Phần. Ý nghĩa ấy quá sâu, còn khó hiểu hơn phần Chánh Tông, không có Phật nhãn sẽ không có cách nào thấy được.
(Diễn) Tùy văn nhập quán, phương tri đại đạo chi du quy, cố Khai Chương thuận Chánh Tông Phần.
(演) 隨文入觀,方知大道之攸歸,故開章順正宗分。
(Diễn: Thuận theo kinh văn nhập quán, mới là biết chỗ quy hướng của đại đạo, vì thế, phần Khai Chương Thích Văn tương ứng với Chánh Tông Phần).
Đây là đoạn lớn thứ hai, giảng về phần Chánh Tông, đều nói là “thuận” theo những ý nghĩa ấy (tức là dựa trên ý nghĩa của ba phần Tự, Chánh Tông, và Lưu Thông vừa giảng trên đây, mà phán định các đoạn lớn như Thông Tự Đại Ý, Khai Chương Thích Văn v.v… sẽ tương ứng với phần nào). “Văn” là kinh văn. Thế nào là “tùy văn nhập quán”? “Quán” là quán chiếu. Chúng ta không có cách nào, chúng ta niệm kinh văn này như thế nào, niệm đến mức nhuyễn nhừ cũng chẳng khởi lên công phu quán chiếu được. Nếu quý vị hỏi cách quán chiếu ra sao ư? Bộ Sớ Sao Diễn Nghĩa chính là do Liên Trì đại sư tùy văn nhập quán, nói cho chúng ta biết cảnh giới quán chiếu của Ngài, đấy là quán chiếu. Cái hay của Ngài là kinh có nghĩa lý không cùng tận, mà ý nghĩa trong bộ Sớ Sao của Liên Trì đại sư cũng chẳng cùng tận, thật sự khó có, thật chẳng dễ dàng! Điều này cho thấy Liên Trì đại sư không soạn văn chương, bởi ý nghĩa của văn chương có cùng tận. Nói cách khác, văn chương có giới hạn, có phạm vi, chẳng phải là không có cùng tận. Văn tự của bộ Sớ Sao không có cùng tận. Nói thành thật thì văn tự của bộ Diễn Nghĩa chẳng bằng bộ Sớ Sao, thua rất xa. Văn tự trong bộ Diễn Nghĩa có phạm vi, có cùng tận; còn văn tự của bộ Sớ Sao không có cùng tận, không có phạm vi. Điều này chứng tỏ cảnh giới của pháp sư Cổ Đức không cao như cảnh giới của Liên Trì đại sư. Rốt cuộc tổ sư là tổ sư, học trò vẫn là học trò, không có trình độ cao như thầy, không đạt cảnh giới như thầy. Đối với những thứ bày ra trước mắt chúng ta, một đằng là vừa nhìn liền hiểu ngay; một đằng là có giới hạn, có phạm vi, một đằng là không có giới hạn, không có phạm vi. Diễn Nghĩa là bút ký nghe giảng kinh của pháp sư Cổ Đức, Ngài trực tiếp nghe Liên Trì đại sư giảng, ghi lại những điều Ngài đích thân nghe được, cống hiến cho chúng ta làm tài liệu tham khảo, giúp chúng ta hiểu rõ Sớ Sao.
Những ý nghĩa này cho thấy Liên Trì đại sư là bậc minh tâm kiến tánh, ngôn ngữ văn tự của Ngài từ Chân Như bổn tánh lưu lộ, cho nên không có cùng tận. Pháp sư Cổ Đức chưa kiến tánh, văn chương của Ngài phát xuất từ thức thứ sáu nên có phạm vi, có cùng tận. Do vậy, Liên Trì đại sư được tôn xưng là vị tổ sư đời thứ tám, còn pháp sư Cổ Đức chẳng thể gọi là tổ sư đời thứ chín, đạo lý ở chỗ này. Ngẫu Ích đại sư mới được tôn xưng là tổ sư đời thứ chín. Pháp sư Cổ Đức là thị giả của đại sư [Liên Trì], trước thuật trong cả đời đại sư đều do pháp sư Cổ Đức chỉnh lý, khắc ván lưu truyền cho đời sau, công đức vô lượng vô biên, tuy chưa kiến tánh! Hai cuốn sách này bày ra trước mặt, quý vị lắng lòng xem sẽ biết ngay, một cuốn ý vị không cùng tận, một cuốn ý vị có cùng tận, khác hẳn! Điều này chẳng thể gạt ai được; do vậy, Sớ Sao chính là do Liên Trì đại sư đọc kinh Di Đà, “tùy văn nhập Quán”. Ngài đem những lý luận và cảnh giới do Ngài quán chiếu được nói cho chúng ta biết.
“Phương tri đại đạo chi du quy” (mới biết chỗ quy hướng của đại đạo), ai biết? Liên Trì đại sư biết! Nếu chúng ta không đọc Sớ Sao, làm sao biết được? Ngày nay chúng ta biết được “đại đạo chi du quy” là do Liên Trì đại sư bảo cho biết. Liên Trì đại sư bảo chúng ta mà chúng ta có tin tưởng hay không? Nếu chúng ta tin tưởng thì ngay trong năm ấy, đọc Sớ Sao lần thứ nhất lẽ ra phải tin tưởng ngay. Vì sao đọc lần thứ nhất không tin tưởng? Đọc lần thứ hai vẫn chưa tin tưởng, đọc mấy chục lượt đều chẳng tin tưởng. Hiện nay tin tưởng, vì sao tin tưởng? Bây giờ tôi cũng đã thấy rồi! Tôi thấy giống như Ngài thấy. Tôi tin tưởng, không nói gì. Tôi chưa thấy mà quý vị chỉ nói một lượt, tôi chẳng tin. Do tôi cũng đã thấy, quý vị nói, tôi liền gật đầu: “Không sai! Đúng như vậy đó! Tôi tin”. Chân tín chẳng dễ dàng, khá là khó! Do vậy, tôi mò mẫm Phật pháp ba mươi mấy năm rồi mới tin tưởng. Tôi giảng lần thứ nhất, giảng lần thứ hai, tín tâm không thanh tịnh như hiện thời, không kiên cố như hiện thời, quý vị nghe băng thâu âm [hai lần giảng] trong quá khứ sẽ nhận ra. Giảng lần đầu là nghe sao nói vậy, lần thứ hai là giảng được đôi chút phảng phất. Hiện thời là thật sự thấy được, do vậy, khác hẳn. Chân tín mà! Chữ “tri” này chẳng dễ dàng. Không tùy văn nhập quán, làm sao quý vị biết? Chúng ta là người đời sau được người đời trước tạo thuận tiện, hãy nên hiểu rằng: Bản thân chúng ta không khởi lên được công phu quán chiếu, cổ nhân giúp chúng ta một tay. Sớ Sao giúp đỡ chúng ta.
(Diễn) Bạt nghiệp chướng căn, tự nhiên lưu nhập thanh tịnh hải, cố kết thích thuận Lưu Thông Phần.
(演) 拔業障根,自然流入清淨海,故結釋順流通分。
(Diễn: Dứt nghiệp chướng, tự nhiên lưu nhập biển thanh tịnh, nên phần Kết Thích tương ứng với Lưu Thông Phần).
“Nghiệp chướng”: Nghiệp chướng là gì? Phải hiểu rõ định nghĩa này. Quý vị phải hiểu rõ: Nghiệp là chướng, ác nghiệp là chướng, mà thiện nghiệp cũng là chướng. Quả báo của ác nghiệp là trong tam ác đạo, quả báo của thiện nghiệp là trong ba thiện đạo, đều chẳng ra khỏi luân hồi, đều chẳng thể vãng sanh, đều là Chướng! Đấy là nói thô thiển. Nói vi tế thì Nghiệp là gì? Nghiệp là tạo tác, kết quả của tạo tác gọi là Nghiệp. Nghiệp lực chẳng thể nghĩ bàn, nghiệp lực gây chướng ngại cho quý vị. Đối với tạo tác, đặc biệt chú trọng sự tạo tác nơi tâm địa: Quý vị khởi tâm động niệm, khởi vọng tưởng đều là tạo tác. Muốn thật sự dứt trừ nghiệp chướng thì phải “dứt bặt ngôn ngữ, diệt sạch tâm hạnh” thì mới có thể dẹp trừ nghiệp chướng. Trong mười hai thời, hãy giống như nhà Thiền đã nói “tâm như tường vách”, lục căn đối trước lục trần bên ngoài chẳng khởi lên một niệm, niệm gì cũng chẳng khởi, nhưng vẫn hiểu rõ ràng, minh bạch cảnh giới bên ngoài, đấy là quán chiếu, là trí huệ, trong tâm “như như bất động”, đấy là Thiền Định, như vậy thì mới có thể dẹp trừ nghiệp chướng căn bản. “Tự nhiên lưu nhập thanh tịnh hải”: Thanh tịnh hải là tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh rộng lớn khôn sánh nên dùng biển để sánh ví. Dùng bài chú này để tổng kết cả bộ kinh, kết thúc bằng giải thích chú Vãng Sanh, đấy là “tương ứng với phần Lưu Thông”.
Những điều này nhằm giải thích hai chữ “vi thuận”. Chữ Thuận có ý nghĩa rất sâu, rất nhiều, sâu rộng không cùng tận. Chữ Thuận ấy có ý nghĩa thông với chữ “thuận” trong “hằng thuận chúng sanh” của mười đại nguyện vương. Lại thưa rõ cùng quý vị, Trung Quốc nói đến hiếu đạo, hiếu thuận, vậy hiếu là gì? Thuận gọi là hiếu, hiểu theo ý nghĩa này cũng hợp lý. Trí huệ đầy ắp trong ấy, đầy ắp phương tiện thiện xảo, do vậy mới có thể trong khi hằng thuận chúng sanh lại có thể dẹp trừ hết thảy nghiệp chướng căn bản, thật tuyệt vời! Đạt được sự thanh tịnh chân thật thì mới là Lý nhất tâm bất loạn, mới thật sự là Thượng Phẩm Thượng Sanh. Hôm nay đã hết thời gian rồi!