A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA
QUYỂN 1 – Tập 16-20
Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong
— o0o —
Tập 16-20
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, trang mười bảy, đoạn “nhị, tán kinh. Sơ, tổng tán, nhị, biệt tán”.
Sơ tổng tán.
(Tự) Trừng trược nhi thanh, phản bối nhi hướng, việt tam kỳ ư nhất niệm, tề chư thánh ư phiến ngôn, chí tai diệu dụng, diệc bất khả đắc nhi tư nghị giả. Kỳ duy Phật Thuyết A Di Đà Kinh dư?
初總讚.
(序) 澄濁而清,返背而向,越三祇於一念,齊諸聖於片言,至哉妙用,亦不可得而思議者,其惟佛說阿彌陀經歟。
(Thứ nhất, tán thán chung.
Lời tựa: Lắng đục thành trong, bỏ trái nghịch để hướng về, vượt ba A-tăng-kỳ kiếp trong một niệm, ngang với chư thánh bởi một lời, diệu dụng đến tột bậc cũng chẳng thể nghĩ bàn được, chỉ có mình Phật Thuyết A Di Đà Kinh đó chăng?)
Đoạn này nhằm tán thán kinh A Di Đà, cũng có thể nói là tán thán cả bộ kinh này đến mức tột cùng. Kể từ phần Tựa trở đi, chúng ta đã tốn không ít thời gian để giới thiệu đoạn Minh Tánh (nêu rõ Tánh). Đoạn trước hoàn toàn nói về giáo lý, từ đây trở đi là nói về giáo nghĩa. Lý chẳng những xuyên suốt hết thảy kinh giáo mà còn xuyên suốt vô lượng pháp môn. Thật ra, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng lìa Lý Thể của tự tánh.
Học Phật, nhất là nghiên cứu kinh điển hoặc nghe kinh, nếu có thể hiểu được Lý Thể thì sẽ là cao minh nhất. Nghe kinh mà nghe hiểu được giáo lý thì sẽ là cao minh nhất, vì nếu hiểu rõ giáo lý thì “một ngộ, hết thảy ngộ”, tức là “một kinh thông, hết thảy kinh thông”. Đây là điều trọng yếu nhất. Giáo Hạ gọi điều này là “đại khai viên giải”, còn Thiền Tông bảo là “đại triệt đại ngộ”. Đấy là biết nghe, nhưng điều này thật chẳng dễ dàng, phải nhất tâm lắng nghe. Chẳng đạt được nhất tâm, sẽ không có cách nào ngộ nhập giáo lý, bất đắc dĩ, phải cầu điều kém hơn là giáo nghĩa. Nếu thông hiểu giáo nghĩa, sẽ có thể thông đạt một phần đạo lý. Tuy chẳng thể thông đạt toàn thể, nhưng có thể thông đạt một phần thì cũng coi như là khá lắm. Nói cách khác, đối với những kinh đồng loại[48] với kinh này đều có thể hễ tiếp xúc bèn thông hiểu, cũng được coi là khá cao minh. Đáng sợ nhất là nhớ nguyên văn từng câu nói, tôi ở đây giảng như thế nào, quý vị nhớ y hệt như thế ấy, giống hệt như máy thâu âm! Tuy có thể nhớ toàn bộ, nhưng quý vị chỉ hiểu được một bộ kinh, thay bằng bộ kinh khác sẽ không hiểu nữa! Như vậy là dở nhất, được coi là [căn tánh] hạng ba. Những điều nghe được đều có thể ghi nhớ, đều có thể nói lại, thì đã được coi là rất khá, nhưng thật ra, chỉ là hạng ba.
(Diễn) Trừng trược nhị cú, tiên tự công phu.
(演) 澄濁二句,先敘功夫。
(Diễn: Hai câu “lắng đục”… trước hết giảng về công phu).
“Trừng trược nhị cú” tức là [hai câu] “trừng trược nhi thanh, phản bối nhi hướng” (lắng đục thành trong, bỏ trái nghịch để hướng về); hai câu này “tiên tự công phu” (trước hết nói về công phu), tức là nói về sự tu hành, nhìn thấy công phu ở chỗ nào? Trước hết, chúng tôi giải thích ý nghĩa của những chữ này. “Trược” là chẳng thanh tịnh, tâm chúng ta hiện thời chẳng thanh tịnh. Nếu dùng Phật hiệu để biến tâm niệm chẳng thanh tịnh thành thanh tịnh, đấy là “bước vào công phu”, là “trừng trược nhi thanh” (lắng đục thành trong). “Phản bối nhi hướng”, “bối” là gì? Bối giác hợp trần (trái ngược với giác, xuôi theo trần lao). Chúng ta trái nghịch tự tánh giác, nay đang phơi bày ra những thứ mê hoặc, điên đảo. Nếu chúng ta có thể từ nơi trái nghịch giác tánh mà quay trở lại, hướng về giác tánh, khôi phục Bổn Giác thì đấy là công phu. Do vậy, người niệm Phật phải thường xuyên kiểm nghiệm xem chính mình có công phu hay là không, niệm Phật đạt hiệu quả như thế nào? Thành tích như thế nào?
(Diễn) Tam kỳ nhị cú, thứ tán siêu thắng.
(演) 三祇二句,次讚超勝。
(Diễn: Hai câu “tam kỳ” là ý tiếp theo, ca ngợi sự siêu việt thù thắng [của kinh A Di Đà]).
“Việt tam kỳ ư nhất niệm, tề chư thánh ư phiến ngôn” (Vượt ba A-tăng-kỳ kiếp trong một niệm, bằng với chư thánh trong một lời): Tán thán sự siêu thắng (Thắng là thù thắng). Tám vạn bốn ngàn pháp môn, bất luận một tông phái nào cũng đều chẳng thể sánh bằng pháp môn này. Nó siêu việt tất cả các pháp môn, thù thắng nhất trong hết thảy pháp môn. Đây là tán thán kinh A Di Đà, tán thán hạnh trì danh niệm Phật.
(Diễn) “Trừng trược nhi thanh” giả, dĩ Phật danh hiệu đầu ư loạn tâm, loạn tâm bất đắc bất tịnh, như thủy thanh châu đầu ư trược thủy, trược thủy bất đắc bất thanh dã.
(演) 澄濁而清者,以佛名號投于亂心,亂心不得不淨,如水清珠投于濁水,濁水不得不清也。
(Diễn: “Lắng đục thành trong”: Dùng danh hiệu Phật gieo vào loạn tâm, loạn tâm chẳng thể không tịnh, như thủy thanh châu gieo vào nước đục, nước đục chẳng thể không trong).
Hai câu tỷ dụ ở phía sau khá dễ hiểu, chứ hai câu trong phần trước sợ chẳng dễ hiểu cho lắm. Vì sao vậy? Cũng có vị niệm Phật chẳng ít năm, trong tâm vẫn loạn lung tung, Phật hiệu chẳng đạt được hiệu quả, quý vị bèn hoài nghi: Câu Phật hiệu này có thể khiến cho tâm niệm thanh tịnh, mà ta niệm đã nhiều năm như vậy, tâm vẫn chẳng thanh tịnh, là do duyên cớ nào? Quý vị niệm không đúng pháp! Nếu niệm đúng pháp, chắc chắn có hiệu quả, công dụng. Nếu mỗi câu Phật hiệu đầy đủ Tam Học, Tam Huệ, Tam Tư Lương, tâm dẫu loạn cũng có thể đạt đến thanh tịnh, trong một đời quả thật có thể đạt được công phu thành phiến, Sự nhất tâm bất loạn, Lý nhất tâm bất loạn, chẳng còn ngờ vực mảy may chi nữa!
Phật pháp theo đường lối thông thường, tức là theo phương cách phổ thông, ắt phải dựa theo thứ tự thuận là “tín, giải, hành, chứng” để tu học. Giải (hiểu) rồi mới tu hành, giống như đi đường, ắt trước hết phải biết rõ lộ trình rồi mới có thể ra đi. Pháp môn Tịnh Độ Niệm Phật là pháp môn đặc biệt, vừa đi vừa nhận biết đường, tiến hành đồng thời. “Người niệm Phật chẳng cần nghiên cứu kinh giáo, cứ thật thà niệm Phật là được rồi, cầu Giải để làm gì? Cớ gì phải phí sức vào chuyện này!” Cách suy nghĩ này sai lầm to lớn. Quý vị thấy trong Tịnh Độ Tông, có vị tổ sư đại đức nào chẳng thông đạt hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Trong bộ Sớ Sao, Liên Trì đại sư trích dẫn kinh luận của thế gian và xuất thế gian, học vấn của Ngài rất uyên bác, chứ chẳng phải là không thông hiểu! Thời cận đại, quý vị đọc bộ Văn Sao sẽ thấy Ấn Quang đại sư đọc bao nhiêu là sách, thứ gì cũng đều biết. Do đây biết rằng: Niệm một câu A Di Đà Phật vẫn phải nghiên cứu kinh giáo, Hành và Giải đều quan trọng, Hành và Giải đồng thời.
Thật thà niệm Phật, hai chữ “thật thà” hết sức chẳng đơn giản. Người thật thà, chân tánh hiện tiền. Dùng pháp môn Tịnh Độ Niệm Phật để định nghĩa hai chữ “thật thà” thì “niệm đến Lý nhất tâm bất loạn, minh tâm kiến tánh” mới là thật thà. Trước khi minh tâm kiến tánh, chắc chắn chưa thật thà, vì sao? Kẻ ấy dùng tâm ý thức; tâm ý thức thì làm sao thật thà cho được? Thật thà niệm Phật, quyết định thành Phật. Thế nhưng, trước hết chúng ta phải hiểu rõ chính mình hiện thời chắc chắn là chưa thật thà, cho nên quý vị vẫn phải y giáo tu hành, chiếu theo những lý luận, phương pháp và cảnh giới được giảng trong kinh điển để niệm Phật hiệu. Lại còn phải nên hiểu rõ những ý nghĩa được bao hàm trong câu Phật hiệu. Dịch nghĩa hoàn toàn sang tiếng Hán, câu Phật hiệu này có nghĩa là “quy y Vô Lượng Giác”. Nói cách khác, mức độ thấp nhất là từng tiếng đánh thức giác tánh của chính mình. Sáu căn của chúng ta tiếp xúc sáu trần, hễ mê thì một câu Phật hiệu này sẽ gọi chúng ta từ mê mà giác ngộ trở lại, chẳng còn mê nữa, giác chứ không mê. Nếu quý vị chẳng niệm thì không niệm sẽ mê. Tập khí mê muội quá nặng, niệm niệm gọi mình quay lại, như vậy thì mới có thể khôi phục cái tâm thanh tịnh. Đấy là ý nghĩa của câu thứ nhất, “trừng trược nhi thanh” (lắng đục thành trong).
(Diễn) “Phản bối nhi hướng” giả, nhất hướng lưu lạc tha hương, bất tư cố quốc, kim tắc hồi thần bảo sát, tương cận Từ Tôn dã.
(演) 返背而向者,一向流落他鄉,不思故國,今則迴神寶剎將覲慈尊也。
(Diễn: “Phản bối nhi hướng”: Một mực lưu lạc quê người, chẳng nghĩ tới nước cũ. Nay hướng lòng về cõi báu, gần gũi đấng Từ Tôn).
Tỷ dụ này cũng hết sức hay. Giống như kẻ lang thang lưu lạc đất khách, quên mất quê cũ của chính mình. “Kim tắc hồi thần bảo sát, tương cận Từ Tôn” (Nay hướng lòng về cõi báu, gần gũi đấng Từ Tôn): Nay bảo quý vị hãy quay đầu lại, hãy từ đời ô trược lục đạo luân hồi này quay đầu lại, tới Tây Phương Cực Lạc thế giới để gặp A Di Đà Phật. Nói cách khác, quê cũ của chúng ta ở nơi đâu? Quê cũ ở Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chính mình phải kiên định tín tâm. Nếu quý vị nói: “Thế giới này mới là quê cũ của tôi, chứ Tây Phương Cực Lạc thế giới không phải!” sẽ rất khó vãng sanh Tây Phương. Đấy là hoàn toàn mê mất tự tánh, nhất định phải giác ngộ điều này. Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy trong hội Hoa Nghiêm đến cuối cùng đều thành Đẳng Giác Bồ Tát mà vẫn phải vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để thành tựu Vô Thượng Bồ Đề. Do đây biết rằng: Thế giới Cực Lạc là quê nhà thật sự, chẳng sai tí nào!
Nay chúng ta sống trong thế giới Sa Bà đã ba bốn đời, quên tuốt quê cũ. Các đồng bào trong tỉnh [Đài Loan] này, quê quý vị ở đâu? Hễ truy ngược lại, quê nhà của các vị đều ở Trung Nguyên. Trong lịch sử dân tộc Trung Hoa có ba lần thiên di lớn: Thời Nam Bắc Triều Ngũ Hồ Loạn Hoa[49], thời Nam Tống và thời Mãn Thanh vào trong quan ải. Từ Trung Nguyên thiên di đến Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây), rồi lại dời sang Đài Loan. Tổ tiên đều là người thuộc lưu vực Hoàng Hà ở Trung Nguyên, quý vị đã quên mất rồi. Do chúng ta quên mất tự tánh, luân hồi sanh tử trong thế giới Sa Bà chẳng biết là bao nhiêu kiếp. Nay bảo quý vị thế giới Cực Lạc là quê nhà, quý vị chẳng tin. Ở đây, Liên Trì đại sư bảo chúng ta: Quê hương của chúng ta là Tây Phương Cực Lạc thế giới.
“Việt tam kỳ ư nhất niệm”: Việt (越) là vượt thoát, vượt thoát ba A-tăng-kỳ chỉ trong một niệm. Thời gian ba A-tăng-kỳ kiếp dài lâu, mê hoặc lâu dài bao kiếp, trong một niệm liền vượt thoát, thật nhanh! Một niệm là gì? Một niệm là nhất tâm bất loạn đấy!
(Diễn) Nhất niệm thị Trí.
(演) 一念是智。
(Diễn: Một niệm là Trí).
“Một niệm là Trí”, hai niệm là mê. Làm như thế nào để trong mười hai thời luôn giữ được nhất niệm? Điều này rất khẩn yếu. Do vậy, trong cảnh giới khởi tâm động niệm là mê hoặc, nhất định phải giữ gìn sự tỉnh táo, tức là nhất niệm.
(Diễn) Phiến ngôn thị cảnh.
(演) 片言是境。
(Diễn: Một lời là cảnh).
“Phiến ngôn” là cảnh giới, “phiến ngôn” chính là một câu Nam-mô A Di Đà Phật. Câu này chính là “phiến ngôn”. Do đây có thể biết một câu Phật hiệu thật sự trở thành công phu thượng thừa, câu nói ấy biến tâm niệm của quý vị thành nhất niệm, nhất niệm vô nhị niệm. Có đồng tu hỏi: Lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, lìa bằng cách nào? Tôi thưa cùng quý vị: Điều này thật sự rất quan trọng! Vì sao chúng ta chẳng thể biến câu danh hiệu này thành nhất tâm, chẳng thể biến thành nhất niệm? Chính là vì đối với sáu chữ này (sáu chữ hay bốn chữ cũng giống như nhau), quý vị chấp vào tướng ngôn thuyết, chấp vào tướng danh tự, chấp vào tướng tâm duyên. Do vậy, quý vị không có cách nào biến nó thành nhất niệm. Nói thật ra, Phật truyền thụ pháp môn này nhằm dạy chúng ta dùng một câu Phật hiệu để đạt đến nhất niệm, đấy mới gọi là “công phu thành tựu”.
Câu Nam-mô A Di Đà Phật là một câu nói, là tướng ngôn thuyết; chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối tiếng niệm A Di Đà Phật mười vạn tiếng, chấp vào tướng ngôn thuyết. Nam-mô có nghĩa là quy y, A Di Đà nghĩa là vô lượng, Phật có nghĩa là giác. Đấy là tướng danh tự, chấp vào tướng danh tự. Tâm phan duyên (nắm níu) tướng danh tự, phan duyên tướng ngôn thuyết. Đấy là tướng tâm duyên. Trong một câu Phật hiệu của quý vị, chẳng phải chỉ là hai niệm, ba niệm, mà trong một câu Nam-mô A Di Đà Phật khởi lên rất nhiều niệm, quý vị không có cách gì đạt được nhất niệm, nên câu Phật hiệu này không có cách nào thành tựu công phu. Làm thế nào mới có thể thành tựu công phu? Khi niệm sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật”, hãy lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, niệm mà vô niệm, không niệm mà niệm. Trong miệng, sáu chữ hồng danh mỗi tiếng liên tục chẳng gián đoạn, tâm địa thanh tịnh chẳng nhiễm mảy trần, đó gọi là “tam luân thể không”, chẳng những cái Ngã đang niệm Phật là không thể được mà Phật hiệu được niệm và cảnh giới cũng đều chẳng thể được. Khi ấy là gì vậy? Chỉ là nhất tâm, cảnh giới của nhất tâm mới có thể hiện tiền. Do vậy, pháp này quả thật là mầu nhiệm đến tột bậc!
Ở đây, [sách Diễn Nghĩa] chỉ cho chúng ta biết câu Phật hiệu này là cảnh giới, “nhất niệm là Trí”. Dùng trí để trừ khử duyên cảnh, Cảnh và Trí không hai. Trí là năng chứng, cảnh là sở chứng. Năng và Sở chẳng hai. Tâm Kinh nói: “Vô trí, diệc vô đắc” (không trí mà cũng không đắc). Nhất niệm là Trí, “phiến ngôn” (một câu nói) là Đắc, Vô Lượng Giác là cảnh giới, thứ gì cũng đều phải giác chứ không mê, vì sao lại nói là “vô trí, diệc vô đắc”? Trong tâm quý vị có [ý niệm] “ta đang có nhất tâm”, tức là trên nhất tâm lại chồng thêm một cái nhất tâm nữa, nhị tâm mất rồi! Kinh Lăng Nghiêm bảo đó là “tri kiến lập tri” (trên tri kiến lại lập thêm một tri kiến nữa). Vốn là Phật tri, Phật kiến, nay lại kiến lập thêm “ta nhất tâm bất loạn”, tâm quý vị đã sớm loạn mất rồi! Do trong nhất tâm bất loạn không có một cái nhất tâm bất loạn, chỉ cần quý vị có [ý nghĩ ta đang] nhất tâm bất loạn là trật rồi! Do vậy, quý vị có Trí là trật, có Đắc cũng trật luôn, có Nam-mô cũng trật, có A Di Đà Phật cũng sai bét! Lại nhắc nhở quý vị, không có Nam-mô cũng trật, không có A Di Đà Phật cũng sai tuốt. Khi ấy, khó thể biện định, “có” cũng trật, mà “không có” cũng sai, rốt cuộc như thế nào mới không sai? Nhà Thiền bảo: “Ông cứ tham cứu đi!” Câu này đã nói thấu suốt, Phật hiệu quyết định chẳng thể gián đoạn giữa chừng! Phật hiệu chẳng thể gián đoạn giữa chừng thì chẳng rớt vào Không! Tuy Phật hiệu chẳng gián đoạn giữa chừng, nhưng tâm địa niệm niệm thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, năng niệm và sở niệm đều chẳng thể được, chẳng rớt vào Có! Chẳng rớt vào hai bên Có và Không, khi ấy thật sự là nhất niệm. Rớt vào Không hay rớt vào Có đều là sai lầm. Rớt vào Có là tà kiến, rớt vào Không là vô minh. Hai bên Có và Không đều chẳng rớt vào, đấy mới là nhất tâm, đấy mới là Trí và Cảnh giống hệt như một.
(Diễn) “Việt tăng-kỳ” vị Trí siêu thắng.
(演) 越僧祇謂智超勝。
(Diễn: “Vượt A-tăng-kỳ kiếp” ý nói Trí siêu việt thù thắng).
Kinh thường nói thành Phật chẳng dễ dàng! Tính từ địa vị Sơ Trụ, tu một A-tăng-kỳ kiếp mới có thể tu xong ba mươi địa vị gồm Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, trong A-tăng-kỳ kiếp thứ hai tu bảy địa vị từ Sơ Địa đến Thất Địa. Trong A-tăng-kỳ kiếp thứ ba tu ba địa vị Bát Địa, Cửu Địa và Thập Địa. Thời gian ba đại A-tăng-kỳ kiếp dài quá! Một câu A Di Đà Phật vượt thoát ba đại A-tăng-kỳ kiếp, thật là khó có!
(Diễn) “Tề chư thánh” thị cảnh diệu viên.
(演) 齊諸聖是境妙圓。
(Diễn: “Bằng với chư thánh” là cảnh mầu nhiệm, viên mãn).
“Thánh” là Thập Địa Bồ Tát. Công phu niệm Phật thật sự tốt đẹp, dùng pháp môn này thì quý vị có thể chứng được địa vị Thập Địa Bồ Tát ngay trong một đời, há có phải chỉ thành tựu Phật pháp trong đời này! Sở dĩ chúng ta không thể thành tựu là vì chẳng thấu triệt lý luận, chẳng hiểu rõ phương pháp, tự mình khiến chính mình lầm lẫn. Nếu thật sự hiểu được lý luận và phương pháp thì trong một đời này sẽ có thể đạt đến thành tựu như vậy. Trong bản chú giải kinh Di Đà, đại sư Khuy Cơ đã phán định kinh này thuộc Đốn Giáo vì có ý nghĩa đốn siêu (nhanh chóng vượt thoát). Do vậy, kinh này là kinh bậc nhất trong hết thảy các kinh, không còn kinh nào siêu việt thù thắng hơn. Học Phật thì không đọc, không nghe tất cả các kinh khác cũng chẳng sao, quý vị chỉ cần thấu hiểu, thông suốt mấy tác phẩm như Di Đà Kinh Sớ Sao, Diễn Nghĩa, Yếu Giải, nhất định sẽ vãng sanh ngay trong một đời, giải quyết vấn đề. Sách Tây Phương Công Cứ đơn giản, trọng yếu nhất, hãy bắt đầu dốc sức từ sách này, hãy lấy nó làm sách giáo khoa, mỗi ngày đọc mấy trang, đừng gián đoạn giữa chừng.
(Diễn) Tăng-kỳ giả, vô số kiếp dã.
(演) 僧祇者,無數劫也。
(Diễn: Tăng-kỳ là vô số kiếp).
Điều này chúng ta tạm thời không quan tâm đến. Con số này có đến mấy cách tính, cách tính tinh tường, xác đáng nhất là [cách được nêu ra trong phẩm A Tăng Kỳ] trong kinh [Bát Thập] Hoa Nghiêm. Tiếp theo đây là những câu hỏi đáp do đại sư tự đặt ra.
(Diễn) Vấn: Tam kỳ hành mãn, tức tọa đạo tràng thành Chánh Giác.
(演) 問:三祇行滿,即坐道場成正覺。
(Diễn: Hỏi: Tu hành trọn ba A-tăng-kỳ kiếp liền ngồi nơi đạo tràng, thành Chánh Giác).
Tu hành ba đại A-tăng-kỳ kiếp viên mãn sẽ thành Phật.
(Diễn) Kim niệm Phật giả, túng đắc vãng sanh, thượng vị đắc Phật, hà nãi tiện việt tam kỳ da?
(演) 今念佛者,縱得往生尚未得佛,何乃便越三祇耶。
(Diễn: Nay người niệm Phật dù đã được vãng sanh, vẫn chưa thành Phật, sao lại có thể vượt trỗi ba A-tăng-kỳ kiếp được?)
Nghe những câu nói trong phần trên, chắc cũng thắc mắc: Quý vị vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, vẫn chưa thành Phật. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới tuy không có ba ác đạo, nhưng có hai đường trời và người, vẫn là phàm phu! Vì sao nói “vượt trỗi ba A-tăng-kỳ kiếp”? Câu này có nói quá lố hay chăng? Dưới đây là lời giải đáp.
(Diễn) Đáp: Kim tam kỳ thị ước Tín Giải, dĩ tam-muội công thành chi nhân, tuy công hạnh vị mãn, nhi Pháp Thân dĩ minh, tam kỳ cực quả dĩ giải liễu cố, diệc khả ngôn siêu dã. Thử ước Giải ngôn, bất luận công hạnh.
(演) 答:今三祇是約信解。以三昧功成之人,雖功行未滿,而法身已明,三祇極果已解了故,亦可言超也。此約解言,不論功行。
(Diễn: Đáp: Ba A-tăng-kỳ ở đây là nói theo phương diện Tín và Giải. Bởi lẽ, người đã thành tựu tam-muội, tuy công hạnh chưa viên mãn, nhưng đã hiểu rõ Pháp Thân, đã hiểu rõ cực quả sau ba A-tăng-kỳ kiếp, nên cũng có thể nói là “vượt thoát”. Đây là dựa trên phương diện Giải để nói, chứ không bàn về mặt công hạnh).
Ba đại A-tăng-kỳ kiếp được nói tới trong phần trước là [nói về] sự tu hành viên mãn, nói tới công phu, đã thành Phật rồi. Ở đây nói “vượt ba A-tăng-kỳ trong một niệm” chính là nói theo phương diện Tín Giải, chứ không phải luận theo phương diện Hành Chứng. Quý vị phải hiểu: Tín Giải hết sức khó, người bình thường chẳng thể tiếp nhận được. “Tam-muội công thành”: Chữ “tam-muội” là nói Niệm Phật tam-muội, tam-muội chính là nhất tâm bất loạn. Chúng ta niệm Phật, niệm đến nhất tâm bất loạn. Nhất tâm được nói đến ở đây chính là Lý nhất tâm bất loạn, vì trong câu tiếp theo có nói “Pháp Thân dĩ minh” (đã hiểu rõ Pháp Thân). Lý nhất tâm bất loạn, công hạnh chưa viên mãn, đấy là sự thật; vì Lý nhất tâm bất loạn chính là nói về bậc Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, bốn mươi mốt phẩm vô minh mới phá được một phẩm, hãy còn bốn mươi phẩm chưa phá, đương nhiên chưa viên mãn.
Công hạnh chưa viên mãn, nhưng đã thấy Pháp Thân. Phá một phẩm vô minh liền chứng một phần Pháp Thân. Đấy là hàng Sơ Trụ vừa chứng được Lý nhất tâm. Ba đại A-tăng-kỳ kiếp thành tựu Phật quả trong Viên Giáo, người ấy quả thật đã “giải liễu”, tức hiểu rõ, quyết định chẳng có nghi vấn gì, cao minh hơn các địa vị Phật trong Thông Giáo, Tạng Giáo và Biệt Giáo. Do vậy, có thể nói là “siêu”. Dụng ý của những câu trong lời Tự là nói về mặt Tín Giải, chứ không phải là nói về Hành Chứng. Đây là ý nghĩa thứ nhất, tức là luận định theo đường lối [tu tập] thông thường; còn có một ý nghĩa thứ hai, nghĩa này là nói tới sự thật, chẳng phải giả.
(Diễn) Hựu, việt Tăng kỳ thị thật ngữ.
(演) 又越僧祇是實語。
(Diễn: Lại nữa, vượt thoát A-tăng-kỳ kiếp là nói sự thật).
Lời nói chân thật, ý nghĩa này càng tinh tường, nghiêm mật hơn ý nghĩa trên đây.
(Diễn) Bất tất đản viết giải thuyết.
(演) 不必但曰解說。
(Diễn: Không cần phải nói là [“vượt ba A-tăng-kỳ kiếp”] chỉ được hiểu theo phương diện Giải).
Chẳng cần phải nói chỉ là hiểu theo phương diện Tín – Giải, nói theo phương diện Hành – Chứng vẫn suông.
(Diễn) Dĩ tam kỳ hạnh mãn, phương đắc thành Phật, thử thị Tạng Giáo Quả Đầu Phật.
(演) 以三祇行滿,方得成佛,此是藏教果頭佛。
(Diễn: Bởi lẽ, tu hành trọn đủ ba A-tăng-kỳ kiếp mới được thành Phật là quả vị Phật trong Tạng Giáo).
Tu hành viên mãn ba đại A-tăng-kỳ kiếp sẽ thành Phật, thành vị Phật nào vậy? “Tạng Giáo Quả Đầu Phật”. Theo cách phán giáo của tông Thiên Thai, [có bốn giáo là] Tạng, Thông, Biệt, Viên.
Địa vị tối cao trong Tạng Giáo gọi là Quả Đầu, tức Tạng Giáo Phật. Tạng Giáo Phật vẫn chưa kiến tánh. Tạng Giáo Phật tương đương với địa vị Thất Tín Bồ Tát trong Viên Giáo. So với Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo là bậc đã đắc Lý nhất tâm bất loạn thì [Tạng Giáo Phật] vẫn còn thua một bậc!
(Diễn) Kim kinh thị Viên Đốn giáo.
(演) 今經是圓頓教。
(Diễn: Kinh này thuộc Viên Đốn giáo).
Viên Đốn giáo là thượng thượng thừa, là bậc nhất. Người học pháp môn này là hàng Bồ Tát căn tánh viên đốn. Điều này cũng khiến cho chúng ta hoài nghi: Chính mình chẳng phải là căn tánh viên đốn, suốt ngày từ sáng đến tối lắm phiền não, mê hoặc, điên đảo như thế, mà tôi cũng có thể học pháp môn này ư? Có thể! Chỉ cần quý vị tin vào chính mình, tin tưởng y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do chân tâm của chính mình hiển hiện, duy thức sở biến. Trong pháp môn Niệm Phật, nhất định là trước hết phải hiểu rõ tự tánh Di Đà chính là căn bản tu học của chúng ta, rồi mới nhất tâm xưng danh, cầu nguyện vãng sanh.
Xem ra, mấy câu này quan trọng hơn bất cứ gì khác. Quý vị tin tưởng hai câu này thì quý vị thuộc căn tánh viên đốn, tâm nhẫn nại bỏ ra ba bốn năm công phu, thảo luận cặn kẽ kinh này một lượt, ngõ hầu nghi hoặc, chướng ngại đều chẳng còn nữa. Sau đấy, mỗi tiếng Phật hiệu đều tương ứng với tự tánh Di Đà của chính mình, không ai mà chẳng vãng sanh!
(Diễn) Đản đắc thượng sanh tức đăng Sơ Địa.
(演) 但得上生即登初地。
(Diễn: Chỉ cần được thượng phẩm vãng sanh liền chứng Sơ Địa).
“Sơ Địa” là Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo. “Thượng sanh” là thượng phẩm vãng sanh, địa vị này ngang với Sơ Địa Bồ Tát của Biệt Giáo.
(Diễn) Nhi Quả Đầu Phật thượng dữ Viên Giáo Thất Tín tề.
(演) 而果頭佛上與圓教七信齊。
(Diễn: Nhưng địa vị Phật trong Tạng Giáo bằng với địa vị Thất Tín trong Viên Giáo).
Tạng Giáo Phật chỉ bằng với địa vị Thất Tín Bồ Tát trong Viên Giáo, họ quyết định chẳng đạt đến địa vị Sơ Địa trong Biệt Giáo.
(Diễn) Khởi bất thị việt tăng-kỳ ư nhất niệm?
(演) 豈不是越僧祇於一念。
(Diễn: Há chẳng phải là vượt trỗi ba A-tăng-kỳ kiếp trong một niệm?)
Câu này chẳng nói quá lố. Lấy Tạng Giáo Phật để nói thì do quả vị Phật tu thành sau ba đại A-tăng-kỳ kiếp là Tạng Giáo Phật. Kinh Hoa Nghiêm giảng về Viên Giáo Phật rất rõ ràng: Phải do vô lượng kiếp tu thành, chứ ba đại A-tăng-kỳ kiếp chưa thể tu thành. Do vậy, nếu nói ba đại A-tăng-kỳ kiếp thành Phật thì đích xác là một câu A Di Đà Phật niệm đến mức Lý nhất tâm bất loạn sẽ vượt trỗi hơn. Ở đây, chúng ta kết luận đơn giản: Lý nhất tâm quả thật đã vượt trỗi sự tu hành trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp của Tạng Giáo, họ tốn một thời gian dài như thế, còn chúng ta trong mấy năm đã vượt trội họ. Nói như vậy thì bộ kinh này và Sớ Sao quả thật là bảo điển viên đốn vô thượng trong Đại Thừa, chúng ta cũng chẳng còn hoài nghi thì mới hiểu được giá trị của bộ kinh điển này.
Có nhiều người phát tâm in kinh. In kinh là chuyện tốt đẹp, in kinh là tu đại phước báo. Trong hết thảy các kinh, kinh có giá trị nhất không gì hơn A Di Đà Kinh. Chúng tôi muốn in A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, Tây Phương Công Cứ, lưu thông hai loại này, hy vọng mỗi người có được một cuốn, ai nấy vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Ai yêu thích nghiên cứu Đại Tạng Kinh thì cứ nghiên cứu, chúng ta do hai bộ sách này chắc chắn sẽ Thượng Phẩm Thượng Sanh. Đấy là hoằng dương đại pháp viên đốn, hoằng dương pháp môn bậc nhất, chúng ta thật sự nhận biết giá trị, đề xướng pháp bảo chân thật nhất, pháp môn thù thắng nhất. Chúng ta đã hiểu rõ rồi, hãy nên nỗ lực thực hiện.
Câu “chí tai diệu dụng” là nói tác dụng của bản kinh này mầu nhiệm đến tột cùng. “Chí” (至) là đạt đến chỗ tột cùng.
(Diễn) Diệu dụng hữu nhị.
(演) 妙用有二。
(Diễn: Diệu dụng gồm hai thứ).
Có hai thứ.
(Diễn) Tại Như Lai thuyết kinh, thị lợi sanh chi diệu dụng.
(演) 在如來說經,是利生之妙用。
(Diễn: Như Lai nói kinh là diệu dụng lợi lạc chúng sanh).
Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh suốt cả đời, ta thường nói Ngài giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, đều là diệu dụng lợi ích chúng sanh. Thích Ca Mâu Ni Phật từ trước đến nay chưa hề nghĩ đến mình, khởi tâm động niệm đều nghĩ tới hết thảy chúng sanh. Hy vọng các đồng tu chúng ta từ nay trở đi khởi tâm động niệm đều giống như Phật, hy vọng chúng sanh ai nấy sẽ đều Thượng Phẩm Thượng Sanh ngay trong một đời này, ai nấy sẽ đều thành Phật trong đời này. Dùng cách nào? Trừ pháp môn Niệm Phật ra, không có cách thứ hai nào hết! Chúng ta nỗ lực phát triển theo phương hướng này. Muốn làm cho hết thảy chúng sanh thành tựu ngay trong đời này thì trước hết chúng ta phải thành tựu chính mình, chính mình chưa thể thành tựu sẽ không có cách nào giúp người khác thành tựu được! Nếu chính mình thành tựu thì niệm niệm sẽ vì hết thảy chúng sanh. Do vậy, phổ biến, hoằng dương bộ kinh này là chuyện hết sức cần thiết, còn trọng yếu hơn kinh Hoa Nghiêm nữa. Nói thật thà thì Hoa Nghiêm, Pháp Hoa chẳng thể thành Phật ngay trong một đời, tuy những kinh ấy là Viên Giáo Nhất Thừa, nhưng quý vị đọc rồi sẽ thấy, tuy xét về lý luận thì không sai, nhưng phương pháp quá khó tu, quả thật chẳng dễ thành tựu ngay trong một đời. Còn kinh này thì chỉ sợ quý vị không chịu tu, chứ nếu quý vị chịu tu thì như cổ đức đã nói là “vạn người đi, vạn người đến” chẳng sót một ai. Diệu dụng của Phật đã đạt đến mức cùng cực.
(Diễn) Dĩ tứ tự biến dẫn chúng sanh xuất ư khổ hải, khởi phi chí diệu?
(演) 以四字遍引眾生出於苦海,豈非至妙。
(Diễn: Dùng bốn chữ dẫn khắp chúng sanh thoát khỏi biển khổ, há chẳng phải là mầu nhiệm đến tột bực ư?)
Đức Phật dùng bốn chữ “A Di Đà Phật” giúp hết thảy chúng sanh ai nấy vượt thoát luân hồi lục đạo, ai nấy đều vượt thoát biển khổ sanh tử, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, viên mãn Bồ Đề trong một đời, hết sức mầu nhiệm! Tra khắp Đại Tạng Kinh, không có pháp môn nào khác giống như thế. Pháp môn Niệm Phật quá kỳ diệu, quá lạ lùng, đặc biệt. Do vậy, nó là pháp khó tin. Đây là nói về sự mầu nhiệm do thuyết kinh của đức Phật.
(Diễn) Tại chúng sanh trì danh, thị tự lợi chi diệu dụng, dĩ tứ tự trực sử sơ tâm đăng hồ Trí Địa, hựu khởi phi chí diệu?
(演) 在眾生持名,是自利之妙用。以四字直使初心登乎智地,又豈非至妙。
(Diễn: Chúng sanh trì danh là diệu dụng tự lợi, do bốn chữ mà trực tiếp khiến cho hàng sơ tâm vượt lên Trí Địa, há lại chẳng phải là mầu nhiệm đến tột cùng ư?)
Trí Địa tức là Sơ Địa Bồ Tát. Đức Phật là vị thầy truyền dạy cho chúng ta pháp môn này, tức là bốn chữ. Chúng ta là học trò, tiếp nhận bốn chữ này, trong một đời từ hàng Sơ Phát Tâm bèn chứng đắc Sơ Địa, vượt khỏi ba đại A-tăng-kỳ kiếp, thành tựu ngay trong một đời. Nếu quý vị hỏi: “Tôi nay mới phát tâm, khi nào tôi sẽ niệm đến mức Lý nhất tâm bất loạn? Ước chừng bao lâu tôi mới có thể đạt đến địa vị này?” Chớ nên hỏi tôi câu này! Hỏi tôi cũng vô ích, phải hỏi chính mình! Nếu quý vị thật sự chịu tu, cổ nhân đã nêu gương rồi đó, bảy ngày có thể đạt được, kinh dạy “nhược nhất nhật đáo nhược thất nhật” (từ một ngày cho đến bảy ngày). Nói cách khác, có thể đạt được trong một ngày!
Kinh Địa Tạng có nói: Khi Địa Tạng Bồ Tát tu nhân, làm một cô gái dòng Bà-la-môn, tức là cô Quang Mục, đã cứu mẹ bằng phương pháp nào? Niệm Phật! Nếu quý vị đọc kỹ kinh văn, [sẽ thấy] cô ta niệm đến mức nhất tâm bất loạn, đắc Niệm Phật tam-muội thì mới có tư cách vào địa ngục để thăm dò, xem xét, mới có năng lực ấy. Nếu cô ta chưa thành tựu Niệm Phật tam-muội, sẽ chẳng thể đến được. Kinh nói rất rõ ràng, đến địa ngục chỉ có hai hạng người: Một là Bồ Tát, hai là người có tội nghiệp phải vào đó chịu tội! Nếu chẳng phải là hai hạng người ấy, sẽ không có tư cách vào địa ngục được! Do vậy, cô ta dùng pháp môn Niệm Phật, niệm bao lâu? Một ngày một đêm. Há chẳng phải là như kinh này đã nói “nhược nhất nhật” (trong một ngày) ư? Quý vị có chịu “tử tận thâu tâm” (chết sạch cái lòng mong ngóng so đo, chụp giựt cầu may), “thâu tâm” là vọng niệm. Có thể đoạn sạch hết thảy vọng niệm hay không? Nhất tâm là một câu Phật hiệu, trừ câu Phật hiệu ra, chẳng có vọng niệm nào. Nếu trong một ngày một đêm hai mươi bốn tiếng đồng hồ, từng tiếng Phật hiệu chẳng ngớt, chẳng có vọng niệm nào trong ấy thì sẽ thành công, mà cũng phải chết sạch lòng mong ngóng thì mới làm được!
Do vậy, mẹ cô Bà-la-môn Quang Mục được cứu là vì mẹ cô ta có công đức và có phước: Con gái bà ta có thành tựu là do bà mẹ thúc ép, do mẹ mà cô ta đến địa ngục, cô ta nhất tâm nhất ý muốn cứu mẹ, chẳng có vọng niệm thứ hai nào. Nếu bà mẹ chẳng đọa địa ngục, cô ta cũng chẳng thể thành Địa Tạng Bồ Tát. Vì sao? Cô ta chẳng thể nào chuyên tâm như thế! Ngày nay chúng ta niệm Phật chẳng thể chuyên tâm, tức là có cái tâm mong ngóng, chụp giựt cơ hội, so đo, dựa dẫm, cứ ngỡ khởi vọng niệm chẳng sao cả! Nghe nói niệm Phật trong thời gian tàn một cây hương mà khởi lên năm sáu vọng tưởng thì nói chung phải có công phu [huân tập] trong năm năm, mười năm. Vậy thì trong một tiếng đồng hồ tôi khởi lên hai ba chục vọng tưởng chẳng phải là rất bình thường ư? Không đúng! Chúng ta niệm Phật với cái tâm không chân thật, thiết tha, chẳng có ai ép chúng ta. Nếu cha mẹ của chính mình đọa trong địa ngục A Tỳ thì khi quý vị vừa biết, muốn cứu họ, ý niệm gì cũng không có, nhất tâm nhất ý niệm Phật, vẫn phải là đứa con thật sự có hiếu thì mới được!
Do vậy, từ một ngày cho đến bảy ngày có thể thành công thì còn có pháp môn nào khác nhanh chóng hơn pháp này hay chăng? Thiền chẳng thể thành tựu trong bảy ngày! Mật cũng chẳng thể thành tựu trong bảy ngày. Khuy Cơ đại sư tán thán pháp môn này là đại pháp viên đốn. Ngài là tổ sư khai sơn của tông Duy Thức mà tán thán kinh Di Dà như vậy, còn gì để nói nữa đây! Ở đây, chúng ta đang nói tới công phu thượng thừa; công phu bậc trung thì là Sự nhất tâm bất loạn, công phu bậc hạ là công phu thành phiến đới nghiệp vãng sanh. Người tu học pháp môn Niệm Phật phát tâm phải thù thắng, to lớn, cổ nhân thường nói “thủ pháp hồ thượng, cẩn đắc hồ trung” (chọn lấy pháp bậc thượng, chỉ đạt được bậc trung). Chúng ta phát tâm một lòng một dạ muốn thành tựu Lý nhất tâm bất loạn, chưa đạt được Lý nhất tâm bất loạn mà có thể đắc Sự nhất tâm bất loạn thì vẫn coi như là khá lắm. Nếu quý vị phát tâm rất nhỏ, chí hướng quá kém hèn, “tôi hạ phẩm hạ sanh là được rồi”, hạ mục tiêu xuống còn hạ phẩm hạ sanh, có thể sẽ chẳng được vãng sanh! Hạ phẩm hạ sanh mà chẳng đạt tiêu chuẩn thì sẽ bị đào thải. Do vậy, nhất định phải phát tâm cầu thượng phẩm, nhất định phải nghiên cứu đạo lý trong kinh, phải hiểu bộ kinh này quả thật là trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ. Trong một đời này, chúng ta có cơ duyên gặp được, đây là chuyện thành Phật trong một đời, một đời vượt thoát luân hồi, liễu sanh tử, xuất tam giới, trong thế gian còn có chuyện nào quan trọng hơn chuyện này? Chúng ta phải nhận thức, hiểu rõ điều này!
(Sớ) Thượng ngôn linh minh trạm tịch chi Thể, bổn vô thanh, trược, hướng, bối, tất cánh bình đẳng, duy thị nhất tâm.
(疏) 上言靈明湛寂之體,本無清濁向背,畢竟平等,唯是一心。
(Sớ: Trong phần trước đã nói tới cái Thể linh minh trạm tịch, vốn chẳng có trong, đục, hướng về, trái nghịch, rốt ráo bình đẳng, chỉ là nhất tâm).
“Thượng” là trong đoạn văn ở phần trên đã nói tới “linh minh trạm tịch”, đấy là bản thể của tự tánh chúng ta. Trong bản thể, không có “thanh, trược, hướng, bối”. Nói cách khác, trong bản thể chẳng lập một pháp. Lục Tổ nói: “Vốn chẳng có một vật”, đâu còn có “thanh, trược, hướng, bối?” Ở đây, bốn chữ này tượng trưng cho các pháp đối đãi, tương đối. Trong Chân Như bổn tánh không có tương đối. Đã không có tương đối mà cũng chẳng có tuyệt đối, vì tuyệt đối và tương đối lại biến thành tương đối! Do vậy, ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh xứ diệt. Cảnh giới ấy rốt ráo bình đẳng!
Câu quan trọng nhất ở đây là “rốt ráo bình đẳng”. Chúng ta là người tu pháp môn Niệm Phật, nếu dùng tâm bình đẳng niệm Phật, nếu dùng tâm bình đẳng để đãi người, tiếp vật thì sẽ tương ứng với nhất tâm bất loạn. Đây là nguyên tắc, nguyên lý hết sức quan trọng! Chúng ta niệm Phật, chưa đạt đến nhất tâm bất loạn, ngay cả công phu thành phiến cũng chưa thành tựu là do nguyên nhân nào? Từ trước đến nay, chúng ta chẳng chịu sử dụng nhất tâm, chẳng chịu dùng tâm bình đẳng, đối với bất luận cảnh giới nào đều luôn dùng cái tâm phân biệt, tâm chấp trước, còn có cách gì nữa đây? Phân biệt, vọng tưởng, chấp trước là không được rồi! Đấy chính là ma chướng đối với nhất tâm bất loạn. Ma chướng chẳng phải do ngoại cảnh, mà là trong sự phân biệt, chấp trước, vọng tưởng của chính chúng ta. Khi nào trong hết thảy cảnh giới, chúng ta sử dụng chân tâm, một mực bình đẳng, nhất tâm bất loạn sẽ thành tựu dễ dàng, rất nhanh chóng thành tựu. Giác tâm là bình đẳng tâm, chẳng bình đẳng là mê hoặc. Mê rồi sẽ chẳng bình đẳng. Giác ngộ sẽ bình đẳng. Công án “hồng lô điểm tuyết” (lò rực lửa dính tuyết) của Thiền Tông đã hiển thị sự bình đẳng, một vị bình đẳng.
Nhìn vào gương tu hành thì trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tu pháp môn Tịnh Độ, niệm A Di Đà Phật. Ngài dùng pháp môn Niệm Phật niệm đến Lý nhất tâm bất loạn rồi mới đi tham học. Năm mươi ba lần tham học thấy các nhân vật đủ mọi hạng người, nghe các thứ pháp môn khác nhau, trong cảnh giới ấy, Ngài dùng công phu nào, chúng ta nhất định phải hiểu rõ. Ngài “nghe mà không nghe, thấy mà không thấy”. Thấy hết thảy nhân vật, nghe hết thảy pháp môn, tăng trưởng trí huệ, trong hết thảy cảnh giới Ngài như như bất động, vẫn là thật thà niệm A Di Đà Phật, hoàn toàn chẳng thay đổi. Đấy là tăng trưởng nhất tâm, tăng trưởng Thiền Định, học Định và Huệ quân bình, chẳng tiếp xúc dị đoan, chẳng thấy chính mình có công phu. Khi tiếp xúc dị đoan, công phu của chính mình bèn hiện tiền, chẳng động tâm bởi học thuyết dị đoan, nhất tâm bất loạn thành tựu. Lại còn có thể liễu giải hết thảy dị đoan, trí huệ thành tựu, biết chúng sanh phiền não như thế nào, tà kiến như thế nào, thảy đều hiểu rõ thì giáo hóa chúng sanh mới khế cơ! Như như bất động là Khế Lý, hiểu rõ hết thảy là Khế Cơ. Năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử hiển thị công phu như vậy, đấy là công phu niệm Phật, thành tựu trong đời này, chúng ta phải nên học theo. Nhất là trong xã hội mở rộng hiện thời, tư tưởng, ngôn luận tự do, không có cách nào ngăn cấm. Nếu quý vị chẳng học theo Thiện Tài đồng tử, chẳng học một chiêu ấy, sẽ chẳng có cách nào thành tựu! Nếu quý vị hiểu những đạo lý, bí quyết trong pháp môn Niệm Phật, biết được phương thức cao minh của Thiện Tài đồng tử, chắc chắn sẽ thành tựu Lý nhất tâm bất loạn trong một đời. Dẫu chưa đắc Lý nhất tâm bất loạn, cũng sẽ có thể ổn thỏa thích đáng thành tựu Sự nhất tâm bất loạn. Chúng ta phải học những điều này từ kinh điển.
(Diễn) Tất cánh bình đẳng giả.
(演) 畢竟平等者。
(Diễn: Rốt ráo bình đẳng là…)
“Tất cánh bình đẳng, duy thị nhất tâm” (Rốt ráo bình đẳng, chỉ là nhất tâm): Chẳng tách rời hai câu này trong bất cứ thời khắc nào! Cổ nhân nói: “Đạo dã giả, bất khả tu du ly dã” (Đạo là chẳng thể rời trong khoảnh khắc). Niệm niệm đều chẳng lìa, đây chính là điều tôn giả Tu Bồ Đề muốn hỏi Phật trong kinh Kim Cang. Hai câu hỏi lớn của Ngài là: “Ưng vân hà trụ? Vân hà hàng phục kỳ tâm?” (Nên trụ như thế nào? Nên hàng phục cái tâm như thế nào?) Chúng ta phải trụ cái tâm ra sao? Trụ ở nơi đâu? Câu trả lời cho hai câu này là “rốt ráo bình đẳng, chỉ là nhất tâm”. Cái tâm này của chúng ta phải an trụ tại nơi đó. Dùng ngay hai câu này để chú giải kinh Kim Cang sẽ hiểu rõ rất dễ dàng! Hàng phục cái tâm như thế nào? Cuối kinh Kim Cang có hai câu hết sức quan trọng: “Bất thủ ư tướng, như như bất động” (Chẳng chấp lấy tướng, như như bất động) thì mới có thể hàng phục cái tâm. Câu nói “ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (đừng trụ vào đâu để sanh tâm) khiến Lục Tổ đại sư khai ngộ, cũng có ý nghĩa giống với hai câu trên đây. Bình đẳng là vô sở trụ, có chỗ trụ sẽ chẳng bình đẳng. Có chỗ trụ là nhị tâm, tức là “tam tâm, nhị ý”.
(Diễn) Luận vân: “Nhất thiết chư pháp, tùng bổn dĩ lai, ly chư danh tướng, tất cánh bình đẳng, duy thị nhất tâm”.
(演) 論云:一切諸法,從本以來離諸名相,畢竟平等,唯是一心。
(Diễn: Luận chép: “Hết thảy các pháp, xét từ gốc thì chúng lìa khỏi các danh tướng, rốt ráo bình đẳng, chỉ là nhất tâm”).
Chữ “luận” chỉ Đại Thừa Khởi Tín Luận. [Trong luận ấy], Mã Minh Bồ Tát đã bảo: “Hết thảy các pháp”, bao gồm Sắc pháp và Tâm pháp, “tùng bổn dĩ lai” là nói theo phương diện bản thể, quán sát theo phương diện thể tánh thì thể tánh chẳng có tướng danh tự. Do vậy, hết thảy các pháp bình đẳng. Cũng có các vị nêu nghi vấn: “Chân đèn và tượng Phật khác nhau, làm sao bình đẳng được? Chúng ta hoạt động và bàn, ghế dựa, ghế dài [bất động], làm sao bình đẳng được?” Đúng vậy! Không bình đẳng. Nhìn từ đâu mà thấy không bình đẳng? Quý vị khởi tâm động niệm nơi tướng, cho nên không bình đẳng. Bình đẳng ở đây là nói tới cái tâm quý vị bình đẳng, chứ không phải nói tới sự bình đẳng nơi hình tướng bên ngoài. Nếu quý vị hiểu ý nghĩa này, tâm quý vị sẽ rốt ráo bình đẳng nơi cảnh giới, không phải là nói sự bình đẳng nơi tướng. Về tướng, thì năm đầu ngón tay duỗi ra dài ngắn không đều, làm sao bình đẳng được? Nếu trong cảnh giới, tâm quý vị chẳng nhiễm đắm hết thảy, tâm bình đẳng, sẽ thấy tướng bên ngoài cũng thanh tịnh. Vì sao thanh tịnh? Tướng chẳng nhiễm ô tâm, bình đẳng là nói theo cách này.
Hết thảy các tướng đều là giả danh lập ra, chẳng chân thật. Hết thảy sắc tướng là Y Tha Khởi Tánh, tướng danh tự là Biến Kế Sở Chấp Tánh[50], đều chẳng có tự tánh, chẳng có tự thể! Do vậy, hết thảy tướng quả thật là bình đẳng. Hết thảy tướng ấy, nhìn từ Thể thì chẳng những Tánh Thể là bình đẳng, mà thể chất cũng bình đẳng. Sâm la vạn tượng theo sự quan sát của các nhà khoa học đều do các lạp tử cơ bản (elementary particles)[51] hợp thành. Con mắt của các nhà khoa học thấy sâm la vạn tượng đều là các lạp tử cơ bản, [như vậy, nhìn từ quan điểm vật chất đều do các lạp tử cơ bản kết hợp thành thì] tướng cũng bình đẳng, nhưng [tướng bình đẳng ấy] vẫn chưa phải là rốt ráo bình đẳng đang được nói tới ở đây. Rốt ráo bình đẳng phải quan sát từ thể tánh, nó là gì vậy? “Duy thị nhất tâm” (chỉ là nhất tâm). Tận hư không, trọn pháp giới chỉ là nhất tâm. Do vậy, nếu tâm của quý vị đã nhất, nếu tâm quý vị đã bình đẳng thì sẽ nhập Nhất Chân pháp giới, chứ không phải mười pháp giới. “Nhất Chân pháp giới” là tên gọi bất đắc dĩ, bậc Địa Thượng Bồ Tát đăng địa trụ trong Nhất Chân pháp giới. Do vậy, nói theo phương diện Tánh Thể hay nói theo phương diện thể chất thì tuyệt đối bình đẳng, nhưng luận theo phương diện huyễn tướng, chúng chẳng bình đẳng. Huyễn tướng là huyễn, chẳng thật, giả đấy! Đừng bị giả tướng mê hoặc, người học Phật phải nghiêm túc đừng nhận lầm cái giả thì mới được!
Vì sao nói hết thảy các pháp chỉ là nhất tâm? Kinh Hoa Nghiêm nói rất hay: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Nên quán tánh pháp giới, hết thảy chỉ do tâm tạo). Tánh là bản thể; quán sát theo phương diện Lý Thể có khả năng hiện ra hết thảy pháp, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới thì nó là nhất tâm. Nhất tâm là Chân Như bổn tánh. Tâm có thể hiện tướng, Thức có thể biến hóa. “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Tâm là chân tâm, thức là vọng tâm. Chân tâm có thể hiện, vọng tâm có thể biến. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do vọng tâm biến ra. Hai câu này đã nói lên toàn bộ Phật pháp của hết thảy chư Phật. Tam Tạng kinh điển là chú giải của hai câu này. Nếu chúng ta thật sự thấu hiểu, thông đạt hai câu này, tâm đương nhiên thanh tịnh, trong hết thảy pháp sẽ chẳng còn khởi tâm động niệm nữa, vì sao? Hết thảy đều do tâm của chính mình hiện ra, đều là do cái tâm của chính mình biến hóa!
(Diễn) Kim Tịch Chiếu chi Thể, vô hữu thanh, trược, hướng, bối, chánh thị đẳng đồng nhất vị, duy nhất Chân Như, cố vân “tất cánh bình đẳng, duy thị nhất tâm” dã.
(演) 今寂照之體,無有清濁向背,正是等同一味,唯一真如,故云畢竟平等,唯是一心也。
(Diễn: Nay cái Thể vừa Tịch vừa Chiếu, chẳng có trong, đục, hướng về, trái nghịch, đúng là bình đẳng, có cùng một vị, là Chân Như duy nhất, nên nói: “Rốt ráo bình đẳng, chỉ là nhất tâm”).
“Tịch Chiếu chi Thể” chính là bổn tánh của chúng ta. Nói theo kinh này, nó chính là nhất tâm của chúng ta, nhất tâm là chân tâm. Nay chúng ta nói “tu tập nhất tâm bất loạn”, tức là khôi phục chân tâm của chính mình. Trong chân tâm không có thanh, không có trược, không có hướng, không có bối. Do vậy chân tâm là nhất vị, nhất như. Trong hai chữ Chân Như thì Chân là nói theo thể tánh, nói theo Thể; Như là nói theo Tướng. Hoặc Chân là nói theo Lý, Như là nói theo Sự. Tánh giống như Tướng, Tướng giống như Tánh. Lý giống như Sự, Sự giống như Lý, Tánh – Tướng không hai, Lý – Sự như một, thì gọi là Chân Như. Do vậy,
Tánh và Tướng bình đẳng, Tánh hiện, Thức biến, do vậy, nó “chỉ là nhất tâm”. Lý này khá sâu, chúng ta phải chú tâm thấu hiểu. Nay đã hết giờ rồi!
— o0o —
Tập 17
Xin đọc A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, trang mười tám:
(Sớ) Kim vị ước Sanh Diệt môn, dĩ bất như thật tri Chân Như pháp nhất cố, bất giác tâm khởi nhi hữu kỳ niệm, tắc vô minh sở phú, thất bổn lưu mạt, hỗn loạn chân thể, cố danh viết Trược. Như trừng nê sa, phục sử tịnh khiết, tư chi vị thanh, tức chỉ chuyển Ngũ Trược nhi thành Thanh Thái dã.
(疏) 今謂約生滅門,以不如實知真如法一故,不覺心起而有其念,則無明所覆,失本流末,渾亂真體,故名曰濁。如澄泥沙,復使淨潔,斯之謂清,即指轉五濁而成清泰也。
(Sớ: Nay ước theo Sanh Diệt môn thì do chẳng như thật biết “trong Chân Như, các pháp là một”, tâm bất giác dấy lên ý niệm, liền bị vô minh che lấp, đánh mất gốc, chạy theo ngọn, hỗn loạn chân thể, nên gọi là Trược. Như lắng bùn cát, khiến cho [nước] trong sạch trở lại, đó gọi là Thanh, tức là chuyển Ngũ Trược thành cõi Thanh Thái).
Đối với những đồng tu nghiên cứu Phật học chúng ta mà nói thì đoạn kinh văn này hết sức trọng yếu. Có nhiều vị đồng tu hỏi: “Vô minh do đâu mà có? Vì sao có vô minh?” Ở đây, Liên Trì đại sư đã bảo cho chúng ta biết chuyện này, nhưng đoạn kinh văn này có ý nghĩa khá sâu, nhất định phải rất chú tâm lãnh hội. Quá nửa lời chú giải trích dẫn những câu văn từ Đại Thừa Khởi Tín Luận để giải thích.
“Ước Sanh Diệt môn, dĩ bất như thật tri Chân Như pháp nhất cố” (Ước theo Sanh Diệt môn thì do chẳng như thật biết: Trong Chân Như, các pháp là một): Đây là nói cho chúng ta biết nguyên nhân vì sao vô minh khởi lên. Xin hãy xem phần chú giải:
(Diễn) Ước Sanh Diệt môn giả.
(演) 約生滅門者。
(Diễn: Ước theo Sanh Diệt môn thì…)
Nhìn từ phía Sanh Diệt môn.
(Diễn) Thượng Minh Tánh nhất khoa, thị ước Chân Như môn thuyết.
(演) 上明性一科,是約真如門說。
(Diễn: Khoa mục Minh Tánh (giảng rõ Tánh) trong phần trước là dựa theo Chân Như môn để nói).
Đoạn lớn Minh Tánh trong phần trước là căn cứ trên Chân Như môn để nói. Trong Chân Như môn, hoàn toàn nói tánh thể của bổn tánh là bất sanh bất diệt, đó là nói theo phương diện Pháp Tánh; còn nói theo Sanh Diệt môn, tức là luận theo Pháp Tướng thì Tướng có sanh diệt, Tánh bất sanh bất diệt.
(Diễn) Kim tán kinh, thị ước Sanh Diệt môn thuyết dã.
(演) 今讚經,是約生滅門說也。
(Diễn: Nay phần khen ngợi kinh này bèn ước theo Sanh Diệt môn để nói).
Nay chúng ta tán thán bộ kinh này. Đây là đoạn lớn thứ hai trong lời Tựa. Lời Tựa có tất cả năm đoạn, [phần Tán Kinh] là đoạn thứ hai. Phần Tán Kinh dựa trên Sanh Diệt Môn để nói.
(Diễn) Luận vân.
(演) 論云。
(Diễn: Khởi Tín Luận chép).
“Luận” ở đây là Khởi Tín Luận.
(Diễn) Y nhất tâm pháp hữu nhị chủng môn.
(演) 依一心法有二種門。
(Diễn: Pháp được kiến lập trên nhất tâm có hai môn).
Hai môn được kiến lập trong nhất tâm, quyết chẳng phải là hai cái tâm, mà là trong nhất tâm có hai môn.
(Diễn) Nhất giả, tâm Chân Như môn, nhị giả, tâm Sanh Diệt môn.
(演) 一者心真如門,二者心生滅門。
(Diễn: Một là tâm Chân Như môn, hai là tâm Sanh Diệt môn).
Một đằng là nói theo phương diện Lý Thể của chân tâm, một đằng là nói theo phương diện tác dụng của chân tâm, có thể thấy: Vẫn là nói về cùng một chuyện! Nói theo tâm thể (bản thể của cái tâm) thì là Chân Như môn; nói theo phương diện tác dụng của cái tâm thì là Sanh Diệt môn. Do vậy, Sanh Diệt và Chân Như là một, không phải hai, tức là Thể và Dụng là một, không hai. Hiểu được mối quan hệ giữa Thể và Dụng, quý vị sẽ hiểu được ý nghĩa “một tâm hai môn”.
(Diễn) Tâm Chân Như giả, tức thị nhất pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể.
(演) 心真如者,即是一法界大總相法門體。
(Diễn: Tâm Chân Như chính là Thể của pháp môn đại tổng tướng Nhất Chân pháp giới).
Bài giảng thứ nhất trong Phật Học Thập Tứ Giảng được mở đầu bằng câu: “Nhất Thiết Trí, tri pháp tổng tướng” (Nhất Thiết Trí biết tổng tướng của các pháp). “Tổng tướng” là dựa trên Thể để nói, tổng tướng là Không tướng, như thường nói: “Vạn pháp đều không”. Không chẳng phải là Vô, Không là Có. Lũ phàm phu chúng ta sợ Không nhất, cho rằng đã là Không thì sẽ chẳng được gì cả, hết sức kinh sợ, hoảng hốt! Phàm phu chấp Có, do chấp Có nên có phiền não, sanh tử, luân hồi, phiền phức to lớn. Nếu quý vị thật sự liễu giải Không, phiền não sẽ chẳng còn nữa. Phiền não đã Không, thì sanh tử cũng Không, luân hồi cũng Không, quý vị chứng được Pháp Thân, Bát Nhã và đại tự tại (giải thoát). Lợi ích công đức của Không thù thắng, quả thật chẳng có cách nào hình dung được. Phàm phu sợ Không, người học Phật chẳng sợ Không; do Không nên mới có thể kiến tánh, mới có thể tương ứng với Nhất Chân pháp giới, đấy là tương ứng với bản thể của pháp môn. Đây là dựa trên Chân Như bổn tánh để nói.
Hai chữ Chân Như mầu nhiệm tột bậc! “Chân”: Chẳng những nói Tánh là chân, mà Tướng cũng chân, một thứ chân, hết thảy đều chân. Ngộ rồi thì quả thật là cảnh giới này, chẳng có một pháp nào không chân, đó gọi là “Thật Tướng của các pháp”, Thật là tướng chân thật. Thế nhưng một thứ đã mê rồi thì hết thảy đều mê. Mê rồi, tìm một thứ chân cũng chẳng thể được, vì sao? Hoàn toàn bị mê tình che lấp, tìm chẳng được pháp chân thật. Nếu quý vị chú tâm thấu hiểu ý nghĩa của “Như” thì như trong bộ Pháp Hoa Kinh Văn Cú, Trí Giả đại sư đã dùng ba phương pháp để đọc từ ngữ “thập như thị”, biến nó thành ba mươi câu, lại từ ba mươi câu này diễn biến thành “bách giới, thiên như”. Đấy chính là thấy hết thảy pháp, không một pháp nào chẳng Như. “Pháp” là Pháp Tướng. Pháp Tướng giống như Pháp Tánh, Pháp Tánh giống như Pháp Tướng. Nói cách khác, Pháp Tánh chính là Pháp Tướng, Pháp Tướng chính là Pháp Tánh. Tánh – Tướng bất nhị, Tánh là chân, mà Tướng cũng là chân; do vậy gọi là Chân Như. Đây chính là như kinh Bát Nhã thường nói “chư pháp Thật Tướng” (Thật Tướng của các pháp).
Theo kinh Di Đà, cảnh giới tu hành gồm ba phẩm Thượng, Trung, Hạ, giống như thành tích học tập có ba bậc Thượng, Trung, Hạ. Thành tích bậc nhất là cao nhất: Lý nhất tâm bất loạn sẽ thấy Chân Như, thấy được [Chân Như trong] cảnh giới này. Thành tích bậc nhì là Sự nhất tâm bất loạn, cảnh giới này chưa thấy được Chân Như. Thành tích bậc ba đương nhiên chẳng thấy được Chân Như, đấy chính là công phu thành phiến. Tuy vậy, quý vị phải hiểu: Bậc ba đã được coi là thi đậu, chắc chắn được vãng sanh. Sau khi đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ lại dần dần nâng cao cảnh giới, mục tiêu cuối cùng nhất định là chứng đắc Chân Như, chứng đắc Thật Tướng, ở trong Tịnh Độ gọi là Thật Báo Trang Nghiêm Độ, Lý nhất tâm bất loạn thì mới có thể chứng được!
(Diễn) Tâm sanh diệt giả.
(演) 心生滅者。
(Diễn: Tâm sanh diệt là…)
“Tâm sanh diệt” là cảnh giới hiện tại của chúng ta, ý nghĩa này khá dễ hiểu. “Tâm Chân Như” chẳng phải là cảnh giới hiện tại của chúng ta. Trong tâm chúng ta, ý niệm này sanh, ý niệm khác diệt, trong một ngày chẳng biết khởi lên bao nhiêu vọng tưởng. Đấy là “tâm Sanh Diệt môn”. Tâm sanh diệt là tác dụng của chân tâm, trong ấy có mê và ngộ. Hễ ngộ thì gọi là Như Lai Tạng, mê thì gọi là A Lại Da. Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: A Lại Da và Như Lai Tạng là cùng một chuyện. Vì sao gọi là Như Lai Tạng? Như Lai được cất giữ trong ấy. Tâm sanh diệt có thể nói là chân và vọng hòa hợp, vừa có chân, vừa có vọng. Ngộ thì nó là chân, mê thì nó là vọng. Chẳng thể nói một nửa này là chân, nửa kia là vọng, [nếu hiểu như vậy] là sai rồi! Ngộ thì gọi là Như Lai Tạng, mê thì gọi là A Lại Da.
(Diễn) Y Như Lai Tạng cố hữu sanh diệt tâm, sở vị: Bất sanh bất diệt dữ sanh diệt hòa hợp, phi nhất, phi dị, danh vi A Lê Da thức vân vân. Thử tức Sanh Diệt môn dã.
(演) 依如來藏故有生滅心,所謂不生不滅與生滅和合,非一非異,名為阿黎耶識云云。此即生滅門也。
(Diễn: Nương vào Như Lai Tạng nên có tâm sanh diệt, nghĩa là: Bất sanh bất diệt và sanh diệt hòa hợp, chẳng phải một, chẳng phải khác, gọi là A Lê Da thức v.v… Đây chính là môn Sanh Diệt vậy).
A Lê Da thức chính là A Lại Da thức (Ālayavijñāna). Tông chỉ học Phật là phá mê khai ngộ. Gọi là phàm phu vì mê mất Như Lai Tạng, trong tâm sanh diệt mê mất Như Lai Tạng. Hễ một thứ mê, hết thảy đều mê, chẳng thể thấy được chân tướng của vũ trụ nhân sinh, mê mất rồi!
(Diễn) Dĩ bất như thật tri.
(演) 以不如實知。
(Diễn: Do chẳng biết đúng như thật).
Chẳng thể giống như chư Phật và các vị đại Bồ Tát thật sự liễu giải “Chân Như pháp nhất cố” (trong Chân Như, các pháp là một). Do vậy, kinh Hoa Nghiêm gọi [cảnh giới ấy] là Nhất Chân pháp giới, toàn thể pháp giới là một, chứ không phải hai. Vì thế, nói theo Chân Như môn, nó là bản thể của pháp môn đại tổng tướng Nhất Chân pháp giới. Khi tâm sanh diệt thì là tác dụng của pháp môn đại tổng tướng Nhất Chân pháp giới. Tác dụng của chư Phật, Bồ Tát là đại tự tại, giống như kinh Hoa Nghiêm đã nói “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”. Tác dụng của các Ngài là cảnh giới vô ngại, giải thoát thật sự, tự tại thật sự. Thế nhưng sau khi đã mê, chúng ta hứng chịu quả báo là hết thảy các nỗi khổ bất bình đẳng, thiếu tự do trong hiện tại, phiền phức rất lớn! Chúng ta khởi tâm động niệm, hết thảy tạo tác đều là nhân của các nỗi khổ, tạo thành những trói buộc, tạo ra nghiệp phân biệt. Mê rồi mới làm ra những chuyện ấy, mới có sanh tử luân hồi không dứt trong lục đạo.
(Diễn) Bất giác hữu kỳ niệm giả.
(演) 不覺有其念者。
(Diễn: Bất giác có ý niệm là…)
“Bất giác tâm khởi nhi hữu kỳ niệm” (Tâm bất giác dấy lên bèn có ý niệm): Tâm bất giác là tâm mê hoặc, là vô minh. Đấy gọi là “vô minh bất giác sanh tam tế”. Vô minh đứng đầu trong ba tướng Tế.
(Diễn) Luận vân: “A Lê Da thức hữu nhị chủng nghĩa, nhất giả giác nghĩa, nhị giả bất giác nghĩa”.
(演) 論云 :阿黎耶識有二種義 ,一者覺義,二者不覺義。
(Diễn: Khởi Tín Luận viết: “A Lê Da thức có hai nghĩa: Một là nghĩa giác, hai là nghĩa bất giác”).
Chúng ta tu hành phải nương vào nghĩa Giác, phải tách lìa nghĩa Bất Giác. Có thể nói là Quyền Giáo Nhị Thừa, ngoại đạo, phàm phu đều dùng nghĩa Bất Giác trong A Lê Da thức (A Lại Da thức); do vậy, mê hoặc, điên đảo, đúng như kinh Địa Tạng đã nói: “Khởi tâm động niệm vô bất thị nghiệp” (Khởi tâm động niệm không gì chẳng phải là nghiệp), bởi lẽ, họ khởi tâm động niệm đều dựa theo cái tâm Bất Giác.
Tiếp theo đó, sách Diễn Nghĩa chú giải thế nào là Giác và Bất Giác, nhất định phải hiểu rõ ràng, đây là chỗ để chúng ta tu học.
(Diễn) Sở ngôn giác nghĩa giả, vị tâm thể ly niệm.
(演) 所言覺義者,謂心體離念。
(Diễn: Nghĩa giác như vừa mới nói [trong câu trên] chính là: Tâm thể ly niệm).
Bốn chữ này phải nhớ thật kỹ. Giác là gì? “Tâm thể ly niệm” là giác. Hiện thời, phiền phức nhất là chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối khởi lên ý niệm, chẳng thể tách rời ý niệm. Nói cách khác, có ý niệm là chẳng giác.
Chẳng giác nên mới khởi niệm! Giác rồi sẽ không còn ý niệm nữa. Ý niệm càng nhiều thì quý vị mê càng sâu. Khi nào không còn ý niệm nữa thì là giác. Đấy chính là tướng trạng biến hiện của giác và mê, chúng ta nhất định phải nhận biết. Tướng trạng của giác là trong tâm không có ý niệm, tướng trạng của mê là có ý niệm; bất giác sẽ có niệm, còn giác bèn không có ý niệm. Khi giác thì…
(Diễn) Tức thị Như Lai bình đẳng Pháp Thân.
(演) 即是如來平等法身。
(Diễn: Chính là Pháp Thân bình đẳng của Như Lai).
“Tâm thể ly niệm” thì quý vị chứng đắc Pháp Thân thanh tịnh. Chứng một thứ, hết thảy đều chứng. Đã chứng được Pháp Thân thanh tịnh thì đương nhiên Báo Thân viên mãn liền hiện tiền. Báo Thân viên mãn do trí huệ thành tựu, Giác là trí huệ, trí huệ hiện tiền. Giác khởi tác dụng là ngàn trăm ức Hóa Thân. Chỉ cần quý vị có thể thật sự làm được “tâm thể ly niệm” thì sẽ chứng trọn ba thân. Phật và phàm phu khác nhau ở chỗ này. Do vậy, hễ suốt ngày từ sáng đến tối khởi tâm động niệm, khởi vọng tưởng thì chẳng phải là chuyện tốt đẹp!
Vì thế, học Phật, tôi nhắc lại lần nữa, Phật pháp chẳng phải là học thuật thế gian. Nói cách khác, dùng phương pháp của học vấn thế gian để học Phật pháp là hỏng rồi! Phương pháp được áp dụng trong học vấn thế gian đều là bất giác, có ý niệm; quý vị áp dụng phương pháp ấy để học Phật pháp thì làm sao vào cửa Phật cho được? Cổ đức nói rất hay, trong buổi giảng chúng tôi nhắc lại một lần nữa, hy vọng mọi người hãy nhớ kỹ và lại còn biết áp dụng: Nghe kinh phải “tiêu quy tự tánh”. Tiêu quy tự tánh là tâm thể ly niệm, trở về với tự tánh. Do tự tánh không có ý niệm, nghe từng câu rõ ràng, rành mạch, trọn chẳng có một tí phân biệt, chấp trước, vọng tưởng thì mới gọi là “tiêu quy tự tánh”. Nếu quý vị nghe xong, điều gì cũng ghim chặt trong lòng, đấy là bất giác, có ý niệm, sẽ biến thành pháp thế gian, nhất quyết chớ nên như vậy! Học Phật kiểu đó thì trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp cũng chẳng thể thành tựu, mà vẫn là phàm phu.
Giống như kinh Kim Cang đã nói, đại chúng tham dự pháp hội giảng kinh này, mỗi một vị đều là thiện căn sâu dầy, trong đời quá khứ đều đã thân cận vô lượng vô biên chư Phật Như Lai. Thân cận chư Phật Như Lai nhiều như thế mà nay vẫn là phàm phu, vẫn một mực hồ đồ là do nguyên nhân nào? Là vì quý vị chẳng biết tiêu quy tự tánh, hoàn toàn ghi nhớ ngôn ngữ, ghi nhớ văn tự, chấp vào tướng ngôn thuyết, tướng danh tự, khởi tâm động niệm chấp vào tướng tâm duyên, chẳng lìa niệm. Do vậy, chẳng thể thành tựu. Nay đã thật sự hiểu rõ căn bệnh này, đau đáu sửa đổi lỗi trước, đó là “cải tà, quy chánh”. Tà là gì? Hữu niệm! Bất giác có ý niệm, đấy là căn cội to lớn của hết thảy tà tri kiến. Chúng ta tu hành phải tu từ căn bản, trị bệnh phải trị từ căn bản, phải dốc sức từ chỗ này.
Có đồng tu bảo tôi: Trong khoảng thời gian này, kinh này được giảng rất sâu, nghe không hiểu! Dẫu nghe hiểu cũng không thể áp dụng vào cuộc sống thường nhật được! Áp dụng không được cũng phải nghe, vẫn phải tích cực nghe, không nghe không được! Nghe nhiều là huân tập, nghe lâu sẽ biết dùng. Bản thân tôi cũng đã từng trải qua chuyện này. So ra, lúc tôi mới học còn gian nan hơn quý vị. Khi ấy, những thứ thầy giảng cho tôi không được rõ ràng như tôi giảng [hiện thời], nhất định phải thấu hiểu, phải có lòng nhẫn nại! Thưa quý vị, tôi nhập cảnh giới này, gần như là học Phật hai mươi năm mới nhập cảnh giới này. Dùi mài nhiều năm như thế, không bỏ, không buông lung ngày nào. Lúc mới đầu nghe kinh, thầy cũng thường nói “tiêu quy tự tánh”, “chuyển Thức thành Trí”, tôi cũng nói được, nhưng chẳng biết cách “tiêu quy” như thế nào, cũng chẳng biết cách chuyển ra sao, đâm ra chỉ biết nói như vậy mà thôi, sau đấy mới dần dần hiểu được đôi chút.
Tôi thưa cùng quý vị, nếu thật sự muốn thấu hiểu, tiến nhập vài phần, mà nếu chỉ ngồi nghe dưới giảng đài sẽ rất khó, sợ rằng hai mươi năm cũng chả có tin tức gì. Tôi dâng lên quý vị một phương pháp: Quý vị phải lên đài giảng, giảng hằng ngày. Dẫu chẳng thể giảng hằng ngày, một tuần cũng phải giảng ba bốn lượt. Giảng được hai mươi năm chắc chắn sẽ có tin tức. Đấy là kinh nghiệm của bản thân tôi. Do vậy, tôi cảm thấy học sinh học ở trên bục giảng, chứ không phải học ở dưới bục giảng. Dưới bục giảng đều là thầy giáo, đều là thiện tri thức. Học sinh ở trên bục giảng, chẳng phải là giảng kinh, mà là hằng ngày báo cáo những điều tâm đắc. Nói cách khác, mỗi ngày đều có đông đảo giáo viên như vậy đốc thúc, giám sát, nhắc nhở quý vị thì mới có thể thành công. Một hai vị thầy thì tầm mắt quá nhỏ, có thể gạt gẫm họ, có thể lười nhác, lấp liếm cho xong, nhưng mấy trăm vị thầy, mấy trăm con mắt sẽ chẳng thể gạt gẫm được đâu!
Nhất định phải nghiêm túc nỗ lực thì chính mình mới có thể nhập cảnh giới này, biết tiêu quy tự tánh và chuyển Thức thành Trí ra sao. Thật sự hiểu thì sẽ chẳng khó, đến khi ấy mới là tu hành thật sự. Chẳng thể vận dụng nguyên tắc này thì có thể nói là “tu mù, luyện đui”, rất khó đạt được hiệu quả rõ ràng. Ví như tu nhẫn nhục, rất nhiều người đều nói, mà sự thật cũng đúng như vậy, mức nhẫn nại có hạn, đến cực hạn sẽ bùng nổ. Vì sao bùng nổ? Vì không tiêu quy tự tánh, không tiêu trừ, hóa giải được, nó vẫn tồn tại trong ấy, càng tồn tại càng nhiều, đương nhiên đến cuối cùng phải bùng nổ. Phải làm như thế nào? Hễ nó xảy đến bèn tiêu quy tự tánh, không còn nữa, nó xảy đến bèn hóa giải nó, không tích tụ, hóa thành gì vậy? Hóa thành trí huệ, hóa thành Thiền Định, hóa thành công đức. Nó biến hóa. Sự biến hóa ấy là chuyển biến, há chẳng phải là chuyển Thức thành Trí ư? Tham, sân, si, mạn đều là những thứ trong thức tâm mới có, hễ tiếp xúc liền biến thành trí huệ, đó gọi là “chuyển Thức thành Trí”.
Đến khi ấy mới thật sự chứng được “bình đẳng Pháp Thân”, Pháp Thân là bình đẳng. Tâm bình đẳng mới thấy pháp bình đẳng, mới thấy cảnh giới bình đẳng. Mười pháp giới, trên từ chư Phật, dưới đến địa ngục A Tỳ, hoàn toàn bình đẳng, không hai, không khác, giống như tổ sư Hoàng Long của Thiền Tông đã khảo nghiệm người đến cầu học: “Cánh tay ta có giống tay Phật hay không?” Tức là trên bình đẳng với Phật. Ngài lại duỗi một chân ra, “chân ta có giống chân lừa hay không?” Lừa là súc sanh, dưới bình đẳng với súc sanh. Điều này hiển thị Nhất Chân pháp giới, phải hiểu ý nghĩa của Ngài. Phàm phu chúng ta nhìn thấy sẽ nghĩ chắc chắn chẳng bình đẳng, như vậy là không nhập môn được rồi! Do đó, mới nói mười pháp giới. Mười pháp giới là bình đẳng, đều là một pháp giới. Trong một pháp giới, có Phật, Bồ Tát, địa ngục, ngạ quỷ hay không? Thưa cùng quý vị, có chứ! Trên mặt Tướng thì có, trong Tánh thì không. Thành Phật thì Chân Như bổn tánh của chúng ta chẳng tăng tí nào, đọa địa ngục A Tỳ, Chân Như bổn tánh cũng chẳng tổn hoại tí xíu nào, bất tăng, bất giảm, bất sanh, bất diệt, Tướng có, Thể không, Sự có, Lý không. Trên Lý thì không có, chứ không phải là nói Tướng cũng chẳng có. Lầm rồi! Nơi Tướng là có! Tướng là do phần nào bất giác [trong chân tâm] biến hiện ra, do tâm bất giác dấy lên, biến hiện sâm la vạn tượng. Hễ giác thì cái bất giác ấy cũng là giác. Giác sự bất giác, Lý và Sự của bất giác đều hiểu rõ, không có một pháp nào chẳng hiểu rõ; do vậy, đắc đại tự tại trong hết thảy cảnh giới.
Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới không có Lạc Thọ (cảm nhận sự sung sướng). Vì sao Tây Phương Cực Lạc thế giới không có lạc? Thưa quý vị, sự vui ấy là sự vui trong khổ và lạc, là tương đối. Do cảnh giới bình đẳng nên trong địa ngục A Tỳ không có Khổ Thọ, lìa khỏi hết thảy Thọ. Thọ là giả, chẳng phải chân thật. Khổ, lạc, ưu, hỷ, xả (khổ, sướng, buồn, vui, buông bỏ) là năm loại cảm thọ lớn của phàm phu. Đến khi quý vị đã “tâm thể ly niệm” thì cảm thọ khổ, lạc, ưu, hỷ, xả đều chẳng còn nữa. Cảm thọ khi ấy sẽ là một vị thanh tịnh bình đẳng, cảm thọ khi ấy mới là cực lạc. Do vậy, những cảm nhận “khổ, lạc, ưu, hỷ, xả” đều là khổ, trong bất giác mới có. Sau khi đã giác, [những cảm thọ ấy] sẽ không còn nữa, giác rồi mới có chân lạc.
(Diễn) Sở ngôn bất giác nghĩa giả, vị bất như thật tri Chân Như pháp nhất cố, bất giác tâm khởi nhi hữu kỳ niệm.
(演) 所言不覺義者,謂不如實知真如法一故,不覺心起而有其念。
(Diễn: Nói tới nghĩa “bất giác” thì chính là vì chẳng biết đúng như thật: “Trong Chân Như, các pháp là một”, nên tâm bất giác khởi lên, bèn có ý niệm).
Mấy câu này do Liên Trì đại sư viết trong phần Sớ, do chính Ngài tự viết, và cũng trích dẫn Khởi Tín Luận.
(Diễn) Kim thích “bất tri Chân Như pháp nhất”.
(演) 今釋不知真如法一。
(Diễn: Nay giải thích ý nghĩa “trong Chân Như, các pháp là một”).
Nay chúng ta không biết pháp giới là Nhất Chân, đấy là gốc bệnh của sanh tử luân hồi. “Chân Như pháp” là gì? Là toàn thể pháp giới. Trong nhà Phật thường nói “y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới (hoặc nói “tận hư không, trọn pháp giới”) là một, không hai”. Câu nói này rất khó hiểu, chúng ta rất khó tiếp nhận. Vì sao nói là “pháp nhất”? Ta là ta, người khác là người khác, ta và người khác làm sao có thể hợp nhất? Chắc chắn chẳng thể hợp nhất! Vĩnh viễn không có cách nào thừa nhận [ta và người khác] cùng một Thể, đó là mê, là bất giác. Do vậy, trong hết thảy các pháp, quý vị mới sanh khởi những thứ phân biệt, chấp trước. Đó đều là những giới hạn do phân biệt, chấp trước vạch ra. Tách lìa phân biệt, chấp trước thì những giới hạn ấy chẳng còn nữa. Vì vậy, quý vị hãy nghĩ xem: Tách rời hết thảy những phân biệt, chấp trước, chẳng phải là vạn pháp trở về một hay sao? Vạn pháp vốn là một; những phân biệt, chấp trước này là hư vọng, nhất định chẳng phải là chân thật.
Tôi nêu lên một tỷ dụ nông cạn, gần gũi. Địa cầu của chúng ta là một chỉnh thể, nhưng người sống trên địa cầu nhóm người này tự hạn định một khu: Đây là quốc gia của tôi; nhóm người kia hạn định một khu khác, đây là quốc gia của họ, xong luôn! Đánh nhau, tàn sát lẫn nhau vì biên giới giữa hai quốc gia. Nếu họ bỗng nhiên giác ngộ, vốn là một, trọn chẳng có giới tuyến, người một nhà mà! Không đánh nhau nữa, sẽ không có chuyện gì nữa! Do vậy, những giới tuyến là do con người phân biệt, chấp trước mà phát sanh. Nếu đại chiến thế giới lần thứ ba bùng nổ, con người rất thông minh, thông minh đến tột cùng, vũ khí, khoa học kỹ thuật phát triển đến kết quả cuối cùng: Toàn bộ nhân loại đều bị hủy diệt! Người thông minh mới có thể hủy diệt chính mình, vì sao làm những chuyện ấy? Phân biệt, chấp trước! Phải hiểu rằng trong chân tâm vốn chẳng có phân biệt, chấp trước. Hễ có phân biệt, chấp trước thì chính là do “bất tri Chân Như pháp nhất” (chẳng biết trong Chân Như các pháp là một). Chư Phật, Bồ Tát tuyệt đối không cãi cọ, trọn chẳng tranh chấp, vì sao? Các Ngài biết “Chân Như pháp nhất”, hết thảy chúng sanh cảm nhận vui sướng, bản thân các Ngài rất sung sướng. Hết thảy chúng sanh chịu khổ, các Ngài cũng rất khổ, tự mình chịu khổ. Thật phi phàm! Đấy là “đồng thể đại bi, vô duyên đại từ”. “Vô duyên” là không có điều kiện, vì sao? Vì cùng là một Thể.
Quý vị mỗi đêm ngủ đều nằm mộng, hãy khéo suy nghĩ về cảnh trong mộng. Cái tâm ta tạo ra giấc mộng, cái được tạo là giấc mộng. Có người nào trong giấc mộng chẳng phải là chính ta? Đều do chính mình biến hiện. Mộng thấy một người thân ái thì chính là cái tâm của chính quý vị biến hiện ra, chứ không phải người ấy từ bên ngoài bước vào giấc mộng của quý vị. Không phải vậy! Mộng thấy người chán ghét, người ấy cũng do cái tâm của quý vị biến hiện ra, trọn chẳng phải là kẻ đáng chán ghét ấy chui vào trong giấc mộng. Quý vị mới thật sự giác ngộ: “Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có tâm”. Hữu tình và vô tình trong mộng, núi, sông, đại địa đều là chính mình, há chẳng phải như kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Tình và vô tình cùng viên mãn Chủng Trí”. Thời gian trong cảnh mộng ngắn ngủi, quý vị tỉnh giấc sẽ có thể nghĩ thông suốt đạo lý ấy. Tất cả hết thảy cảnh giới là một, do một cái tâm hiện ra, đều là do chính mình hiện ra, nhưng sau khi quý vị tỉnh giấc mộng, thật ra vẫn đang nằm mộng, cả một giấc mộng lớn, không có cách nào nhận biết giấc mộng lớn ấy. Quý vị chẳng biết y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều do chân tánh của chúng ta bất giác có ý niệm bèn hiện ra cảnh giới ấy.
Chân Như bổn tánh là như thế nào? Y báo và chánh báo trang nghiêm trong hiện tại chính là hình dáng của Chân Như bổn tánh. Nếu đang nằm mộng, thì cái tâm trong mộng ấy có hình dáng ra sao? Cảnh giới trong mộng là hình dáng của tâm. Toàn thể vọng là chân, toàn thể chân là vọng, toàn thể mộng là tâm, toàn thể tâm là mộng. Tâm và mộng là một, không hai. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới và Chân Như bổn tánh của chúng ta là một, không hai. Nếu quý vị thật sự thấu hiểu từ chỗ này thì sẽ chứng đắc Pháp Thân. Giống như trong giấc mộng, ta đột nhiên giác ngộ ta đang nằm mộng, toàn thể giấc mộng là chính mình, đó gọi là Pháp Thân. Pháp Thân là toàn thể, toàn bộ cảnh giới vốn là chính mình, đó gọi là chứng đắc Pháp Thân. Do vậy, Pháp Thân hiển hiện trước mặt chúng ta, nhưng chính chúng ta chẳng thừa nhận, chẳng biết y báo và chánh báo trang nghiêm là một Thể! Đối với một Thể lại khởi phân biệt, chấp trước, còn làm gì được nữa! Giác ngộ, hiểu rõ rồi thì pháp giới sẽ hòa thuận, tự tại. Mê thì do có phân biệt, chấp trước, nên có đấu tranh, phải tạo vô lượng vô biên tội nghiệp, phải chịu vô lượng khổ báo. “Chẳng biết trong Chân Như các pháp là một”, câu này có nghĩa là…
(Diễn) Vị bất liễu như lý nhất vị dã.
(演) 謂不了如理一味也。
(Diễn: Tức là chẳng hiểu rõ [các pháp] đúng như lý, có cùng một vị).
“Liễu” (了) là hiểu rõ. Kẻ ấy chẳng hiểu rõ hết thảy tướng đúng lý, chúng là một vị, chứ không phải hai vị. “Một vị” có nghĩa là bình đẳng, hết thảy pháp quả thật bình đẳng. Xét về tánh thì là bình đẳng, đấy là điều không còn phải bàn cãi nữa, chúng ta đều công nhận. Tướng là bình đẳng, dẫu là sâm la vạn tượng các thứ sai khác, tướng của chúng là một, không hai. Cơ bản của Tướng, cơ bản của vật chất chính là các lạp tử cơ bản. Sâm la vạn tượng đều do các lạp tử cơ bản hợp thành, trong kinh Phật gọi chúng là “cực vi chi vi” (thứ nhỏ nhất trong các thứ cực vi), còn gọi là Lân Hư Trần. Sâm la vạn tượng trong mười pháp giới đều do những thứ này tổ hợp thành. Nếu quý vị nhìn vào các lạp tử cơ bản thì hết thảy tướng bình đẳng, là một tướng, không phải hai, không có hai thứ, mà là một thứ. Hơn nữa, thứ ấy là Tướng Phần. Tướng Phần và Kiến Phần có cùng một căn nguyên, lại càng bình đẳng. Kiến và Tướng có cùng một nguồn.
Tướng do đâu mà có? Tướng do Kiến Phần biến hiện, chứ thật ra không có thứ này. Nếu quý vị thật sự thông đạt đạo lý này, sẽ khế nhập cảnh giới này, mới hiểu bản thể của hết thảy các hiện tướng (tướng được biến hiện) chính là Không, trọn chẳng thể được! Tánh là Không, Tướng cũng là Không. Cái Không ấy chẳng phải là không có gì, Không là Có. Vì sao Có mà lại nói là Không? Vì chẳng thể được, quả thật chẳng thể được. Nếu chúng ta chú tâm lãnh hội, bất luận một pháp nào trước mắt cũng đều chẳng thể được. “Chẳng thể được” là sự thật, là chân tướng. Nếu quý vị có thể bỏ cái tâm được – mất thì sẽ tự tại. Trong “chẳng thể được” mà muốn cầu điều gì thì sẽ đau khổ! Tục ngữ thường nói: “Sanh bất đới lai, tử bất đới khứ” (sanh chẳng mang gì đến, chết chẳng đem theo gì đi). Quý vị thấy có người nào chết mà đem theo được vật gì hay không? Thứ gì cũng không đem theo được, cho thấy “chẳng thể được”; nhưng hiện thời chúng ta còn chưa chết thì vẫn mong có được! Thật ra, mỗi ngày ban đêm đi ngủ có khác gì chết đâu? Nói cách khác, mỗi đêm quý vị đã chết mấy tiếng đồng hồ mà quý vị vẫn không giác ngộ, rất ngu si vậy!
Trong thế gian, chẳng có vật gì là của quý vị hết; ngay cả thân thể cũng không phải! Quý vị hãy nghĩ kỹ: Khi ngủ, thân thể này có phải là của quý vị hay chăng? Khi ngủ nằm mộng, đã sớm quên mất cái thân này rồi. Thân thể còn chẳng phải là của chính mình, huống hồ vật ngoài thân! Khi nằm mộng, thân mà còn chẳng mang theo được thì quý vị còn mang theo vật gì được nữa? Do vậy, người giác ngộ hằng ngày cảnh tỉnh, cảnh tỉnh trong mỗi giờ, cảnh tỉnh trong mỗi niệm. Nếu có tâm cảnh tỉnh cao như vậy thì mới có thể nhập môn. Phật pháp câu nào cũng nhằm nói với chúng ta pháp chân thật, chẳng có một lời dối trá nào, quyết định chẳng lừa gạt chúng ta. Nếu chúng ta muốn được tự tại thật sự, nhất định phải liễu giải chân tướng sự thật.
Phước báo, thụ dụng là xứng tánh. Do vậy, người thật sự nhập môn, sẽ được đại tự tại. Giả tướng này cũng vô cùng thù thắng. Quý vị thấy mười hai quyển đầu của kinh Hoa Nghiêm nói về sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo trong thế giới Hoa Tạng, loại hưởng thụ ấy trong nhân gian chúng ta không có. Chẳng những nhân gian không có mà cõi trời cũng chẳng có. Sự hưởng thụ phú quý của họ do đâu mà có? Chẳng do con người tạo ra, mà cũng chẳng do tu được, trong Chân Như bổn tánh vốn sẵn trọn đủ. Phước báo xứng tánh, chỉ cần quý vị thấy tánh, bỏ được ý niệm “được – mất, lấy – bỏ”, sẽ thụ dụng tự tại, hoàn toàn xứng tánh như vậy. Nếu quý vị chẳng thể bỏ được, trong chân tánh vẫn còn một phần bất giác thì phước báo phải do tu mà có, vì sao? Chẳng thể dùng được phước báo xứng tánh, nó chẳng khởi tác dụng.
Tôi lại nêu tỷ dụ: Phước báo xứng tánh giống như tài sản trong nhà quý vị. Giả sử quý vị có trương mục một trăm vạn trong ngân hàng, đó là xứng tánh. Hiện thời ra phố, đi ăn cơm, trong túi không có tiền, kẹt quá chừng! Tuy có tiền, nhưng tiền ấy là xứng tánh, hiện thời bên mình không có, không lấy ra được. Món tiền tiêu dùng lặt vặt nơi thân trong hiện tại phải do tu mà có. Nếu là xứng tánh thì chẳng cần phải tu, trong bổn tánh vốn có sẵn. Quý vị nói xem: Thứ phước báo nào là lớn? Hiểu được đạo lý này sẽ nhanh chóng cầu minh tâm kiến tánh. Kiến tánh rồi phước báo mới lớn, thật sự lớn! Pháp môn Tịnh Độ gọi “kiến tánh” là “nhất tâm bất loạn”. Do vậy, nhất định phải sốt sắng nỗ lực, tu đến nhất tâm bất loạn, phước báo xứng tánh hiện tiền.
Chúng ta nay đang mê hoặc, phước báo phải do tu mà có. Kinh thường dạy: Tu Tài Bố Thí được giàu có. Trong quá khứ, quý vị tu Tài Bố Thí nhiều, trong một đời này tài sản nhiều, giàu to. Đời trước quý vị chẳng tu Tài Bố thí, đời này cuộc sống vật chất nhất định nghèo nàn, thiếu hụt, đó là đạo lý nhất định. Quý vị tu Pháp Bố Thí, đời này được thông minh, trí huệ. Quý vị tu Vô Úy Bố Thí, đời này được khỏe mạnh, sống lâu. Có quả, nhất định phải có nhân. Khi đang mê, tu nhân nào sẽ được quả báo ấy, nhân quả chẳng sai mảy may, đó là do tu mà có. Đã là “tu nhân sẽ có thể đạt được quả báo” thì có thể bỏ quả báo được hay không? Thưa quý vị, không thể bỏ được, vì vẫn còn nhân. Quý vị nói: “Tôi có quả báo phú quý, tôi không cần, tôi tặng cho người khác”, có thể được! Quý vị có thể tặng cho người khác, không đầy mấy bữa lại có [tiền bạc] đưa tới. Trong mạng quý vị có [tài sản] mà! Trong mạng đã có thì bỏ chẳng được. Trong mạng không có, cầu cách nào cũng chẳng cầu được. Chuyện là như vậy đó! Trước kia, tại Đại Lục, vị thần tài mà người ta thờ là Đào Châu Công, tức là Phạm Lãi thời Xuân Thu, ông ta nhất định là Bồ Tát tái lai, thật phi phàm! Ông ta giúp Việt Vương Câu Tiễn phục quốc, công lao hết sức to. Khôi phục đất nước xong, công thành, thân thoái, không làm quan, đổi họ tên thành Đào Châu Công, buôn bán, ba lần phát tài, ba lần phân tán tài sản. Buôn bán chẳng mấy năm, phát tài to, ông đem tiền của bố thí trọn khắp để cứu giúp người nghèo. Phân tán hết sạch rồi lại bắt đầu buôn bán bằng món tiền vốn nhỏ nhoi. Không đầy mấy năm lại phát tài to. Điều này cho thấy trong mạng ông ta có tiền của, có bỏ cũng bỏ không được. Đây là hiện tượng trong khi chúng ta còn đang mê. Nếu là xứng tánh, hết thảy phước báo đều tự nhiên, chẳng do tu mà có. Chúng ta hiểu rõ đạo lý này, tu nhân khẩn yếu lắm!
Bồ Tát từ Sơ Phát Tâm cho đến địa vị Như Lai tu pháp môn gì vậy? Chính là tu bố thí. Bố thí là xả, là buông xuống. Chỉ có thật sự buông xuống được thì mới thấy thấu suốt. Buông xuống giúp cho thấy thấu suốt. Thấy thấu suốt giúp buông xuống. Thấy thấu suốt là trí huệ, buông xuống là giải thoát, tự tại, tức ba đức Bát Nhã, Giải Thoát và Pháp Thân đều thuộc trong ấy. Chẳng phải là quý vị muốn chứng Tam Đức mật tạng hay sao? Nhất định phải tu Bố Thí Ba La Mật. Đoạn này nói lên ý nghĩa: Quý vị chưa thể hiểu rõ pháp giới là một.
(Diễn) Đắc kiến tâm tánh, tâm tức thường trụ, danh “như thật tri”, tức thử bất tri, tức thị căn bản vô minh.
(演) 得見心性,心即常住,名如實知。即此不知,即是根本無明。
(Diễn: Thấy được tâm tánh thì tâm bèn thường trụ, gọi là “biết đúng như thật”. Nếu chẳng biết điều này thì sẽ là căn bản vô minh).
“Như thật tri” là gì? Như thật tri là thấy tâm tánh. Gộp hai chữ tâm tánh để nói thì “tâm” là thức thứ tám, “tánh” là Chân Như bổn tánh. Tánh là Thể của tâm, tâm là tác dụng của tánh. Tâm và tánh được gộp lại một chỗ để nêu rõ ý nghĩa Thể và Dụng không hai; Thể và Dụng là một, không hai. Nói tách ra thì có khi tâm là tánh, tánh là tâm, phải nhìn vào những câu văn ở phía trước và phía sau câu này để nhận ra ý nghĩa. Hai chữ này gộp lại thì một là nói về chân tâm, hai là nói về vọng tâm. Chân tâm là Thể, vọng tâm là tác dụng.
Nếu quý vị thấy tâm tánh, tâm và tánh là một, Thể và Dụng không hai, Thể và Dụng giống hệt nhau, tâm là thường trụ. Kinh Lăng Nghiêm nói “chân tâm thường trụ”. Trụ có nghĩa là bất động, động là chẳng trụ. Chân tâm thường trụ là cái tâm thường trụ, thanh tịnh, tịch diệt, mà cũng là cái tâm “tâm thể ly niệm”, không có hết thảy vọng niệm. Đấy là chân tâm, đó gọi là “như thật tri”. Kinh Pháp Hoa gọi cái “tri” ấy là Phật tri, Phật kiến. Trong kinh Pháp Hoa, Thích Ca Mâu Ni Phật dạy chúng ta: “Khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật”. Như thật tri chính là Phật tri, Phật kiến, mà cũng “chánh tri, chánh kiến” như chúng ta thường nói. Có thể thấy rằng: Chánh tri, chánh kiến từ tâm thể ly niệm sanh ra. Nói cách khác, nó từ chân tâm sanh ra. Chân tâm khởi tác dụng là Phật tri, Phật kiến, là “như thật tri”.
“Tức thử bất tri” (nếu không biết điều này): Kẻ ấy không biết đúng như thật, sẽ suy nghĩ loạn xạ, chỗ nào cũng suy đoán, nghi hoặc, biến thành hiện tượng như vậy. “Tức thị căn bản vô minh”: Phật pháp nói “căn bản vô minh” nhằm chỉ điều này. Một niệm tối sơ bất giác nên chẳng thể biết Chân Như pháp giới đúng như thật. Đó gọi là căn bản vô minh. Vô minh là chẳng sáng suốt.
(Diễn) Tâm khởi hữu niệm, tức thị nghiệp tướng.
(演) 心起有念,即是業相。
(Diễn: Tâm khởi lên, có ý niệm, chính là tướng trạng của nghiệp).
Phải đặc biệt chú ý hai câu này! Trong tâm khởi lên ý niệm thì gọi là “tạo nghiệp”. Ai chẳng tạo nghiệp? Như Lai mới chẳng tạo nghiệp. Bồ Tát đều tạo nghiệp, Bồ Tát gọi là “giác hữu tình”, “hữu tình” là tạo nghiệp. Tuy tạo nghiệp nhưng các Ngài giác ngộ, giác chứ không mê, nên gọi là Bồ Tát. Thật sự chẳng tạo nghiệp là Phật. Đẳng Giác Bồ Tát còn có một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, sau khi giác ngộ thì nghiệp đã tạo gọi là “tịnh nghiệp”; nếu bất giác thì nghiệp đã tạo gọi là “nhiễm nghiệp”. Nghiệp có nhiễm và tịnh, trong nhiễm nghiệp lại có thiện và ác. Ác là nhiễm, mà thiện vẫn là nhiễm. Quả báo của ác nghiệp là trong tam ác đạo, quả báo của thiện nghiệp là trong ba thiện đạo. Người ấy không thoát khỏi luân hồi, vì sao? Đều là do nhiễm nghiệp ô nhiễm chân tâm của chúng ta. Tịnh nghiệp tuy là có nghiệp, nhưng chẳng nhiễm. Do vậy, người ấy có thể vượt thoát tam giới, đạo lý là ở chỗ này. Quý vị phải ghi nhớ: Tâm chẳng thể hữu niệm, tâm có niệm là “nghiệp tướng”, tức là tướng đầu tiên trong ba tướng Tế của A Lại Da thức.
(Diễn) Luận vân: Y bất giác cố, tâm động, thuyết danh vi nghiệp dã.
(演) 論云:依不覺故,心動說名為業也。
(Diễn: Khởi Tín Luận viết: “Do nương theo bất giác nên tâm động, gọi là nghiệp”).
“Nghiệp” là sự nghiệp, nghiệp là tạo tác. Chẳng tạo tác sẽ chẳng gọi là “nghiệp”. “Tâm động” bèn trở thành nghiệp. Tâm rỗng rang, tâm tịch tĩnh, tâm ly niệm; nói chung, phải hiểu rõ những ý nghĩa này. Tu hành quan trọng nhất là tu tâm. Cái tâm của chúng ta rất ác, phải tu thành rất thiện. Cố nhiên, quý vị tu tâm thì vẫn là tu nhiễm nghiệp. Nếu thật sự hiểu rõ tâm là Không, trong tâm bất cứ gì cũng đều chẳng có, quý vị tu pháp tịch tĩnh, đó gọi là “chân tu hành” (tu hành thật sự).
Phật pháp thường lấy hình tròn làm biểu tượng, chẳng hạn “pháp luân thường chuyển”. Quý vị hãy nghĩ xem, hình tròn có tâm hay không? Đương nhiên có. Ở chỗ nào? Tìm không được. Chân tâm là như vậy, nó có, nhưng nó là không. Tâm quả thật cái gì cũng không có, nó khởi tác dụng giống như bản thân đường tròn, đại chuyển pháp luân, diệu dụng vô cùng. Vì thế, học Phật là tu tâm. Tu tâm chính là tu cái tâm “trạm tịch, hư linh” này, tâm nhất định phải rỗng không, thứ gì cũng đều chẳng có. Thế nhưng chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay tập khí phiền não quá nặng. Nói cách khác, vọng tưởng từ đầu đến cuối chẳng đoạn, ngay cả ngủ nghỉ cũng chẳng chân thật, vẫn nằm mộng. Nằm mộng là khởi vọng tưởng. Quý vị đã hiểu tánh chất nghiêm trọng của vấn đề rồi đó!
Tu hành dễ dàng, tu tâm khó khăn! Có thể nói pháp môn Niệm Phật là một loại thuốc thanh lương cho việc tu tâm, là phương thuốc hết sức tuyệt diệu. Chẳng phải là quý vị có vọng niệm đó sao? Được rồi! Vọng niệm gột không hết thì xoay chuyển nó. Chẳng khởi niệm thì thôi, hễ khởi niệm bèn A Di Đà Phật, chuyển biến hết thảy vọng niệm thành một niệm, cách này rất mầu nhiệm! Một niệm ấy công đức vô lượng vô biên, tuy niệm ấy (niệm A Di Đà Phật) vẫn là vọng niệm, nhưng hết thảy những vọng niệm tạp nhạp của quý vị đã được gom thành một, quy về một vọng niệm. Đấy là cương lãnh tu học trọng yếu trong Phật pháp. Chỉ cần quy ý niệm về một, quy về một câu A Di Đà Phật, lâu ngày chầy tháng, nhất định sẽ hoảng nhiên đại ngộ, sẽ đắc Lý nhất tâm bất loạn, chứng đắc “Chân Như pháp nhất”. Nói cách khác, chứng đắc cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm gọi cõi Thật Báo Trang Nghiêm là Nhất Chân pháp giới. “Thật” là chân thật. Pháp chân thật chỉ có một, chỉ có pháp chân thật mới gọi là trang nghiêm. Hết thảy hư vọng chẳng đáng gọi là trang nghiêm, chỉ có chân thật mới thật sự là trang nghiêm!
Chúng ta hãy đặc biệt chú ý: Tâm động là tạo nghiệp! Do vậy, phải nhanh chóng chuyển nghiệp. Chuyển “khởi tâm, động niệm” thành A Di Đà Phật, chuyển nhiễm nghiệp thành tịnh nghiệp, chuyển từ chỗ này. Quý vị chuyển được thì là tu hành thật sự. Tu hành không phải là suốt ngày từ sáng đến tối cầm cuốn kinh để tụng niệm, lần chuỗi niệm Phật, gõ mõ, hằng ngày dập đầu lạy lục tại nơi đó, chẳng phải là tu nơi hình thức. Những thứ đó là công phu bề ngoài. Tu hành chân chánh thì phải dồn sức nơi tâm, thực hiện công phu nơi khởi tâm động niệm, ý niệm vừa dấy lên bèn chuyển thành Phật hiệu, đó gọi là “tu từ căn bản”, nay chúng ta phải thực hiện từ chỗ này.
Thực hiện từ chỗ này thì có phải là dốc sức nơi nghiệp tướng hay chăng? Chẳng phải vậy! Nếu hướng theo phía nghiệp tướng thì cũng không sai, nhưng chẳng thể chuyển nghiệp tướng. Vì sao? Nghiệp tướng ấy chính là [cái tâm bị dao động] vô cùng vi tế. Sự dao động vi tế ấy chính là khởi tâm động niệm, bản thân chúng ta chẳng thể cảm nhận được. Ví như ban đêm quý vị nằm mộng, do tâm động mới có mộng cảnh; quý vị có thể cảm nhận tâm động hay chăng? Chẳng cảm nhận được, quá vi tế mà! Hiện thời, chúng ta có thể cảm nhận những thô niệm (ý niệm thô tháp), tham, sân, si, mạn là những thô niệm, chứ chẳng thể cảm nhận tế niệm. Đối với những ý niệm vi tế (tế niệm) [chẳng hạn] như nghiệp tướng, kinh Đại Thừa nói hàng Bát Địa Bồ Tát mới có thể nhận biết được. Do vậy, đạt đến Bát Địa mới có thể chuyển A Lại Da Thức thành Đại Viên Kính Trí. Đây là nói về Viên Giáo, từ Sơ Trụ kiến tánh cho đến Bát Địa gồm ba mươi tám địa vị Bồ Tát. Giống như đi học, mỗi năm học một lớp cho đến hết ba mươi tám lớp. Có tất cả bốn mươi mốt lớp, học hết bốn mươi mốt lớp sẽ tốt nghiệp, đến lớp thứ ba mươi tám mới thấy được những ý niệm vi tế. Nay chúng ta có thể tự nhận biết những ý niệm thô, những ý niệm ấy vừa dấy lên liền ngay lập tức chuyển chúng thành Phật hiệu, đấy là công phu tuyệt diệu, là chỗ để chúng ta dốc sức tu hành.
Do vậy, cổ đức nói: Hạnh môn trong Đại Thừa Phật pháp không phải là tu hành nơi hình tướng, mà tu nơi khởi tâm động niệm, hãy đặc biệt chú ý tới chỗ này! [Tuy vậy], hình thức cũng chẳng thể phế trừ, hình thức nhằm mục đích đại từ đại bi tiếp dẫn chúng sanh, nó vẫn có tác dụng thù thắng nhất, gây ảnh hưởng cho những người chưa học Phật. Cá nhân tu hành thì không cần phải coi trọng hình thức. Có rất nhiều đồng tu người nhà của họ còn chưa học Phật, nếu có những nghi thức sợ rằng sẽ khiến người nhà khó chịu, hủy báng, thậm chí gây chướng ngại, quý vị hãy nên dụng công nơi tâm địa. Nếu người nhà chẳng phản đối thì có thể vận dụng nghi thức, vì sao? Những nghi thức ấy có thể ảnh hưởng người nhà quý vị. Tuy họ không lễ Phật, nhưng họ thấy quý vị hằng ngày lạy Phật, đã gieo hạt giống lạy Phật vào A Lại Da thức của họ. Họ không niệm Phật, nhưng hằng ngày nghe quý vị niệm Phật, hạt giống ấy cũng gieo vào trong thức tâm (cái tâm bị điều khiển bởi thức, không phải là chân tâm) của họ, giống như quý vị đã độ họ, chỉ cần họ không phản đối. Nếu họ phản đối, nói chung phải tránh né, đừng câu nệ hình thức, như vậy sẽ là công đức viên mãn.
(Diễn) Nhiên thử tuy động niệm nhi cực vi tế, duyên khởi nhất tướng Năng Sở bất phân, tức đương Lê Da Tự Thể Phần dã.
(演) 然此雖動念而極微細,緣起一相能所不分,即當黎耶自體分也。
(Diễn: Ý niệm ấy tuy động nhưng vi tế tột bậc, duyên khởi một tướng, Năng và Sở chẳng phân, đấy chính là Tự Thể Phần của A Lại Da thức).
Đây là ba tướng Tế, tức là ý niệm hết sức vi tế. Do vì niệm đã động, nên mới có y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Vũ trụ do đâu mà có? Do tâm bất giác dấy động mà có! Chúng ta đêm ngủ nằm mộng, do tâm bất giác động nên hiện ra cảnh trong mộng. Trong Chân Như bổn tánh, tâm bất giác động niệm, hiện ra y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. “Duyên khởi nhất tướng, Năng Sở bất phân”: Trong một niệm tối sơ, chủ thể động (tâm bất giác), cái bị động (ý niệm), chủ thể hiện (vọng tâm), đối tượng được hiện (y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới) chẳng dễ gì phân biệt được. Vì sao chẳng dễ gì phân biệt được? Điều này cho thấy động và tịnh có cùng căn nguyên, có cùng một tự thể là Chân Như bổn tánh. “Tức đương Lê Da Tự Thể Phần”: Chính là Tự Thể Phần của A Lại Da thức. Trong bốn phần (Tướng Phần, Kiến Phần, Tự Chứng Phần, Chứng Tự Chứng Phần) của Duy Thức, nó chính là Tự Chứng Phần, tức Tự Thể Phần của A Lại Da Thức. Vì thế, thoạt đầu, Kiến Phần và Tướng Phần có cùng một nguồn. Kiến Phần là Năng, Tướng Phần là Sở. Năng và Sở cùng một nguồn.
Do vậy, một niệm tối sơ thật chẳng dễ dàng phân định [đâu là Năng, đâu là Sở], gần như là một chuyện, đành phải để cho nó tiếp tục tăng trưởng rồi hai phần Kiến và Tướng mới càng ngày càng thêm rõ rệt hơn.
Đến chỗ này, [toàn bộ những câu văn trong sách Diễn Nghĩa] chỉ nhằm giải thích câu “dĩ bất như thật tri Chân Như pháp nhất cố, bất giác tâm khởi nhi hữu kỳ niệm”. Nhất niệm có mối quan hệ hết sức lớn, trong khi ấy, không thể nào nhận biết được một niệm này, nên nó mới diễn biến thành cảnh giới hiện tiền của chúng ta.
(Diễn) Vô minh sở phú, thất bổn lưu mạt giả.
(演) 無明所覆,失本流末者。
(Diễn: “Vô minh che lấp, đánh mất gốc, chạy theo ngọn” là…)
“Bổn” (gốc) là Nhất Chân pháp giới, “mạt” (ngọn) là mười pháp giới; Bổn là Chân Như bổn tánh, Mạt là tam tế, lục thô (ba tướng Tế, sáu tướng Thô của A Lại Da thức).
(Diễn) Vô minh, tức căn bản vô minh, tức bất như thật tri dã. Phú, vị phú cái chân tánh. Bổn tức chân tánh, Mạt vị tam tế, lục thô, ký thất bổn tự lưu mạt.
(演) 無明 ,即根本無明 ,即不如實知也。覆,謂覆蓋真性。本即真性,末謂三細六粗,既失本自流末。
(Diễn: Vô minh là căn bản vô minh, tức là chẳng biết đúng như thật. Phú là che lấp chân tánh. Bổn là chân tánh. Mạt là tam tế, lục thô. Đã mất gốc liền tự chạy theo ngọn).
“Tam tế, lục thô” biến hóa thành lục đạo luân hồi hiện tiền, biến hiện ra các cõi nước Phật và đại thiên thế giới. Đại thiên thế giới là lục đạo luân hồi. Lục đạo luân hồi là đại thiên thế giới. Do vậy, chính mình mê, chính mình tạo, chính mình chịu. Trong ấy, chắc chắc chẳng thể oán trời, hờn người. Nếu oán trời, hờn người, sẽ tạo nghiệp càng sâu, càng bị hãm sâu, nhất định phải giác ngộ: Hết thảy cảnh duyên đều là tự làm, tự chịu. Người giác ngộ là Bồ Tát, Bồ Tát chẳng sợ quả báo, cảnh nghịch xảy đến bèn thuận theo, đón nhận quả báo rất tự tại, vì Ngài đã hiểu “phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, giống như nằm mộng, biết “hết thảy pháp đều chẳng thể được”. Do vậy, bất luận là nghịch cảnh hay thuận cảnh, không gì chẳng tự tại; người giác ngộ mới làm được! Người mê hoặc không thể làm được, chẳng thể tự tại. Trong Phật Học Thập Tứ Giảng có nói: “Ác nan khiển, hảo nan cầu” (ác khó đuổi, tốt khó cầu), miễn cưỡng đoạn ác mà mong cầu điều tốt sẽ cầu chẳng được, đó là chuyện không thể xảy ra được! Do vậy, nếu thật sự biết cầu thì nhất định phải hiểu lý, tu học đúng lý, đúng pháp, ắt là “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng” (trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng). Hôm nay tôi giảng đến đây!
— o0o —
Tập 18
Xin đọc A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, trang mười tám:
(Sớ) Tắc vô minh sở phú, thất bổn lưu mạt, hỗn loạn chân thể, cố danh viết Trược. Như trừng nê sa, phục sử tịnh khiết, tư chi vị Thanh, tức chỉ chuyển Ngũ Trược nhi thành Thanh Thái dã.
(Diễn) Vô minh sở phú, thất bổn lưu mạt giả, vô minh, tức căn bản vô minh, tức bất như thật tri dã. Phú, vị phú cái chân tánh, Bổn
tức chân tánh, Mạt vị tam tế, lục thô, ký thất bổn tự lưu mạt.
(疏) 則無明所覆,失本流末,渾亂真體,故名曰濁。
如澄泥沙, 復使淨潔, 斯之謂清, 即指轉五濁而成清泰也。
(演) 無明所覆,失本流末者。無明,即根本無明,即不如實知也。覆,謂覆蓋真性。本即真性,末謂三細六粗,既失本自流末。
(Sớ: Liền bị vô minh che lấp, đánh mất gốc, chạy theo ngọn, hỗn loạn chân thể, nên gọi là Trược. Như lắng bùn, cát, khiến cho nó trong sạch trở lại, đó gọi là Thanh, tức là chuyển Ngũ Trược thành cõi Thanh Thái.
Diễn: “Vô minh che lấp, đánh mất gốc, chạy theo ngọn”: Vô minh là căn bản vô minh, tức là chẳng biết đúng như thật. Phú là che lấp chân tánh. Bổn là chân tánh. Mạt là tam tế, lục thô. Đã mất gốc tự chạy theo ngọn).
Kinh văn giảng rõ vì sao vô minh khởi lên trong chân tánh? Sau khi vô minh đã dấy lên, nó sẽ phát triển như thế nào? Đoạn văn này tuy không dài, những cũng nói rất rõ ràng. Trong buổi giảng trước, tôi đã đặc biệt nhắc quý vị, câu “Chân Như pháp nhất” hết sức trọng yếu. Nhà Thiền thường nói: “Thức đắc nhất, vạn sự tất” (biết một chuyện, muôn sự đều xong).
Chúng ta học Phật công phu không đắc lực là vì khuyết điểm này, tức là chúng ta chẳng biết: Trong Chân Như các pháp là một. Chẳng biết tu hành phải tương ứng với Nhất Chân, pháp giới vốn là Nhất Chân, nhưng cái Nhất ấy quả thật rất khó hiểu. Hễ trong tâm quý vị có Nhất thì sẽ chẳng Nhất. Trong Nhất không có gì cả, hễ có một quan niệm sẽ là sai. “Tâm thể ly niệm” là Nhất, hễ có niệm sẽ chẳng Nhất! Thế nhưng công phu này rất khó thực hiện, trong tâm chúng ta luôn khởi tâm động niệm. Dẫu một ý niệm gì cũng không có thì lại biến thành Vô Tưởng Định, lại sai mất rồi! Quả báo của Vô Tưởng Định là cõi trời Vô Tưởng trong Tứ Thiền Thiên. Hai bên Có và Không đều lìa thì mới là Nhất. Có “hữu niệm” không được, có “vô niệm” cũng không được. Hữu niệm và vô niệm đều phải bỏ, đấy mới là nhất tâm, đấy mới là tương ứng với “Chân Như pháp nhất”. Hiểu rõ đạo lý này thì mới hiểu cương lãnh trọng yếu trong tu học.
“Bất giác tâm khởi nhi hữu kỳ niệm” (Tâm bất giác khởi lên ý niệm), cho thấy: Chúng ta khởi tâm động niệm thì là bất giác, cái bất giác ấy chính là căn bản vô minh. “Giác tâm bất khởi niệm” (Giác tâm chẳng khởi niệm), chúng ta phải phản tỉnh ở chỗ này. Bất luận trong cảnh giới nào, khởi tâm động niệm là nghiệp tướng, trước đó là căn bản vô minh. Vô minh bất giác sanh tam tế. Vô minh che lấp chân tánh của chúng ta, trong kinh này gọi chân tánh là nhất tâm, Lý nhất tâm. Vô minh che lấp nhất tâm của chúng ta, đấy là mê mất Bổn. Bổn là Lý nhất tâm, tức Chân Như bổn tánh, “thất” (失) là mê mất. Mê mất là bất giác, nên mới rớt vào “chi mạt” (枝末: cành nhánh). Chi mạt chính là ba tế tướng của A Lại Da, tức Nghiệp Tướng, Chuyển Tướng và Cảnh Giới Tướng.
Trong đoạn này còn nói Tướng Phần và Kiến Phần có cùng nguồn. Nay chúng ta nói tinh thần và vật chất có cùng một nguồn cội, đều do Chân Như bổn tánh biến hiện. Chúng ta nghe những câu này xong ngơ ngác không hiểu! Nói những hiện tượng tinh thần bị mê hoặc, điên đảo là do Chân Như bổn tánh sau khi đã mê biến hiện ra, chúng ta còn tin tưởng mấy phần, đại khái là vẫn còn có thể xảy ra như vậy; chứ nói núi, sông, đại địa, sâm la vạn tượng cũng là do Kiến Phần của chúng ta biến hiện ra, chúng ta rất khó thể tin tưởng! Làm sao mà cái tâm này có thể biến hiện ra núi sông, đại địa ở bên ngoài? Những hiện tượng trước mắt là ba tế tướng của A Lại Da, A Lại Da rộng lớn không có ngằn hạn. Giác ngộ rồi, A Lại Da biến thành Đại Viên Kính Trí, toàn thể cảnh giới biến thành Nhất Chân pháp giới. Mê rồi thì sẽ là vô lượng vô biên pháp giới, chứ không phải chỉ có mười pháp giới! Sự thật này rất khó lòng thấu hiểu được, nhưng chúng ta nghĩ nó giống như lúc nằm mộng sẽ thấy chẳng khó hiểu nữa. Trong giấc mộng, quý vị thấy có chính mình, vậy thì cái “chính mình ở trong mộng ấy” là do đâu mà có? Chính mình có thân thể mà cũng có tinh thần, vậy thì tinh thần và sắc tướng từ đâu mà có? Núi, sông, đại địa trong giấc mộng do đâu mà có? Trong mộng cũng có hư không, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, thử hỏi những thứ ấy do đâu mà có? Há chẳng phải là tâm của chính mình biến hiện ra ư? Trong mộng có thể biến sắc thân, có thể biến núi, sông, đại địa, sau khi chúng ta mê mất chân tánh, lẽ nào tướng chẳng hiện ra? Công năng của chân tánh so với công năng của “độc đầu ý thức”[52] trong mộng phải lớn hơn rất nhiều, thù thắng hơn rất nhiều! Nó có thể biến. Do vậy, lấy những hình tượng được hiện trong mộng để tỷ dụ đạo lý này hòng suy tưởng thì đối với những đạo lý được nói trong kinh Phật sẽ có thể tin tưởng mấy phần.
Ba tế tướng đều là Tự Thể của A Lại Da. Nghiệp Tướng là tướng động của vô minh, động gọi là Nghiệp. Do tâm bất giác khởi lên nên gọi là Nghiệp. “Tâm khởi” sẽ có niệm, ý niệm là Kiến Phần. Từ Nghiệp Tướng biến ra Chuyển Tướng. Niệm có thể chuyển, chuyển gì vậy? Chuyển biến, biến gì vậy? Biến ra cảnh giới; vũ trụ, nhân sinh, sâm la vạn tượng đều được biến ra. Biến ra những tướng ấy thì gọi là Cảnh Giới Tướng, tức là Tướng Phần của A Lại Da. Từ trong Cảnh Giới Tướng lại biến hiện sáu thứ thô tướng, [gộp cả ba tế tướng và sáu thô tướng, ta có] “tam tế, lục thô”. Ba tế tướng (Nghiệp Tướng, Chuyển Tướng, Cảnh Giới Tướng) của A Lại Da bao gồm toàn bộ vũ trụ nhân sinh, bao gồm toàn thể vũ trụ, đó là ba tế tướng. “Lục thô tướng” không giống vậy. Sáu thô tướng là nói về từng cá nhân trong chúng ta, tức là chỉ cho từng người riêng biệt. Mỗi một hữu tình chúng sanh đều có sáu thô tướng, sáu thứ thô tướng do đâu mà có? Từ ba tế tướng biến hiện ra, chẳng tách rời ba tế tướng. Kinh Đại Thừa thường nói tâm có thể hiện tướng, “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Sâm la vạn tượng, các thứ sai biệt là do thức biến. Trong “lục thô” thì thứ nhất là Trí Tướng, thứ hai là Tương Tục Tướng, cổ nhân ghép hai tướng này với thức thứ bảy, còn Chấp Thủ Tướng và Kế Danh Tự Tướng được ghép với thức thứ sáu. Khởi Nghiệp Tướng ứng với năm thức trước (Nhãn Thức, Nhĩ Thức v.v…) Nghiệp Hệ Khổ Tướng là quả báo.
(Diễn) Hỗn loạn chân thể giả.
(演) 渾亂真體者。
(Diễn: Hỗn loạn chân thể là…)
“Chân thể” là bổn tánh, là nhất tâm bất loạn. Nay chúng ta đánh mất nhất tâm, vọng niệm từ sáng đến tối không ngừng, cái tâm rối loạn, chẳng phải là nhất tâm. Tâm là trược tướng, chẳng phải là tướng thanh tịnh.
(Diễn) Như Lăng Nghiêm vân: “Thí như thanh thủy, thanh khiết bổn nhiên. Hữu chư thế nhân, thủ bỉ thổ trần, đầu ư thanh thủy, thủy vong thanh khiết, dung mạo cốt nhiên, danh chi viết Trược”.
(演) 如楞嚴云:譬如清水,清潔本然。有諸世人,取彼土塵,投於清水,水亡清潔,容貌汨然,名之曰濁。
(Diễn: Như kinh Lăng Nghiêm nói: “Ví như nước trong vốn sẵn thanh khiết. Có những người đời lấy đất, bụi ném vào nước trong, nước mất thanh khiết, mất đi dáng vẻ [sẵn có], nên gọi là Trược”).
“Thí như thanh thủy, thanh khiết bổn nhiên” (Ví như nước trong vốn sẵn thanh khiết): Câu này tỷ dụ bổn tánh của chúng ta. Nếu có người đem bùn cát quăng vào nước trong trẻo, nước ngay lập tức vẩn đục, mất đi tướng thanh tịnh. Bùn, cát, đất, bụi là gì? Là bất giác, là tam tế, lục thô, vô minh. Tam tế, lục thô giống như bùn, đất, cái tâm thanh tịnh của chúng ta có những thứ này, mất đi thanh tịnh, nhất tâm cũng mất. Đây là tình huống hiện thời của chúng ta.
(Diễn) Phục sử tịnh khiết giả.
(演) 復使淨潔者。
(Diễn: “Khiến cho trong sạch trở lại” là…)
Tiếp theo đó nói đến cách tu hành, tu hành giống “như lắng trong bùn, cát, khiến cho nước lại trong sạch”. Đó gọi là Thanh. Trừng (澄) là lắng cặn.
(Diễn) Lăng Nghiêm vân: “Như trừng trược thủy, trữ ư tịnh khí, tĩnh thâm bất động”.
(演) 楞嚴云:如澄濁水,貯於淨器,靜深不動。
(Diễn: Kinh Lăng Nghiêm chép: “Như lắng trong nước đục, đựng trong đồ chứa sạch, lặng lẽ, sâu thẳm, bất động”).
Quý vị chứa nước ấy lại, tuy nó có bùn, cát, không sao cả! Do nước vốn là khiết tịnh, để một thời gian lâu, bùn, cát sẽ lắng xuống. Lắng cặn thì cần phải có công phu Định lực; chỉ cần quý vị chịu tu Định thì tam tế, lục thô sẽ dần dần tiêu mất. “Tĩnh thâm bất động”: Câu này tỷ dụ sự tu hành, bất luận tu pháp môn nào cũng đều phải tĩnh, tĩnh chính là Định. Tám vạn bốn ngàn pháp môn là tám vạn bốn ngàn mánh khóe hay phương pháp nhằm tu “tĩnh thâm bất động”, tuyệt đối chẳng có pháp môn nào dạy quý vị tu Động. Lễ Phật cũng là một môn tu hành, có người chuyên môn dùng phương pháp này để tu hành. Mỗi ngày lạy Phật ba ngàn lạy, đấy chẳng phải là “tĩnh thâm bất động” ư? Đúng vậy! Hằng ngày lễ Phật là động, vì sao có thể bất động? Bất động thì làm sao lễ Phật được? Bất động ở đây là tâm bất động, chứ không phải thân bất động. Thân bất động, suốt ngày từ sáng đến tối nhìn vào vách, trong tâm vẫn khởi vọng tưởng, có ích gì đâu! Bảo quý vị “nhất tâm bất loạn”, chứ đâu có bảo quý vị “nhất thân bất loạn!” Lễ Phật thân tuy động, nhưng tâm bất động, trong tâm lắng trong đến mức cùng cực sẽ tự nhiên cảm ứng; sự cảm ứng ấy khiến cho tam tế, lục thô dần dần bị đào thải, dần dần chuyển biến thành Định – Huệ. Do vậy, lễ Phật là một phương pháp tu hành rất xảo diệu, thậm chí xảo diệu hơn kinh hành. Hiểu được nguyên tắc này, bất luận trong trường hợp nào, bất luận dùng phương pháp nào, cũng đều là tu tâm thanh tịnh, đều tu tâm bất động. Chỉ có không động tâm thì mới có thể thành tựu.
(Diễn) Sa thổ tự trầm.
(演) 沙土自沉。
(Diễn: Cát, đất tự chìm).
“Cát, đất” tỷ dụ phiền não. Tâm bất động thì mới đoạn được phiền não, phiền não đoạn rồi nghiệp chướng liền tiêu. Chúng ta muốn thật sự tiêu nghiệp chướng thì nhất định phải tu tâm thanh tịnh.
(Diễn) Thanh thủy hiện tiền, danh vi sơ phục khách trần phiền não.
(演) 清水現前,名為初伏客塵煩惱。
(Diễn: Nước trong hiện tiền thì gọi là “vừa mới chế phục khách trần phiền não”).
Đây chính là “hàng phục kỳ tâm” như kinh Kim Cang đã nói. Hàng phục cái tâm phải dùng Thiền Định rất sâu. Thiền Định: Quý vị đừng bị danh từ này mê hoặc, cứ ngỡ Thiền Định nói chung là ngồi xếp bằng, nhìn vào vách! Rất nhiều người chẳng thể thật sự liễu giải ý nghĩa được bao hàm trong danh tướng này. Bởi lẽ, học Thiền thì Lục Tổ Đàn Kinh là nguyên tắc chỉ đạo tối cao của Thiền Tông Trung Quốc. Trong Đàn Kinh có nói: “Chẳng chấp lấy tướng là Thiền, chẳng động tâm là Định!” Bất luận trong cảnh giới nào, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, quý vị chẳng chấp tướng thì gọi là Thiền. Chẳng khởi tâm, chẳng động niệm gọi là Định.
Do đây có thể biết rằng: Tịnh tọa hay không chẳng quan trọng, Định thật sự cao minh không có hình tướng, đi, đứng, nằm, ngồi đều là Thiền Định, vui cười, giận mắng cũng là Thiền Định. Đâu có ngốc nghếch cố chấp [phải ngồi Thiền mới là Thiền Định] như vậy! Phật pháp là sống động, hoạt bát; Thích Ca Mâu Ni Phật và các vị Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm, có vị nào chẳng hoạt bát, sống động? Do vậy, học Phật sợ nhất là học thành si ngốc, phiền phức lắm! Học hành trở thành kẻ cuồng chữ, học Phật biến thành kẻ cuồng Phật, sai mất rồi!
Bước đầu trong công phu tu học là chế phục phiền não. Khuất phục phiền não là “công phu thành phiến” trong pháp môn Niệm Phật. Nếu không chế phục được phiền não thì công phu chẳng thành tựu. Công phu thành phiến, quyết định vãng sanh. Các đồng tu phải đặc biệt chú ý điều này, chuyện này là chuyện của chính mình, đừng bận tâm đến chuyện của người khác. Đối với người khác, có duyên phận thì chúng ta giới thiệu pháp môn với họ. Họ có thể tiếp nhận, có thể y giáo phụng hành là họ có thiện căn, phước đức. Họ nghe xong, chẳng chịu làm theo hoặc hành chẳng đắc lực là do thiện căn, phước đức của họ quá ít, quý vị cũng chẳng cần phải nóng ruột: “Đối với người này phải làm cách nào đây, ta vẫn chưa thể độ hắn được!” Quý vị nóng ruột như thế thì tâm của chính mình lại bị đục ngầu. Không độ chúng sanh được, mà chính mình lại bị họ lôi xuống nước, phải chú ý điều này.
Chư Phật, Bồ Tát hoằng pháp lợi sanh, hằng ngày tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, chính các Ngài chắc chắn chẳng động tâm, chắc chắn chẳng khởi niệm, vĩnh viễn giữ gìn tâm địa thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần.
Có bản lãnh ấy thì mới có thể thả chiếc bè Từ. Chúng ta thường xử sự theo cảm tình, nhất là đối với bạn bè thân thiết, nếu tôi không độ họ, trong tâm khó chịu, nếu như tôi vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, họ chẳng thể vãng sanh thành công thì tôi quay lại bầu bạn với họ, lầm lẫn quá lớn. Thành tích là ở chỗ này, nhất định phải đoạn phiền não. Khi bắt đầu thì là chế phục phiền não trước, khi công phu định lực sâu hơn thì có thể đoạn được phiền não.
(Diễn) Khử nê thuần thủy, danh vi vĩnh đoạn căn bản vô minh.
(演) 去泥純水,名為永斷根本無明。
(Diễn: Khử bùn, [còn lại] thuần là nước thì gọi là vĩnh viễn đoạn dứt căn bản vô minh).
Cảnh giới này là Lý nhất tâm bất loạn, vì sao? Nó “vĩnh viễn đoạn dứt căn bản vô minh”, thuộc địa vị nào vậy? Thành Phật rồi! Thành Phật mới có thể vĩnh viễn đoạn dứt căn bản vô minh, Đẳng Giác Bồ Tát vẫn chưa làm được vì còn có một phẩm sanh tướng vô minh chưa đoạn. Chúng ta phải hiểu: Định ở mức độ cạn, Định nhỏ nhoi chỉ có thể chế phục phiền não. Thiền Định rất sâu mới có thể đoạn phiền não. Thế nhưng, [thật ra] Định chẳng thể đoạn vô minh, từ Định khai Huệ, Huệ mới có thể chiếu phá vô minh. Tâm Kinh nói Huệ là Bát Nhã sâu xa: “Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không”. Phải dùng trí huệ Bát Nhã để quán chiếu, chiếu kiến căn bản vô minh thì mới được, chứ dựa vào công phu định lực thì chưa được; nhưng trí huệ Bát Nhã từ Định sanh ra, không có Định sẽ chẳng có Huệ. Chúng ta đọc nhiều, nghe nhiều, nhớ nhiều kinh Phật một chút, bèn tưởng là trí huệ của chính mình mở mang, lầm rồi! Trí huệ mở mang mà phiền não, vô minh chưa đoạn thì phải hiểu đấy chẳng phải là trí huệ, mà là Thế Trí Biện Thông như trong Phật pháp đã nói. Thế Trí Biện Thông là một trong tám nạn của người học Phật, gặp nạn rồi! Loại trí huệ này gọi là Sở Tri Chướng. Học Phật phải phá hai thứ chướng, tăng trưởng Sở Tri Chướng mà lầm lẫn ngỡ là khai trí huệ, có hỏng bét hay là không?
Học Phật trong thời cận đại, trong nhà Phật có rất nhiều chuyện hiếm có, lạ lùng, cổ quái mà thuở xưa chưa hề có! Tôi thường gặp [người ta kể] “ông X… đã khai ngộ rồi”, còn có kẻ tự nói mình đã khai ngộ. Khí chất của người đã ngộ và chưa ngộ khác nhau! Người đã ngộ làm sao có vô minh? Làm sao có phiền não? Tôi ở ngoại quốc, nghe nói tại Los Angeles có mười mấy người trẻ tuổi đã khai ngộ. Tôi giảng kinh ở Los Angeles, bọn họ đến nơi ấy nghe tôi giảng kinh. Tôi nói: “Lạ nhỉ! Khai ngộ rồi thì còn nghe tôi giảng kinh để làm gì? Còn có chỗ nghe rồi không hiểu, còn phải nêu khá nhiều câu hỏi”, đủ thấy bọn họ chắc chắn chưa khai ngộ. Vì sao? Tôi chưa khai ngộ mà! Tôi chưa khai ngộ, nếu họ khai ngộ rồi, lẽ ra phải cao minh hơn tôi nhiều lắm chứ! Kết quả là so ra họ chẳng bằng tôi, đủ thấy bọn họ quả thật chưa khai ngộ. Chưa khai ngộ mà tự cho là mình đã khai ngộ, đại khái họ cũng chẳng phải là vọng ngữ, trong Phật pháp gọi họ là kẻ “tăng thượng mạn”, chưa khai ngộ mà tự cho là đã khai ngộ.
Tôi còn gặp người bảo tôi chính ông ta đã chứng quả. Tôi cũng chẳng có cách nào! Tôi bèn nói: “Hay quá! Tôi vẫn chưa chứng quả”, chẳng qua tôi bảo kẻ ấy: “Người thật sự chứng A La Hán chắc chắn có Lục Thông. Trong tâm tôi nghĩ tới chuyện gì, khởi vọng tưởng gì, ông có biết hay không? Nếu ông không biết, ông chẳng có Tha Tâm Thông. Chúng ta đang ở trong nhà, ngoài đường có xe gì chạy qua, ông có thấy được hay không? Cách vách mà không thấy thì ông chẳng có Thiên Nhãn Thông!” Khảo nghiệm từng chuyện, môn thần thông nào kẻ ấy cũng không có. Tôi nói: “Ông chẳng phải là A La Hán, A La Hán nhất định có thần thông”. Sau đó, kẻ ấy tự mình suy nghĩ, đại khái là chưa chứng đắc. Khó lắm! Có nhiều người nẩy sanh lầm lẫn, chưa chứng đắc mà cho là đã chứng đắc, chưa khai ngộ mà tưởng là đã khai ngộ. Thật ra là do đọc kinh quá ít, chẳng hiểu cảnh giới. Giống như chúng ta đi đường, từ Đài Bắc muốn đến Cao Hùng, khi đến được Bản Kiều bèn ngỡ là đã tới nơi: “Tôi đã đến Cao Hùng rồi!” hiểu lầm, chẳng hiểu cảnh giới!
Tu hành phải hiểu lý luận, phương pháp, còn phải biết cảnh giới. Biết cảnh giới giống như biết đường, biết rõ ràng công phu của chính mình đạt đến trình độ nào, con đường trước mặt phải đi như thế nào, còn bao xa, cũng phải biết thật rõ ràng, quyết chẳng lạc lối. Có những người chẳng dốc công phu nơi Định – Huệ, ở đâu cũng khoe khoang chính họ đã khai ngộ, lại còn muốn thỉnh đại pháp sư ấn chứng cho mình, thỉnh thượng sư Mật Tông ấn chứng. Đúng là mê! Ấn chứng cho kẻ ấy: “Người này khai ngộ! Kẻ kia chứng quả!” Kết quả toàn là giả! Do vậy, người hiểu lý thật sự phân biệt chân, vọng, tà, chánh, đúng, sai, quyết chẳng mê lầm phương hướng, chẳng bị kẻ khác lừa gạt, chẳng bị người ta đùa bỡn.
Hiện thời, kẻ gạt người rất đông, nhưng rất nhiều người bằng lòng bị gạt, nói lời thật với họ, họ không nghe, chẳng tin tưởng. Nói lời giả với họ, gạt gẫm họ, họ hết sức vui thích. Thậm chí kẻ gạt người nói: “Ông đến học với tôi, học mấy bữa tôi sẽ thọ ký cho ông: Ông là Bồ Tát này, chứng quả vị nọ”. Người ấy bèn đem hết của cải tích cóp trong nhà dâng cúng cho hắn. Những gã [lừa bịp] ấy chẳng sợ nhân quả báo ứng! Nếu những người ấy trong tương lai không chứng quả, bị gạt, thì thiếu nợ vẫn phải trả, thiếu nợ thì phải trả nợ, thiếu mạng phải đền mạng, đã khiến cho Pháp Thân huệ mạng của chúng sanh bị lầm lỡ, lại còn gạt gẫm tài vật, biết làm sao nữa! Hiện thời, trong thế gian hiện nay, hiện tượng này chẳng phải là không có, chúng ta học Phật phải chú ý, cẩn thận, phải biết phán đoán. Phương pháp duy nhất để phán đoán là đọc kinh, đối chiếu những điều kẻ ấy nói hay viết với kinh điển. Nếu trong mười câu có chín câu gần như đúng mà có một câu đáng đặt dấu hỏi thì toàn bộ đều có vấn đề!
Thủ đoạn của bọn gạt người rất xảo diệu, biến giả thành chân, người sơ học thường chẳng phân biệt chân và vọng, thoạt nhìn ngỡ là thật; thật ra, trong ấy có xen lẫn giả, chúng ta phải cẩn thận điều này. [Thủ đoạn] càng cao minh thì càng khó phân biệt. Kinh Lăng Nghiêm từ quyển Tám trở đi, kinh văn chiếm đến một quyển rưỡi nhằm giảng về năm mươi thứ Ấm Ma. Cảnh giới ma hiện tiền, chắc chắn quý vị coi nó là cảnh giới Phật.
Đối với bản lãnh hiện thời của chúng ta, nếu cảnh giới nào hiện tiền sẽ không có cách nào biện định được, nhất định sẽ bị gạt, đối với người tu hành chúng ta mà nói thì công phu sẽ vứt sạch, đáng tiếc lắm! Do vậy, cái hay của kinh Lăng Nghiêm là cảnh tỉnh chúng ta: Trong thế giới này, yêu ma quỷ quái quá nhiều, chỗ nào cũng có. Quý vị nhận biết chúng thì chúng nó sẽ không làm gì quý vị được! Nếu quý vị hiểu nguyên tắc tu hành, sẽ chẳng bị chúng nó lừa gạt. Nguyên tắc tu hành là “khuất phục phiền não, đoạn phiền não, phá vô minh”. Nguyên tắc tu học là phải “tăng trưởng công phu định lực, tăng trưởng cái tâm thanh tịnh, tăng trưởng trí huệ của chúng ta”. Có như vậy mới chẳng bị gạt! Nương vào Giới, Định, Huệ, thành tựu Văn, Tư, Tu; con đường ấy quyết định chính xác. Trong kinh luận, hết thảy chư Phật, Bồ Tát đều chỉ dạy chúng ta như thế. Khôi phục bổn tánh là như thế nào? Làm thế nào để thành tựu cái tâm thanh tịnh? Ý nghĩa ấy chính là “chuyển Ngũ Trược thành cõi Thanh Thái”, trong quyển cuối cùng của bộ sách này có một đoạn Sớ Sao rất dài nhằm thảo luận vấn đề này.
(Sớ) Vô minh sở dẫn, khí giác trục trần, vi viễn chân thể, cố danh viết Bối.
(疏) 無明所引,棄覺逐塵,違遠真體,故名曰背。
(Sớ: Do vô minh dẫn dắt, bỏ giác, đuổi theo trần, trái nghịch, xa lìa chân thể, nên gọi là Bối).
Đối với “thanh, trược, hướng, bối”, phần trên đã giảng về “thanh, trược”, ở đây lại giảng về “hướng, bối”.
(Diễn) Vô minh sở dẫn đẳng, thử vô minh, diệc tức căn bản vô minh. Giác tức Bổn Giác, Trần tức tam tế, lục thô.
(演) 無明所引等,此無明,亦即根本無明。覺即本覺,塵即三細六粗。
(Diễn: “Vô minh dẫn dắt” v.v… Vô minh ở đây cũng chính là căn bản vô minh. Giác chính là Bổn Giác, Trần là tam tế, lục thô).
“Khí giác, trục trần”: Khí (棄) là vứt bỏ, Giác là Bổn Giác. Nói thật ra, Khí là mê mất, tức mê mất Bổn Giác. “Trục” (逐) là nắm níu, tâm tâm niệm niệm nắm níu ngũ dục, lục trần. Trần (塵) ở đây là tam tế, lục thô. Ngũ dục, lục trần là những thứ thô nhất trong các tướng thô. Tướng rất thô chính là Khởi Nghiệp Tướng trong sáu tướng Thô. Chấp Thủ Tướng, Kế Danh Tự Tướng và Khởi Nghiệp Tướng đều là ngũ dục, lục trần.
(Diễn) Do vô minh sanh nghiệp tướng, nãi chí tạo nghiệp thọ báo, thị tiệm viễn Chân Như chi giác, tùy trục cảnh giới chi trần.
(演) 由無明生業相,乃至造業受報,是漸遠真如之覺,隨逐境界之塵。
(Diễn: Do vô minh sanh nghiệp tướng, cho đến tạo nghiệp, lãnh chịu quả báo, dần dần xa cách sự giác ngộ nơi Chân Như, chạy theo lục trần trong cảnh giới).
Đoạn này giải thích câu “vô minh bất giác sanh tam tế, cảnh giới làm duyên tăng trưởng lục thô”, tức là nói về quá trình phát triển của tam tế, lục thô, từ “vô minh nghiệp tướng” cho đến khi “tạo nghiệp thọ báo”, cả chín thứ tướng (tức tam tế và lục thô) đều được nêu ra. Trải qua quá trình phát triển như vậy mà dần dần xa lìa Chân Như, trái nghịch Bổn Giác. “Tùy trục” cũng là nắm níu trần duyên trong cảnh giới.
(Diễn) Như cùng tử xả phụ đào thệ, cố danh viết Bối.
(演) 如窮子捨父逃逝,故名曰背。
(Diễn: Như đứa con nghèo túng bỏ cha trốn đi, nên gọi là Bối).
Câu này là một thí dụ trong kinh Pháp Hoa. Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật có kể một câu chuyện rất dài: Đứa con trai của vị trưởng giả giàu to quên mất cái nhà của chính mình, bỏ trốn ra ngoài đi xin ăn, khổ sở khôn xiết! Trái nghịch Bổn Giác cũng giống như vậy; vì sao trái nghịch Bổn Giác? Sau khi vô minh khởi lên, sẽ mê mất bổn tánh.
(Sớ) Phản kỳ khứ lộ, phục sử quy hoàn, tư chi vị Hướng.
(疏) 返其去路,復使歸還,斯之謂向。
(Sớ: Quay ngược lại con đường đã đi, khiến cho trở về, đấy gọi là Hướng).
Đoạn này nhằm giải thích ý nghĩa chữ Hướng. Hướng (向) là quay đầu lại, trong nhà Phật thường nói “hồi đầu thị ngạn” (quay đầu lại sẽ là bờ). Quay đầu thì từ đâu mà quay? Trước hết là từ ngũ dục lục trần mà quay lại, rồi mới lại từ lục thô, tam tế mà quay về. Như vậy thì mới có thể trở về bổn tánh, nhưng trong đoạn này, sách cũng nói, đấy chính là điều được diễn đạt trong bản kinh này:
(Sớ) Tức chỉ bối Sa Bà nhi hướng Cực Lạc dã.
(疏) 即指背娑婆而向極樂也。
(Sớ: Tức là nói “trái nghịch Sa Bà để hướng về Cực Lạc” vậy).
Ở đây đại sư khuyên chúng ta hãy nên lìa khỏi thế giới Sa Bà, quy hướng thế giới Cực Lạc. Thế giới Sa Bà quả thật là khổ, chẳng thể giải quyết vấn đề. Ngay cả tu Thiền Định thế gian cũng chẳng dễ dàng, đừng nói là Thiền Định xuất thế gian. Sơ Thiền trong Thiền Định thế gian chẳng dễ gì thành tựu! Ngàn vạn phần chớ nên coi “Thiền ngoài cửa miệng, Thiền kiểu chồn hoang” là Thiền Định của Như Lai, lầm lạc mất rồi! Trong tâm mới đạt được một tí khinh an liền lầm tưởng chính mình đã nhập Định, lầm lạc quá lớn, tự mình dối gạt chính mình! Khi dối gạt người khác chính là tự dối gạt chính mình trước! Hạng người ấy rất ngu si, người thông minh quyết chẳng tự gạt mình. Lời chú giải cho đoạn này giảng rõ Lục Thô.
(Diễn) Phản kỳ khứ lộ giả, vị bất tu biệt tầm quy lộ, tức tựu lộ hoàn gia, tiện đắc phản thân kiến phụ.
(演) 返其去路者,謂不須別尋歸路,即就路還家,便得返身見父。
(Diễn: “Quay ngược lại con đường đã đi” ý nói: Chẳng cần phải tìm con đường nào khác, cứ theo đường ấy mà trở lại nhà, sẽ được xoay mình gặp cha).
Đây là tỷ dụ. Chính vì như vậy, đức Phật mới mở ra tám vạn bốn ngàn pháp môn, với ý nghĩa nhằm làm cho ai nấy đều theo đường trở về nhà, chẳng đi đường vòng. “Nhà”: Chân Như bổn tánh giống như cái tâm của vòng tròn, còn lũ chúng sanh chúng ta giống như đang đứng trên rìa ngoài của vòng tròn. Quý vị muốn đi đến cái tâm của vòng tròn thì phải đi thẳng theo đường kính, về thẳng đến nhà, chẳng thể đi quanh quẹo. Người khác tu pháp môn khác, người ấy cứ đứng ngay tại điểm đó, theo lối đó trở về nhà. Ta đứng tại điểm này, ta cũng có thể theo đường này trở về nhà. Ta chẳng cần đánh một đường vòng, học theo người ta. [Học theo người ta] chưa chắc đã có thể về đến nhà! Học Phật nhất định phải khế cơ; khế cơ là thích hợp với căn tánh và trình độ của chính mình, lại còn có thể thích hợp hoàn cảnh sống hiện thời, chẳng gây chướng ngại hay mâu thuẫn với cuộc sống hiện tại của chúng ta, tu hành như vậy sẽ thuận tiện. Có nhiều pháp môn là vì muốn thích hợp với những người có căn tánh khác nhau; do vậy, đức Phật giảng nhiều pháp môn vì chẳng phải chỉ giảng cho một cá nhân. Ví như bác sĩ trị bệnh kê rất nhiều toa thuốc, những toa thuốc ấy chẳng phải chỉ vì một người mà kê toa. Có những pháp môn chẳng thích hợp cho chúng ta tu học, tu tập những pháp môn ấy chỉ chuốc thêm phiền, tăng trưởng phiền não, tăng trưởng tà kiến. Những pháp môn ấy có phải do đức Phật nói ra hay không? Do đức Phật nói, nhưng chẳng hợp với căn cơ của chúng ta, chẳng khế cơ mà!
Vì vậy, nhất định phải chọn lựa pháp môn. Khi đức Phật còn tại thế, chẳng cần phải chọn lựa vì quý vị đến thưa hỏi đức Phật, đức Phật bèn nói một pháp môn, giống như quý vị đi khám bệnh, thầy thuốc ngay lập tức kê toa. Hiện thời, đức Phật chẳng còn trụ thế nữa, những kinh điển được lưu lại chính là các toa thuốc đã kê cho rất nhiều người thuở ấy. Không có cách nào kê toa thuốc cho thật khớp với căn bệnh mà chúng ta đang mắc phải hiện thời. Bác sĩ chỉ dựa theo bệnh tình mà kê toa, chứ bệnh nhân chẳng thể bị bệnh đúng như [triệu chứng mô tả] trong toa thuốc được! Nay đức Phật đã không còn trụ thế, kinh điển là toa thuốc, chúng ta lấy đọc, suy xét mỗi toa thuốc có thể trị được căn bệnh của ta hay không. Nếu nhận thấy toa thuốc ấy chẳng thích hợp với căn bệnh cho lắm, phải nhanh chóng thay đổi cho phù hợp, thay đổi toa thuốc, thay đổi phương pháp, [ngõ hầu] chính mình đạt được một chút lợi ích trong sự tu học là tốt rồi, bèn có thể tiếp tục nỗ lực không ngừng, công hiệu là nhất định đoạn được phiền não.
(Diễn) Tiên phá chấp thủ kế danh, không kỳ Nhân Chấp.
(演) 先破執取計名,空其人執。
(Diễn: Trước hết là phá chấp trước nắm giữ so đo danh tự, khiến cho Nhân Chấp rỗng không).
Cương lãnh được nói ở đây chính là nguyên tắc chung cho tất cả các pháp môn. Bất cứ pháp môn nào trong tám vạn bốn ngàn pháp môn đều chẳng thể trái nghịch [nguyên tắc này]. Nếu trái nghịch nguyên tắc, nguyên lý này, chắc chắn chẳng phải là Phật pháp. Công phu tu hành sơ bộ chính là phá Chấp Thủ Tướng. Tướng thứ nhất trong sáu thô tướng chính là Trí Tướng, thứ hai là Tương Tục Tướng, thứ ba là Chấp Thủ Tướng, thứ tư là Kế Danh Tự Tướng. “Kế” (計) là so đo, phân biệt, “danh” (名) là danh tướng, “chấp” (執) là chấp trước, “thủ” (取) là lấy – bỏ. Trong hết thảy các pháp, quý vị khởi phân biệt, chấp trước, có cái tâm lấy – bỏ, được – mất, hoàn toàn do Ngã Chấp (Nhân Ngã Chấp) phát sanh.
Chẳng lìa được những thứ ấy, Ngã Chấp tăng trưởng! “Nhân Chấp” chính là Nhân Ngã Chấp (chấp trước có ta, có người). Nếu còn những thứ này, sẽ chẳng phá được Nhân Ngã Chấp, chúng ta niệm Phật chẳng thể thành tựu Sự nhất tâm. Liên Trì đại sư, Ngẫu Ích đại sư đều bảo với chúng ta như thế này: Phá Nhân Ngã Chấp, đắc Sự nhất tâm bất loạn. Phá Pháp Ngã Chấp (phá Pháp Chấp), đắc Lý nhất tâm bất loạn. Điều này rất khẩn yếu! Công phu niệm Phật của chúng ta phải nhìn từ chỗ này; đó là thành tích, đạt đến tiêu chuẩn ấy, biết chính mình đã đạt đến nhất tâm bất loạn.
Pháp môn Niệm Phật dùng một câu danh hiệu, câu danh hiệu ấy từng tiếng đều nhắc nhở chính mình. Trong cảnh giới, chúng ta vừa mới có phân biệt (so đo danh tự là phân biệt), một câu A Di Đà Phật liền lay tỉnh chính mình. Nam-mô A Di Đà Phật, có nghĩa là Vô Lượng Giác. Trong cái tâm giác ngộ không so đo tướng danh tự, không chấp trước hay giữ lấy tướng, trong mê hoặc mới có! Hy vọng chúng ta trong khi mê sẽ nhanh chóng dùng một câu Phật hiệu hét cho chính mình quay đầu lại, đấy là quay về. “Tựu lộ hồi gia” (theo đường trở về nhà) thì Phật hiệu mới có ích. Quyết chẳng phải là nói tôi mỗi ngày niệm mấy ngàn tiếng, mấy vạn tiếng Phật hiệu, chắc là A Di Đà Phật rất hoan hỷ, rất ưa thích tôi, trong tương lai khi tôi lâm chung, Ngài nhất định đến đón tôi! Đấy vẫn là so đo danh tự y như cũ, vẫn là chấp lấy y hệt như cũ, hằng ngày tăng trưởng cả đống phiền não, chẳng thấy nhạt bớt mấy phần, không được rồi! Toàn là hiểu lầm, toàn là sai lạc! Kinh dạy chúng ta điều kiện vãng sanh là “nhất tâm bất loạn, tâm chẳng điên đảo”, chứ hoàn toàn không dạy “hằng ngày niệm bao nhiêu câu Phật hiệu, không cần phải nhất tâm bất loạn”, không hề nói điều đó! Nhất định phải hiểu đạo lý này, nhưng Phật hiệu chớ nên gián đoạn, vì sao? Hễ gián đoạn, vọng tưởng sẽ khởi lên, nghiệp chướng quá nặng mà!
Do vậy, đổi tất cả vọng niệm thành một câu, tức là một câu Phật hiệu, đổi thành một niệm; nhưng mỗi câu Phật hiệu đều phải giác ngộ trong mỗi tiếng, chớ nên mê! Do vậy, kinh, sớ, luận chẳng thể không đọc, chẳng thể không nghiên cứu! Nếu không, tuy niệm một câu danh hiệu này, vẫn là hồ đồ mê muội niệm, mỗi tiếng đều mê hoặc, điên đảo, chứ không phải là mỗi tiếng đều giác ngộ, vô ích! Cổ đức nói: “Hãm phá hầu lung dã uổng nhiên” (hét vỡ cuống họng cũng uổng công). Một ngày niệm mười vạn tiếng Phật hiệu, hét rách toạc cuống họng có ích chi đâu, vì sao? Chẳng thể đoạn phiền não! Chẳng thể phá Ngã Chấp! Kẻ ấy chẳng biết cách phải niệm Phật hiệu như thế nào! Mười vạn câu Phật hiệu của kẻ ấy, mỗi tiếng đều mê muội chẳng giác, không được rồi!
Phật dạy chúng ta niệm câu Phật hiệu sao cho từng tiếng giác chứ chẳng mê, từ trong mê gọi chính mình hãy quay đầu giác ngộ, ý nghĩa là như vậy đó! Do vậy, xét đến thành tích thì phải phá phân biệt, chấp trước. Trong cuộc sống thường nhật, người niệm Phật tâm phân biệt, chấp trước phải mỗi ngày một nhạt mỏng hơn, cảnh giới ấy là cảnh giới tốt đẹp, công phu có tiến bộ. Mỗi ngày thấy [phiền não, chấp trước] nhạt hơn chính là thấy thấu suốt, mỗi ngày đều có thể buông xuống dễ hơn, như vậy là niệm Phật hiệu đắc lực, có sức kha khá, Ngã Chấp tự nhiên phá trừ.
(Diễn) Thứ phá Tương Tục, Trí Tướng, đãng kỳ Pháp Chấp.
(演) 次破相續智相,蕩其法執。
(Diễn: Kế đó là phá Tương Tục Tướng và Trí Tướng, quét sạch Pháp Chấp).
Lại tiếp tục phá Tương Tục Tướng và Trí Tướng, đây là Pháp Chấp trong thức thứ bảy. Trong phần trước là Ngã Chấp, ở đây là Pháp Chấp. Nay chúng ta gọi Pháp Chấp là “tri kiến”. Phàm là tri kiến thì đều là Sở Tri Chướng. Do vậy, quý vị học này nọ, học nhiều như vậy để làm gì? Học càng nhiều, Sở Tri Chướng càng nặng. Trí huệ chân thật là như kinh Đại Bát Nhã đã nói “Bát Nhã vô tri”. Quý vị hỏi Phật, Bồ Tát: “Ngài có trí huệ hay chăng?” Các Ngài sẽ nói: “Tôi không có trí huệ”. Trong Đàn Kinh, có người hỏi Lục Tổ, Lục Tổ nói: “Ta không biết, ta cũng chẳng hiểu”. Ngài nói lời ấy chẳng phải là gạt người, mà cũng chẳng phải là khiêm hư, thật sự là không có. Trong tâm thanh tịnh chẳng có gì hết, “vốn chẳng có một vật”, lẽ nào có tri kiến? Không có! Bát Nhã đúng là vô tri, vô tri thì tâm mới thanh tịnh. Khi nó khởi tác dụng, giống như tấm gương soi cảnh giới bên ngoài: Khi soi thì không gì chẳng biết, ngay khi nó đang soi, chính nó vẫn chẳng biết, vẫn là thanh tịnh, quyết chẳng bị ô nhiễm, đấy mới là trí huệ chân chánh. Nay chúng ta dùng “thấy, nghe, hay, biết” để nhận biết những thứ ấy thì hoàn toàn là tà tri, tà kiến, toàn là Sở Tri Chướng.
Do vậy, nghe kinh phải lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, lìa cả ba tướng ấy thì quý vị nghe kinh có thể tăng trưởng trí huệ. Nếu chấp vào ba tướng ấy, quý vị nghe kinh sẽ tăng trưởng tà kiến, tăng trưởng Sở Tri Chướng. Đây là mấu chốt rất quan trọng. Trong Hoa Nghiêm Kinh Huyền Nghĩa, khi giảng về tựa đề kinh, Thanh Lương đại sư đã nói rất rõ ràng: Kẻ chẳng khéo học rất dễ dàng rớt vào tà kiến và vô minh. Do vậy, phải biết học! Trong ấy có phương tiện thiện xảo. Không hiểu phương tiện thiện xảo thì quý vị nghe kinh sẽ chuyên nhớ danh tướng, tức là chấp vào tướng ngôn thuyết, tướng danh tự, hoặc là nghe xong bèn suy nghĩ câu kinh này có đạo lý như thế nào, tức là khởi vọng tưởng, chấp vào tướng tâm duyên. Nghe bằng phương tiện thiện xảo thật sự là “nghe mà không nghe, không nghe mà nghe”, cao minh đấy! Nghe kinh như vậy sẽ tăng trưởng công phu định lực, tăng trưởng trí huệ.
Ví như quý vị nghe giảng kinh ở nơi đây, trong hai tiếng đồng hồ, quý vị nghe từng câu rõ ràng, rành mạch phân minh, đó là trí huệ. Lúc nghe, trong tâm quý vị bất động, chẳng động tâm, chẳng khởi niệm, đó là Thiền Định. Trong hai tiếng đồng hồ ở nơi đây, quý vị tu điều gì? Định – Huệ song tu, có Định, có Huệ. Nếu khi quý vị nghe kinh mà chấp tướng danh tự, chấp tướng ngôn thuyết, lại còn suy nghĩ câu này có những đạo lý này nọ, thì Định lẫn Huệ đều chẳng có, mà nghe những thứ gì vậy? Danh ngôn thế gian, đó là pháp thế gian! Phật pháp và thế gian pháp sai khác trong một niệm. Quý vị nghe pháp thế gian, nghe Phật học cũng là Phật học thế gian, vô ích! Phật học thế gian tăng trưởng Pháp Chấp, tăng trưởng Sở Tri Chướng. Do vậy, biết giảng chẳng bằng biết nghe, biết nghe cao minh lắm! Chỉ cần quý vị biết nghe thì ai giảng kinh cũng đều có thể nghe, vì sao? Quý vị nghe giảng tại nơi đó, tu Định – Huệ của chính mình, quyết chẳng chấp tướng. Người biết nghe, trí huệ thật sự hiện tiền, đấy là có đại định rất sâu, có Bát Nhã rất sâu, đến khi ấy, Định và Huệ của người ấy không gì chẳng tăng trưởng, cảnh giới đương nhiên khác hẳn, dần dần sẽ càng nâng cao hơn.
Phá Pháp Chấp là địa vị Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, đạt đến Lý nhất tâm bất loạn. Sau đấy còn có chuyện gì nữa hay chăng? Còn chứ! Vì sao? Vẫn chưa viên mãn! Trong Viên Giáo, từ Sơ Trụ cho đến quả vị Như Lai còn có bốn mươi hai tầng cấp; do vậy, trong Lý nhất tâm bất loạn có bốn mươi hai mức độ, tuy đều chứng đắc Lý nhất tâm, nhưng công phu có sâu hay cạn khác nhau. Thập Trụ Bồ Tát chứng đắc nông cạn. Thập Địa Bồ Tát chứng đắc sâu xa.
(Diễn) Thứ phá tam tế Lại Da, quy ư giác thể.
(演) 次破三細賴耶,歸於覺體。
(Diễn: Kế đó là phá ba tế tướng trong A Lại Da thức, trở về giác thể).
Lại phải “phá tam tế Lại Da”, có thể phá được ba tế tướng trong A Lại Da thức, sẽ đắc nhất tâm bất loạn rất sâu, chẳng nông cạn. Phá ba tế tướng (Nghiệp Tướng, Chuyển Tướng, Cảnh Giới Tướng) trong A Lại Da thức chính là bắt đầu bước vào hàng Bát Địa Bồ Tát trong Viên Giáo, Bát Địa là Bất Động Địa. Khi ấy, A Lại Da thức bắt đầu chuyển thành Đại Viên Kính Trí, mãi cho đến khi viên thành Phật quả thì mới là “trở về giác thể”.
(Diễn) Tư chi vị Hướng dã.
(演) 斯之謂向也。
(Diễn: Đó gọi là Hướng).
Đây là ý nghĩa của chữ Hướng. Đây là nguyên tắc chung của ngàn kinh muôn luận, quyết định chẳng có ngoại lệ; ngay cả pháp môn Tịnh Độ của chúng ta cũng chẳng thể trái nghịch được! Trái nghịch nguyên tắc, nguyên lý này thì sẽ là ma thuyết, chẳng phải là Phật thuyết! Thế nhưng pháp môn Tịnh Độ là pháp môn đặc biệt, tức là dạy quý vị hãy lìa khỏi thế giới Sa Bà, cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ. Vì sao? Dễ dàng hơn! Chúng ta muốn phá Ngã Chấp, phá Pháp Chấp, sợ rằng trong một đời sẽ chẳng thể làm được. Tuy không làm được, nhất định phải làm được, chẳng thể nói là “làm không được”, chúng ta bèn không làm, sai mất rồi! Làm không được cũng phải làm. Làm được mấy phần thì tính mấy phần, vẫn tốt hơn chẳng làm! Nhất định phải làm! Thật ra, làm không được, vẫn còn có thể đới nghiệp vãng sanh, đới nghiệp (nghiệp mang theo) chính là Ngã Chấp và Pháp Chấp. Ngã Chấp lẫn Pháp Chấp chưa phá thì có thể mang sang Tây Phương Cực Lạc thế giới để phá. Đây là tình hình trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Phá Ngã Chấp, sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư. Phá Pháp Chấp sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm.
Thế giới Cực Lạc quả thật quá thù thắng. Trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư có trọn đủ các sự thù thắng của cõi Phương Tiện và Thật Báo; nói thô thiển một chút thì [trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư] sự hưởng thụ, đãi ngộ, những điều tốt lành [trong hai cõi Phương Tiện và Thật Báo] đều có hết. Điều này chẳng thể thấy trong những thế giới khác, chỉ riêng Tây Phương Cực Lạc thế giới có tình trạng này. Do vậy, đúng là Tây Phương Cực Lạc thế giới thù thắng khen ngợi khôn cùng. Cũng chính vì vậy, mười phương chư Phật mới hiện tướng lưỡi rộng dài đến chứng minh cho Thích Ca Mâu Ni Phật, chứng minh những lời Phật Thích Ca đã nói là lời thành thật. Trong kinh văn, lưỡi chư Phật thè ra che khắp tam thiên đại thiên thế giới, có đồng học nói câu này rất khó hiểu, gần như chẳng thể nào có chuyện này!
Hiện thời quý vị nghĩ không thể nào có chuyện này, thì khi nào quý vị đạt đến địa vị Bồ Tát, sau khi đã phá hết Ngã Chấp, quý vị sẽ giác ngộ đấy là chuyện có thể xảy ra, vì sao? Kinh Phật nói đến hết thảy các pháp, tướng lưỡi rộng dài cũng là một pháp, “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Nếu tâm thức chẳng thể biến hiện tướng ấy thì tâm thức có công năng hữu hạn, làm sao có thể gọi là “vạn đức, vạn năng”, chẳng thể nói là “vốn sẵn đầy đủ”.
Khi ngộ đạo, Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn sẵn đầy đủ”, [nếu nghi ngờ câu “quảng trường thiệt tướng” trong kinh Di Đà] thì phải mở ngoặc chú thích “chẳng trọn đủ tướng lưỡi rộng dài”, đối với câu “nào ngờ tự tánh, có thể sanh vạn pháp” lại phải chú thích thêm “chẳng thể sanh ra tướng lưỡi rộng dài có thể che khắp tam thiên đại thiên thế giới”, nhưng đâu có chú giải như vậy, cho thấy quả thật là vốn sẵn trọn đủ, có thể sanh ra vạn pháp. Chúng ta nghĩ thông suốt đạo lý này, chẳng còn hoài nghi nữa!
Có Lý ắt có Sự, có Sự nhất định phải có Lý. Lý – Sự bất nhị thì mới là chánh thuyết. Thế nhưng trong trường học, gặp gỡ bạn học, nếu họ hoài nghi thì quý vị không cần phải nói theo cách ấy. Vì sao? Đối với hàng sơ học, có những Lý chẳng thể giảng rõ được, càng biện luận họ càng hồ đồ, càng rối ren. Có thể tạm thời dùng cách nói phương tiện sao cho họ chẳng hoài nghi, sanh tín tâm đối với Phật pháp, chúng ta nhằm đạt đến mục đích ấy, cần gì cứ phải nói rườm rà truy đến tận gốc, tận đáy như vậy? Có làm như vậy, họ cũng chẳng hiểu rõ. Do vậy, đức Phật thuyết pháp đối với mỗi người mỗi khác, đối với kẻ trình độ cạn thì nói pháp cạn, với kẻ trình độ sâu thì nói pháp sâu, đức Phật không có cách nói nhất định, nhưng chắc chắn chẳng trái nghịch chân lý, quyết định chẳng trái nghịch.
(Sớ) Nhiên thử thả tựu chúng sanh nhất kỳ tùng mê đắc ngộ nhi ngôn, tự hữu trừng chi, phản chi chi tích, nhi ư tự tánh, thật vô đắc thất, diệc vô tăng tổn. Thị cố thời trược, thời thanh, thủy phi dịch tánh, hốt bối, hốt hướng, nhân vô nhị thân.
(疏) 然此且就眾生一期從迷得悟而言,似有澄之返之之跡,而於自性,實無得失,亦無增損。是故時濁時清,水非易性;忽背忽向,人無二身。
(Sớ: Đây là dựa theo chúng sanh từ mê được ngộ trong một đời để nói, nên dường như có những hình tướng, dấu vết lắng trong, quay trở lại, chứ trong tự tánh, thật sự chẳng có được, mất, cũng không có tăng hay tổn. Vì thế, có lúc đục, có lúc trong, tánh nước chẳng đổi, chợt hướng về, chợt trái nghịch, nhưng người chẳng có hai thân).
Lại xiển minh ý nghĩa “vốn chẳng có một vật”, “vốn sẵn thanh tịnh” thì làm gì có những thứ “trong, đục, hướng về, trái nghịch”. Chắc chắn chẳng có! “Chúng sanh nhất kỳ”, “nhất kỳ” là một đời, trong một đời này, không nói tới đời trước, cũng chẳng nói tới đời sau, mà nói ngay vào đời hiện tại của chúng ta. Từ mê mà khai ngộ, giống như có những dấu tích, tướng mạo “trừng chi, phản chi” (lắng trong, quay trở lại). Trước kia chúng ta mê hoặc, điên đảo, gặp được Phật pháp, y giáo tu hành, khai ngộ.
Thật ra, khai ngộ có tiểu ngộ, có đại ngộ, có đại triệt đại ngộ. Ai nấy đều có tiểu ngộ, mỗi ngày đọc kinh, nghe kinh có chỗ ngộ thì tiểu ngộ tích tập sẽ biến thành đại ngộ. Tuy vậy, tâm nhất định phải thanh tịnh, phiền não phải nhẹ đi thì mới có thể tích tập tiểu ngộ thành đại ngộ. Nếu quý vị nói là đã ngộ mà phiền não hoàn toàn chẳng giảm nhẹ, thậm chí ngày càng nặng thêm, thì dẫu là có tích tụ bao nhiêu tiểu ngộ đi nữa, cũng chẳng thể trở thành đại ngộ được!
Thật sự ngộ thì ngộ là khai trí huệ, trí huệ có thể chế phục phiền não, phá được vô minh. Dẫu chưa phá được vô minh, cũng có thể nhạt bớt một chút, có công năng như vậy. Thế nhưng có người ngộ, nhưng cái ngộ ấy là giải ngộ, chứ không phải là chứng ngộ. Giải ngộ chẳng thể liễu sanh tử. Vì giải ngộ chỉ là hiểu rõ trên mặt Lý; tuy đã hiểu Lý, giống như đã biết đường nhưng vẫn chưa đi. Nói cách khác, phiền não chưa đoạn, chưa hết sanh tử, tuy biết đường, đâu có ích gì! Giải ngộ vô ích, cổ nhân chê là “kể chuyện ăn, đếm của báu”.
Kẻ ấy chẳng phải là tà tri tà kiến, chẳng phải là Pháp Chấp, thật sự hiểu rõ, nhưng không y giáo tu hành! Nói cách khác, kẻ ấy không tu Định. Người ngộ rồi nhất định sẽ tu Định, lại còn dễ thành tựu Định ấy, vì người ấy đã biết đường, hiểu cái hay của Định, lại hiểu phương pháp tu hành, sẽ tu nhanh hơn người khác. Đấy là giải ngộ rồi phải tu chứng, ngộ hậu khởi tu, cách thức này khá cao minh!
“Tu chứng nhất kỳ” là khi tu chứng trong một đời này, sẽ có những dấu vết “lắng trong, nhơ đục, hướng về, trái nghịch” để có thể thấy được, nhưng phải hiểu rằng: Nếu nói theo phương diện Chân Như tự tánh thì không có những dấu vết, hình tướng ấy, chắc chắn sẽ không có! “Thật sự không có được – mất”, trong chân tâm không có được – mất, được – mất là vọng tâm, “cũng không có tăng hay tổn”, trong chân tâm không có tăng hay tổn. Khi mê, pháp tài công đức của chúng ta bị tổn hoại, mất đi, khi ngộ sẽ lại có. Thật ra, trong chân tánh không có được, mất, tăng, tổn.
Tiếp theo đó là tỷ dụ, “lúc đục, lúc trong”. Nước có khi đục, có khi trong, nhưng “tánh nước chẳng thay đổi”. Tánh của nước vốn thanh khiết, hoàn toàn chẳng biến đổi. Trong hay đục chẳng thể biến đổi tự tánh của nó. Vì sao? Vì nước hoàn toàn không ô nhiễm, nước là nước, bùn cát là bùn cát. Dường như tạm thời lẫn lộn, nhưng để nó lắng lại thì nước vẫn là nước, bùn cát vẫn là bùn cát, tự nhiên lắng xuống. Chúng ta phải hiểu lý này. “Chợt trái nghịch, chợt hướng về”: Có lúc thì trái nghịch, có lúc hướng về, “người không có hai thân”: Vẫn là cùng một người, “trái nghịch” và “hướng về” chẳng qua do cái thân của chính mình chuyển biến đôi chút. Những điều này đều là nói tỷ dụ.
Tiếp theo, sách nêu một tấm gương về công phu tu chứng của bậc cổ đức để làm gương. Đoạn công án này trích từ Lục Tổ Đàn Kinh, đây là chuyện của thiền sư Hoài Nhượng, môn đồ đắc ý của Lục Tổ đại sư. Hôm nay đã hết giờ rồi!
— o0o —
Tập 19
Xin đọc A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, trang hai mươi:
(Sớ) Sở vị: Tu chứng tức bất vô, nhiễm ô tức bất đắc dã.
(疏) 所謂修證即不無,污染即不得也。
(Sớ: Nói: “Tu chứng tức là chẳng không, nhiễm ô là chẳng đắc”).
Đây là hai câu trong Lục Tổ Đàn Kinh, bao hàm ý nghĩa vô cùng sâu xa, mang nguyên tắc chỉ đạo rất hay cho sự tu học của chúng ta, hãy nên học tập. Đoạn công án này phát xuất từ chương Tham Thỉnh Cơ Duyên trong [Pháp Bảo] Đàn Kinh.
(Diễn) “Tu chứng tức bất vô” giả, Nam Nhạc Nhượng thiền sư tham Lục Tổ.
(演) 修證即不無者,南岳讓禪師參六祖。
(Diễn: “Tu chứng tức chẳng không”: Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng tham yết Lục Tổ).
Vị này là thiền sư Hoài Nhượng, Ngài là sư phụ của thiền sư Mã Tổ. Thiền sư Đạo Nhất họ ngoài đời là Mã, nên trong Thiền Tông gọi Ngài là Mã Tổ, Ngài có ảnh hưởng hết sức sâu xa đối với Phật giáo Trung Quốc: “Mã Tổ kiến tùng lâm, Bách Trượng lập Thanh Quy” (Mã Tổ dựng tùng lâm, Bách Trượng lập Thanh Quy). Thoạt đầu, hai vị này hợp tác kiến lập chế độ tùng lâm cho Trung Quốc. Lục Tổ là đời thứ sáu, thiền sư Hoài Nhượng là đời thứ bảy, Mã Tổ là đời thứ tám, là đồ tôn của Lục Tổ. Thiền sư Hoài Nhượng đến chỗ Lục Tổ tham học.
(Diễn) Tổ vấn: “Thậm xứ lai?”
(演) 祖問甚處來。
(Diễn: Tổ hỏi: “Từ đâu đến?”)
Lục Tổ hỏi Ngài: “Ông từ nơi nào đến đây?”
(Diễn) Nhượng vân: “Tung Sơn”.
(演) 讓云:嵩山。
(Diễn: Ngài Hoài Nhượng thưa: “Tung Sơn”).
Ngài từ Tung Sơn đến. Tung Sơn[53] là Trung Nhạc. Về sau, Ngài trụ tại Nam Nhạc. Nam Nhạc là Hành Sơn thuộc tỉnh Hồ Nam.
(Diễn): Tổ vân: “Nhẫm ma vật? Nhẫm ma lai?”
(演) 祖云:恁麼物,恁麼來。
(Diễn: Tổ nói: “Vật gì thế? Đến như thế nào?”)
Đây là cách nói thông dụng thời Đường, nói theo cách bây giờ là: “Rốt cuộc là vật gì vậy? Đến như thế nào?” Có ý nghĩa như vậy đó! Tức là hỏi: “Ngươi đến rồi, vậy thì ngươi là vật gì vậy?” Đây là cách cật vấn trong nhà Thiền, học trò đến xin tham học phải vượt qua được câu trắc nghiệm này, lời cật vấn được gọi là “cơ phong”[54]. Lục Tổ khảo nghiệm ngài Hoài Nhượng. Thiền sư Hoài Nhượng hết sức thông minh, liền hiểu ngay “âm thanh ngoài dây đàn” trong câu nói của Lục Tổ, Ngài trả lời:
(Diễn): Nhượng vân: “Thuyết tự nhất vật, tức bất trúng”.
(演) 讓云:說似一物即不中。
(Diễn: Hoài Nhượng thưa: “Nếu nói là dường như có một vật sẽ chẳng trúng”).
Ý nghĩa của câu này là “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh xứ diệt”, nói không được. Nếu nói là dường như có vật chi đó, là vật gì đó, thì đã sai rồi! Đúng như Thiền gia đã nói: “Khai khẩu tiện thác, động niệm giai quai” (Mở miệng liền trật, suy nghĩ đều sai). Câu trả lời này hết sức cao minh, đủ thấy cảnh giới của Ngài cao lắm. Nếu tổ sư hỏi hai câu mà Ngài đáp: “Tôi là một người tu hành”, tôi đến như thế nào ư? “Tôi đi bộ đến đây” hay: “Tôi ngồi xe đến đây”. Đáp kiểu ấy cũng không sai, nhưng Tổ Sư nói: “Hay lắm! Biết ngươi thuộc tiêu chuẩn phàm phu, không có kiến địa!” Thiền sư Hoài Nhượng đáp như vậy, gần như là đã đạt đến cảnh giới kiến địa, đương nhiên cảnh giới khá cao. Lục Tổ tiếp tục hỏi:
(Diễn) Hoàn giả tu chứng phủ?
(演) 還假修證否。
(Diễn: Vẫn còn phải nhờ vào tu chứng ư?)
“Giả” (假) là nhờ cậy. Vẫn còn phải nhờ vào tu hành để chứng quả hay sao?
(Diễn) Vân: “Tu chứng tức bất vô, nhiễm ô tức bất đắc”.
(演) 云:修證即不無,染污即不得。
(Diễn: Thưa: “Tu chứng thì chẳng không, nhiễm ô thì chẳng được”).
Câu trả lời của thiền sư Hoài Nhượng hết sức cao minh, hoàn toàn là Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế, “Tu chứng tức bất vô”: Ngài có tu, tu hành hằng ngày. Tuy tu hành hằng ngày, nhưng sự tu hành ấy là tu hành trên mặt Sự, tức là trên mặt sự tướng thì có tu, có chứng, nhưng trên Lý Thể thì không có, chẳng nhiễm mảy trần. Nói cách khác, thân có tu hành, tâm quyết định chẳng nhiễm ô! Câu thứ nhất đáp theo mặt Sự, câu thứ hai đáp theo mặt Lý. Lý – Sự vô ngại, Lý – Sự viên dung. Đã chẳng phải là chấp Sự phế Lý, mà cũng chẳng chấp Lý phế Sự. Hằng ngày tu, tu mà không tu. Câu đầu là tu, câu sau là không tu. Tu mà không tu. Câu sau là không tu, câu trước là tu, đó gọi là “tu hành thật sự”. Nêu một tấm gương rất tốt cho chúng ta. Bất luận dùng công phu như thế nào, Ngài tham Thiền, nay chúng ta tu pháp môn Niệm Phật, vẫn giống nhau, trên mặt Sự thì có niệm, suốt ngày từ sáng đến tối Phật hiệu chẳng gián đoạn giữa chừng, hằng ngày niệm, đó là “tu chứng tức bất vô”.
Thế nhưng chúng ta nhất định phải thực hiện được câu sau đó: “Nhiễm ô tức bất đắc”. Tuy niệm Phật, tâm địa thanh tịnh, tuyệt chẳng nhiễm trước. Đó gọi là “tam luân thể không”. Thật sự hiểu rõ chân tướng sự thật, trong Phật pháp gọi chân tướng là “Thật Tướng của các pháp” (chư pháp Thật Tướng). Thật sự hiểu rõ, trong tâm chúng ta thanh tịnh chẳng nhiễm mảy trần. Niệm Phật đừng bị ô nhiễm bởi Phật hiệu, Thiền gia tham cứu Thoại Đầu chẳng bị câu Thoại Đầu ô nhiễm; nếu không, sẽ chẳng thể thành tựu. Người niệm Phật nếu bị Phật hiệu ô nhiễm thì làm sao có thể đắc nhất tâm? Đấy chính là như trong Tánh Tông thường nói: “Tam luân thể không”. Niệm hay là chẳng niệm? Hằng ngày niệm từ sáng đến tối. Trong khi đang niệm, chẳng thấy tướng ta là người niệm, cũng chẳng thấy tướng của vị Phật được niệm, mà trong khoảng giữa cũng chẳng thấy danh hiệu được chấp trì, tam luân thể không, nhưng Phật hiệu trọn chẳng gián đoạn giữa chừng. Câu trả lời Lục Tổ của đại sư Hoài Nhượng có ý nghĩa như thế. Tham Thiền cũng là “tam luân thể không”; thậm chí lễ bái, đọc tụng đều phải “tam luân thể không” thì mới có thể tương ứng. Tam luân chẳng không, sẽ chẳng thể thấy đạo, chẳng thể kiến tánh. Người niệm Phật mà tam luân chẳng không sẽ chẳng thể chứng đắc Lý nhất tâm bất loạn.
(Diễn) Kim vị thả tựu chúng sanh nhất kỳ tu chứng, tự hữu trừng phản chi tích, tu chứng tức bất vô dã.
(演) 今謂且就眾生一期修證,似有澄返之跡,修證即不無也。
(Diễn: Nay nói: Nếu dựa theo sự tu chứng của chúng sanh trong một đời thì dường như có dấu vết “lắng trong, quay lại”, tức là “tu chứng chẳng không” vậy).
“Nhất kỳ” là đời hiện tại, Trên mặt Sự dường như có những dấu vết, hình tướng như “lắng trong, quay lại”. Dẫu chính mình đã thấy tánh, thậm chí chính mình đã thành Phật, vẫn phải thị hiện những dấu vết, hình tướng ấy để làm gì vậy? Nhằm giáo hóa và nêu gương cho chúng sanh. Chính quý vị đã minh tâm kiến tánh, nhưng quý vị không niệm Phật lại bảo người ta niệm thì ai chịu niệm đây? Tự mình trọn chẳng niệm mà ông bảo chúng tôi niệm hay sao? Do vậy, Phật, Bồ Tát đại từ đại bi, vẫn phải nêu gương cho chúng sanh thấy.
Giống như Thích Ca Mâu Ni Phật đã sớm thành Phật, kinh Phạm Võng nói sau khi thành Phật, Ngài đến thế giới này đã tám ngàn lần. Lần này là vào ba ngàn năm trước, thị hiện thành Phật lần thứ tám ngàn tại Ấn Độ. Thật ra, Ngài đã sớm thành Phật, mà vẫn phải thị hiện tám tướng thành đạo, đều để cho chúng ta xem, nêu gương cho chúng ta biết tu học phải theo cách nào. Chư Phật Như Lai và các đại Bồ Tát thị hiện trong thế gian này, dụng ý hết sức sâu xa, chẳng những dùng ngôn giáo mà còn dùng thân giáo. Câu tiếp theo đây hoàn toàn luận theo mặt Thật Tướng.
(Diễn) Nhi ư tự tánh thật vô đắc thất, tăng tổn, nhiễm ô tức bất đắc dã.
(演) 而於自性實無得失增損,染污即不得也。
(Diễn: Nhưng trong tự tánh không có được – mất, tăng – tổn, chính là “nhiễm ô sẽ chẳng được” vậy).
“Tu chứng tức bất vô” là nói theo mặt sự tướng, nói trên mặt hình tướng. Nói theo phía tự tánh thanh tịnh tâm thì chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng nhơ, chẳng sạch. Bất luận quý vị tu theo cách nào, chắc chắn chẳng thể nói là tâm quý vị được tăng thêm một tí thanh tịnh nào, không hề có! Tu học không gì chẳng nhằm trừ phiền não và chấp trước mà thôi! Nhất định phải hiểu đạo lý này. Câu tiếp theo giải thích chữ “ba A-tăng-kỳ kiếp”.
(Sớ) Tam kỳ giả, tam A-tăng-kỳ kiếp dã. Tăng-kỳ giải kiến hậu văn.
(疏) 三祇者,三阿僧祇劫也。僧祇解見後文。
(Sớ: “Tam kỳ” là ba A-tăng-kỳ kiếp. Chữ Tăng-kỳ sẽ được giải thích trong phần sau).
Trong phần sau sẽ giảng.
(Sớ) Ngôn tam giả.
(疏) 言三者。
(Sớ: Nói ba là…)
Vì sao nói ba A-tăng-kỳ kiếp?
(Sớ) Dĩ Thích Ca thành đạo, tùng cổ Thích Ca chí Thi Khí, lịch thất vạn ngũ thiên Phật.
(疏) 以釋迦成道,從古釋迦至尸棄,歷七萬五千佛。
(Sớ: Là vì [tính cho đến] khi Phật Thích Ca thành đạo, từ cổ Phật Thích Ca cho đến Phật Thi Khí, đã trải qua bảy vạn năm ngàn vị Phật).
Thi Khí (Sikhin) là một vị Như Lai. Trong quá trình tu học, Phật Thích Ca đã gặp nhiều vị Phật như thế.
(Sớ) Tùng Thi Khí chí Nhiên Đăng, lịch thất vạn lục thiên Phật. Tùng Nhiên Đăng chí Tỳ Bà Thi, lịch thất vạn thất thiên Phật.
(疏) 從尸棄至燃燈,歷七萬六千佛。從燃燈至毗婆尸,歷七萬七千佛。
(Sớ: Từ Phật Thi Khí đến Phật Nhiên Đăng, trải qua bảy vạn sáu ngàn vị Phật. Từ Phật Nhiên Đăng cho đến Phật Tỳ Bà Thi, trải qua bảy vạn bảy ngàn vị Phật).
Mỗi một giai đoạn là một A-tăng-kỳ kiếp, Ngài ở trong một A-tăng-kỳ kiếp gặp nhiều vị Phật như vậy.
(Sớ) Vân “tam kỳ” dã.
(疏) 云三祇也。
(Sớ: Nên nói là ba A-tăng-kỳ vậy).
Chư Phật đồng danh đồng hiệu rất nhiều! Danh hiệu của Phật là do căn cơ của chúng sanh mà kiến lập. Quý vị phải hiểu: Phật, Bồ Tát hoàn toàn không có danh hiệu. Phàm phu chúng ta đặt danh hiệu quá nửa là ứng với kỳ vọng của chính mình. Trước kia, cha mẹ đặt tên cho con cái, nhằm biểu thị sự kỳ vọng của cha mẹ đối với cuộc đời của con cái. Chư Phật, Bồ Tát lập danh hiệu ứng theo nhu cầu của chúng sanh. Nói cách khác, đấy là tông chỉ dạy học của Phật, Bồ Tát. Đức Phật đến thành Phật trong thế giới Sa Bà này, danh hiệu của Ngài phải là Thích Ca Mâu Ni, bất luận là ai đến nơi này làm Phật, nhất định sẽ dùng danh hiệu ấy. Vì sao? Đối với thế giới Sa Bà, trong giai đoạn này phải dùng phương pháp ấy để dạy. Ý nghĩa của danh hiệu ấy (danh hiệu Thích Ca Mâu Ni Phật) là: Thích Ca là Năng Nhân, [Năng Nhân] có ý nghĩa nhân từ. Nói cách khác, chúng sanh trong thế giới Sa Bà này thiếu khuyết lòng từ bi. Do vậy, nêu lên tông chỉ này. Thiếu khuyết tâm từ bi, và tâm lại quá loạn, tâm chẳng thanh tịnh, suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ. Do vậy, lại dùng hai chữ “tịch mặc”. Mâu Ni dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tịch Mặc. Do đây biết rằng: Thích Ca Mâu Ni là Năng Nhân Tịch Mặc, nhằm nói trúng ngay căn bệnh của chúng sanh trong thế giới Sa Bà. Chúng ta niệm danh hiệu này là phải sanh khởi tâm niệm nhân từ, phải khởi lên tâm niệm thanh tịnh tịch diệt của chính mình, mang ý nghĩa này.
Nếu đức Phật Bổn Sư của chúng ta đến làm Phật trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ chẳng thể gọi là Thích Ca Mâu Ni Phật, vì danh hiệu ấy chẳng có ích gì trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới ai nấy đều nhân từ, đều là đại từ, đại bi, quý vị còn muốn họ có lòng nhân thì chẳng có ý nghĩa gì cả! Ai nấy đều là nhất tâm bất loạn, tâm địa thanh tịnh; hai chữ Mâu Ni cũng không dùng được. Đem danh hiệu này đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thì người trong Tây Phương Cực Lạc đều đã tu thành tựu rồi, cho nên phải cần dùng Vô Lượng Thọ. Do đây, có thể biết rằng: Danh hiệu của Phật, Bồ Tát do chúng sanh mà kiến lập, Ngài đến thế giới nào, thị hiện thân phận như thế nào, danh hiệu khác nhau. Danh hiệu ấy chính là tông chỉ dạy học, mà cũng là mánh khóe dạy học, khiến cho hết thảy chúng sanh nghe tên, chấp trì, sẽ khởi lên quán chiếu, có thể đối trị những thói hư của chính mình. Do vậy, công đức của danh hiệu là chẳng thể nghĩ bàn.
“Cổ Thích Ca”: Lúc Thích Ca Mâu Ni Phật mới phát tâm tu hành, gặp một vị Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Phật. Trạng huống của chúng sanh trong thế giới ấy đại khái chẳng khác tình trạng hiện thời của chúng ta cho mấy: Thiếu khuyết tâm từ bi, tâm tư tán loạn. Do vậy, đức Phật mới dùng danh hiệu ấy, tu hành trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp.
(Sớ) Bị kinh đa kiếp, viễn chi hựu viễn.
(疏) 備經多劫,遠之又遠。
(Sớ: Trải đủ nhiều kiếp, đã xa xôi lại càng xa hơn).
Hai câu này hình dung Thích Ca Mâu Ni Phật từ nhân đến quả, từ Sơ Phát Tâm cho đến khi thành Phật đã trải qua nhiều kiếp. Chữ “đa kiếp” chỉ nhiều tiểu kiếp và đại kiếp. “A-tăng-kỳ” là một con số lớn, A-tăng-kỳ kiếp gồm quá nhiều kiếp! Do vậy, nói theo phương diện thời gian thì“viễn chi hựu viễn” (đã xa lại càng xa hơn).
Trong Phật Học Thập Tứ Giảng có nói tới Nhẫn Nhục Ba La Mật. Chúng ta tu pháp nếu không có tâm nhẫn nại thì làm sao thành tựu được? Con người hiện thời vẫn sợ chịu khổ, vậy là chẳng thể thành tựu! Trong Giới Kinh, đức Phật bảo chúng ta, khi Phật chẳng tại thế thì “lấy Giới làm thầy”, “lấy khổ làm thầy”. Vì sao? Khổ sẽ luôn nhắc nhở chính chúng ta phải cảnh tỉnh, hễ hưởng thụ sẽ mê hoặc, điên đảo. Do vậy, Phật pháp, đặc biệt là Phật pháp Đại Thừa, chẳng tán thành khổ hạnh vô ích, nhưng nếu khổ hạnh có lợi ích đối với sự tu học của chúng ta thì đức Phật vẫn khen ngợi. Hạnh Đầu Đà của Tiểu Thừa là tu khổ hạnh, còn Đại Thừa thì quý vị thấy trong kinh Hoa Nghiêm, nơi chương Đức Sanh Hữu Đức đồng tử, [hai vị thiện tri thức này] đại diện cho hàng Đẳng Giác Bồ Tát, trong chương ấy còn tán thán mười hai hạnh Đầu Đà, tán thán khổ hạnh. Khổ hạnh quả thật nhắc nhở chúng ta cảnh tỉnh, chẳng lưu luyến thế giới Sa Bà. Con người hễ hưởng lạc sẽ lưu luyến thế giới này, đặc biệt là tu pháp môn Tịnh Độ, nếu lưu luyến thế giới này, làm sao vãng sanh? Do vậy, chúng ta đừng sợ khổ, hễ có hoàn cảnh khổ hạnh thì chẳng cần nghĩ trọn hết các phương pháp để tránh xa, [nếu tránh xa] sẽ là sai. Người tu hành phải nên “tùy ngộ nhi an” (an vui với hoàn cảnh), tùy duyên mà chẳng phan duyên. Khởi tâm động niệm tìm kiếm hoàn cảnh [sung sướng, thỏa ý] chính là phan duyên. Gặp những người chí đồng đạo hợp, đúng là có thể tự giúp chính mình mà còn có thể giúp đỡ Phật giáo, chúng ta có thể thường trụ ở nơi ấy.
Những vị đại đức xưa kia tạo lập tùng lâm. Lúc hình thành, thoạt đầu là mấy vị pháp sư chí đồng đạo hợp trụ ở nơi ấy để tấn tu. Người học từ bốn phương sau khi nghe danh các Ngài dần dần kéo tới nơi ấy. Trước kia, con người thật thà hơn hiện thời, họ cảm thấy nơi ấy rất thích hợp, bèn ở lại, không đi đâu nữa, dần dần biến thành tùng lâm có quy mô lớn. Do vậy, kiến lập tùng lâm hoàn toàn chẳng phải là trước hết xây cất rất nhiều nhà cửa, rồi mới từ từ chiêu sinh. Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, tùng lâm chưa hề chiêu sinh, đều do mấy gian nhà tranh dần dần mở rộng, có bao nhiêu người thì cất thêm bấy nhiêu gian. Hiện thời, tại Đài Loan có rất nhiều ngôi chùa xây rất to mà chẳng có ai ở. Thời đại Mạt Pháp mới có hiện tượng này! Do vậy, tu hành nhất định phải có tâm nhẫn nại, phải nhẫn nhục thì mới có thành tựu, nhất là đại chúng sống cùng một chỗ với nhau, đôi bên đều là phàm phu, tập khí đều rất nặng, nhất định phải nhường nhịn.
(Sớ) Nhi kim bất việt nhất niệm, tật siêu sanh tử.
(疏) 而今不越一念,疾超生死。
(Sớ: Nhưng nay chẳng vượt khỏi một niệm, nhanh chóng vượt thoát sanh tử).
Đây là nói pháp môn này thù thắng, chẳng cần phải trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, trong “nhất niệm” bèn vượt thoát. Nhất niệm là niệm gì vậy? Dưới đây sẽ nói rất rõ ràng.
(Sớ) Nhất niệm giả, tức năng niệm A Di Đà Phật chi nhất niệm dã.
(疏) 一念者,即能念阿彌陀佛之一念也。
(Sớ: Nhất niệm chính là một niệm, niệm A Di Đà Phật vậy).
Quý vị phải đọc kinh văn cho rõ ràng, không phải là nói “niệm A Di Đà Phật bèn có thể vượt thoát” mà là “nhất niệm”. Hiện thời quý vị niệm A Di Đà Phật, không sai, nhưng quý vị vẫn niệm rất nhiều thứ, không phải là một niệm, mà là đa niệm. Niệm A Di Đà Phật mà còn đa niệm sẽ chẳng thể vãng sanh, chẳng thể vượt trỗi ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Nếu quý vị có thể đoạn sạch hết thảy vọng niệm, chỉ có một niệm thì sẽ vượt thoát. Quý vị phải suy tính chuyện này cho kỹ, rốt cuộc là thế giới Cực Lạc tốt đẹp, hay là thế giới Sa Bà tốt đẹp? Chúng ta muốn thường sống trong thế giới Cực Lạc, hay là muốn sống mãi trong thế giới Sa Bà? So sánh sự tốt đẹp giữa hai thế giới. Thật sự so sánh rồi nếu chọn lựa Tây Phương Cực Lạc thế giới thì phải buông xuống, phải xả được, bỏ nơi này, sẽ được Tây Phương Cực Lạc thế giới, như vậy thì mới có thể đạt được. Chẳng bỏ nơi đây sẽ chẳng đạt được thế giới Tây Phương. Xả sẽ được! Xả gì vậy? Xả hết thảy vọng niệm, nhất tâm niệm Phật, “nhất tâm” là nhất niệm, “nhất niệm” chính là nhất tâm. Trong tâm chẳng khởi tâm động niệm thì thôi, hễ khởi tâm động niệm bèn A Di Đà Phật, không có ý niệm thứ hai nào, niệm Phật như vậy sẽ thành công, hễ còn có tạp niệm là sai rồi! Ở đây chú trọng nhất niệm, chứ không chú trọng năng niệm. Sách Sớ Sao đã đặc biệt chỉ ra, nhất niệm chính là một câu Phật hiệu “A Di Đà Phật”.
(Sớ) Chư thánh giả, Phật cập Bồ Tát dã. Tự phàm vọng thánh, cách chi hựu cách.
(疏) 諸聖者,佛及菩薩也。自凡望聖,隔之又隔。
(Sớ: “Chư thánh” là Phật và Bồ Tát. Từ phàm hướng về thánh thì đã xa cách lại càng cách xa).
Từ phàm phu nhìn vào thánh nhân, đã xa cách lại càng cách xa, khoảng cách quá xa. Được gọi là “thánh nhân” chính là các vị đại Bồ Tát đã đăng địa (từ Sơ Địa trở lên) mới gọi là thánh nhân. Phật, Đẳng Giác Bồ Tát, Thập Địa Bồ Tát, mười hai địa vị này được gọi là Thánh, những địa vị khác đều gọi là Tam Hiền Vị Bồ Tát. Phàm phu nhìn vào hàng Bồ Tát thuộc thánh vị, đúng là đã xa cách lại càng cách xa, nhưng hiện thời thì như thế nào?
(Sớ) Nhi kim bất xuất phiến ngôn, trực đăng Bất Thoái.
(疏) 而今不出片言,直登不退。
(Sớ: Nhưng nay chẳng rời khỏi một câu, lên thẳng địa vị Bất Thoái).
Sự “xa cách lại càng cách xa” bị tiêu trừ, dựa vào đâu để tiêu trừ? Dựa vào một câu A Di Đà Phật, thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Rốt cuộc vẫn là thật hay giả vậy? Những điều này do chư Phật Như Lai, lịch đại tổ sư an ủi, khuyến khích chúng ta, hay là thật sự có chuyện ấy? Thưa cùng quý vị, nếu chư Phật, Bồ Tát an ủi, khuyến khích chúng ta thì các Ngài là đại vọng ngữ, chắc chắn không thể nào như vậy được! Như Lai là bậc như ngữ, tức nói đúng như sự thật, sự thật như thế nào Ngài sẽ nói như thế ấy, chẳng tăng, chẳng giảm, hoàn toàn phù hợp chân tướng sự thật, chẳng giả tí nào! “Trực đăng Bất Thoái”: Trong lời chú giải nêu rõ…
(Sớ) Bất Thoái hữu tứ.
(演) 不退有四。
(Sớ: Bất Thoái có bốn loại).
Trong tương lai, đến phần kinh văn sẽ càng giảng [ý nghĩa Bất Thoái] tường tận hơn, ở đây chỉ nói đại lược.
(Diễn) Dĩ vị đoạn phiền não, sanh Đồng Cư độ, vi Nguyện Bất Thoái. Phá Kiến Tư, sanh Phương Tiện độ, vi Hạnh Bất Thoái.
(演) 以未斷煩惱,生同居土,為願不退。破見思,生
方便土,為行不退。
(Diễn: Do chưa đoạn phiền não, sanh vào cõi Đồng Cư là Nguyện Bất Thoái. Phá Kiến Tư phiền não, sanh vào cõi Phương Tiện là Hạnh Bất Thoái).
Chưa đoạn phiền não, nhưng phải chế phục phiền não, quý vị nhất định phải nhớ điều này. Nói tới đây, hôm nay khi dùng cơm tôi nghe các đồng học nói: Sau khi khóa giảng ở đây viên mãn, lại muốn sang chùa miếu khác tham phỏng, đó là năm mươi ba lần tham học, rất hiếm có! Nhưng quý vị phải hiểu: Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần là sau khi Ngài đã đắc Căn Bản Trí. Do vậy, Ngài tham phỏng để thành tựu viên mãn Hậu Đắc Trí. Hiện thời quý vị chưa đắc Căn Bản Trí, đến các nơi tham học, kết quả là vô lượng vô biên tri kiến, đâm ra chính mình chẳng có gì để noi theo. Vì vậy, tham học có một điều kiện. Cổ nhân cầu pháp ắt phải có một vị thầy căn bản, đấy là sư thừa. Phải đại triệt đại ngộ dưới tòa của vị thầy căn bản ấy rồi mới có thể lìa khỏi thầy, sau khi rời khỏi thầy bèn tham học, không có bản lãnh ấy, chẳng được! Có thể phân biệt chân – vọng, thị – phi, trong hết thảy cảnh giới nghe hiểu rõ ràng, quyết chẳng bị ảnh hưởng, quyết định chẳng dao động. Đó gọi là “chẳng chấp lấy tướng, như như bất động”. Có bản lãnh ấy thì mới có thể tham học. Không có bản lãnh ấy sẽ chẳng thể tham học. Con người hiện thời chẳng chịu làm như vậy. Vì thế, không có phước báo. Học sinh theo thầy chẳng chịu tách lìa, hạng học sinh như vậy tìm chẳng ra. Học sinh hiện thời thân cận một vị thầy, đại khái bảy ngày là cùng! Không có tâm nhẫn nại, bảy ngày thôi! Tôi nghe ông giảng kinh gần như tôi đã biết rồi, không cần phải học nữa, bỏ đi thôi! Như vậy thì làm sao mà thành công được? Do vậy, thật sự có thiện tri thức thì cũng chẳng thể nhận quý vị [làm học trò] được!
Trong pháp môn Tịnh Độ, trong mấy năm gần đây nhất đã nổi lên một trận phong ba về chuyện đới nghiệp vãng sanh và tiêu nghiệp vãng sanh, những người niệm Phật trong ngoài nước bị ảnh hưởng rất lớn. Từ xưa đến nay, trong pháp môn này đều nói “đới nghiệp vãng sanh”, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, đều chưa đoạn phiền não. Đột nhiên có cư sĩ Trần Kiến Dân hướng dẫn một nhóm học trò tra cứu kinh điển, bảo trong kinh điển, Thích Ca Mâu Ni Phật chưa hề nói “đới nghiệp vãng sanh”, rồi ông ta chủ trương “tiêu nghiệp vãng sanh”. Do vậy, tất cả người niệm Phật đều hoang mang, chẳng thể đới nghiệp, hỏng bét! Chúng ta chưa đoạn nghiệp, chẳng thể vãng sanh! Khi ấy tôi đến Mỹ, cư sĩ Châu Tuyên Đức vừa gặp mặt liền hỏi ngay chuyện này. Tôi bảo ông ta: “Tiêu nghiệp và đới nghiệp là một chuyện, tiêu một ít, mang theo một ít, mang theo một ít, tiêu một ít, đấy là cùng một chuyện. Nói tiêu nghiệp cũng được! Mà nói mang theo nghiệp (đới nghiệp) cũng được!” Tôi bảo ông ta: “Nếu chẳng mang theo nghiệp thì sẽ thành Phật hết rồi, Đẳng Giác Bồ Tát còn có một phẩm sanh tướng vô minh. Nếu chẳng thể đới nghiệp, phải tiêu hết nghiệp mới được vãng sanh thì Tây Phương Cực Lạc thế giới chỉ có chư Phật và chư Phật, Đẳng Giác Bồ Tát đều chẳng có phần!”
Nếu nói kinh điển không có bốn chữ “đới nghiệp vãng sanh” thì những gì Phật không nói quá nhiều! Tuy không có câu nói ấy, không có mặt chữ ấy, nhưng ý nghĩa thì có! Tịnh Độ có nói “ba bậc, chín phẩm” hay chăng? Có! Nếu chẳng đới nghiệp, thử hỏi làm sao giảng ba bậc, chín phẩm cho xuôi? Giảng chẳng xuôi! Đã nói “ba bậc, chín phẩm”, đương nhiên là đới nghiệp vãng sanh. Do vậy, chẳng thể dễ dãi để luận điệu của một cá nhân lay động căn bản của chính mình, khiến tín tâm của chính mình bị dao động, lầm lẫn quá lớn rồi! Nói tiêu nghiệp cũng suông, là vì ví như sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, tuy chưa đoạn phiền não, chủng tử, tập khí phiền não chưa đoạn, nhưng nhất định phải tiêu trừ phiền não hiện hành, há chẳng phải là tiêu một phần, mang theo một phần ư? Khuất phục phiền não, sức của một câu Phật hiệu chẳng chế ngự được phiền não sẽ chẳng thể vãng sanh. Đây là đạo lý nhất định!
“Phá Kiến Tư” tức là tiêu Kiến Tư phiền não, tiêu nghiệp đấy! “Sanh vào cõi Phương Tiện là Hạnh Bất Thoái”: Tiêu trừ Kiến Tư phiền não, Trần Sa phiền não vẫn còn, Vô Minh phiền não vẫn mang theo, há chẳng phải là tiêu một chút, mang theo một chút ư? Tiêu nhiều thì mang theo ít, tiêu ít thì mang theo nhiều; tiêu càng nhiều, phẩm vị càng cao; mang theo càng nhiều phẩm vị càng thấp, chuyện là như vậy đó. Có gì mà phải tranh cãi nữa? Chẳng cần phải tranh chấp. Cùng là một chuyện, cùng một ý nghĩa; nhưng hai câu nói này, mỗi câu có dụng ý riêng. Nói “đới nghiệp vãng sanh” thì chúng ta nghe câu này, chính mình cảm thấy Tây Phương Tịnh Độ ta có phần, ai nấy đều kiến lập cái tâm tự tin cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Mang theo nghiệp vẫn được vãng sanh, được đấy! Chúng ta có hy vọng, có thể mong mỏi rồi! Nói tiêu nghiệp mới có thể vãng sanh thì cũng nhằm dụng ý khác: Hy vọng quý vị tiêu nghiệp nhiều một chút, hy vọng quý vị vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới tăng cao phẩm vị. Hai cách nói vốn không mâu thuẫn, đều hay cả! Như vậy thì sẽ tiêu trừ được cách nhìn lệch lạc của nhiều người, lại còn sốt sắng niệm Phật, nhất tâm chấp trì danh hiệu, chắc chắn có thể vãng sanh.
Sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư là mức thấp nhất, là tối thiểu. Trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, cũng có ba bậc, chín phẩm. Trong kinh và các bản chú sớ đều nói điều này rất tường tận: Mỗi cõi trong bốn cõi đều có ba bậc chín phẩm. Do vậy, chúng ta sốt sắng đoạn phiền não; trước hết, khuất phục phiền não, công lực đạt tới mức thì sẽ tự nhiên có thể đoạn được phiền não. Công phu khuất phục phiền não cũng có sâu hay cạn khác nhau, quý vị có thể tự mình kiểm nghiệm chuyện này. Ví như niệm Phật, năm thứ nhất công phu như thế nào, năm thứ hai công phu ra sao, năm thứ ba công phu ra sao? Tự mình có thể thấy được! Lúc khởi đầu khuất phục phiền não, muốn khuất phục phiền não cũng không được, miễn cưỡng lắm mới có thể khuất phục phiền não, công phu tăng tấn hơn thì khuất phục phiền não chẳng tốn công sức cho lắm. Khi tiến bộ hơn, rất dễ dàng khuất phục phiền não. Từ những điều này mà có thể thấy công phu niệm Phật là sâu hay cạn, chứ không phải do niệm Phật mỗi ngày bao nhiêu câu. Quý vị một ngày niệm mười vạn tiếng, nhưng chẳng thể chế phục phiền não thì vẫn uổng công, chẳng thể vãng sanh! Công phu là do chế phục phiền não, thật sự có thể chế phục nó. Công phu tối thượng thừa là đoạn vô minh. Trần Sa, vô minh cũng phải chế phục trước rồi sau mới đoạn, ba bậc chín phẩm do đây mà có. Do vậy, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư là Nguyện Bất Thoái, sanh trong cõi Phương Tiện Hữu Dư là Hạnh Bất Thoái.
(Diễn) Phá trần sa, phần phá vô minh, sanh Thật Báo độ, vi Trí Bất Thoái.
(演) 破塵沙,分破無明,生實報土,為智不退。
(Diễn: Phá trần sa, phá một phần vô minh, sanh vào cõi Thật Báo là Trí Bất Thoái).
Trong kinh văn gọi Trí Bất Thoái là Niệm Bất Thoái.
(Diễn) Phá Tam Hoặc tận, sanh Tịch Quang độ, vi Vị Bất Thoái, tắc Bất Thoái danh đồng, nhi thiển thâm tự biệt.
(演) 破三惑盡,生寂光土,為位不退。則不退名同,而淺深自別。
(Diễn: Phá sạch Tam Hoặc, sanh vào cõi Tịch Quang là Vị Bất Thoái. Tuy cùng gọi là Bất Thoái, nhưng cạn, sâu khác nhau).
“Phá Tam Hoặc tận” (phá sạch Tam Hoặc): Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh đều đoạn sạch, “sanh vào cõi Tịch Quang”, tức Thường Tịch Quang Tịnh Độ. “Vị Bất Thoái”: Đây là địa vị Phật, không phải là địa vị của hàng Bồ Tát. Nói cách khác, đã thành Phật, tuyệt đối chẳng lui sụt xuống địa vị phàm phu. Đây cũng là điều chúng ta rất quan tâm. Trong kinh Lăng Nghiêm, tôn giả Phú Lâu Na hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật: “Chúng con tốn bao nhiêu thời gian tu hành như vậy, sau khi thành Phật có khởi vô minh nữa hay không? Có còn lui sụt xuống phàm phu nữa không?” Ở đây, đại sư bảo chúng ta: Thật sự đoạn sạch Tam Hoặc, trụ trong Thường Tịch Quang Tịnh Độ, tuyệt đối chẳng thoái chuyển! Dẫu thừa nguyện tái lai, thả chiếc bè Từ, vẫn chẳng thoái chuyển.
Ví như Quán Âm Bồ Tát đã sớm thành Phật, Ngài quyết định chẳng thoái chuyển, tuy Ngài thị hiện làm Đẳng Giác Bồ Tát trong Tây Phương Tịnh Độ, thật ra, Ngài vẫn là Phật. Trong hội Hoa Nghiêm, Ngài xuất hiện dưới thân phận Đệ Thất Hồi Hướng Bồ Tát, Ngài vẫn là Phật. Trong hội Lăng Nghiêm, Ngài thị hiện thuộc địa vị Sơ Trụ, Ngài vẫn là Phật. Đấy là tùy loại hóa thân, nên dùng thân nào để độ được, bèn hiện thân ấy, chắc chắn chẳng thoái chuyển. Ví như quý vị học đến học vị Tiến Sĩ, có tư cách đảm nhiệm chức vụ giáo sư đại học, mà cũng có thể làm giáo viên tiểu học. Khi làm giáo viên tiểu học, có phải là học vị Tiến Sĩ đã bị lui sụt hay không? Học vị của quý vị vẫn là Tiến Sĩ, chẳng bị lui sụt. Phật, Bồ Tát vì độ hết thảy chúng sanh, thân phận luôn chuyển biến, đấy là đại từ đại bi tùy loại hiện thân. Ở đây, nói tới bốn thứ Bất Thoái, cùng mang tên là Bất Thoái, nhưng trong ấy có sai biệt sâu hay cạn rất lớn.
Những điều này đều nhằm giải thích công đức lợi ích do thọ trì một câu danh hiệu Di Đà, vượt trỗi sự tu hành trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp, chẳng ngăn cách với chư Phật và Bổ Xứ Bồ Tát mà hòa lẫn thành một khối. Chỉ cần quý vị vãng sanh Tây Phương thế giới, dẫu là hạ phẩm hạ sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, quý vị vẫn có thể hằng ngày ở chung một chỗ với các vị Đẳng Giác Bồ Tát. Sức huân tập to lớn dường ấy! Trong hết thảy kinh luận khác chúng ta chưa hề thấy cơ duyên này! Trong hết thảy các thế giới chư Phật cũng không có, chỉ riêng Tây Phương Cực Lạc thế giới có nhân duyên thù thắng như vậy. Do vậy, pháp môn này mới được mười phương hết thảy chư Phật khen ngợi, kinh này chỉ nêu đại lược sáu phương Phật khen ngợi. Kinh này là kinh chẳng thể nghĩ bàn, pháp môn này là pháp môn chẳng thể nghĩ bàn. Kinh này vốn có tên là Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh. Quý vị hãy suy nghĩ đề mục kinh này, chẳng thể nghĩ bàn!
(Sớ) Chí tai nhị cú, tán từ. Chí, cực dã.
(疏) 至哉二句,讚辭。至,極也。
(Sớ: Hai câu “tột bực thay” là lời khen ngợi. Chí là tột bậc).
Đạt đến chỗ cùng cực,
(Sớ) Chí cực nhi vô dĩ gia dã.
(疏) 至極而無以加也。
(Sớ: Đạt đến chỗ cùng cực không còn thêm gì được nữa).
Câu này nói thật đấy! Trong bốn mươi chín năm, Thích Ca Mâu Ni nói hết thảy pháp môn, pháp môn này cao chót vót, chí cao vô thượng! Không còn có pháp môn nào cao hơn, không có pháp môn nào viên mãn hơn. Đấy là khen ngợi đến tột bực. Chúng ta nghe lời tán thán như vậy, chưa chắc đã đồng ý, vì sao? Anh tu Tịnh Độ, anh khen ngợi Tịnh Độ. Tục ngữ có câu: “Lão Vương mại qua, tự mại, tự khoa” (Ông già Vương bán dưa, tự bán, tự khoe). Há có phải Liên Trì đại sư cũng mắc cái tật ấy hay chăng? Trong phần sau, lão nhân gia nêu bày Lý – Sự đến tột cùng, chúng ta nghe xong chẳng thể không tin tưởng.
(Sớ) Diệu giả, tức thượng tứ cú tổng minh diệu nghĩa.
(疏) 妙者,即上四句總明妙義。
(Sớ: “Diệu” là bốn câu trong phần trên đã nêu tổng quát ý nghĩa của Diệu).
Bốn câu “trừng trược nhi thanh, phản bối nhi hướng, việt tam kỳ ư nhất niệm, tề chư thánh ư phiến ngôn” (lắng đục trở thành trong, bỏ trái nghịch để hướng về, vượt trỗi ba A-tăng-kỳ kiếp trong một niệm, bằng với chư thánh trong một lời) mầu nhiệm đến tột bực. Diệu dụng tột cùng vậy thay!
(Sớ) Dụng giả, lực dụng dã.
(Diễn) Lực dụng lực tự, nội hàm tam nghĩa.
(疏) 用者,力用也。
(演) 力用力字,內含三義。
(Sớ: Dụng là lực dụng.
Diễn: Chữ Lực trong “lực dụng” bao gồm ba ý nghĩa).
Không nói ra thì chúng ta chẳng hiểu rõ, chẳng thể tin.
(Diễn) Nhất giả, bổn tánh công đức lực.
(演) 一者、本性功德力。
(Diễn: Một là sức công đức của bổn tánh).
Đây là điều mỗi người đều có sẵn, sức ấy chẳng thể nghĩ bàn, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều do sức này biến hiện ra. Tự tánh vốn sẵn có đủ, đấy là Tánh Đức. Câu thứ hai nói về Tu Đức. Tuy có Tánh Đức, nhưng nếu không có Tu Đức, Tánh Đức chẳng thể hiện tiền.
(Diễn) Nhị giả, hành nhân niệm lực.
(演) 二者、行人念力。
(Diễn: Hai là niệm lực của hành nhân).
“Hành nhân” là người phát tâm tu học pháp môn Tịnh Độ, mà cũng là người phát tâm trì danh niệm Phật. Người ấy có thể niệm, chịu niệm, niệm niệm chẳng lìa Phật hiệu, chẳng khởi tâm động niệm thì thôi. Hễ khởi tâm động niệm bèn “A Di Đà Phật”. Sức ấy chẳng thể nghĩ bàn! Đấy là Tự Lực.
(Diễn) Tam giả, Di Đà nguyện lực.
(演) 三者、彌陀願力。
(Diễn: Ba là Di Đà nguyện lực).
Loại thứ ba là Tha Lực, tức “Di Đà nguyện lực”. Pháp môn này được gọi là “pháp môn Nhị Lực”, nhưng quý vị phải hiểu: Di Đà nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn!
Di Đà nguyện lực tuyệt đối bình đẳng, rộng lớn, sâu xa, nhưng nếu niệm lực của bản thân chúng ta chẳng đầy đủ, sẽ chẳng thể kết thành một Thể với Di Đà nguyện lực. Di Đà nguyện lực dẫu lớn cũng không có cách nào giúp chúng ta vãng sanh.
Nhất định phải thành tựu niệm lực của chính mình thì mới có thể kết thành một Thể với Di Đà nguyện lực. Như vậy thì mới có thể đới nghiệp vãng sanh. Tiếp theo đây là tỷ dụ.
(Diễn) Bổn tánh như châu thuyền.
(演) 本性如舟船。
(Diễn: Bổn tánh như thuyền ghe).
Là bản thể.
(Diễn) Niệm lực như lỗ trạo.
(演) 念力如櫓棹。
(Diễn: Niệm lực như mái chèo).
Chèo thuyền, thuyền nhỏ dùng Tương (槳: mái chèo nhỏ), thuyền lớn dùng Lỗ (櫓: mái chèo to).
(Diễn) Nguyện lực như thuận phong, tam lực châu viên, tất đăng bỉ ngạn cố.
(演) 願力如順風。三力周圓,必登彼岸故。
(Diễn: Nguyện lực như xuôi gió. Ba lực trọn đủ, ắt lên được bờ kia).
Câu này nói rõ vì sao quý vị có thể vãng sanh, và cũng nói rõ vì sao quý vị có thể thành tựu trong một đời, chẳng cần phải trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp, đạo lý là đây. Những pháp môn khác nói đến thành tựu, nói chung nêu ra một đạo lý khiến cho chúng ta tin tưởng, chúng ta có thể suy nghĩ, và thấy đạo lý ấy hợp lý, vậy là đúng, thì chúng ta mới có thể tin tưởng. Đạo lý này nói hết sức bình thường, chân thật. Đức Thế Tôn, A Di Đà Phật chẳng gạt người, chẳng nói: “Chỉ cần ngươi đến chỗ ta, tôn ta làm thầy, ta sẽ xoa đầu ngươi, thọ ký cho ngươi, ngươi có thể vãng sanh!” Hoặc là: “Ta cấp cho ngươi một giấy chứng nhận, trong tương lai ngươi có thể dựa vào giấy chứng nhận ấy để tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, không cần phải niệm Phật”. Trong thời kỳ Mạt Pháp, những kẻ tác quái rất nhiều, chúng sanh đúng là ngu si, mắc lừa dễ dàng! Những điều ấy là giả, chẳng phải thật, làm sao có chuyện chẳng tốn sức mà có thể vãng sanh? Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp môn Niệm Phật của Tịnh Độ được gọi là “dị hành đạo” (đạo dễ hành), không có pháp nào khác dễ dàng bằng! Tuy dễ dàng, nhưng chính mình phải niệm đến mức nhất tâm, đấy là điều kiện cơ bản, nhất tâm xưng niệm. Ngàn vạn phần đừng bị kẻ khác dối gạt!
Công phu là gì? Chế phục phiền não là công phu, phá Ngã Chấp là công phu. Bất luận quý vị dùng phương pháp thiện xảo nào, nếu chẳng thể chế phục phiền não, chẳng thể phá Ngã Chấp thì đều là giả, chắc chắn chẳng phải là thật. [Nếu nghe kẻ nào khoe khoang] “dùng phương pháp này, quý vị đến nơi đây học, chẳng đầy mấy ngày bèn đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh”, quý vị có tin được hay không? Quý vị cứ thử làm xem, đến học mấy ngày, khai ngộ rồi thì hãy xem sau khi khai ngộ là như thế nào. Ngộ rồi, “tôi đã khai ngộ rồi”, vẫn còn có Ngã Chấp! “Quý vị chưa khai ngộ, chứ tôi đã khai ngộ rồi”, Tứ Tướng trọn đủ: Ngã Tướng, Nhân Tướng, Chúng Sanh Tướng, Thọ Giả Tướng trọn đủ. Phân biệt, chấp trước, tà tri, tà kiến, thứ gì cũng chẳng thể tách lìa được, người ấy khai ngộ cái gì vậy? Tăng thượng mạn! Ngạo nghễ, ngã mạn, khai ngộ rồi mà coi thường người khác! Người khác chưa khai ngộ, kẻ ấy đã khai ngộ, không coi ai ra gì, giả trất! Sau khi ngộ, tâm sẽ thanh tịnh, bình đẳng, cung kính hết thảy. Người đã ngộ sẽ tu pháp môn nào? Mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát. Trong kinh Hoa Nghiêm, sau khi ngộ, bắt đầu tu, lấy mười đại nguyện vương làm nguyên tắc, điều thứ nhất là “lễ kính chư Phật”. Người đã ngộ đối với bất cứ một ai sẽ nhất định là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm cung kính, quyết định chẳng ngạo nghễ, ngã mạn, quyết định chẳng có thói tự khen, chê người, người giác ngộ là như vậy đấy! Quý vị hãy đọc kinh Đại Thừa nhiều hơn, quý vị có thể thấy thấu suốt những màn kịch của bọn chúng, chẳng đáng ngó tới! Những kẻ ấy đúng như kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”.
(Sớ) Phù cấu tâm nan tịnh, hỗn nhược Hoàng Hà, vọng tưởng nan thâu, dật như bôn mã, lịch Hằng sa vô số lượng chi kiếp, luân chuyển vị hưu.
(疏) 夫垢心難淨,混若黃河,妄想難收,逸如奔馬,歷恆沙無數量之劫,輪轉未休。
(Sớ: Tâm nhơ khó tịnh, đục như Hoàng Hà. Vọng tưởng khó gom, phóng túng như ngựa chạy cuồng, trải vô số lượng kiếp nhiều như cát sông Hằng, luân chuyển chẳng ngớt).
Đoạn này nói tâm chúng ta có vô lượng vô biên ô nhiễm, phiền não, vô minh, tà kiến, cảm vời quả báo đời đời kiếp kiếp luân hồi sanh tử. Chúng ta phải hiểu những nỗi khổ này, khổ quá sức!
(Sớ) Công Tam Tạng thập nhị bộ chi văn, giác lộ di viễn.
(疏) 攻三藏十二部之文,覺路彌遠。
(Sớ: Dốc sức nơi kinh văn trong Tam Tạng mười hai bộ loại, đường giác ngộ xa vời vợi).
Câu nào cũng đều là lời thật.
(Sớ) Nhi năng sử trược giả thanh, bối giả hướng, nhất niệm đốn siêu, phiến ngôn tức chứng, lực dụng chi diệu, hà khả tư nghị.
(疏) 而能使濁者清,背者向,一念頓超,片言即證,力用之妙,何可思議。
(Sớ: Nhưng có thể khiến cho đục biến thành trong, trái nghịch trở thành hướng về, nhanh chóng vượt thoát trong một niệm, do một lời liền chứng đắc, làm sao có thể nghĩ bàn lực dụng mầu nhiệm [của kinh A Di Đà] cho được?)
Đoạn này nhằm giải thích lực dụng mầu nhiệm của kinh này thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Chúng ta đọc mấy câu này phải nên tin tưởng. “Tam Tạng” (Tripitaka) là danh xưng chung của toàn bộ kinh điển trong Phật pháp. “Thập nhị bộ” (Dvādaśānga-Buddha-Vacana): Đức Phật nói kinh có mười hai phương thức, [mười hai phương thức ấy] được gọi là Thập Nhị Bộ, tức là có mười hai thể loại bất đồng. Trong lời chú giải có nêu ra tên gọi của mười hai loại ấy.
(Diễn) Tam Tạng, vị Kinh, Luật, Luận.
(演) 三藏,謂經律論。
(Diễn: Tam Tạng là Kinh, Luật, Luận).
Nói chung, mọi người đều biết điều này. Còn một cách giải thích khác.
(Diễn) Hựu Phật Tạng, Bồ Tát Tạng, Thanh Văn Tạng.
(演) 又佛藏、菩薩藏、聲聞藏。
(Diễn: Lại còn có nghĩa là Phật Tạng, Bồ Tát Tạng, và Thanh Văn Tạng).
Phật Tạng là pháp Nhất Thừa. Theo cổ đại đức phán định, trong kinh điển chỉ có ba bộ là: Kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa thuộc Nhất Thừa Viên Giáo, có thể gọi là Phật Tạng. Kinh Phạm Võng là Nhất Thừa Biệt Giáo cũng có thể xưng là Phật Tạng. Bồ Tát Tạng là kinh Đại Thừa. Thanh Văn Tạng là kinh Tiểu Thừa. Kinh này (kinh A Di Đà) đặc biệt lắm! Nó vượt khỏi Tam Tạng mười hai bộ loại, đây chính là điều đại sư tán thán đến tột bậc. Tiếp theo là nói về mười hai bộ.
(Diễn) Thập nhị bộ, vị Tu Đa La.
(演) 十二部,謂修多羅。
(Diễn: Mười hai bộ, gồm Tu Đa La…)
Loại thứ nhất trong mười hai bộ là Tu Đa La (Sūtra), đây là tiếng Ấn Độ, có nghĩa là Khế Kinh, chuyên chỉ loại văn trường hàng, mà nay chúng ta gọi là “thể tài tản văn” (thể loại văn xuôi).
(Diễn) Trùng Tụng.
(演) 重頌。
(Diễn: Trùng Tụng).
Loại thứ hai là Trùng Tụng (Geya). Tụng (頌) tương tự như thi ca của Trung Quốc. Sau khi nói một đoạn khai thị, đức Phật thường dùng thể tài thi ca, câu cú rất cân đối để nhắc lại ý nghĩa một lượt. Điều này có ý nghĩa rất sâu, vì phải ghi nhớ kinh văn; nếu không nhớ kinh văn, quý vị sẽ không có cách nào quán tưởng, nhưng văn trường hàng quá dài, chẳng thuận tiện tụng thuộc. Do vậy, dùng thể tài thi ca để nhắc lại một lượt những ý nghĩa trọng yếu cho tiện tụng thuộc. Đấy là ý nghĩa thứ nhất.
Còn một ý nghĩa khác nữa: Hội giảng kinh không giống như dạy học trong nhà trường, học sinh cố định, đến giờ lên lớp, mọi người đều có mặt. Ở nơi giảng kinh thì có kẻ đến trước, người đến sau, có khi đã giảng kinh được một nửa rồi họ mới tới. Đức Phật hết sức từ bi, đối với những người đến sau chưa nghe được nửa phần trước, Phật dùng kệ tụng để nhắc lại những ý chính trong phần trước một cách đơn giản, khiến cho người đến sau cũng có thể nắm được ý nghĩa hoàn chỉnh. Đấy là phương cách đại từ đại bi, cho nên trong kinh thường có Trùng Tụng. Trong kinh Hoa Nghiêm, Kệ Tụng hết sức nhiều, gần như sau mỗi đoạn văn trường hàng đều có một đoạn Kệ Tụng, quá nửa những đoạn Kệ Tụng ấy là Trùng Tụng, cho thấy Phật thật sự từ bi!
(Diễn) Thọ Ký.
(演) 授記。
(Diễn: Thọ Ký).
Loại thứ ba là Thọ Ký (Vyākarana), tức là dự ngôn (lời tiên đoán), có thể đoán trước quý vị sẽ thành Phật khi nào trong tương lai, ở trong thế giới nào, Phật có danh hiệu là gì, thế giới có tên gọi là gì, quý vị sẽ giảng kinh bao nhiêu hội tại đó, độ bao nhiêu chúng sanh. Thế nhưng để được thọ ký phải có điều kiện: Gần như là đã đạt đến Thập Địa Bồ Tát mới được thọ ký, vì vị ấy chẳng bao lâu sẽ thành Phật. Đang là hạng phàm phu sát đất thì sẽ thọ ký điều gì cho quý vị? Trong Phật pháp, đó là thọ ký quý vị sẽ thành Phật.
(Diễn) Cô Khởi Tụng.
(演) 孤起頌。
(Diễn: Cô Khởi Tụng).
Loại thứ tư là Cô Khởi Tụng (Gāthā), đây cũng là Kệ Tụng. Loại Kệ Tụng này không phải là Trùng Tụng, mà nhằm để nói những điều chưa được nói tới trong phần trước. Do vậy, loại Kệ Tụng này không nhiều. Những điều chưa được nói đến trong phần trước, sẽ dùng Kệ Tụng để bổ sung, khiến cho ý nghĩa hoàn chỉnh hơn. Hoặc là đối với những điều đã nói tới trong phần trước, ngay khi ấy có người hỏi, trong thính chúng có nghi vấn, tuy [người có nghi vấn ấy] chưa nêu ra, nhưng trong tâm đã dấy lên ý niệm, Phật liền biết ngay (Phật có Tha Tâm Thông), Ngài bèn dùng Cô Khởi Tụng để trả lời. Trong kinh Đại Thừa chúng ta thường thấy Phật trả lời câu hỏi của chúng sanh, có trường hợp là “ý thỉnh” (trong tâm muốn hỏi), hoàn toàn chẳng phải là ngôn ngữ. Trong tâm có ý nghĩ ấy, đức Phật liền biết ngay, giảng cho họ.
(Diễn) Vô Vấn Tự Thuyết.
(演) 無問自說。
(Diễn: Vô Vấn Tự Thuyết).
Loại thứ năm là Vô Vấn Tự Thuyết (Udāna). Pháp môn này nhất định phải là pháp môn rất đặc biệt. Quy củ thuyết pháp của đức Phật nhất định là phải có người thỉnh pháp rồi mới thuyết pháp. Nói chung là có người khải thỉnh, có như vậy thì mọi người mới tôn trọng Phật pháp. Không có ai đến hỏi, mà Phật tự nói thì pháp môn ấy có hai ý nghĩa:
– Ý nghĩa thứ nhất là cơ duyên [của thính chúng] chín muồi.
– Ý nghĩa thứ hai là [pháp sẽ được nói ấy] hết sức trọng yếu, tuy mọi người không hỏi vẫn phải nên nói.
Kinh Di Đà thuộc loại Vô Vấn Tự Thuyết. Kinh này tuy không có ai khải thỉnh, nhưng duyên đã chín muồi, người trong thế giới này có thể tu pháp môn này, pháp môn này sẽ khiến cho quý vị thành tựu rất nhanh chóng. Do vậy, kinh này hết sức trọng yếu. Nói thật ra, kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa đều chẳng trọng yếu bằng kinh này. Nay quý vị học Hoa Nghiêm, học Pháp Hoa, chẳng thể vãng sanh trong một đời, chỉ có thể gieo thiện căn mà thôi! Chiếu theo phương pháp ấy để tu hành, sẽ chẳng thể thành tựu trong một đời. Pháp môn này có thể thành tựu ngay trong một đời, quyết định thành tựu. Do vậy, pháp môn này là chẳng thể không nói.
(Diễn) Nhân Duyên, Thí Dụ, Bổn Sự, Bổn Sanh, Phương Quảng, Vị Tằng Hữu, Luận Nghị.
(演) 因緣,譬喻,本事,本生,方廣,未曾有,論議。
(Diễn: Nhân Duyên, Thí Dụ, Bổn Sự, Bổn Sanh, Phương Quảng, Vị Tằng Hữu, Luận Nghị).
Loại thứ sáu là Nhân Duyên (Nidāna), loại thứ bảy là Thí Dụ (Avadāna), loại thứ tám là Bổn Sự (Itivrttaka), loại thứ chín là Bổn Sanh (Jātaka). Bổn Sự và Bổn Sanh đều là Phật kể những câu chuyện hoặc công án trong khi Ngài còn tu nhân, đều là những chuyện tu hành trong quá khứ để chúng ta tham khảo, hiểu đức Phật đã tu hành thành tựu như thế nào trong đời đời kiếp kiếp, nêu gương cho chúng ta. Loại thứ mười là Phương Quảng (Vaipulya). Phương Quảng là danh xưng chung của các kinh Đại Thừa, Lý phương chánh (chính xác, chân thật), Dụng quảng đại (rộng lớn). Loại thứ mười một là Vị Tằng Hữu (Adbhutadharma), những điều được giảng trong kinh đều chẳng thể nghĩ bàn, là những Lý và Sự hết sức hy hữu. Loại thứ mười hai là Luận Nghị (Upadeśa), đây là những thứ nghiên cứu, thảo luận, và rất nhiều cuộc vấn đáp của các đệ tử Phật nhằm thảo luận vấn đề.
Trong kinh Phật có mười hai thể tài, cổ nhân dịch là “mười hai bộ kinh”. Mười hai bộ kinh chính là toàn thể kinh điển nhà Phật. Nếu hiểu kinh Phật chỉ có mười hai bộ là sai! Trong mỗi loại này, không biết có bao nhiêu bộ kinh! Về sau, cổ đại đức sợ người ta nhìn mặt chữ hiểu lầm nên dịch thành “mười hai phần giáo”, như vậy sẽ chẳng dễ gì hiểu lầm! Trong từ ngữ “mười hai phần giáo”, “phần” là bộ phận, cũng có thể hiểu là chủng loại, tức là có mười hai phương thức dạy học. Đây là giới thiệu đơn giản về Tam Tạng Thập Nhị Bộ.
“Công Tam Tạng thập nhị bộ chi văn” (dốc sức nơi văn tự của Tam Tạng mười hai phần giáo): Nếu quý vị thật sự phát tâm đọc Đại Tạng Kinh, thâm nhập kinh tạng, “giác lộ di viễn” (đường giác ngộ xa vời): Kinh văn dài quá, khai ngộ xa vời vợi không kỳ hạn, khó quá! Vừa bắt đầu đọc thì đọc phần trước chẳng biết phần sau, xem đến phần sau lại quên sạch phần trước, vô ích! Lại không có khả năng vừa xem qua liền chẳng quên, nói chung là được phần trước, sót phần sau. Ở đây, đại sư khuyên chúng ta đừng theo phương cách này, phải buông xuống, chuyên dốc sức nơi một bộ kinh, đại sư có ý này. Hãy chuyên dốc sức nơi một bộ kinh, chuyên niệm một câu A Di Đà Phật thì quý vị mới có khả năng thành công. Nếu chẳng dùng phương pháp này, muốn dùng biện pháp khác để thành công, tôi bảo quý vị: Tôi không tin. Quý vị tu Thiền hay Mật, tôi đều chẳng tin! Tôi chưa tham Thiền, nhưng kinh điển trọng yếu của nhà Thiền là Đàn Kinh, Đại Châu Hòa Thượng Ngữ Lục, Vĩnh Gia Đại Sư Thiền Tông Tập, Chứng Đạo Ca, tôi đều đã giảng qua. Tôi chẳng phải là kẻ xa lạ với Thiền, lý luận, phương pháp, cảnh giới nhà Thiền tôi đều hiểu. Đối với Mật, cũng không phải là kẻ xa lạ. Tôi theo Chương Gia đại sư, tôi thân cận Ngài ba năm, những cách thức trong Mật Tông tôi cũng biết rất nhiều, chẳng thể lừa tôi được! Do vậy, quý vị nói có thể thành tựu nhờ pháp môn nào đó, tôi không tin. Pháp môn Niệm Phật có thể thành tựu, tôi tin sâu xa chẳng nghi, chắc chắn có thể thành công. Nay đã hết giờ rồi!
— o0o —
Tập 20
Xin đọc A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, trang hai mươi hai:
(Sớ) Dụng tùng Thể Tướng nhi xuất, cố chỉ ngôn diệu dụng dã.
(疏) 用從體相而出,故止言妙用也。
(Sớ: Dụng do Thể và Tướng mà có, nên chỉ nói đến diệu dụng).
“Dụng” là tác dụng, nhất định là phải nương vào Lý Thể hiện tướng mà sanh ra.
(Diễn) Dụng tùng Thể Tướng nhi xuất giả, Phật chứng bình đẳng Chân Như Hằng sa tánh đức.
(演) 用從體相而出者。佛證平等真如恆沙性德。
(Diễn: “Dụng do Thể Tướng mà có”: Phật chứng Hằng sa tánh đức của Chân Như bình đẳng).
Câu này nói về Thể. “Phật” được nói ở đây chính là mười phương ba đời hết thảy chư Phật, đặc biệt là Phật trong Viên Giáo, mà cũng là nói những vị đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là “bình đẳng Chân Như”. “Hằng sa tánh đức”: Ở đây, hai chữ “Hằng sa” (cát sông Hằng) hình dung ý nghĩa vô lượng vô biên, hình dung đức dụng của bổn tánh, tức là tác dụng của nó.
Những tác dụng ấy vốn sẵn có đầy đủ, chẳng phải do học từ bên ngoài mà có. Trong câu này, chúng ta đặc biệt chú ý chữ “bình đẳng”. Nay chúng ta tu học, chẳng thể chứng quả, chẳng thể khai ngộ, là vì tâm chẳng bình đẳng. Đấy là vấn đề lớn! Vì sao tâm chẳng bình đẳng? Chấp trước cứng ngắc, Ngã Chấp, Pháp Chấp. Thật sự học Phật, thật sự tu hành, ắt phải chuyển thức thứ bảy thành Bình Đẳng Tánh Trí.
Cổ nhân thường nói: “Tu hành quan trọng là chuyển Thức thành Trí”. Câu nói này là chân lý ngàn vạn phần chính xác, vĩnh viễn chẳng thay đổi. Tâm bình đẳng chính là chân tâm, tướng bình đẳng là như như. Tác dụng của tâm tướng bình đẳng là “Hằng sa tánh đức”. Chúng ta phải nỗ lực tại chỗ này, trong mười hai thời, hễ tâm vừa mới bất bình đẳng (vừa mới phát hiện bất bình đẳng) liền phải dấy lên Phật hiệu, Phật hiệu đánh thức cái tâm mê của chúng ta, khiến cho tâm bất bình đẳng khôi phục sự bình đẳng. Bình đẳng mới là bình thường, đúng mực, bất bình đẳng chẳng phải là bình thường, đúng mực. Đức Phật đã chứng bình đẳng.
Nói cách khác, chẳng những thức thứ sáu và thức thứ bảy đã chuyển thành Diệu Quán Sát Trí và Bình Đẳng Tánh Trí, năm thức trước và thức thứ tám cũng chuyển. Chuyển A Lại Da thành Đại Viên Kính Trí, chuyển năm thức trước thành Thành Sở Tác Trí.
(Diễn) Nhiên hậu lưu xuất Báo, Hóa chi Dụng, diễn thuyết thử kinh, thị Như Lai chi Dụng, cố tùng Thể Tướng nhi xuất.
(演) 然後流出報化之用演說此經,是如來之用,固從體相而出。
(Diễn: Rồi mới lưu xuất tác dụng của Báo Thân và Hóa Thân, diễn nói kinh này. Đấy là Dụng của Như Lai vốn do Thể và Tướng mà có).
Kinh này không đơn giản! Nó từ Hằng sa tánh đức của Chân Như bình đẳng lưu lộ. Kinh là như vậy, mà Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng là như vậy. Chứng đắc cái Thể bình đẳng của Chân Như rồi mới hiện tướng Hóa Thân và Báo Thân.
Báo Thân Phật diễn nói kinh A Di Đà cho bậc Địa Thượng Bồ Tát, còn Hóa Thân Phật vì lục đạo phàm phu, Quyền giáo, Tiểu Thừa mà diễn nói kinh này. Đấy là đại dụng thuộc quả báo nơi địa vị Như Lai, “vốn từ thể tướng mà có”, cố nhiên nó thật sự từ Chân Như Lý Thể Thật Tướng lưu xuất.
(Diễn) Kim chúng sanh y kinh niệm Phật.
(演) 今眾生依經念佛。
(Diễn: Nay chúng sanh vâng theo kinh, niệm Phật).
Kinh văn của bộ kinh này, Phật hiệu, từng tiếng đều tương ứng với Như Lai Thể Tướng. Nếu chẳng hiểu rõ đạo lý trong ấy, làm sao một câu Phật hiệu của chúng ta có thể tương ứng với Thể – Tướng – Dụng của Như Lai bổn tánh cho được? Thể – Tướng – Dụng được nói đến ở đây chính là ba chữ Đại Phương Quảng trong tựa đề kinh Hoa Nghiêm, ba chữ này đều nhằm tán thán: Đại là tán thán Thể, Phương là tán thán Tướng, Quảng là tán thán Dụng. Do vậy, làm thế nào để một câu Phật hiệu của chúng ta tương ứng với Đại Phương Quảng? Chẳng hiểu rõ đạo lý này, quả thật sẽ chẳng tương ứng. Vì chẳng tương ứng nên hiệu quả thành tựu không to, chẳng rõ ràng. Nếu mỗi tiếng đều tương ứng thì hiệu quả sẽ chẳng thể nghĩ bàn. Đại sư nói mấy câu này nhằm khích lệ chúng ta, khuyên chúng ta hãy giác ngộ, vâng theo kinh mà niệm Phật.
(Diễn) Đốn siêu tức chứng, diệc dĩ bổn hữu Chân Như, bổn cụ tánh đức, phương hữu như thị lực dụng, cố vân: “Tùng Thể Tướng nhi xuất” dã.
(演) 頓超即證,亦以本有真如,本具性德,方有如是力用,故云從體相而出也。
(Diễn: Đốn siêu, liền chứng, cũng là do Chân Như vốn có, tánh đức vốn sẵn đủ, nên mới có lực dụng như vậy. Vì thế nói: “Từ Thể và Tướng mà có”).
Đây là chúng ta phải tương ứng với chư Phật và Thể – Tướng – Dụng như thế nào. “Đốn siêu, tức chứng”: Cho thấy chẳng cần phải trải qua ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Cổ nhân nói: “Một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Đấy chính là “đốn siêu, tức chứng” (nhanh chóng vượt thoát, chứng ngay lập tức). Trong Thông Tán Sớ, đại sư Khuy Cơ đặc biệt tán thán kinh A Di Đà là đại pháp viên đốn; kinh nói có thể thành tựu từ một ngày cho đến bảy ngày. Trong hết thảy các kinh khác, chúng ta chưa hề thấy nói như vậy; nhưng chúng ta cũng đã từng dự không ít Phật Thất, tham dự xong vẫn là phàm phu. Nói cách khác, chẳng biến đổi tí nào, khi vào trong đạo tràng Phật Thất như thế nào thì xong bảy ngày vẫn giống hệt như vậy! Bảy ngày niệm Phật chẳng đắc pháp! Chẳng hiểu lý, chẳng đắc pháp, bảy ngày đã uổng công. Nếu đúng lý, đúng pháp, lẽ nào lại như vậy? “Một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Niệm bảy ngày như vậy, lẽ đâu chẳng thành Phật? Do vậy, từng tiếng Phật hiệu đều phải niệm từ “Chân Như vốn có, vốn sẵn tánh đức”.
Từ Thể – Tướng, đức Phật lưu xuất kinh điển, nếu chúng ta nương theo kinh điển thì cũng phải lưu nhập Thể – Tướng, Dụng ấy sẽ chẳng thể nghĩ bàn. Đây chính là ý nghĩa “tiếp dẫn”. Từ Thể – Tướng, đức Phật lưu xuất kinh điển nhằm tiếp dẫn chúng ta, chúng ta nương theo kinh điển này, dùng phương pháp này để niệm Phật, sẽ “đốn siêu, tức chứng”. “Siêu” là vượt thoát sanh tử, vượt thoát mười pháp giới, chứng ngay Chân Như bình đẳng. Diệu dụng ấy thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, trong lời Sớ, Liên Trì đại sư nói “cố chỉ ngôn diệu dụng dã” (vì thế, chỉ nói tới diệu dụng).
(Sớ) Mạt cú kết quy, ngôn như thị diệu dụng đương thị hà kinh.
(疏) 末句結歸,言如是妙用當是何經。
(Sớ: Câu cuối là lời quy kết, nói rõ diệu dụng như vậy thuộc về kinh nào).
Sau khi thấy diệu dụng ấy, ai mà chẳng hâm mộ, mong cầu? Kinh nào vậy? Ở đây, đại sư nói rất rõ ràng.
(Sớ) Duy Phật Thuyết A Di Đà Kinh, túc dĩ đương chi.
(疏) 惟佛說阿彌陀經,足以當之。
(Sớ: Chỉ có Phật Thuyết A Di Đà Kinh, đáng được như vậy).
Trong Tam Tạng kinh điển, tức là những pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm, nói đến “đốn siêu, tức chứng” (nhanh chóng vượt thoát, chứng ngay lập tức) thì bốn dòng kinh văn này đã nói rõ lý “đốn siêu tức chứng”. Nếu không có lý luận mà nói “đốn siêu, tức chứng”, chúng ta chẳng tin. Chúng ta cũng đã từng thí nghiệm, niệm nhiều năm như thế mà vẫn chẳng đốn siêu, cũng chẳng tức chứng! Dựa vào đâu mà nói như vậy? Ở đây, Lý ấy đã được nêu ra, chúng ta suy nghĩ, thấy thật sự có lý. Trong quá khứ, chúng ta niệm Phật lệch lạc, sai lầm rất lớn, từng tiếng Phật hiệu chẳng tương ứng với Thể, Tướng, Dụng, từng tiếng chẳng tương với Hằng sa tánh đức trong Chân Như bình đẳng. Tuy hằng ngày đều niệm, nhưng chẳng thể đốn siêu, mà cũng chẳng thể chứng nhập. Chúng ta phải nên suy nghĩ sâu xa điều này, phải nghiêm túc phản tỉnh, sửa đổi.
Tiếp theo đây, đại sư đặt ra một đoạn vấn đáp nhằm xiển minh [lý luận ấy] và phá trừ sự nghi hoặc của chúng ta. Có nghi ắt phải đoạn trừ, bởi nghi là chướng ngại rất lớn. Nghi vốn là một loại trong các phiền não căn bản “tham, sân, si, mạn, nghi”. Hoài nghi điều gì vậy? Hoài nghi thánh giáo! Do vậy, đối với lý luận, phương pháp tu hành, cảnh giới chứng đắc trong kinh điển và Thể, Tướng, Dụng đều phải hiểu rõ ràng, chẳng hoài nghi, sẽ giúp chúng ta chứng đắc rất nhanh. Nếu có hoài nghi thì nói chung là sẽ có chướng ngại.
(Sớ) Hoặc vấn.
(疏) 或問。
(Sớ: Nếu hỏi).
Nếu có ai hỏi như thế này, nêu câu hỏi giống như thế này.
(Sớ) Tiểu Thừa thả trí.
(疏) 小乘且置。
(Sớ: Không nói tới Tiểu Thừa).
“Trí” (置) là bỏ qua, gạt qua một bên. Chúng ta không bàn tới pháp Tiểu Thừa, vì sự tu chứng của Tiểu Thừa chỉ đạt tới A La Hán, chỉ đoạn Kiến Tư phiền não, chẳng phải là pháp rốt ráo, chúng ta tạm để nó qua một bên.
(Sớ) Chỉ như chư Đại Thừa kinh, quảng như sơn tích, vân hà diệu dụng thiên tán thử kinh?
(疏) 只如諸大乘經,廣如山積,云何妙用偏讚此經。
(Sớ: Còn như các kinh Đại Thừa rộng lớn chất chồng như núi, sao lại riêng khen ngợi diệu dụng của kinh này?)
Lời hỏi này rất có lý! Kinh Đại Thừa rất nhiều. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Lăng Nghiêm, Lăng Già cũng chẳng thể nghĩ bàn. Nhiều kinh như vậy chẳng tán thán, vì sao khư khư khen ngợi kinh A Di Đà? Chẳng lẽ kinh Hoa Nghiêm chẳng bằng kinh A Di Đà ư? Kinh Pháp Hoa cũng chẳng bằng ư? Lục Tổ Đàn Kinh của Thiền Tông cũng chẳng bằng ư? Những kinh luận của Mật Tông cũng chẳng bằng ư? Thưa quý vị, đúng là chẳng bằng! Chẳng giả một tí nào, quyết chẳng phải là xử sự theo cảm tình! Gạt bỏ cảm tình, thuần là quan sát khách quan thì mới hiểu được cái hay của bộ kinh này. Thích Ca Mâu Ni Phật nói kinh này thì toàn bộ bổn hoài xuất thế độ sanh mới được tỏ lộ, được thực hiện đạt đến mức viên mãn thật sự. Liên Trì đại sư đã tự đặt ra câu hỏi này rồi Ngài tự giải đáp.
(Sớ) Đáp: Tu-đa-la trung.
(疏) 答:脩多羅中。
(Sớ: Đáp: Trong các Khế Kinh).
“Tu-đa-la” chỉ hết thảy kinh Đại Thừa.
(Sớ) Tuy cụ hữu thử nghĩa, vị hữu như thử kinh chi minh thả giản giả.
(疏) 雖具有此義,未有如此經之明且簡者。
(Sớ: Tuy có đầy đủ nghĩa ấy, nhưng chẳng được rõ ràng và đơn giản như kinh này).
Trong các kinh Đại Thừa có ý nghĩa này, lại còn phổ biến hơn, nhưng rõ rệt, tinh thuần, đơn giản như kinh này thì không có kinh nào sánh bằng A Di Đà Kinh.
(Sớ) Cố phù xứng tánh nhi đàm, chánh trực nhi thuyết, phi bất viên đốn.
(Diễn) Xứng tánh nhi đàm chỉ Hoa Nghiêm, chánh trực nhi thuyết chỉ Pháp Hoa.
(Sớ) Nhi trừng trược phản bối, phương tiện vị chương.
(Diễn) Phương tiện vị chương giả.
(疏) 故夫稱性而談,正直而說,非不圓頓。
(演) 稱性而談指華嚴,正直而說指法華。
(疏) 而澄濁返背,方便未彰。
(演) 方便未彰者。
(Sớ: Vì thế, đàm luận xứng tánh, giảng nói chánh trực, không gì chẳng viên đốn.
Diễn: “Đàm luận xứng tánh” chỉ kinh Hoa Nghiêm, “giảng nói chánh trực” chỉ kinh Pháp Hoa.
Sớ: Nhưng phương tiện “lắng đục, xoay ngược sự trái nghịch” chưa được nêu bày.
Diễn: “Phương tiện chưa được nêu bày” là…)
Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đều là Nhất Thừa Viên Giáo, nhưng đối với phương tiện “lắng đục, hướng về” quả thật chẳng nói đơn giản, trọng yếu, rõ ràng, cặn kẽ như kinh A Di Đà. Đơn giản, trọng yếu, rõ ràng, cặn kẽ, thuận tiện thọ trì, lại tiện tu học. Tiếp theo đây, sách Diễn Nghĩa giải thích đạo lý ấy, chỉ rõ chỗ thù thắng của bộ kinh này.
(Diễn) Dĩ Hoa Nghiêm duy đàm tánh hải viên dung, duyên khởi vô ngại, tương tức, tương nhập, đế võng trùng trùng, lục tướng, thập huyền, tứ chủng pháp giới đẳng.
(演) 以華嚴唯談性海圓融,緣起無礙,相即相入,帝網重重,六相十玄四種法界等。
(Diễn: Do kinh Hoa Nghiêm chỉ bàn về tánh hải viên dung, duyên khởi vô ngại, mọi pháp chính là lẫn nhau, dung nhập lẫn nhau, lưới Thiên Đế trùng trùng, sáu tướng, mười huyền môn, bốn thứ pháp giới v.v…)
Mấy câu này đã nêu ra đại ý của kinh Hoa Nghiêm. Từ mấy câu này, có thể thấy được sự rộng lớn, tinh vi, sâu xa của kinh Hoa Nghiêm. Trong hết thảy các kinh, chỉ riêng kinh Hoa Nghiêm là viên mãn nhất, là sách giáo khoa rốt ráo nhất. Bất luận giảng về Sự, về Lý, về phương pháp, hay cảnh giới, không gì chẳng viên dung. Kinh Hoa Nghiêm có kích thước lớn, kinh văn dài. Do vậy, có thể đàm luận xứng tánh, không bị bó buộc chút nào. “Tánh hải viên dung”: Tánh là Chân Như bổn tánh sẵn có. Nếu quý vị nghĩ Tánh thuộc về Tỳ Lô Giá Na Phật, A Di Đà Phật, hay Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng liên can gì đến ta, quý vị đã sai rồi! Một bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh hoàn toàn giảng về chính mình, giảng rõ nhân sinh vũ trụ sẵn có, nhân sinh là chính mình, vũ trụ vẫn là chính mình. “Duyên khởi vô ngại” là nói tới sâm la vạn tượng, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, là pháp duyên sanh, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại.
“Tương tức tương nhập, đế võng trùng trùng” đều nói tới vô ngại. Hết thảy pháp không gì chẳng chính là lẫn nhau, không gì chẳng dung nhập lẫn nhau. “Đế võng trùng trùng” là tỷ dụ sự trùng trùng vô tận. Ý nghĩa vô tận này cũng được phô bày rõ rệt trong kinh Hoa Nghiêm, cảnh giới này rất khó hiểu. Cổ nhân bất đắc dĩ dùng hai tấm gương to đặt song song với nhau, tức là gương chiếu gương, hình ảnh của người đứng giữa hai tấm gương đó phản chiếu vô cùng tận, “trùng trùng vô tận, tương tức tương nhập”, lãnh ngộ ý nghĩa này. Hết thảy các pháp trong pháp giới, không pháp nào chẳng như vậy, chỉ là chúng ta chẳng thể quan sát, chẳng thể nhận biết, không thấy được chân tướng sự thật này. “Lục tướng” là [sáu tướng] đồng thời [tồn tại trên phương diện sự tướng]: Tổng tướng, biệt tướng, đồng tướng, dị tướng, thành tướng, hoại tướng, đồng thời trọn đủ, hiển thị hết thảy các pháp bất sanh, bất diệt, duyên khởi tánh Không. Chúng tôi đã từng giảng về lục tướng và thập huyền môn khi giảng Hoa Nghiêm Luân Quán. “Tứ chủng pháp giới” là Sự Vô Ngại, Lý Vô Ngại, Lý Sự Vô Ngại, Sự Sự Vô Ngại. Đây là chân tướng của nhân sinh, vũ trụ, mà cũng là Thật Tướng của các pháp, đều được giảng rất rõ ràng, rành rẽ, kinh Hoa Nghiêm câu nào cũng nói lời thật.
(Diễn) Nhị Thừa hiền thánh, thượng như lung á.
(演) 二乘賢聖,尚如聾啞。
(Diễn: Hiền thánh Nhị Thừa còn giống như điếc, câm).
Nhị Thừa là Thanh Văn, Duyên Giác. Thánh nhân là A La Hán và Bích Chi Phật. Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả là hiền nhân. Trong hội Hoa Nghiêm, các vị ấy như điếc, như câm, “lung” (聾) là không nghe được, “á” (啞) là không có cách nào nêu lên câu hỏi. Họ hoàn toàn không hiểu, muốn hỏi cũng không có cách nào hỏi được.
(Diễn) Mạt pháp hạ phàm khởi năng tu chứng? Cố phương tiện vị chương.
(演) 末法下凡,豈能修證,故方便未彰。
(Diễn: Hàng phàm phu căn cơ bậc hạ đời Mạt Pháp làm sao có thể tu chứng được? Vì thế, phương tiện chưa được phô bày).
Phàm phu căn tánh hạ liệt đời Mạt Pháp làm sao có thể tu? Làm sao có thể chứng cho được? Kinh Hoa Nghiêm tuy có phương tiện, nhưng chưa rõ rệt, “chương” (彰) là phơi bày rõ rệt. Không phải là kinh Hoa Nghiêm không hay, nhưng nếu chúng ta hỏi vì sao bậc Nhị Thừa nghe kinh Hoa Nghiêm không hiểu? Quý vị phải biết, bậc Nhị Thừa vẫn còn có Pháp Chấp kiên cố. Do vậy, họ chẳng thể lãnh hội ý nghĩa của kinh. Hoa Nghiêm là cảnh giới của bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ. Pháp Thân đại sĩ đã phá Ngã Chấp lẫn Pháp Chấp, nên các Ngài có thể thâm nhập. Nếu hai thứ Ngã Chấp và Pháp Chấp đều phá thì đọc kinh Hoa Nghiêm sẽ giống như đọc văn chương của chính mình mới thấy thú vị, mới thấu hiểu. Trong các buổi giảng, tôi thường nói: Nhị Chấp (Ngã Chấp và Pháp Chấp), Tam Chướng (Phiền Não Chướng, Sở Tri Chướng, và Nghiệp Chướng) chướng ngại tu hành, chướng ngại hiểu biết ý nghĩa. Quý vị có chướng ngại, có chấp trước, nghe kinh chẳng thể khai ngộ, nghe không hiểu, đối với những bộ kinh Đại Thừa chẳng tìm được cửa để vào, gốc bệnh là ở chỗ này. Nếu phá sạch hai thứ chấp, Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng đều đoạn, hết thảy các bộ kinh Đại Thừa có khi nào chẳng phải là cảnh giới chính mình sẵn có? Lời lẽ của đức Thế Tôn có bao giờ chẳng phải là lời lẽ của chính mình? Không khác gì hết! Đoạn này có ý nói: Kinh Hoa Nghiêm đàm luận xứng tánh tuy hay, nhưng chúng ta không thể lãnh hội được.
(Diễn) Pháp Hoa chánh trực xả phương tiện, đản thuyết vô thượng đạo, khai phương tiện môn, thị chân thật tướng, khai Quyền, hiển Thật, hội tam quy nhất, giai bất minh thị tấn tu phương tiện, cố diệc phương tiện vị chương.
(演) 法華正直捨方便,但說無上道,開方便門,示真實相,開權顯實,會三歸一,皆不明示進修方便,故亦方便未彰。
(Diễn: Pháp Hoa thẳng thừng bỏ phương tiện, chỉ nói tới đạo vô thượng, mở cửa phương tiện, nêu bày tướng chân thật, khai Quyền, hiển Thật, gộp tam thừa về nhất thừa, nhưng đều chẳng chỉ bày rõ ràng phương tiện tấn tu, nên cũng chưa phô bày phương tiện).
Đoạn này phê bình kinh Pháp Hoa. Kinh Pháp Hoa hay! Cũng là Viên Giáo Nhất Thừa, không bàn cãi gì nữa. Kinh Pháp Hoa khai Quyền hiển Thật: Quyền là pháp phương tiện, Thật là pháp chân thật. “Pháp Hoa chánh trực xả phương tiện”: Thẳng thừng gạt bỏ pháp phương tiện, “đản thuyết vô thượng đạo” (chỉ giảng về đạo vô thượng). Nhìn chung, những điều được nói trong cả bộ kinh không gì chẳng nhằm “khai phương tiện môn, thị chân thật tướng” (mở cửa phương tiện, chỉ bày tướng chân thật), dùng phương thức phương tiện thiện xảo để chỉ bày Thật Tướng của các pháp, “khai Quyền hiển Thật, hội tam quy nhất”. Đấy chính là nội dung của kinh Pháp Hoa. “Chư Phật sở chứng chi pháp, duy hữu Nhất Thừa pháp, vô nhị, diệc vô tam” (Pháp được chư Phật chứng chỉ có pháp Nhất Thừa, không hai, mà cũng không ba), nói rõ Nhị Thừa và Tam Thừa đều là phương tiện tiếp dẫn, Phật pháp thật sự chỉ có pháp Nhất Thừa.
Trong kinh Pháp Hoa chưa từng chỉ rõ phương pháp tu hành. Chúng ta đọc kinh Pháp Hoa, cách tu như thế nào? Thiên Thai đại sư của Trung Quốc sáng lập một phương pháp tu hành là Tam Chỉ Tam Quán, đấy chính là phương pháp tu học của Pháp Hoa Tông. Tam Chỉ Tam Quán hết sức mầu nhiệm. Thuở ấy, có nhiều vị cao tăng Ấn Độ sang Trung Quốc, thấy phương pháp tu hành do Thiên Thai đại sư đề xướng, phương pháp ấy do Ngài ngộ từ kinh Pháp Hoa bèn hết sức khen ngợi Thiên Thai đại sư. Họ còn nói phương pháp Nhất Tâm Tam Quán do đại sư sáng lập hết sức giống với Xa-ma-tha, Tam-ma và Thiền-na được giảng trong kinh Lăng Nghiêm lưu truyền tại Ấn Độ. Do vậy, người Hán mới biết còn có một bộ kinh Đại Thừa là kinh Lăng Nghiêm. Các vị cao tăng từ Ấn Độ sang Trung Quốc mang theo nhiều kinh điển, nhưng chẳng cầm theo kinh Lăng Nghiêm. Pháp sư Trung Quốc sang Ấn Độ thỉnh kinh, du học, cũng chưa hề đọc kinh Lăng Nghiêm. Người Ấn Độ tiếc pháp, hết thảy các kinh đều có thể truyền cho ngoại quốc, nhưng kinh Lăng Nghiêm được coi là quốc bảo, bí mật cất giấu, chỉ truyền cho người trong nước, chẳng truyền cho người ngoại quốc. Do vậy, ngày nay Ấn Độ gặp phải đại nạn: Phật pháp đoạn diệt là do quả báo tiếc pháp đấy! Chúng ta nên cảnh giác điều này. Tiếc tài sản mắc quả báo bần cùng, tiếc pháp mắc quả báo ngu si. Vì lẽ đó, Ấn Độ hiện nay không có Phật pháp.
Kinh Lăng Nghiêm truyền sang Trung Quốc quả thật chẳng dễ dàng! Khi ấy, Thiên Thai đại sư muốn sang Ấn Độ, đâu phải là chuyện dễ! Giao thông không thuận tiện, đi đường bộ phải mất hai, ba năm, không đơn giản! Do vậy, tại núi Thiên Thai, lão nhân gia xây một cái đài bái kinh hướng về phía Tây, hằng ngày lễ bái trên đài, cầu cho kinh Lăng Nghiêm sớm có ngày truyền sang Trung Quốc. Ngài lễ bái suốt mười tám năm, mãi cho đến khi viên tịch, kinh vẫn chưa truyền sang. Do vậy, Thiên Thai đại sư chưa hề đọc kinh Lăng Nghiêm. Người Trung Quốc tuy không đi xin kinh, nhưng suốt mười tám năm lễ bái không gián đoạn, có tinh thần ấy mà vẫn chưa chiêu cảm được. Đến đời vua Trung Tông nhà Đường, cao tăng Ấn Độ là Bát Lạt Mật Đế[55] lén đem kinh này, gạt được hải quan, mang tới Trung Quốc. Người Trung Quốc như có được món quý báu nhất, lại gặp được Phòng Dung là một vị học giả hạng nhất trong nước tham gia phiên dịch.
Ngài Thiên Thai dùng phương pháp tu hành là Tam Chỉ Tam Quán, hoặc như kinh Lăng Nghiêm gọi là Xa-ma-tha, Tam-ma và Thiền-na, hàng phàm phu đời Mạt Pháp cũng chưa chắc đã có thể thành tựu được. Quý vị nghĩ xem: Ngày nay có bao nhiêu người học Thiền? Người học Thiền chưa chắc đã biết dùng Chỉ Quán, chưa chắc đã biết dùng phương tiện trong kinh Lăng Nghiêm, tức phương tiện đầu tiên nhất. Xa-ma-tha là tối sơ phương tiện, Tam-ma là sơ phương tiện, Thiền-na là phương tiện. Phương tiện, sơ phương tiện, tối sơ phương tiện, chẳng dễ dàng! Trong quá khứ, tôi đã giảng kinh Lăng Nghiêm rất nhiều lượt, kể như tôi đã có kinh nghiệm đối với những bộ kinh lớn ấy, phản tỉnh, kiểm thảo cặn kẽ nhiều năm như thế, mới thật sự phát hiện kinh A Di Đà có giá trị chẳng thể nghĩ bàn. Ở đây, đối với hai bộ kinh lớn thuộc Viên Giáo Nhất Thừa, đại sư đều nói “phương tiện vị chương”, [tức là] chưa nêu rõ phương tiện, chúng ta rất khó nắm bắt. Hai bộ kinh lớn đã như thế thì các kinh khác không cần phải nói nữa!
(Sớ) Kỳ dư pháp môn, hoặc hạo bác nhi nan trì, hoặc u thâm nhi võng thố.
(Diễn) Hạo bác nan trì, như quảng tu vạn hạnh đẳng.
(疏) 其餘法門,或浩博而難持,或幽深而罔措。
(演) 浩博難持,如廣修萬行等。
(Sớ: Những pháp môn khác hoặc mênh mông bát ngát khó trì, hoặc sâu thẳm khó thực hiện.
Diễn: “Mênh mông bát ngát” như rộng tu vạn hạnh v.v…)
Chắc chắn hàng sơ học chẳng thể thực hiện những điều này! Đối với năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử, quý vị phải biết Ngài đã hội đủ điều kiện nào, chúng ta có thể học theo hay không? Nói theo phía người niệm Phật chúng ta thì người ta đã đắc Lý nhất tâm bất loạn mới có tư cách đi tham học. Nay chúng ta ngay cả “công phu thành phiến” còn chưa đạt được, nếu đi tham học các nơi, tâm quý vị làm sao có thể định được? Nghe nhiều càng tăng trưởng tà kiến: Người này thuyết pháp như thế này, người kia thuyết pháp như thế nọ, rốt cuộc ai thuyết pháp mới là đúng? Càng đến nhiều đạo tràng, tăng trưởng thị phi, chẳng dễ gì thành tựu! Ưu điểm của cổ nhân là gần như trong cả đời họ, trước khi đại triệt đại ngộ, họ trụ tại một đạo tràng, thân cận một vị thiện tri thức, tư tưởng đơn thuần, chẳng dễ gì dấy lên tà kiến, thị phi. Do vậy, cổ nhân so ra chất phác hơn con người hiện thời. Con người hiện thời đúng là ham cao, chuộng xa hơn cổ nhân, vừa bắt đầu liền mong học rộng, mong mỏi rộng tu vạn hạnh, mong trở thành bậc đại thông gia, đúng như pháp sư Ấn Quang đã nói: “Quyết định chẳng thể thành tựu”. Cương lãnh tu hành trong Phật pháp là “giác, chánh, tịnh”, giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ không nhiễm. Quý vị hãy tự suy nghĩ: Đọc nhiều, nghe nhiều kinh luận có gây trở ngại ba nguyên tắc ấy hay không? Đến nhiều đạo tràng, quen biết nhiều người, có gây trở ngại cho ba nguyên tắc ấy hay không? Quý vị sẽ hoảng nhiên đại ngộ.
Từ thời Đông Tấn trở đi, Viễn công đại sư kiến lập Liên Xã tại Lô Sơn, đề xướng pháp môn Niệm Phật, cả đời lão nhân gia sống như bế quan. Bản thân Ngài đã như vậy, mà hễ ai tham gia Niệm Phật Đường [tại Lô Sơn] không ai chẳng giống như vậy. Nơi ấy có một con suối nhỏ gọi là Hổ Khê. Phạm vi hoạt động của họ không vượt quá con suối nhỏ ấy. Trong lịch sử còn lưu truyền giai thoại Hổ Khê Tam Tiếu, là chuyện về bằng hữu chí đồng đạo hợp. Đào Uyên Minh và một vị đạo sĩ đến Lô Sơn thăm viếng Viễn công đại sư. Vừa đi vừa nói chuyện, tản bộ trên đường, chẳng ngờ vượt quá Hổ Khê, từ trước đến nay chưa hề vượt qua [con suối ấy] một bước, đó là lần thứ nhất. Người ta tâm rất thanh tịnh như vậy, chẳng chạy loạn lên! Chẳng những chưa tu thành tựu thì không dám chạy lung tung, mà sau khi đã tu thành tựu cũng như như bất động như vậy, ở cố định tại một đạo tràng, sống cả đời tại nơi đó. Do vậy, chính mình thành tựu, mà cũng thành tựu đại chúng. Thuở ấy, liên xã gồm một trăm hai mươi mấy người, ai nấy đều thành tựu, ai nấy đều vãng sanh. Trong lịch sử Trung Quốc, bất luận một đạo tràng nào cũng không có nhiều người thành tựu như vậy. Chúng ta chỉ thấy đạo tràng của Viễn công đại sư, hơn một trăm người ai nấy đều vãng sanh. Những người vãng sanh sau, lúc mạng chung thấy Tây Phương Tam Thánh, còn thấy những đồng tu của chính mình [đã vãng sanh trước] theo Phật cùng đến tiếp dẫn. Trong Thiền Tông, đạo tràng của Lục Tổ đại sư chỉ có bốn mươi ba người thành tựu, chưa bằng một nửa số người thành tựu trong đạo tràng của Viễn công đại sư. Đọc những đoạn lịch sử ấy, có tác dụng khơi gợi to lớn đối với chúng ta.
Niệm Phật phải sốt sắng niệm Phật! Hiện thời tại Đài Loan, phong trào Niệm Phật Đường rất mạnh, đấy là chuyện tốt, nhưng giáo nghĩa không hiểu rõ, một tiếng Phật hiệu chưa thể tương ứng với Hằng sa tánh đức trong Chân Như bình đẳng. Do vậy có thể biết rằng: Người niệm Phật chẳng thể không thông hiểu giáo nghĩa, mức thấp nhất là phải tích cực thảo luận A Di Đà Kinh Sớ Sao và A Di Đà Kinh Yếu Giải. Nếu giáo nghĩa, phương pháp, cảnh giới đều hiểu rõ thì từng tiếng Phật hiệu sẽ tương ứng. Vì thế, tôi thường khuyên các đồng tu phát tâm học giảng kinh, chuyên giảng A Di Đà Kinh, một môn thâm nhập, tự mình quyết định thành công ngay trong một đời này. Nếu phát tâm suốt đời giảng A Di Đà Kinh, giảng Sớ Sao, Yếu Giải, người ấy tương lai nhất định Thượng Phẩm Thượng Sanh. Học một bộ kinh chẳng khó, tốn mười năm công phu, không ai chẳng thành tựu! Mười năm học mười bộ kinh, mỗi bộ kinh học một năm, công phu chẳng đủ, nắm vững kinh ở mức độ trung bình, chẳng thể vượt trỗi người khác, người ta điều gì cũng chẳng kém quý vị. Nếu quý vị dụng công mười năm nơi một bộ kinh sẽ vượt trỗi người khác. Chuyện gì cũng phải chuyên, cũng đều phải nhất tâm.
(Diễn) U thâm võng thố, như trực ngộ nhất tâm đẳng.
(演) 幽深罔措,如直悟一心等。
(Diễn: “Sâu thẳm không thể làm được” là như ngộ thẳng vào nhất tâm chẳng hạn).
Chữ “u thâm” ý nói hết thảy các kinh Đại Thừa quá sâu, “võng thố” là chẳng biết bắt đầu từ nơi đâu. Thật ra, bộ kinh A Di Đà này cũng sâu không đáy, không có cùng tận, nhưng chúng ta được Liên Trì đại sư chỉ dẫn và những vị tổ sư như Ngẫu Ích giúp sức; do vậy mới dần dần hiểu rõ ý nghĩa kinh này, mới thật sự tin tưởng trong một đời có thể thành tựu, kiến lập tín tâm. Nếu tự mình thật sự thâm nhập, cũng chẳng hoài nghi tí nào, sẽ nhận biết trong một đời quyết định thành tựu, quyết chẳng uổng công, thẳng thừng, thỏa đáng tu nhất tâm bất loạn.
(Sớ) Kim đản phiến ngôn danh hiệu, tiện nhập nhất tâm, ký đắc vãng sanh, trực chí thành Phật.
(疏) 今但片言名號 ,便入一心 ,既得往生,直至成佛。
(Sớ: Nay chỉ do một câu danh hiệu liền nhập nhất tâm, đã được vãng sanh sẽ tiến mãi cho đến khi thành Phật).
Đây là chỗ thù thắng của pháp môn này, “phiến ngôn” là một câu danh hiệu. Trong Tâm Kinh nói “thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú” (là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng). Chú ấy là chú gì vậy? Chính là hai trăm sáu mươi chữ của Tâm Kinh. Tôi đặc biệt giới thiệu với quý vị, còn có một bài đại thần chú bậc nhất cao hơn nữa. Chú, tiếng Phạn là Đà-la-ni (Dhāranī), Đà-la-ni dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tổng Trì, “tổng nhất thiết pháp, trì nhất thiết nghĩa” (gồm thâu hết thảy pháp, nắm giữ hết thảy nghĩa).
Quý vị hãy suy nghĩ: Sáu chữ Nam-mô A Di Đà Phật có phải là Tổng Trì hay chăng? Dịch sang nghĩa tiếng Hán là Quy Y Vô Lượng Giác. Sáu chữ ấy chẳng phải là gồm thâu hết thảy pháp, nắm giữ hết thảy nghĩa ư? Không còn phải bàn cãi gì nữa, quả thật danh hiệu này gồm thâu hết thảy pháp, nắm giữ hết thảy nghĩa. Nói cách khác, một câu Phật hiệu này là chú ngữ, không những là chú ngữ, tôi còn phải thêm vào “đại thần chú bậc nhất, đại minh chú bậc nhất, chú vô thượng bậc nhất, chú không gì sánh bằng bậc nhất”. Quý vị chẳng cần phải học các chú ngữ Mật Tông nữa, A Di Đà Phật là chú bậc nhất! Mọi người nhất định phải hiểu rõ, tổ sư Tịnh Độ Tông mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, các Ngài chẳng niệm kinh mà cũng chẳng niệm chú, Phật hiệu đã là chú rồi!
Từ Tâm Kinh, quả thật có thể thấu hiểu một câu danh hiệu A Di Đà Phật thật sự là đại thần chú chân thật chẳng dối, là đại minh chú, là vô thượng chú, là chú không gì sánh bằng, [hiểu như vậy] sẽ chẳng uổng công niệm Tâm Kinh. Một bộ Bát Nhã Tâm Kinh quy về câu Phật hiệu. Niệm kinh Hoa Nghiêm, niệm đến cuối cùng mới thấu hiểu: Mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc, toàn bộ Hoa Nghiêm quy về một câu Phật hiệu. Câu Phật hiệu này là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, niệm câu Phật hiệu giống như niệm toàn bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Tụng kinh Hoa Nghiêm, mỗi ngày niệm tám tiếng đồng hồ, phải tụng nửa tháng mới xong. Một câu Phật hiệu, chỉ là một lời, mà đã bao quát toàn bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh chẳng sót một chữ nào, lẽ nào nó chẳng phải là đại thần chú, là đại minh chú ư? Sau khi hiểu rõ đạo lý này, đối với pháp môn Tịnh Độ, quý vị mới chết sạch tấm lòng mong ngóng, so đo, khiêm hư sát đất, lẽ nào chẳng được vãng sanh?
Ở đây, đại sư kết lại lời khen ngợi: “Kim đản phiến ngôn danh hiệu, tiện nhập nhất tâm, ký đắc vãng sanh, trực chí thành Phật” (Nay chỉ do một câu danh hiệu liền nhập nhất tâm, đã được vãng sanh sẽ tiến mãi cho đến khi thành Phật). Ý nói: Nếu chúng ta mong đạt đến Lý nhất tâm bất loạn, Sự nhất tâm bất loạn, thật sự chẳng dễ dàng. Lý nhất tâm bất loạn là phá một phần vô minh, Sự nhất tâm bất loạn là đoạn Kiến Tư phiền não, đều chẳng phải là chuyện chúng ta dễ dàng thực hiện được; nhưng một câu Phật hiệu có thể hàng phục phiền não, áp chế phiền não, đạt đến công phu thành phiến, đới nghiệp vãng sanh, đấy chính là như Vĩnh Minh đại sư đã nói: “Vạn người tu, vạn người về”.
Nói cách khác, mỗi người đều có thể làm được, đều có năng lực ấy, chỉ sợ quý vị không chịu làm! Đương nhiên, quý vị có chướng ngại, chỉ sợ quý vị không chịu trừ khử những chướng ngại của chính mình, chướng ngại gì vậy? Phiền não! Ví như đại chúng cùng tu với nhau ở một chỗ, mỗi người có ý kiến khác nhau, cách nhìn, cách làm, cách nghĩ mỗi người mỗi khác. Khác nhau là chướng ngại, chướng ngại sẽ nẩy sanh. Chướng ngại ai? Chướng ngại công phu thành phiến của chính mình.
Nếu có thể bỏ được thành kiến của chính mình, khởi lên câu Phật hiệu, đè nén phiền não của chính mình thì chính mình đã đạt công phu thành phiến. Tự mình niệm Phật đắc lực, lợi ích do vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới thuộc về chính mình, chứ không thuộc vào ai khác. Một mực chấp trước, một mực phân biệt, chướng ngại chính mình thành tựu công phu thành phiến. Chính mình niệm một câu Phật hiệu chẳng tốt đẹp, chẳng thể đắc lực thì chính mình thiệt thòi, đâu phải ai khác! Chỉ cần được vãng sanh, đâu sợ hạ phẩm hạ sanh! Điều tốt đẹp lớn nhất do sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới là thọ mạng dài lâu, đạt được quả báo ấy. A Di Đà Phật thọ vô lượng, quý vị cũng thọ vô lượng. Dẫu thành Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp, nhưng thọ mạng của quý vị là vô lượng A-tăng-kỳ kiếp, ba A-tăng-kỳ kiếp thấm vào đâu? Trừ phi chẳng sanh về Tây Phương; hễ sanh về Tây Phương, quyết định thành Phật trong một đời, “ký đắc vãng sanh, trực chí thành Phật” (đã được vãng sanh, sẽ tiến mãi cho đến khi thành Phật), đấy là sự thật!
(Sớ) Tức phương tiện nhi thành viên đốn.
(Diễn) Tức phương tiện thành viên đốn giả, xưng bỉ danh hiệu phương tiện pháp dã.
(疏) 即方便而成圓頓。
(演) 即方便成圓頓者,稱彼名號方便法也。
(Sớ: Tức là pháp phương tiện mà trở thành viên đốn.
Diễn: “Tức là pháp phương tiện mà trở thành viên đốn”: Xưng danh hiệu đức Phật ấy chính là pháp phương tiện).
Mỗi ngày niệm câu Nam-mô A Di Đà Phật, phương pháp này rất thuận tiện, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn không có pháp nào thuận tiện bằng. Thượng Phẩm Thượng Sanh là viên đốn.
(Diễn) Thượng Phẩm Thượng Sanh tức đăng Sơ Địa, khởi phi viên đốn?
(演) 上品上生即登初地,豈非圓頓。
(Diễn: Thượng Phẩm Thượng Sanh liền đạt lên bậc Sơ Địa, há chẳng phải là viên đốn ư?)
Pháp này chẳng viên đốn thì pháp nào mới là viên đốn? Thượng Phẩm Thượng Sanh là Lý nhất tâm bất loạn. Muốn đạt đến Thượng Phẩm Thượng Sanh thì phải thật sự hiểu rõ Lý Tịnh Độ. Muốn thật sự đạt được, chỉ cần chịu tin tưởng lời tôi, quý vị sẽ đỡ tốn thời gian ba mươi năm. Tôi phí thời gian ba mươi năm trong hết thảy kinh điển, trong vô lượng pháp môn mới tìm ra! Quý vị không tin [lời tôi nói] như vậy thì ráng chịu, quý vị cứ thong thả mà mò mẫm đi! Nếu quý vị tin tưởng, từ hôm nay bắt đầu gạt bỏ hết thảy kinh luận, hết thảy pháp môn, chuyên tu pháp này, tu suốt ba mươi năm, quý vị là Thượng Phẩm Thượng Sanh. Tốn cả ba mươi năm tôi mới mò tìm được đường lối, trong khi quý vị đã là Thượng Phẩm Thượng Sanh, chẳng thể so sánh được! Nhưng nếu quý vị không tin, sợ rằng sẽ uổng phí cả đời này!
Thuở ấy, khi tôi mới vừa học Phật, chẳng biết điều này! Nếu biết thì từ lúc mới phát tâm tôi đã chuyên niệm A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, chuyên đọc bộ kinh này, chuyên môn giảng bộ kinh này. Nếu giảng kinh này suốt ba mươi mấy năm, tôi nghĩ quý vị trông thấy tôi, cũng chẳng kêu tôi là pháp sư Tịnh Không mà nhất định sẽ kêu tôi là A Di Đà Phật. Thật đấy, chẳng giả tí nào! Nhất định phải thật sự thực hiện, phải chịu bỏ! Hết thảy giải môn, hạnh môn đều bỏ sạch, quý vị sẽ nắm được pháp môn này, có được bộ kinh này, sẽ đạt đến nhất tâm bất loạn, đấy mới là đại công cáo thành viên mãn!
(Diễn) Vi thông huyền bí quyết, hoán cốt thần đan, như hậu văn sở tán.
(演) 為通玄祕訣,換骨神丹,如後文所贊。
(Diễn: Là bí quyết để thông đạt lẽ huyền nhiệm, là thần đan để thay xương, như trong phần kinh văn ở phía sau đã khen ngợi).
Hai câu này là lời khen ngợi. “Thông huyền bí quyết”: Thông là thông đạt, Huyền là huyền diệu, u huyền. “Bí quyết”: Hình dung một câu A Di Đà Phật là đại thần chú có thể thông đạt lẽ huyền nhiệm, là bí quyết trong Phật môn. “Hoán cốt thần đan”: Giống như đan dược của thần tiên, uống vào sẽ có thể thoát thai hoán cốt[56], siêu phàm nhập thánh. Đây là lời tán thán Phật hiệu. Trong phần sau còn rất nhiều đoạn văn khen ngợi.
(Sớ) Thần công thắng lực, bất quy thử kinh, tương thùy quy hồ?
(疏) 神功勝力,不歸此經,將誰歸乎。
(Sớ: Công đức thần diệu, lực dụng thù thắng, chẳng quy vào kinh này thì quy vào đâu nữa?)
Công đức thần diệu chẳng thể nghĩ bàn, lực dụng thù thắng, chẳng quy vào kinh A Di Đà thì quy vào kinh nào? So sánh sẽ thấy đúng là chẳng giả tí nào. Chỗ này đáng khiến cho chúng ta phản tỉnh sâu xa. Do vậy, công đức, lực dụng quả thật tập trung trong bộ kinh này. Đại Tạng Kinh có nhiều kinh điển dường ấy, sách vở thế gian và xuất thế gian đều có thể dùng làm tài liệu tham khảo. Chẳng hạn như nói đến “lục tướng, thập huyền” thì có thể tra cứu Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, Phật Học Từ Điển, Tam Tạng Pháp Số, dùng chúng làm tài liệu tham khảo. Tinh hoa của hết thảy các kinh và các pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều quy nạp, dung nhập bộ kinh này, phá vô minh từ vô thỉ của chính mình, thành tựu nhất tâm bất loạn cho chính mình, rồi mới lại hoằng dương, phát huy pháp môn Tịnh Độ, lợi ích vô lượng vô biên chúng sanh.
Thật sự nói đến lợi ích thì ắt phải bắt chước Viễn công đại sư, niệm Phật trong Niệm Phật Đường, mọi người phát tâm cả đời chẳng ra khỏi sơn môn, hoặc hoạch định một giới tuyến, thật sự khiến cho tâm định lại. Giống như đầu thời Dân Quốc, tổ Ấn Quang đã lập Niệm Phật Đường tại núi Linh Nham, Tô Châu, quy củ của liên xã tuy không nghiêm ngặt như thuở Viễn công đại sư, nhưng cũng có không ít người thành tựu. Bất luận tại gia hay xuất gia đều có thể quải đơn[57] tham gia niệm Phật. Đây là Niệm Phật Đường quanh năm, hằng ngày đả Phật thất. Một năm ba trăm sáu mươi ngày, Tết nhất cũng không nghỉ. Khóa tụng của núi Linh Nam là mỗi ngày niệm Phật sáu cây hương, mỗi năm hai lượt tổ chức Tinh Tấn Phật Thất. Tinh Tấn Phật Thất là tăng thêm thời gian niệm Phật, niệm đến chín cây hương.
Thông thường là ghép bảy thất lại để làm Tinh Tấn Phật Thất, đạo tràng như vậy mới có thể thành tựu đại chúng. Trước kia, người niệm Phật quá nửa là thông đạt giáo lý, người niệm Phật hiện thời tuy có nơi chốn, nhưng niệm hai ngày, tâm họ thấy càng niệm càng phiền, bỏ đi, nguyên nhân là do đâu? Không thông giáo lý, chẳng hiểu công đức lợi ích thù thắng của pháp môn này. Do vậy, họ không có tâm nhẫn nại.
Nếu thật sự hiểu rõ công đức, lợi ích và chỗ tốt đẹp của pháp môn này, tôi tin họ nhất định sẽ cho đến hết đời chẳng rời khỏi sơn môn. Đấy là phương hướng mà từ nay trở đi chúng ta phải nỗ lực. Đến đây, có thể nói là đại sư đã đem thánh giáo trong suốt một đời, tức Phật pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm, quy vào kinh A Di Đà. Nay đã hết giờ rồi!