A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA
QUYỂN 1 – Tập 21-24
Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong
— o0o —
Tập 21
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, trang hai mươi ba:
(Sớ) Hựu tiền thị Tánh Đức, kim thị Tu Đức. Tiền thị tự tánh thanh tịnh, kim thị ly cấu thanh tịnh, nãi chí tánh tịnh chướng tận đẳng, hỗ dung bất nhị như Giáo trung thuyết.
(疏) 又前是性德,今是修德。前是自性清淨,今是離垢清淨。乃至性淨障盡等,互融不二,如教中說。
(Sớ: Lại nữa, phần trước nói về Tánh Đức, phần này nói về Tu Đức. Phần trước là tự tánh thanh tịnh, phần này là ly cấu thanh tịnh, cho đến tánh thanh tịnh, hết chướng v.v… dung nhập lẫn nhau, chẳng hai, như trong Giáo đã nói).
Đoạn này là lời tổng kết cho khoa này, trình bày rất rõ ràng. Chữ “tiền” (前) chỉ đoạn thứ nhất, tức là phần Minh Tánh. Phần Minh Tánh giảng về Tánh Đức, còn đoạn thứ hai này là Tán Kinh (khen ngợi kinh). Tán Kinh chính là nói về Tu Đức. Trong đoạn Minh Tánh, kinh văn khá sâu, giảng về “tự tánh thanh tịnh”, câu nào cũng đều bàn luận xứng tánh; còn đoạn Tán Kinh này giảng về Tu Đức. Tánh Đức tuy vốn sẵn đủ, nhưng nếu không có Tu Đức, Tánh Đức của chúng ta sẽ chẳng thể hiện tiền. Tánh Đức nhất định phải dựa vào Tu Đức mới có thể hiện tiền, “Tánh – Tu bất nhị”. Nếu hiểu đạo lý này, chắc chắn chẳng thể chấp Lý phế Sự, hoặc chấp Sự phế Lý. Do đây có thể biết: Người niệm Phật chẳng thể không hiểu giáo nghĩa, chẳng thể không hiểu giáo lý. “Tự tánh thanh tịnh tâm” là giáo lý, mà cũng là giáo thể, nhất định phải hiểu rõ [giáo lý và giáo thể] rồi mới có thể thật sự “đoạn Hoặc, chứng Chân”.
(Diễn) Hựu tiền thị hạ, thị tổng kết lưỡng tiết, Tánh Đức, Tu Đức, xuất Thiên Thai giáo.
(演) 又前是下 ,是總結兩節 。性德、修德,出天台教。
(Diễn: Lại nữa, từ chữ “tiền thị” trở đi, tổng kết hai đoạn [Minh Tánh và Tán Kinh, khái niệm] Tánh Đức và Tu Đức phát xuất từ tông Thiên Thai).
Đoạn kinh văn này là nhằm tổng kết hai đoạn kinh văn ở phía trên, đoạn thứ nhất là Minh Tánh, đoạn thứ hai là Tán Kinh. Đoạn thứ nhất nói về giáo lý, xuyên suốt tất cả kinh luận. Chẳng những kinh luận trong nhà Phật đều từ Tánh Đức lưu lộ, mà thậm chí hết thảy pháp thế gian lẫn xuất thế gian, có thể nói là hết thảy pháp trong tận hư không, trọn khắp pháp giới, không gì chẳng từ Tánh Đức biến hiện. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm nói: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Đoạn thứ nhất hết sức trọng yếu.
Chúng sanh tuy sẵn có Tánh Đức, nhưng nếu không có Tu Đức thì từ đầu đến cuối Tánh Đức bị vô minh, phiền não trói buộc, chẳng thể hiển hiện. Giống như chúng ta trong hiện thời, có ai trong chúng ta chẳng sẵn đủ Tánh Đức? Nói theo phương diện Tánh Đức, kinh Hoa Nghiêm và kinh Viên Giác đã dạy: “Nhất thiết chúng sanh bổn lai thành Phật” (Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật). Không sai! Quả thật vốn sẵn là Phật! Trong [giáo nghĩa] Lục Tức Phật, Thiên Thai đại sư có nói Lý Tức Phật, tức là nói theo phương diện Tánh Đức. Tuy bổn tánh của chúng ta vốn chẳng hai chẳng khác với chư Phật, nhưng hiện thời cảnh giới của chúng ta khổ sở chẳng thể kham nói nổi! Vì sao biến thành như vậy? Vì mê mất Tánh Đức, còn Phật, Bồ Tát thì ngộ Tánh Đức này; có thể thấy Tánh Đức không hai, chỉ có mê hay ngộ khác nhau. Mê bèn là phàm phu lục đạo, giác ngộ sẽ là chư Phật, Bồ Tát.
Nay chúng ta đã mê, phải phá mê khai ngộ ra sao? Chính là phải nói đến Tu Đức. Trong phương diện Tu Đức, ở đây, Liên Trì đại sư đặc biệt nói đến Tán Kinh. Nói cách khác, chúng ta muốn tu hành thì kinh điển có quan hệ mật thiết nhất đối với chúng ta. Chúng ta dựa vào đâu để tu? Nương tựa vào thứ gì? Kinh điển là chỗ nương tựa duy nhất. Kinh điển có thật sự đáng nương cậy hay chăng? Chúng ta không khỏi nẩy sanh hoài nghi. Nếu hiểu đoạn thứ nhất đôi chút thì những nghi vấn ấy sẽ được giải quyết. Kinh điển từ Tánh Đức của Phật lưu lộ. Nói cách khác, chúng ta nương vào kinh điển là nương vào Tánh Đức. Tu Đức là nương vào Tánh Đức để khởi tu, làm sao có thể nói là chẳng thể khôi phục Tánh Đức? Đấy là sự mạch lạc trong văn tự, nói Tánh Đức xong, lập tức bàn về Tu Đức, đạo lý là ở chỗ này!
Khi đức Thế Tôn sắp nhập diệt, Ngài đã dạy các đệ tử mai sau hãy nương theo Tứ Y Pháp, điều thứ nhất là “y pháp, bất y nhân”. Quý vị phải hiểu: Pháp là Tánh Đức, là viên mãn. Như Lai chứng đắc cực quả rốt ráo, Pháp từ quả đức viên mãn rốt ráo mà lưu lộ. Vì sao chẳng thể nương theo người? Con người dẫu tu tốt đẹp tới đâu đi nữa, Tánh Đức vẫn chưa thể phô bày trọn vẹn. Đẳng Giác Bồ Tát còn có một phần vô minh chưa phá, chưa chứng Tánh Đức viên mãn. Đạo lý là ở chỗ này! “Xuất Thiên Thai giáo”: Hai danh từ Tánh và Tu thoạt đầu do Thiên Thai đại sư lập ra.
(Diễn) Tự tánh thanh tịnh, ly cấu thanh tịnh, xuất Khởi Tín Luận.
(演) 自性清淨,離垢清淨,出起信論。
(Diễn: Hai khái niệm tự tánh thanh tịnh và ly cấu thanh tịnh phát xuất từ Khởi Tín Luận).
“Tự tánh thanh tịnh và ly cấu thanh tịnh” xuất phát từ Khởi Tín Luận, tức xuất phát từ hai câu nói trong bộ Đại Thừa Khởi Tín Luận của Mã Minh Bồ Tát. Thật ra, chúng chính là Tánh Đức và Tu Đức. Từ bổn tánh mà nói thì “tự tánh thanh tịnh” vốn chẳng nhiễm, tại thánh chẳng tăng, nơi phàm chẳng giảm. Chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng nhơ, chẳng sạch, đó mới là thanh tịnh thật sự. “Tự tánh thanh tịnh” chính là Tánh Đức như tông Thiên Thai đã nói. “Ly cấu thanh tịnh” giống như Tu Đức trong tông Thiên Thai. “Cấu” (垢) là phiền não, Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh, chúng có thể nhuốm bẩn bổn tánh. Sự nhuốm bẩn ấy chẳng phải là thật sự nhuốm bẩn. Nếu bổn tánh có thể bị thứ gì khác nhuốm bẩn, sẽ chẳng thể gọi là chân tánh. Đấy là tương tự, chứ không phải thật sự bị nhuốm bẩn.
Giống như gặp phải ngày trời âm u, mặt trời không mọc. Mặt trời đi đâu rồi? Bị mây che lấp. Quý vị hãy suy nghĩ: Mây có thể che lấp mặt trời hay không? Chẳng thể che lấp! Mặt trời quá ư là lớn, chẳng thể che lấp được, [chỉ là] dường như bị che lấp mà thôi, che lấp gì vậy? [Mây] che lấp con mắt của chính mình, khiến cho chúng ta chẳng thấy được mặt trời. Có chướng ngại ấy thì tự tánh thanh tịnh của chúng ta chẳng thể hiện tiền. Nếu tự tánh thanh tịnh hiện tiền, nhất định phải lìa phiền não. Chẳng lìa phiền não, tự tánh thanh tịnh vẫn chẳng thể hiện tiền. Tự tánh thanh tịnh hiện tiền thì gọi là Phật hay Bồ Tát. Chẳng thể hiện tiền, bị phiền não che lấp, thì gọi là phàm phu. Đấy là nguyên tắc và nguyên lý được nói trong ngàn kinh vạn luận và vô lượng pháp môn, quyết định chẳng thể thay đổi được!
(Diễn) Tánh tịnh chướng tận, xuất Viên Giác Kinh.
(演) 性淨障盡,出圓覺經。
(Diễn: Câu “tánh tịnh, chướng hết” trích từ kinh Viên Giác).
Câu “tánh tịnh, chướng tận” lấy từ kinh Viên Giác. Ba câu trên đây lấy từ ba thứ kinh luận khác nhau để dẫn chứng. Nêu ra ba thứ kinh luận khác nhau với hàm ý: Ngàn kinh muôn luận không gì chẳng nói như vậy. Đó gọi là Phật pháp. Nếu trái nghịch nguyên tắc và nguyên lý này sẽ chẳng phải là Phật pháp. Tương ứng với nguyên tắc và nguyên lý này thì gọi là “học Phật”. Chẳng tương ứng với nguyên tắc và nguyên lý này thì gọi là “ngoại đạo”. Do vậy, bản thân chúng ta phải kiểm điểm tâm hạnh của chính mình, xem nó có tương ứng với nguyên tắc và nguyên lý này hay không? Chúng ta hằng ngày tu hành, khi tu thì có đức hay là không? Tu Đức, đức ấy là Tánh Đức, tu Tánh Đức, Tánh Đức là gì? “Tự tánh thanh tịnh”, “tánh tịnh, chướng tận”.
Chúng ta mỗi ngày tu hành, có phải phiền não ngày một giảm nhẹ hay không? Nếu phiền não ngày một giảm nhẹ, cái tâm trong cảnh giới ấy đương nhiên ngày một thanh tịnh. Đấy gọi là Tu Đức. Do sự tu tập ấy, quý vị sẽ đạt được gì? Tánh Đức. Phiền não giảm từng phần thì Tánh Đức thấu lộ từng phần. Nếu chúng ta mỗi ngày dụng công tu hành, chẳng thấy phiền não giảm thiểu, Tánh Đức chẳng tỏ lộ, tuy tu mà không có đức, tu uổng công rồi! Tuy tu mà chẳng đạt được thành tích. Nếu quý vị hiểu rõ nguyên lý này, bất luận quý vị niệm Phật, tham Thiền, trì chú, tụng kinh, hay lễ bái, phương pháp, mánh khóe vô lượng vô biên, nhưng đều chẳng tách rời nguyên tắc này. Bất luận dùng mánh khóe nào, nói chung là phải đoạn phiền não, phải chứng cái tâm tự tánh thanh tịnh. Tự tánh thanh tịnh là đại Bồ Đề tâm, phải chứng đại Bồ Đề!
(Diễn) “Hỗ dung” nhất cú, tổng đảnh thượng tam chủng. “Hỗ dung bất nhị” giả, vị toàn tánh khởi tu, toàn tu tức tánh, tánh ngoại vô tu, tu ngoại vô tánh dã.
(演) 互融一句,總頂上三種。互融不二者,謂全性起修,全修即性,性外無修,修外無性也。
(Diễn: Câu “hỗ dung” (dung nhập lẫn nhau) tổng kết ba thứ trên đây. “Dung nhập lẫn nhau chẳng hai” ý nói: Dùng toàn bộ tánh để bắt đầu tu, toàn thể tu chính là tánh, ngoài tánh không có tu, ngoài tu không có tánh).
“Hỗ dung bất nhị” (dung nhập lẫn nhau chẳng hai) thì mới thật sự nhập môn. Đối với người tu pháp môn Niệm Phật chấp trì danh hiệu mà nói, đây là cảnh giới Lý nhất tâm bất loạn. Sự nhất tâm thì Tánh và Tu chưa viên dung, vẫn là hai, Tánh Đức chưa phải là Tu Đức, Tu Đức chẳng phải là Tánh Đức. Công phu thành phiến và Sự nhất tâm bất loạn đều chưa viên dung, viên dung là Lý nhất tâm bất loạn. Vì sao kẻ ấy (hành giả tu pháp môn Niệm Phật) chẳng thể viên dung? Kẻ ấy chẳng hiểu rõ, thông đạt ý nghĩa của hai đoạn Minh Tánh và Tán Kinh trong bộ Sớ Sao. Nói như vậy, người niệm Phật chúng ta chẳng thể không nghiên cứu kinh. Những kinh khác chúng ta có thể không nghiên cứu, chứ kinh A Di Đà chẳng thể không nghiên cứu, lại còn phải thâm nhập, thông hiểu thấu triệt nó bằng sách Sớ Sao Diễn Nghĩa.
Nay chúng ta triển khai Sớ Sao, nhờ bộ Diễn Nghĩa mới thấu hiểu những ý nghĩa rộng lớn, tinh vi, sâu xa trong đó. Nếu không có bộ Diễn Nghĩa này, sách Sớ Sao vẫn còn là quá sâu, rất nhiều nghĩa lý vi diệu trong ấy chúng ta vẫn chưa thấy được. Có bộ Diễn Nghĩa thì mới thật sự thông suốt bổn hoài của Liên Trì đại sư, mà cũng là thấu hiểu thông suốt bổn hoài trong giáo pháp suốt cả một đời đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Bản chú giải này quả thật là công đức vô lượng vô biên, thật đúng như bài kệ Khai Kinh đã nói “bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ” (trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ). Có câu nói: “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn” (Thân người khó được, Phật pháp khó nghe), chúng ta đã được làm thân người, mà cũng được gặp Phật pháp. Chẳng những được gặp, mà còn gặp sách Sớ Sao Diễn Nghĩa thật sự khó gặp, nếu trong một đời này chẳng thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới tức là phụ bạc chính mình quá mức! Có được bộ Sớ Sao này, không chỉ vãng sanh, mà còn nếu dùng một chút sức sẽ có thể Thượng Phẩm Thượng Sanh, vì sao? Tất cả nghi chướng của quý vị đều bị phá trừ. Phá trừ nghi chướng, trong một đời này chắc chắn sẽ đắc Lý nhất tâm bất loạn, Thượng Phẩm Thượng Sanh, thật sự khế nhập “Tánh – Tu bất nhị”, đạt đến cảnh giới ấy.
“Toàn tánh” là Tánh Đức, “khởi tu” là Tu Đức, “toàn tu” là Tu Đức, “tức tánh” là Tánh Đức, là một chuyện, chứ không phải hai chuyện. “Ngoài Tánh không có Tu, ngoài Tu không có Tánh”: Trong phần trên, chúng tôi đã giảng rõ ý nghĩa Tánh Đức và Tu Đức, chúng do tâm hiện, thức biến. Tâm thức chính là tác dụng của Tánh Đức. Nếu dựa theo kinh Đại Phương Quảng đã giảng về “Thể, Tướng, Dụng”, Tánh Đức là Thể, duy tâm sở hiện là Tướng, duy thức sở biến là tác dụng. Thể – Tướng – Dụng là một, dung nhập lẫn nhau, không hai. Nói tới Thể, nhất định bao gồm Tướng và Dụng; nói đến Tướng, nhất định bao gồm Thể và Dụng. Một mà ba, ba mà một, đấy mới là thật sự khế nhập “ngoài Tánh không có Tu, ngoài Tu không có Tánh”. Khi ấy, kinh Đại Thừa thường nói là “lìa hết thảy tướng, chính là hết thảy pháp”. Sự “lìa” ấy chẳng phải là nói lìa tướng bên ngoài. Quý vị phải nhớ: Tướng bên ngoài chính là Thật Tướng của Tánh Đức, làm sao quý vị có thể lìa được? “Lìa” ở đây chính là lìa tướng hư vọng trong tâm của chúng ta, lìa tướng ấy!
Nếu quý vị đã từng đọc Duy Thức Luận thì câu nói này sẽ dễ giảng, mà cũng dễ hiểu. Trong Duy Thức Luận đã giảng rõ: Tâm và Tâm Sở mỗi thứ đều có bốn phần, [mỗi Tâm Vương trong] tám Tâm Vương đều có bốn phần, [mỗi Tâm Sở trong] năm mươi mốt pháp Tâm Sở cũng có bốn phần, tức: Tự Chứng Phần, Chứng Tự Chứng Phần, Kiến Phần và Tướng Phần. Chúng ta lìa hết thảy tướng, tức là lìa Tướng Phần của Tâm và Tâm Sở, chứ không phải là lìa tướng cảnh giới bên ngoài; nhưng quý vị phải biết: Tướng Phần [hư vọng như vừa nói đó] của Tâm và Tâm Sở là kể từ thức thứ bảy trở xuống (tức bảy thức trước, không tính A Lại Da thức). Bởi lẽ, Tướng Phần của thức thứ tám là Thân Tướng Phần! Tướng Phần của thức thứ tám là Tướng Phần của Tánh Đức, không có cách nào lìa được, các nhà Duy Thức gọi nó là Bổn Chất Tướng, kinh gọi nó là “Thật Tướng của các pháp”. “Lìa” là lìa tướng hư vọng, tức [là lìa] Tướng Phần của Thất Chuyển Thức[58] và năm mươi mốt Tâm Sở[59], chúng là tướng hư vọng, không thật. Lìa hết thảy tướng, chính là hết thảy pháp, “chính là hết thảy pháp” tức là [do lìa hết thảy Tướng Phần hư vọng (Sơ Tướng Phần) của bảy thức và các Tâm Sở bèn] thấy được Bổn Chất Tướng của hết thảy pháp, thấy được Thật Tướng của các pháp. Có ý nghĩa này! Khi đạt được điều này thì mới có thể thật sự ngộ nhập “Tánh – Tu bất nhị, vạn pháp giống hệt như một”.
(Diễn) Hựu cựu vân: “Tánh tịnh, chướng tận, hỗ dung bất nhị” giả.
(演) 又舊云:性淨障盡,互融不二者。
(Diễn: Lại như cổ đức nói:“Tánh tịnh, chướng tận, dung nhập lẫn nhau bất nhị” thì …)
“Tánh” vốn sẵn thanh tịnh, tức là tự tánh thanh tịnh. “Chướng” (障) là hai thứ chướng, tức Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng, mà cũng là Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh, những chướng ấy cũng hết. Khi đó, chẳng những Lý – Sự viên dung, mà lại còn “Sự – Sự viên dung” như kinh Hoa Nghiêm đã nói. Đấy chính là Lý – Sự vô ngại và Sự – Sự vô ngại dung nhập lẫn nhau, chẳng hai!
(Diễn) Dĩ toàn tánh khởi tu thời, phá toàn tánh chi vô minh, đoạn toàn tánh chi sanh tử, chung nhật bổn thể, chung nhật công phu, tánh tịnh tức chướng tận dã.
(演) 以全性起修時,破全性之無明,斷全性之生死,終日本體,終日工夫,性淨即障盡也。
(Diễn: Do khi toàn tánh khởi tu thì sẽ phá vô minh nơi toàn tánh, đoạn sanh tử nơi toàn tánh, suốt ngày là bổn thể, suốt ngày công phu, tánh tịnh thì chướng sẽ hết).
Đây là cảnh giới Cứu Cánh Tức Phật [trong Lục Tức Phật của tông Thiên Thai]. Đẳng Giác Bồ Tát còn có một phần sanh tướng vô minh chưa đoạn, do chướng chưa đoạn sạch sẽ, Tánh vẫn chưa hoàn toàn tịnh. Phải đạt tới “tánh tịnh, chướng tận” thì mới là đạt đến mục tiêu học Phật một cách viên mãn, đấy là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chẳng phải là Chánh Đẳng Chánh Giác. Đây là công phu Lý nhất tâm đạt đến chỗ cùng cực. Phá một phẩm vô minh, thấy một phần chân tánh, chính là Lý nhất tâm bất loạn. Cùng chứng Lý nhất tâm như nhau, nhưng công phu sâu hay cạn khác biệt rất lớn. Từ địa vị Sơ Trụ của Viên Giáo cho đến Đẳng Giác Bồ Tát đều gọi là Lý nhất tâm; ở đây, đại sư nêu ra nguyên tắc này. Nói cách khác, giúp cho chúng ta thành tựu Lý nhất tâm bất loạn, thành tựu Vô Thượng Bồ Đề trong một đời; do vậy, nếu chướng đã hết thì Tánh sẽ thanh tịnh viên mãn.
Đối với một câu Phật hiệu, điều khẩn yếu nhất là phải khởi lên sự nhận biết này: Phải giác ngộ! Hễ giác thì phiền não chẳng còn nữa, vô minh cũng chẳng còn. Vô minh và phiền não do đâu mà có? Do tâm bất giác động mà có vô minh. Từ vô minh, nếu tiếp tục mê, càng mê càng sâu nên mới sanh ra ba tướng tế, xuất hiện sáu tướng thô. Chúng ta càng mê sâu hơn trong cảnh giới, câu A Di Đà Phật nhắc nhở chúng ta giác ngộ, giác chứ không mê. Sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật” dịch sang tiếng Hán là Quy Y Vô Lượng Giác. Một câu Phật hiệu này chẳng những từ tâm đấng Đạo Sư A Di Đà Phật trong cõi Tây Phương in vào tâm [chúng sanh], mà còn là điều kiện tất yếu để tiếp nhận Tha Lực (pháp môn này được gọi là Nhị Lực pháp môn), nhưng Tự Lực lại càng trọng yếu hơn! Tự Lực niệm niệm nhắc nhở Tự Tánh Giác: Giác rồi thì Tánh sẽ tịnh. Giác rồi thì chướng sẽ đoạn.
Làm thế nào để khiến cho một câu A Di Đà Phật niệm nơi miệng mà mỗi tiếng đều là Tự Tánh Giác? Cổ nhân thường nói: “Bất phạ niệm khởi, chỉ phạ giác trì” (Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ biết chậm). Niệm là gì? Vô minh, phiền não. Nay chúng ta tạm chẳng bàn đến vô minh, tướng ấy quá nhỏ nhiệm, ngay cả Kiến Tư phiền não mà chúng ta còn chưa đoạn được, làm sao có thể đoạn vô minh? Công phu là tuần tự mà tiến dần dần! Trước hết là chế phục Kiến Tư, đắc công phu thành phiến, rồi lại đoạn Kiến Tư, đắc Sự nhất tâm bất loạn. Cuối cùng lại phá vô minh, thành tựu Lý nhất tâm bất loạn. Trong một đời này, có thể làm được như vậy, nhưng quý vị phải biết niệm. Người không biết niệm, dẫu suốt ngày từ sáng đến tối niệm A Di Đà Phật, nhưng một câu Phật hiệu chẳng thể chế phục phiền não. Phiền não là mê, nếu người ấy chẳng giác nơi Phật hiệu thì Phật hiệu của người ấy vẫn là mê. Mê sẽ chẳng thể phá mê được! Ngộ mới có thể phá mê. Người ấy mỗi ngày niệm mười vạn tiếng Phật hiệu mà vẫn chẳng thể phá mê, niệm theo kiểu như vậy chẳng thể vãng sanh.
Mê là gì? Trong tâm khởi tâm động niệm là mê. Sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, bất luận dấy lên thiện niệm hay ác niệm, hễ dấy niệm bèn là vô minh, là mê. Bởi lẽ, trong cái tâm tự tánh thanh tịnh vốn chẳng có một vật, chẳng có ý niệm. Hễ có một ý niệm thì phải giác ngộ ngay lập tức, ngay tức khắc “Nam-mô A Di Đà Phật”, vì sao? Một ý niệm vừa khởi lên, tự mình biết là mê, Nam-mô A Di Đà Phật ta lại giác; hễ giác, vọng niệm chẳng còn nữa. Do vậy, công phu sơ bộ là hễ niệm dấy lên liền lập tức dùng A Di Đà Phật thay thế nó. Bởi lẽ, quý vị dấy lên một niệm là mê, là phiền não; một câu A Di Đà Phật là ngộ, là giác, lập tức chế phục phiền não. Phương pháp niệm như vậy là đúng cách.
Dùng một câu Phật hiệu thay thế hết thảy vọng niệm. Đối với tất cả phân biệt, chấp trước, vọng tưởng đều dùng một câu Phật hiệu để thay thế. Một câu Phật hiệu này có thể chế phục phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Có thể thật sự chế phục trong nửa năm thì công phu của quý vị liền thành phiến. Chế phục ba năm, chắc chắn có thể đạt được Sự nhất tâm bất loạn, quý vị đã chứng được Niệm Phật tam-muội, đấy là công phu chân chánh. Đoạn kinh văn này giảng về lý luận ấy. Tu Đức được kiến lập từ Tánh Đức, huống chi Tánh và Tu bất nhị! Phương pháp này là “toàn Tánh khởi Tu”, vì sao? Danh hiệu A Di Đà Phật là danh xưng của Tánh Đức, là danh hiệu của Tánh Đức. Chúng ta niệm một câu danh hiệu này, tức là niệm một câu A Di Đà Phật sẽ chính là [niệm] toàn thể Tu Đức. Toàn bộ tánh là Nam-mô A Di Đà Phật, toàn thể tu cũng là Nam-mô A Di Đà Phật. Quý vị nhất định phải thấu hiểu ý nghĩa này.
Tâm Kinh đến cuối cùng quy kết Bát Nhã là đại thần chú, đại minh chú, vô thượng chú, chú không gì sánh bằng. Tôi sợ nhất là quý vị vừa nghe đến chữ Chú liền ngay lập tức học Mật, nhất định quý vị sẽ hiểu lầm, đi theo ngã rẽ. Chú trong tiếng Phạn là đà-la-ni, có nghĩa “gồm thâu hết pháp, nắm giữ hết thảy nghĩa”. Tôi đặc biệt nhắc nhở mọi người: Một câu Nam-mô A Di Đà Phật có phải là đà-la-ni hay không? Câu này có phải là gồm thâu hết thảy pháp, nắm giữ hết thảy nghĩa hay chăng? Không sai một tí nào! So với Bát Nhã Tâm Kinh, nó còn cao minh hơn. Bát Nhã Tâm Kinh là đại thần chú, một câu Nam-mô A Di Đà Phật là vô thượng đại thần chú, là thần chú vô thượng không gì sánh bằng. Quý vị suốt ngày từ sáng đến tối niệm câu A Di Đà Phật chính là quý vị đang tu vô thượng Mật Thừa, chẳng cần phải học pháp Mật Tông nào khác nữa.
Có nhận biết như vậy thì trong một đời này, nếu chúng ta là người công phu nhanh chóng, trong ba năm sẽ đắc Niệm Phật tam-muội, tương đương với Thiền Định. Năm năm, mười năm có thể chứng đắc Lý nhất tâm bất loạn, minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ, có thể phá một phần vô minh. Nếu quý vị biết sử dụng, tức là những lý luận, phương pháp và cảnh giới trong A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa đều biết sử dụng, hoàn toàn có thể vận dụng chúng vào cuộc sống thường nhật, biến một bộ A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa thành cuộc sống của chính mình, đấy là toàn tánh khởi tu, hoàn toàn phá vô minh, trong đời này sẽ Thượng Phẩm Thượng Sanh trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Viên mãn Bồ Đề trong một đời, xét về mặt lý luận, chẳng phải là không thể, nhưng xét theo mặt Sự thì có được hay chăng? Được chứ! Nói theo mặt Sự cũng thông suốt. Vấn đề là quý vị có thật sự liễu giải giáo nghĩa hay chăng? Có liễu giải triệt để hay là không? Có phải là quý vị đã biến sự liễu giải ấy thành cuộc sống của chính mình hay không? Sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần thì không gì chẳng phải! Đó gọi là “toàn tánh khởi tu”, đó mới gọi là “suốt ngày bổn thể, suốt ngày công phu”. Một câu A Di Đà Phật thoạt đầu nhằm chế phục phiền não, rồi đoạn phiền não, mục đích rốt ráo cuối cùng là tâm thanh tịnh hiện tiền. Quán chiếu và công phu nhất định phải biết vận dụng lẫn nhau, sẽ tiến triển nhanh chóng. Câu tiếp theo đây bàn đến sự giao xen, dùng lẫn cho nhau.
(Diễn) Dĩ toàn Tu tức Tánh thời, tuy phá vô minh, phá vô sở phá, tuy đoạn sanh tử, đoạn vô sở đoạn. Chung nhật công phu, chung nhật bổn thể, chướng tận tức tánh tịnh dã.
(演) 以全修即性時,雖破無明,破無所破。雖斷生死,斷無所斷。終日工夫,終日本體,障盡即性淨也。
(Diễn: Bởi lẽ, khi toàn thể Tu là Tánh thì tuy phá vô minh, mà phá cái chẳng có gì để phá, tuy đoạn sanh tử mà đoạn cái chẳng có gì để đoạn. Suốt ngày công phu, suốt ngày bổn thể, chướng hết, tánh bèn tịnh).
Hai câu này nói gộp lại, tức là công phu được vận dụng lẫn nhau. Chúng ta muốn nói câu này cho rõ ràng thì cách vận dụng lẫn nhau là như thế nào? Đừng bị mê hoặc bởi văn tự. Tầng ý nghĩa thứ nhất là công phu nơi Phật hiệu: “Khi khởi tâm động niệm bèn lập tức dùng Phật hiệu để chế phục, lập tức thay đổi [vọng niệm thành Phật hiệu]”. Tầng thứ hai là sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, quyết định dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm. Chân tâm là tâm thanh tịnh; do vậy, mắt thanh tịnh thấy sắc thanh tịnh ở bên ngoài. Chúng ta dùng Nhãn Thức sẽ thấy Sắc Trần, vì sao? Nhãn Thức chẳng thanh tịnh. Vì sao Nhãn Thức chẳng thanh tịnh? Trong Nhãn Thức có bốn phần, [trong bốn phần ấy] có Kiến Phần và Tướng Phần, cho nên chẳng thanh tịnh. Lìa hết thảy tướng, chúng ta dùng con mắt thanh tịnh để thấy sắc thanh tịnh, dùng tai thanh tịnh để nghe tiếng thanh tịnh. Đây là dạy quý vị hãy dùng cái tâm thanh tịnh như thế nào để thấy cảnh giới thanh tịnh bên ngoài. Tầng ý nghĩa thứ hai là như vậy đó.
Nếu chúng tôi nói kiểu này mà quý vị vẫn chưa hiểu rõ thì hãy nhớ một nguyên tắc đơn giản nhất như sau: Đãi người, tiếp vật bằng lòng chân thành, quyết định chẳng lừa dối, quyết định chẳng hư giả. Người khác lừa dối chúng ta, chúng ta vẫn phải đối đãi với họ bằng lòng chân thành, vì sao? Họ đang mê, họ không biết Tu Đức, chúng ta đã giác ngộ, chúng ta phải toàn tánh khởi tu, toàn tu tức tánh. Toàn tánh là gì? Tâm chân thành chính là toàn tánh. Đối đãi hết thảy mọi người, hết thảy cảnh giới, chân tâm là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng. Nếu trong cảnh giới quý vị có phân biệt thì cái tâm chẳng thanh tịnh; nếu trong cảnh giới quý vị chẳng bình đẳng thì cái tâm chẳng thanh tịnh. Tâm thanh tịnh thì tướng nhất định bình đẳng, nhất định chẳng có phân biệt. Quý vị hiểu nguyên lý này, trong cuộc sống thường nhật, từ sáng đến tối, suốt năm rèn luyện trong cảnh giới này thì là đúng. Dùng phương pháp này để giúp cho một câu Phật hiệu của quý vị, Phật hiệu dấy khởi giác tâm của quý vị. Dùng một câu Phật hiệu lại giúp cho quý vị sử dụng cái tâm như thế, tức là dùng chân tâm. Thật sự có thể tu học như vậy thì không một ai chẳng thành tựu, đúng như cổ đức đã nói: “Vạn người tu, vạn người về”, chẳng một ai luống uổng! Nguyên lý là “tánh tịnh thì chướng tận”. Tôi lại nêu một tỷ dụ nhằm so sánh thô thiển nhất, “tánh tịnh” là chân tánh, chân thành, Chướng là nghiệp chướng hay tội nghiệp. Chẳng phải là chúng ta hằng ngày đều nói muốn tiêu nghiệp chướng hay sao? Dùng cái tâm chân thành thì nghiệp chướng sẽ tiêu trừ. Nghiệp chướng tiêu trừ thì chân tâm sẽ hiển lộ. Chuyện là như vậy đó!
Quý vị muốn thật sự tiêu nghiệp thì phải dùng chân tâm đãi người, tiếp vật. Người khác dùng cái tâm giả dối đối với ta, ta vẫn dùng chân tâm đãi người. Nếu người khác tăng thêm tội nghiệp mà [ta cảm thấy] tội nghiệp của ta cũng chớ nên giảm bớt, dường như nếu tội nghiệp của ta giảm bớt thì ta chẳng xứng với những người tội nghiệp tăng thêm hằng ngày ấy! [Cách nghĩ như vậy] chẳng gọi là điên đảo thì cái gì mới là điên đảo? Do vậy, người giác ngộ sẽ giống như Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát đến thế gian này hóa độ chúng sanh, người thế gian nhìn Phật, Bồ Tát với ánh mắt nào? Há Phật, Bồ Tát cũng [có cái nhìn phân biệt, chấp trước] giống như người thế gian ư? Nếu vậy, chẳng những [Phật, Bồ Tát] không thể độ chúng sanh, mà nhất định sẽ bị chúng sanh độ ngược lại. Vì thế, nhất định phải giác ngộ, nhất định chớ nên có kiến giải giống với mọi người; nếu không, sẽ là lầm lẫn to lớn. Vậy thì xin hỏi thêm: Những người ấy đối xử với ta bằng ác tâm, dùng ác ý đối đãi ta, đem hết thảy chuyện ác đổ lên thân ta, ta phải làm sao? Thưa quý vị, chính là vì hết thảy chúng sanh có ác tâm, ác ý, ác hạnh đối với quý vị, quý vị cứ dùng tâm chân thành đối đãi họ thì nghiệp chướng từ vô thỉ kiếp đến nay của quý vị sẽ bị tiêu trừ hết. Nếu không có những người ác và chuyện ác ấy, nghiệp chướng của quý vị làm sao tiêu trừ được? Chân tâm của quý vị từ đâu mà hiển thị cho được? Tu hành không gì hơn là trải qua sự việc để rèn luyện tâm. Rèn luyện cái tâm thanh tịnh trong cảnh giới, trong sự tướng, rèn luyện gì vậy? Rèn luyện ta dùng chân tâm đãi người, rèn luyện điều này! Đó gọi là tu hành thật sự, niệm Phật thật sự.
Chân tâm đãi người xử thế là Nam-mô A Di Đà Phật, vì Nam-mô A Di Đà Phật là Vô Lượng Giác, thứ gì cũng đều phải giác, sự gì cũng đều phải giác, lúc nào cũng giác, nơi đâu cũng giác, giác chứ không mê, đó gọi là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật chẳng phải là một câu khẩu hiệu, phải biến câu khẩu hiệu ấy thành sự thật, biến thành tâm lý và hành vi của chúng ta thì câu Phật hiệu mới là Tánh – Tu bất nhị, mới là Lý – Sự viên dung. Danh là Sự, cảnh giới là Lý, đấy là người thật sự niệm Phật. Quý vị hãy suy nghĩ: Trong quá khứ chúng ta có niệm câu Phật hiệu này như vậy hay chăng? Nếu chẳng tương ứng với Lý – Sự này, khó trách đã niệm nhiều năm như thế mà chẳng có tin tức gì! Niệm đúng lý, đúng pháp, lẽ đâu chẳng có tin tức? Sau khi đã có tin tức, tín tâm của chính mình đã đầy đủ, chắc chắn nắm chắc vãng sanh Tây Phương, chẳng còn mảy may hoài nghi nào! Khi ấy tiền đồ là một bầu quang minh sáng tỏ, suốt ngày từ sáng đến tối pháp hỷ sung mãn. Quả báo ấy do đâu mà có? Do Tánh – Tu bất nhị mà có!
Đoạn lớn thứ hai trong lời tựa là Tán Kinh, đoạn này là Tổng Tán, đoạn tiếp theo là Biệt Tán. Đoạn thứ nhất trong lời tựa là Minh Tánh, giảng về giáo lý, mười phương ba đời hết thảy chư Phật đều nói các kinh dựa trên nguyên lý này. Các Ngài nương vào đâu để nói, dựa vào gì để nói, chính là dựa vào những điều được trình bày trong năm câu của đoạn thứ nhất, tức giáo lý. Phần Tổng Tán nói đến giáo nghĩa. Người biết nghe kinh sẽ nghe hiểu giáo lý. Vì đã nghe hiểu giáo lý sẽ thông suốt hết thảy các kinh, đó gọi là “một kinh thông, hết thảy kinh thông”, đó là người thuộc bậc cao nhất. Không có công phu thì làm sao thực hiện [chuyện này]? Bất đắc dĩ phải cầu điều thấp hơn, tức là cầu giáo nghĩa. Tuy giáo nghĩa chẳng bằng giáo lý, nhưng nếu có thể thông suốt một loại kinh, thông suốt một phần lớn thì cũng khá lắm, thông suốt một tông, hoặc thông cả mấy tông.
Kinh văn từ đầu cho đến đoạn này đều nói về nguyên lý, nguyên tắc, giáo lý, giáo nghĩa. Hai đoạn kinh văn này rất giống những điều được nói trong kinh Hoa Nghiêm. “Biển pháp luân của một vị Phật là biển pháp luân của hết thảy chư Phật”, chính là [nội dung của] đoạn Minh Tánh trong phần trước. “Tu-đa-la của một vị Phật là Tu-đa-la của hết thảy chư Phật” chính là điều được nói trong phần Tổng Tán. Do vậy, hết thảy kinh quả thật quán thông lẫn nhau. Đã hiểu rõ ý nghĩa một bộ kinh, quý vị lại đọc hết thảy các kinh, sẽ thấy [những kinh ấy] chẳng ra ngoài nguyên lý và nguyên tắc này, đều hiểu thông suốt hết. Chúng ta lại xem phần Biệt Tán. Phần Biệt Tán chú trọng [ca ngợi] bộ kinh này.
Nhị, Biệt Tán.
二、別讚.
(Thứ hai, khen ngợi riêng).
Dưới đây là bốn khoa nhỏ, tức bốn tiểu đoạn.
Sơ, tiên xuất thuyết kinh sở dĩ, nhị thống luận Tịnh Độ công đức, tam đặc thị trì danh vi yếu, tứ quảng hiển trì danh sở bị.
(Tự) Cố ngã Thế Tôn, sạ thuyết Tam Thừa, chung quy Nhất Thật, đẳng ban trân tứ, cánh tích thù ân.
初先出說經所以,二統論淨土功德,三特示持名為要,四廣顯持名所被
(序) 故我世尊 ,乍說三乘 ,終歸一實,等頒珍賜,更錫殊恩。
(Trước hết, nêu nguyên do vì sao đức Phật nói kinh, hai là luận định chung về công đức của Tịnh Độ, ba là đặc biệt chỉ rõ trì danh là trọng yếu, bốn là nói rộng về những căn tánh được tiếp độ bởi pháp trì danh.
Tựa: Vì thế, đức Thế Tôn ta tạm nói ba thừa, rốt cuộc quy về Nhất Thật, bình đẳng ban cho món quý báu, lại còn ban bố ân đức đặc biệt thù thắng).
Mấy câu này nêu rõ lý do vì sao Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh thuyết pháp.
(Diễn) Cố ngã Thế Tôn sạ thuyết tam thừa giả, cố tự, thừa thượng diệu dụng lai.
(演) 故我世尊乍說三乘者,故字,承上妙用來。
(Diễn: “Vì thế, đức Thế Tôn ta tạm nói ba thừa”: Chữ “vì thế” nhằm tiếp nối ý nghĩa diệu dụng đã được nói trong phần trên).
Chữ “cố” nhằm thừa tiếp phần trước, mở đầu phần sau.
(Diễn) Ngã giả, thân chi chi từ.
(演) 我者,親之之辭。
(Diễn: “Ngã” là từ ngữ diễn tả sự thân thiết).
Do tùy thuận pháp thế gian mà nói chữ này. Phật pháp vô ngã, chắc chắn chẳng có Ngã Kiến và Ngã Chấp, bất đắc dĩ tùy thuận ngôn từ thế gian để nói. Đối với chúng sanh mà nói thì do chúng sanh là loài hữu tình, tức là loài chúng sanh có tình cảm, nên cách nói này có ý nghĩa thân thiết đặc biệt. “Ngã Thế Tôn”: Đức Thế Tôn của chúng ta, đức Phật của chúng ta, là từ ngữ mang ý nghĩa thân thiết.
(Diễn) Sạ thuyết tam thừa, chỉ Hoa Nghiêm chi hậu, Pháp Hoa chi tiền, tứ thập niên sở thuyết chi pháp.
(演) 乍說三乘 ,指華嚴之後 ,法華之前,四十年所說之法。
(Diễn: “Tạm nói pháp tam thừa”: Chỉ các pháp được nói sau thời Hoa Nghiêm, trước thời Pháp Hoa trong suốt bốn mươi năm).
“Sạ thuyết” là nói tạm thời, nói quyền biến, chẳng phải là nói chân thật. “Tam thừa” là Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, và Bồ Tát thừa. Sau thời Hoa Nghiêm (Āvatamsaka), trước thời Pháp Hoa (Sad-dharma Pundárīka), đức Phật giảng A Hàm (Āgama) mười hai năm, Phương Đẳng (Vaipulya) tám năm, Bát Nhã (Prajñā) hai mươi hai năm, thuyết pháp bốn mươi năm, đấy là pháp Tam Thừa. Hoa Nghiêm là pháp Nhất Thừa, Pháp Hoa cũng là pháp Nhất Thừa. “Duy hữu Nhất Thừa pháp, vô nhị, diệc vô tam” (Chỉ có pháp Nhất Thừa, không hai, cũng không ba). Đấy mới là bổn hoài, bổn ý xuất thế độ sanh của đức Thế Tôn. Vì sao nói ba thừa? Chúng sanh mê quá sâu, nói pháp Nhất Thừa chúng ta chẳng thể tiếp nhận, nên đức Thế Tôn mới dùng những pháp phương tiện thiện xảo để dẫn dụ, hướng dẫn, dần dần nâng cao trình độ và cảnh giới của chúng ta, phải nâng lên đến cảnh giới Nhất Thừa thì mới được coi là đạt được bổn hoài độ sanh và mục tiêu giáo hóa chúng sanh. Ví như thầy muốn học trò thành tựu trí huệ viên mãn, đạt đến học vị Tiến Sĩ tối cao, không có cách nào bảo trẻ nhỏ học ngay lớp Tiến Sĩ được, bất đắc dĩ mới lập ra Tiểu Học, Trung Học và Đại Học. Ba thừa ấy đều là pháp phương tiện, giúp họ nâng cao cảnh giới, cuối cùng đạt đến học vị Tiến Sĩ thì mới được coi là đã đạt được mục tiêu dạy học. Phật dùng cách thức giống như vậy đối với chúng sanh.
(Diễn) Chung quy Nhất Thật giả.
(演) 終歸一實者。
(Diễn: “Rốt cuộc quy về Nhất Thật” là…)
“Thật” (實) là chân thật, có thể thấy Tam Thừa đều là Quyền, là phương tiện môn, là phương tiện quyền xảo, chẳng chân thật. Do vậy, cổ đại đức phán định kinh điển, phán định những kinh luận do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi năm chỉ có hai bộ kinh là Nhất Thừa Viên Giáo, tức Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh và Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, Nhất Thừa Biệt Giáo là kinh Phạm Võng. Do vậy, kinh Nhất Thừa tổng cộng chỉ có ba bộ. Quý vị đừng vì vậy mà cho rằng kinh Di Đà chẳng phải là kinh Nhất Thừa! Cần biết rằng kinh Di Đà là đỉnh cao nhất của kinh điển Nhất Thừa. Cổ nhân tuy chưa nói, nhưng trong kinh Nhất Thừa có nói. Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng, “mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc”, tức là trở về kinh A Di Đà. Nói cách khác, kinh A Di Đà là đỉnh cao nhất của kinh Nhất Thừa, quý vị phải tự nhận biết! Lời nói của cổ nhân vô cùng hàm súc, chẳng thô thiển, bộc tuệch bộc toạc như lời chúng ta nói hiện thời. Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng, Phổ Hiền Bồ Tát xuất lãnh bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ niệm Phật cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, đủ thấy bộ kinh A Di Đà là pháp Nhất Thừa tối thượng, là đỉnh cao nhất của Nhất Thừa.
(Diễn) Chỉ Pháp Hoa Kinh, thử kinh đãng hóa thành[60] chi chấp giáo.
(演) 指法華經,此經蕩化城之執教。
(Diễn: Nói về kinh Pháp Hoa, kinh này quét sạch kiến chấp nơi giáo pháp quyền biến).
Ở đây nói “chung quy Nhất Thật” (rốt cuộc quy về Nhất Thật) là nhằm nói đến kinh Pháp Hoa là kinh được đức Phật nói sau cùng. “Chấp giáo” là Sở Tri Chướng, đức Phật giảng kinh, giảng Lý nào, người ấy bèn chấp vào Lý đó, giảng pháp môn nào người nghe bèn chấp vào pháp môn ấy.
(Diễn) Giải thảo am chi trệ tình, khai phương tiện chi quyền môn, thị chân thật chi diệu lý cố.
(演) 解草庵之滯情,開方便之權門,示真實之妙理故。
(Diễn: Tháo gỡ chấp trước chốn am tranh[61], mở môn phương tiện quyền biến, chỉ bày diệu lý chân thật).
Kinh Pháp Hoa được gọi là “khai Quyền, hiển Thật”, đến khi ấy mới nói lời chân thật. Những điều đã giảng trong bốn mươi năm trước đều là pháp phương tiện. Vì sao trước kia không giảng pháp chân thật? Do trước kia trình độ [của thính chúng] chưa đủ, không có định lực, không có trí huệ, dẫu Phật có nói thì họ cũng chẳng thể tin được, có nói cũng giống như không nói! Đến lúc này, do có bốn mươi năm tu dưỡng, công phu định lực và trí huệ đã khá, Phật nói pháp môn này chúng ta sẽ tin tưởng, có thể tiếp nhận, cho nên mới khai Quyền, hiển Thật, nói pháp chân thật.
(Diễn) Đẳng ban trân tứ giả, như chư tử xuất trạch, đẳng tứ đại xa, kỳ xa cao quảng, chúng bảo trang hiệu đẳng.
(演) 等頒珍賜者,如諸子出宅,等賜大車,其車高廣,眾寶莊校等。
(Diễn: “Bình đẳng ban cho món quý báu” là như các con ra khỏi nhà [đang cháy hừng hực, ông đại phú trưởng giả] bèn bình đẳng ban cho các con những cỗ xe to. Xe ấy cao rộng, được trang hoàng bằng các thứ báu v.v…)
Đây là một tỷ dụ trong kinh Pháp Hoa. “Đẳng” (等) là bình đẳng, “trân” (珍) là quý báu, “trang” (莊) là trang nghiêm, “hiệu” (校) là chưng bày, trang hoàng. Điều này nói rõ Phật tâm thanh tịnh, bình đẳng, đối đãi hết thảy chúng sanh nhất định chẳng có sai biệt. Nay chúng ta tu học Phật pháp, trong Phật pháp đạt được, bất luận là Giải, Hạnh hay Chứng, các thứ sai khác không giống nhau, đều là vì bản thân chúng ta tiếp nhận khác nhau, chứ không phải do đức Phật dạy chúng ta học sai khác. Tâm chúng ta càng chân thành, càng thanh tịnh thì càng đạt được công đức thù thắng. Quý vị vẫn sử dụng cái tâm phân biệt, vẫn có chấp trước, vẫn có nhân ngã, thị phi, đương nhiên quý vị đạt được hữu hạn!
(Diễn) Cánh tích thù ân giả, thù ân ngôn dị thường chi ân. Nhân thượng hữu như thị chí diệu chi dụng, cố ư nhất đại thời giáo trung phục xuất thử kinh dã.
(演) 更錫殊恩者,殊恩言異常之恩,因上有如是至妙之用,故於一代時教中復出此經也。
(Diễn: “Cánh tích thù ân” (ban bố ân đức càng đặc biệt thù thắng): Chữ “thù ân” ý nói ân đức dị thường. Do [pháp môn Niệm Phật] có tác dụng mầu nhiệm đến tột cùng như đã nói trong phần trước, nên trong giáo pháp cả một đời đức Phật lại nói ra kinh này).
“Thù” (殊) là thù đặc (đặc biệt, lạ lùng), “ân” (恩) là ân đức. “Cánh tích thù ân” (ban bố ân đức càng đặc biệt thù thắng) là nói đến bản kinh này. Đây là nói rõ kinh A Di Đà cao hơn kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa. Hoa Nghiêm và Pháp Hoa là “đẳng ban trân tứ” (bình đẳng ban cho món quý báu), còn kinh A Di Đà là “cánh tích thù ân”, đến tột cùng không còn gì hơn được nữa! Khen ngợi kinh này đến chót vót, không còn có gì vượt trỗi được nữa! Quý vị phải ghi nhớ, trọn đừng nghĩ Liên Trì đại sư và pháp sư Cổ Đức là “lão Vương bán dưa, tự bán, tự khoe”. Nếu quý vị dùng thái độ ấy để đọc bản Chú Sớ này sẽ là sai lầm, của trân bảo vô thượng ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ!
Bản chú sớ này lưu thông rất rộng, người đọc rất nhiều, có mấy ai đọc mà thật sự cảm động, nhất tâm nhất ý niệm Phật? Vì sao chẳng thể cảm động? Ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ! Nếu thật sự giác ngộ, nhìn thấy Phật, Tổ rát miệng xót lòng, không ai chẳng cảm động, buông thế duyên xuống, hết thảy kinh luận, hết thảy pháp môn đều buông xuống hết, chuyên tu pháp môn này. Vì sao? Pháp môn này là pháp môn vô thượng, là pháp môn bậc nhất, cao hơn kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa, có thể giúp quý vị chứng đắc Vô Thượng Bồ Đề trong một đời; chỉ có pháp môn này, trừ các pháp môn này ra, bất cứ pháp môn nào cũng đều chẳng thể đạt được như vậy. Đấy mới là kể như quý vị nhận thức chân chánh, nhìn thấy rõ rệt. Giảng một lượt bản kinh này trong thời gian bốn năm, đáng lắm chứ! Dùng công phu bốn năm để nghe bộ kinh này, không dài đâu! Hôm nay đã hết thời gian rồi!
— o0o —
Tập 22
Xin đọc A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, trang hai mươi bốn:
(Sớ) Thừa thượng, thử kinh cụ hữu như thị bất khả tư nghị công đức, cố Phật thuyết thử kinh, lương hữu dĩ dã. Sạ giả, tạm dã; tạm thời chi thuyết, phi cứu cánh dã. Tam thừa giả, thừa bổn vô tam, quyền thuyết hữu tam, vị Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát dã. Chung giả, đối Sạ nhi ngôn, Thật giả, đối Quyền nhi ngôn. Ngôn Thế Tôn thỉ thành Chánh Giác, diễn đại Hoa Nghiêm, đại giáo nan đầu, tùy chúng sanh căn, thuyết tam thừa pháp, hậu nãi hội Quyền quy Thật, tất dữ đại xa, cố viết “đẳng ban trân tứ”. Thử Như Lai nhất đại thời giáo chi đại trí dã.
(疏) 承上,此經具有如是不可思議功德,故佛說此經,良有以也。乍者暫也,暫時之說 ,非究竟也。三乘者,乘本無三,權說有三,謂聲聞緣覺菩薩也。終者對乍而言,實者對權而言。言世尊始成正覺,演大華嚴,大教難投,隨眾生根,說三乘法,後乃會權歸實,悉與大車,故曰等頒珍賜。此如來一代時教之大致也。
(Sớ: Theo như phần trên, kinh này có đủ các công đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy, nên Phật nói kinh này chính là vì lý do đó. “Sạ” là tạm, tức nói tạm thời, chẳng phải rốt ráo. Tam thừa: Thừa vốn chẳng có ba, nói quyền biến là có ba, tức là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. “Chung” là đối với “tạm” mà nói, Thật là đối với Quyền mà nói. Ý nói đức Thế Tôn lúc mới thành Chánh Giác, diễn giảng kinh đại Hoa Nghiêm, nhưng đại giáo khó thể thích hợp mọi căn cơ nên tùy thuận căn tánh của chúng sanh mà nói pháp ba thừa, sau đó thâu tóm các pháp quyền biến về pháp chân thật, đều ban cho cỗ xe to, nên nói là “bình đẳng ban cho món quý báu”. Đây chính là những nét chánh yếu trong giáo pháp cả một đời Như Lai vậy).
Liên Trì đại sư tự giải thích đại ý của đoạn văn trong lời tựa. Đại sư thật sự từ bi đến tột bậc, tuy lời văn đã nói rất rõ ràng, nhưng đại sư sợ chúng ta chẳng thể hiểu những ý nghĩa bao hàm trong ấy, hoặc tuy có thấy, nhưng thấy chưa thấu triệt, chưa được rốt ráo nên Ngài chẳng ngại phiền, tự chú giải thêm. “Thừa thượng” chính là chữ “cố” (故) trong lời tựa, phần trước là Tổng Tán, tiếp nối phần Tổng Tán. Ngài lại nói rõ kinh A Di Đà “cụ hữu như thị bất khả tư nghị công đức” (có đủ các công đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy), câu này nhằm tổng kết đoạn Tổng Tán chúng ta vừa đọc, “cố Phật thuyết thử kinh, lương hữu dĩ dã” (nên đức Phật nói kinh này chính là vì lý do đó), nêu ra bổn nguyện và bổn hoài độ chúng sanh của Phật là như vậy. Nếu chẳng nói kinh A Di Đà thì bổn ý độ chúng sanh của Phật sẽ chẳng thể trọn hết được, sự nghiệp độ chúng sanh của Phật sẽ chẳng thể viên mãn, đủ thấy: Kinh này chẳng thể không nói!
“Sạ thuyết tam thừa” là tạm thời nói, trọn chẳng phải là pháp rốt ráo, vì sao chẳng nói pháp rốt ráo?
(Diễn) Phi cứu cánh giả, tùy nghi chi quyền, phi xuất thế bổn hoài dã.
(演) 非究竟者,隨宜之權,非出世本懷也。
(Diễn:“Chẳng phải là cứu cánh”: Quyền biến thuận theo cơ nghi, chẳng phải là bổn hoài xuất thế).
“Xuất thế bổn hoài”: Vì sao đức Phật đến thế giới này? Ngài có thể không đến, từ rất lâu Ngài đã vượt khỏi ba cõi, vượt thoát lục đạo, vì sao còn phải trở lại? Nói thật ra, bổn ý Ngài đến cõi này là để nói kinh A Di Đà, đến vì mục đích ấy. Đã là như vậy, sao không vừa đến liền nói kinh này chẳng phải là hay hơn ư? Vừa đến mà nói ngay kinh này thì quý vị chẳng tin; do vậy, phải nói rất nhiều kinh luận rồi mới nói bộ kinh này, quý vị sẽ tin tưởng, mới hiểu Phật pháp rốt ráo, quả thật là như vậy.
(Diễn) Như kinh vân: “Ngã thử cửu bộ pháp, tùy thuận chúng sanh thuyết, nhập Đại Thừa vi bổn, dĩ cố thuyết thị kinh”, thị dã.
(演) 如經云:我此九部法,隨順眾生說,入大乘為本,以故說是經。是也。
(Diễn: Như kinh nói: “Chín bộ pháp này của ta do tùy thuận chúng sanh mà nói, lấy nhập Đại Thừa làm gốc, vì thế nói kinh này” chính là nói về chuyện này vậy).
Đại sư dẫn lời đức Phật tự nói để thuyết minh: “Chín bộ pháp” chính là chín thứ trong mười hai phần giáo, những phần giáo ấy đều vì “tùy thuận chúng sanh” mà nói, trọn chẳng phải là pháp rốt ráo, dùng những pháp ấy để khuyên dụ, hướng dẫn hết thảy chúng sanh tiến nhập Đại Thừa. Đại Thừa mới là bổn hoài thuyết pháp của đức Phật. Kinh này là kinh Đại Thừa, không chỉ là kinh Đại Thừa mà còn là pháp môn Tổng Trì của các kinh Đại Thừa, chúng ta nhất định phải hiểu rõ ý nghĩa này. Tiếp theo đây là lời giải thích về ba thừa.
(Diễn) “Thừa bổn vô tam” giả, như kinh vân: “Thập phương Phật độ trung, duy hữu Nhất Thừa pháp, vô nhị, diệc vô tam”. Quyền thuyết hữu tam giả, như kinh vân: “Trừ Phật phương tiện thuyết, đản dĩ giả danh tự, dẫn đạo ư chúng sanh”.
(演) 乘本無三者,如經云:十方佛土中,唯有一乘法,無二亦無三。權說有三者,如經云:除佛方便說,但以假名字,引導於眾生。
(Diễn: “Thừa vốn chẳng có ba” là như kinh nói: “Trong các cõi Phật khắp mười phương, chỉ có pháp Nhất Thừa, không có hai, mà cũng chẳng có ba thừa”. “Quyền biến nói có ba” là như kinh dạy: “Ngoại trừ đức Phật do phương tiện mà nói, [những pháp tam thừa] chỉ có giả danh tự nhằm hướng dẫn chúng sanh”).
Kinh văn [được trích dẫn ở đây] là kinh Pháp Hoa. Trong đoạn này, chúng ta phải đặc biệt chú ý: Phật pháp chân thật gọi là “Nhất Thừa pháp”, nhất Phật thừa. Trong giáo pháp suốt cả đời đức Phật, chỉ có hai bộ kinh thuộc pháp Nhất Thừa là Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, những kinh khác đều thuộc pháp Tam Thừa. Kinh A Di Đà là tổng quy túc của pháp Nhất Thừa, có như vậy, mới hiểu kinh này chiếm địa vị nào trong giáo pháp cả một đời đức Phật. Nhị Thừa và Tam Thừa đều là “nói phương tiện”, mục đích nhằm khuyên dụ, dẫn dắt chúng sanh khế nhập Nhất Thừa, đấy mới là bổn hoài xuất thế của Phật.
Tiếp theo đây là lời giải thích câu “chung quy Nhất Thật”, “chung” (終) là cuối cùng. Cuối cùng chắc chắn sẽ quy hướng pháp Nhất Thừa chân thật, “ngôn Thế tôn thỉ thành Chánh Giác, diễn đại Hoa Nghiêm” (ý nói đức Thế Tôn lúc mới thành Chánh Giác, diễn nói kinh đại Hoa Nghiêm). Câu này cho chúng ta biết khi đức Phật mới xuất hiện trong thế gian bèn nói đại pháp căn bản.
(Diễn) Thỉ thành Chánh Giác diễn đại Hoa Nghiêm giả, vị Như Lai ư Bồ Đề Tràng thành Đẳng Chánh Giác, dữ tứ thập nhị vị Pháp Thân đại sĩ, cập túc thế thiện căn thành thục thiên long bát bộ đẳng, như vân lung nguyệt, vị thuyết viên mãn Tu-đa-la, Bồ Tát vạn hạnh nhân hoa trang nghiêm Nhất Thừa quả hải.
(演) 始成正覺演大華嚴者,謂如來於菩提場成等正覺,與四十二位法身大士,及宿世善根成熟天龍八部等,如雲籠月,為說圓滿修多羅,菩薩萬行因華,莊嚴一乘果海。
(Diễn: “Vừa mới thành Chánh Giác diễn đại Hoa Nghiêm”, ý nói: Như Lai thành Đẳng Chánh Giác tại Bồ Đề Đạo Tràng, cùng với các vị Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi hai địa vị và hàng thiên long bát bộ có thiện căn trong đời trước đã chín muồi, giống như mây vờn quanh trăng, diễn nói Khế Kinh viên mãn, nhân hoa vạn hạnh của hàng Bồ Tát trang nghiêm quả hải Nhất Thừa).
Đoạn này giới thiệu giản lược kinh Hoa Nghiêm, từng câu, từng chữ trong đoạn này đều phải chú ý. “Như Lai” (Tathāgata) là một trong mười danh hiệu nơi quả đức của Phật. Ý nghĩa của danh hiệu này là “kim Phật như cổ Phật chi tái lai” (vị Phật hiện tại giống như vị cổ Phật trở lại), do vậy, gọi là Như Lai. Đây là nói theo mặt Sự. Kinh Kim Cang nói: “Như Lai giả, chư pháp Như nghĩa” (Như Lai là nghĩa Như của các pháp), đấy là nói theo Lý. Ở đây, [chữ Như Lai] chỉ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. “Ư Bồ Đề Tràng”: Nơi Phật thị hiện thành Đẳng Chánh Giác được gọi là Bồ Đề Tràng (Bodh-gayā). Bồ Đề có nghĩa là giác, Phật ở dưới cội Bồ Đề, ban đêm thấy sao Mai, đại triệt đại ngộ, nơi ấy được gọi là Bồ Đề Tràng. Ngài ngồi dưới gốc cây, cây ấy được gọi là Bồ Đề thụ (Bodhivrksa, cây Bồ Đề), danh xưng do vậy mà có. “Thành Đẳng Chánh Giác”: Không nói “thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”! Ngàn vạn phần chớ nên ơ hờ đọc lướt qua câu này. “Đẳng Chánh Giác” là quả vị Phật thấp hơn Phật trong Viên Giáo, tức là Tạng Giáo Phật, Thông Giáo Phật hoặc Biệt Giáo Phật thì được gọi là Đẳng Chánh Giác. Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là Viên Giáo Phật. Viên Giáo Phật chẳng thị hiện tám tướng thành đạo, Thích Ca Mâu Ni tỏ lộ tám tướng thành đạo, nhưng tám tướng thành đạo thường là Tạng Giáo Phật. Đương nhiên, đức Thế Tôn đã thành Phật từ nhiều kiếp lâu xa trước, đã viên mãn Bồ Đề, nhưng lần này, Ngài biểu diễn trong thế giới này dưới thân phận không cao là Tạng Giáo Phật, giống như Quán Thế Âm Bồ Tát là bậc Đẳng Giác Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng trong hội Lăng Nghiêm, Ngài biểu diễn thân phận Sơ Trụ Bồ Tát, đấy là thị hiện.
“Dữ tứ thập nhị vị Pháp Thân đại sĩ” (cùng với các vị Pháp Thân đại sĩ thuộc bốn mươi hai địa vị): Khi đức Phật mới thành Chánh Giác tại Bồ Đề Tràng chính là Ngài thị hiện vừa mới thành Phật. Thị hiện thành Phật nhất định phải giảng kinh, thuyết pháp. Ngài giảng trong Định, phàm phu chúng ta không thể thấy được. Lũ phàm phu chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi tịnh tọa dưới gốc cây, đâu có biết Ngài giảng kinh Hoa Nghiêm trong Định. Bốn mươi hai địa vị Pháp Thân đại sĩ, kinh nói “bốn mươi mốt”, ở đây nói “bốn mươi hai” là bao gồm cả địa vị Diệu Giác, [đức Phật] nói ra cảnh giới sở chứng của chính mình cho các vị Pháp Thân đại sĩ ấy. Do vậy, đối tượng [được tiếp độ bởi kinh ấy] là các vị Bồ Tát đã minh tâm kiến tánh, mới có tư cách tham gia pháp hội trong Định của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Ngoài những vị Bồ Tát ấy ra, còn có rất nhiều chư thiên và tám bộ quỷ thần tham gia pháp hội ấy. Khi chúng ta đọc kinh Hoa Nghiêm thường hoài nghi, đức Phật đã vì hàng Pháp Thân đại sĩ nói “Tu-đa-la viên mãn”, sao còn có thiên long bát bộ? Thiên long bát bộ là phàm phu, họ có tư cách gì để tham gia pháp hội này? Đừng bỏ sót câu trước đó “túc thế thiện căn thành thục” (thiện căn trong đời trước đã chín muồi), câu này phải giảng như thế nào? Những vị thiên long bát bộ quỷ thần ấy vốn cũng là Pháp Thân đại sĩ. Vì sao Pháp Thân đại sĩ hiện thân phận ấy? Giống như trong phẩm Phổ Môn đã nói: “Nên dùng thân phận nào để độ được, bèn hiện thân ấy”. Vô Độc Quỷ Vương trong kinh Địa Tạng là Pháp Thân đại sĩ thị hiện thân quỷ vương trong ngạ quỷ đạo nhằm độ chúng sanh, trọn chẳng phải là quỷ vương thật sự, mà là Bồ Tát! Do đây có thể biết rằng: Bất luận thân phận nào trong kinh Hoa Nghiêm đều là Pháp Thân đại sĩ, thị hiện trong lục đạo nhằm giáo hóa hết thảy chúng sanh. Do vậy, đức Phật giảng kinh Hoa Nghiêm, họ nhất định đến tham gia. Cũng có vị hỏi: Họ tham gia pháp hội ấy thì trong quỷ thần đạo còn có họ hay không? Vẫn còn có họ! Thậm chí họ vẫn đang chấp hành nhiệm vụ trong quỷ thần đạo, giáo hóa chúng sanh ở trong ấy. Họ có năng lực phân thân tới tham gia pháp hội. Pháp Thân đại sĩ có thần thông, một mặt đi nghe đức Phật giảng kinh, một mặt vẫn lo liệu công chuyện của họ, trọn chẳng trở ngại công việc, họ có năng lực ấy.
“Như vân lung nguyệt” (như mây vờn quanh trăng), tỷ dụ thầy trò hợp đạo, “vị thuyết viên mãn Tu-đa-la” (bèn nói Khế Kinh viên mãn), pháp hội nhân duyên thù thắng, đức Phật vì họ nói đại kinh viên mãn. “Tu-đa-la” là Kinh Tạng, dịch nghĩa là Khế Kinh. Trong giáo pháp cả một đời đức Phật, tức là toàn bộ Đại Tạng Kinh, chỉ có một bộ kinh Hoa Nghiêm mới có thể gọi là kinh Phật viên mãn. Vì sao? Ý nghĩa của Tam Tạng được bao gồm trọn vẹn trong ấy, nói đến Giới, lại có Định và Huệ, Tam Học trọn đủ không thiếu sót. Mười hai thể loại cũng trọn đủ, mười hai phần giáo viên mãn. Do vậy, kinh này được gọi là “căn bản pháp luân”.
Nội dung của kinh Hoa Nghiêm là gì? Thanh Lương đại sư chia nó thành bốn khoa lớn là “tín, giải, hành, chứng”. Do bốn khoa này, ta thấy rất rõ nội dung của bộ kinh lớn này, cho thấy nó đúng là Tu-đa-la viên mãn. Vừa mở đầu, kinh Hoa Nghiêm liền nói tới y báo và chánh báo trang nghiêm nơi quả vị Phật, giúp chúng ta kiến lập tín tâm. Tín tâm ấy chẳng phải là Tín Tha mà là Tín Tự. Nếu tin vào Tha Phật, Tha Phật và ta không liên quan, chỉ có tăng thêm lòng ngưỡng mộ suông mà thôi, chẳng phải là phước báo của chính mình. Chúng ta nhất định phải hiểu: Một bộ kinh Hoa Nghiêm từ đầu đến cuối nói về chính bản thân chúng ta, không nói đến bất cứ chuyện gì ngoài con người thật sự của chúng ta. Do đây có thể biết: “Viên mãn Tu-đa-la” đối với chúng ta rất thân thiết như vậy.
Y báo và chánh báo trang nghiêm là do Tánh Đức hiển lộ, nhưng chúng ta mê mất Tánh Đức, tuy trọn đủ sự trang nghiêm như thế mà hiện thời chẳng thể thụ dụng. Tánh Đức nhất định phải nhờ vào Tu Đức mới có thể hiển hiện, mới có thể thụ dụng được. Do vậy, phần kinh văn thứ hai [trong kinh Hoa Nghiêm] khá dài, giảng rõ Lý và Sự của sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo. Trong phần trước là phần Tín đã bày ra [y báo và chánh báo trang nghiêm trong Nhất Chân pháp giới] cho chúng ta thấy, tuy thấy nhưng vẫn chưa hiểu, giống như quý vị đến viện bảo tàng của Cố Cung (cung điện hoàng gia ở Bắc Kinh), thấy những món đồ bằng đồng đời Thương hoặc Châu, chúng là quốc bảo, nhưng quý vị thấy chúng là một đống đồng nát, sắt rỉ, không biết giá trị! Ắt phải có người biết giá trị dần dần giải thích, nói rõ, quý vị mới hoảng nhiên đại ngộ, chúng vốn là những món đồ quý báu dường ấy. Phần Giải là nói rõ Chân Như bổn tánh của chính chúng ta, vốn sẵn trọn đủ, có thể sanh ra vạn pháp. Khi Lục Tổ đại sư ngộ đạo đã nói mấy đề mục, chiếu theo những đề mục ấy mà soạn văn chương thì chính là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh; nào ngờ tự tánh, vốn tự sẵn đủ; nào ngờ tự tánh, có thể sanh ra vạn pháp”. Phần Giải của Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh thuyết minh đạo lý này, thanh tịnh là gì, pháp nào cũng đầy đủ là gì, chẳng thiếu sót mảy may nào. Nó lại có thể biến hiện vạn pháp, không một pháp nào chẳng do nó biến. Giải thích như vậy sẽ trừ sạch nghi hoặc cho chúng ta, đấy mới là đại triệt đại ngộ, ngộ rồi sẽ tu.
Phần thứ ba là Hành, Hành là tu hành. Tu cái hạnh gì vậy? Tu hạnh kiến tánh, đó gọi là Bồ Tát Hạnh. Do vậy, Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, hễ gặp một vị thiện tri thức bèn nêu lên hai câu hỏi. Thứ nhất là tu Bồ Tát đạo như thế nào? Câu hỏi thứ hai là nên học Bồ Tát hạnh ra sao? Do vậy, sau khi ngộ, sẽ có hai chuyện sau đây: Tu đạo như thế nào, học hành như thế nào? Vậy thì học đạo là giữ tấm lòng như thế nào, chúng ta giữ tấm lòng gì? Dùng cái tâm gì? Giữ tấm lòng, dụng tâm là đạo. Bồ Tát đạo là giác tâm, Bồ Tát là giác ngộ, có ý nghĩa giác ngộ. Vì thế, Bồ Tát đạo là giác tâm, Bồ Tát hạnh là hành vi giác ngộ. Trong hết thảy vạn pháp, tâm giác chứ không mê; trong hết thảy vạn hạnh, hạnh cũng phải giác chứ không mê. Trong đại kinh nói đại lược hai ngàn pháp môn, thật ra, làm sao có thể hành cho hết được? “Hai ngàn” là nêu đại lược, nhằm bảo với chúng ta: Chuyện gì cũng phải giác, lúc nào cũng phải giác, chỗ nào cũng phải giác, không một pháp nào chẳng giác; đấy mới là Bồ Tát đạo và Bồ Tát hạnh.
“Bồ Tát vạn hạnh nhân hoa”: Bồ Tát còn đang tu nhân, chưa chứng quả. “Hoa” tượng trưng cho nhân hạnh (hạnh tu tập khi còn đang tu nhân). Thực vật khai hoa trước rồi mới kết quả; hoa nở xum xuê, chúng ta biết quả báo nhất định trang nghiêm, “trang nghiêm Nhất Thừa quả hải”. Bồ Tát tu đức, chỉ có Tu Đức mới có thể trang nghiêm Tánh Đức. “Nhất Thừa quả hải” là Tánh Đức. Cuối cùng, đức Phật hết sức thiện xảo, cách dạy học đúng là khéo léo đến tột cùng, dùng Thiện Tài đồng tử nêu gương tu học Bồ Tát hạnh cho chúng ta, nêu gương cho chúng ta xem. Do vậy, kinh này không chỉ có lý luận, có phương pháp, mà còn giảng cảnh giới rất rõ ràng, cuối cùng còn kèm theo biểu diễn. Trên thực tế, Thiện Tài đồng tử và năm mươi ba vị thiện tri thức biểu diễn cho chúng ta xem. [Kinh Hoa Nghiêm] đúng là một cuốn sách giáo khoa viên mãn đến cùng cực, là sách giáo khoa tốt nhất trong thế gian lẫn xuất thế gian.
(Diễn) Đại giáo nan đầu giả.
(演) 大教難投者。
(Diễn: Đại giáo khó thể thích hợp mọi căn cơ).
Tuy kinh Hoa Nghiêm tốt đẹp như thế, nhưng kinh quá lớn. “Đầu” (投) là “đầu duyên, đầu cơ” (phù hợp với các duyên và các căn cơ), hiềm rằng chúng sanh căn tánh quá kém, đại pháp không có cách nào phù hợp với điều họ ưa thích.
(Diễn) Như Văn Thù, Phổ Hiền, chư đại Bồ Tát, các các lãnh giải đắc ích.
(演) 如文殊、普賢、諸大菩薩,各各領解得益。
(Diễn: Như Văn Thù, Phổ Hiền, các vị đại Bồ Tát ai nấy đều lãnh ngộ, thấu hiểu, được lợi ích).
Phải là những vị như vậy mới được, Pháp Thân đại sĩ mà! Người căn cơ chín muồi, vừa nghe liền khai ngộ. “Lãnh giải” là khai ngộ. “Đắc ích” là chứng quả. Họ vừa khai ngộ liền chứng nhập, khế nhập Nhất Chân pháp giới, giống như phần Chứng ở cuối kinh [Hoa Nghiêm] được gọi là “nhập bất tư nghị giải thoát cảnh giới”. “Đắc ích” là nhập. Nếu chẳng nhập cảnh giới, thì làm sao quý vị đắc ích? “Nhập” là chứng, những người ấy mới có thụ dụng.
(Diễn) Kỳ thượng đức Thanh Văn, tích hạnh Bồ Tát, như lung, như manh, đỗ thị tuyệt thính.
(演) 其上德聲聞,積行菩薩,如聾如盲,杜視絕聽。
(Diễn: Những vị Thanh Văn đức hạnh cao cả, Quyền Giáo Bồ Tát, như đui, như lòa, chẳng thấy, chẳng nghe gì).
“Thượng đức Thanh Văn” là Tứ Quả A La Hán, “tích hạnh Bồ Tát” là Quyền Giáo Bồ Tát, chưa kiến tánh, còn chưa khai ngộ, chưa phải là Pháp Thân đại sĩ. Những người như vậy ở trong hội Hoa Nghiêm “như lung, như manh” (như đui, như lòa), “lung” (聾) là không nghe được, “manh” (盲) là không thấy được. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng bộ kinh lớn này, họ (Thanh Văn và Quyền Giáo Bồ Tát) chẳng thấy được, mà cũng chẳng nghe được. Ngay cả A La Hán và Quyền Giáo Bồ Tát đều chẳng thấy, chẳng nghe, khó trách bọn phàm phu chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi dưới gốc Bồ Đề, tịnh tọa tại đó, ngồi hơn hai tuần lễ, công phu định lực của Thích Ca Mâu Ni Phật tuyệt quá! Chúng ta chỉ thấy như vậy, trừ điều ấy ra, chuyện gì khác cũng chẳng thấy được! Ai biết Thích Ca Mâu Ni Phật đang mở đại pháp hội tại đó, giảng Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh cho các vị Pháp Thân đại sĩ? Kinh Hoa Nghiêm được giảng trong mười bốn ngày, tức là giảng trong hai tuần, nhưng phàm phu chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật nhập Định tại đó, nhập Định suốt hai tuần, chẳng biết trong Định Ngài làm rất nhiều chuyện. Quý vị đọc Hư Vân Hòa Thượng Niên Phổ, công phu định lực của lão hòa thượng Hư Vân kể ra cũng khá lắm, Ngài thường tịnh tọa suốt tám, chín ngày là chuyện rất bình thường, chẳng đứng dậy, cũng có lần ngồi hơn nửa tháng. Trong Định, Ngài cũng đi tham học. Theo sách Niên Phổ, trong Định, Ngài thường lên cung trời Đâu Suất nghe Di Lặc Bồ Tát giảng Duy Tâm Thức Định. Đức Phật giảng kinh trong Định, Bồ Tát đi nghe kinh trong Định. Tôi vừa mới nói, những vị thiên long bát bộ căn cơ chín muồi, các Ngài trọn chẳng rời [chỗ mình đang ở], thân thể hoàn toàn chẳng rời đi, chỉ có thần thức ra đi. Chúng ta thấy lão hòa thượng Hư Vân nhập Định, ngồi ở nơi đó, nhục thân không đi, nhưng thần thức lên trời Đâu Suất nghe Di Lặc Bồ Tát giảng Duy Tâm Thức Định. Do vậy, phàm phu, ngoại đạo chẳng cần phải nói tới nữa! [Tuy chúng sanh] chẳng biết cảnh giới của Phật, Bồ Tát, nhưng Phật tuyệt đối chẳng bỏ một ai, đấy là lòng từ bi của Phật! “Phật thị môn trung, bất xả nhất nhân” (trong cửa nhà Phật, chẳng bỏ một ai). Quý vị không có đủ trình độ ấy nên chẳng thể tiếp nhận đại pháp, bèn giảng những thứ nhỏ nhặt cho quý vị, giảng nông cạn một chút là được rồi!
(Diễn) Ư thị Như Lai thoát Xá Na trân ngự chi phục, trước trượng lục tệ cấu chi y, thoái quy Lộc Uyển.
(演) 於是如來脫舍那珍御之服,著丈六弊垢之衣,退歸鹿苑。
(Diễn: Do vậy, đức Như Lai cởi áo Xá Na trân quý, mặc y trượng sáu hèn tệ, nhơ bẩn, lui về Vườn Nai).
Trong hội Pháp Hoa là Báo Thân Như Lai, “Xá Na” là Lô Xá Na (Locana), tức danh hiệu của Báo Thân Phật. Phật có ba thân, Pháp Thân gọi là Tỳ Lô Giá Na (Vairocana), Báo Thân gọi là Lô Xá Na, Ứng Thân gọi là Thích Ca Mâu Ni. Tướng Báo Thân quá lớn, trong đại kinh có nói: “Phật hữu vô lượng tướng, tướng hữu vô lượng hảo” (Phật có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo). Ứng Thân Phật có ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo, rất hữu hạn. Ở đây, ý nói: Nhằm độ các Pháp Thân đại sĩ, Phật hiện Báo Thân, hiện tướng trang nghiêm khôn sánh, ấy là Tánh Đức, là cảnh giới Hoa Nghiêm. Hiện tại, lại vì đến thuyết pháp cho các vị Thanh Văn, Tích Hạnh Bồ Tát, phàm phu, và ngoại đạo, nếu Phật hiện thân [trang nghiêm vĩ đại] như vậy, phàm phu chúng ta chẳng thể thấy được, chẳng thể tiếp nhận được, nên mới hiện thân nhỏ nhoi này, hiện kim thân cao trượng sáu, chẳng khác thân thể của chúng ta cho mấy. “Trượng lục”: Ngàn vạn phần quý vị đừng dùng thước hiện thời [để hiểu khái niệm này, nếu không], một trượng sáu thước gần như gấp đôi chiều cao trung bình của con người! Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật tuy cao, nhưng vẫn chưa cao đến mức ấy. Quý vị có thể đọc sách của đại sư Hoằng Nhất thời cận đại, Sư trước tác không ít, Ngài có viết bộ Luật Học Tam Thập Tam Chủng Hợp San, trong ấy có bài Châu Xích Khảo Cứ (khảo sát những chứng cứ về thước được dùng vào đời Châu). Vào đời Châu, một thước tương đương với sáu tấc theo hệ thống đo lường hiện thời của Đài Loan. “Trượng lục”: Có thể thấy Phật rất cao, theo cách tính hiện thời, đại khái từ một mét tám mươi mấy cho đến một mét chín mươi, cao hơn người bình thường một chút. Thước thời ấy ngắn, thước hiện thời dài hơn thước khi xưa. Từ dưới cội Bồ Đề, lão nhân gia đứng dậy, đến Lộc Dã Uyển (Mrgá-dāva), vì trong Lộc Dã Uyển có mấy vị xuất gia đang tu hành tại đó, nên Ngài đến độ họ.
(Diễn) Thuyết Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Ba La Mật chi tam thừa quyền pháp.
(演) 說四諦、十二因緣、六波羅蜜之三乘權法。
(Diễn: Nói các pháp tam thừa quyền biến như Tứ Đế, mười hai nhân duyên, sáu Ba La Mật…)
Mấy câu này đã bao gồm trọn vẹn các pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong suốt một đời. Tại Lộc Dã Uyển, đức Phật chỉ nói Tứ Đế, độ năm người trong nhóm Kiều Trần Như (Ajñāta Kaundinya), tức năm vị tỳ-kheo. Tam Bảo của Phật pháp xuất hiện trong thế gian: Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành Phật, Phật Bảo trọn đủ; thuyết pháp Tứ Đế, Pháp Bảo trọn đủ; năm vị ấy nghe xong, trong ấy có một vị chứng A La Hán trước hết (ngài Kiều Trần Như), đều theo Phật xuất gia, Tăng Bảo trọn đủ. Trụ thế Tam Bảo thành tựu tại Lộc Dã Uyển. Đấy là khi sáng lập giáo pháp ban sơ, kể cả thầy và năm học trò, chỉ có sáu người. Sáu người kiến lập Phật pháp thế gian, Phật pháp được kiến lập từ đây. Về sau, Tăng đoàn dần dần mở rộng, người xuất gia cũng dần dần nhiều hơn. Do vậy, đệ tử thường theo Phật có một ngàn hai trăm năm mươi lăm vị. Trong bốn mươi chín năm, đức Phật giảng Tứ Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Lục Ba La Mật. Tứ Đế là pháp Tiểu Thừa Thanh Văn, Thập Nhị Nhân Duyên là pháp Trung Thừa Duyên Giác, Lục Ba La Mật là Đại Thừa Phật pháp, tức Bồ Tát pháp, đó là Tam Thừa. Tam Thừa đều là nói quyền biến, chẳng phải là nói rốt ráo. Mấy câu này cũng giới thiệu lịch sử Phật giáo một cách đơn giản.
(Diễn) Hậu nãi hội Quyền quy Thật giả, A Hàm chi hậu, phục kinh Phương Đẳng đàn ha, Bát Nhã đào thải, tứ thập niên dư, chí Pháp Hoa hội thượng, phương năng hội quy Nhất Thừa dã.
(演) 後乃會權歸實者,阿含之後,復經方等彈呵,般若淘汰,四十年餘,至法華會上,方能會歸一乘也。
(Diễn: Sau đấy mới gom Quyền về Thật. Sau thời A Hàm, lại trải qua thời Phương Đẳng chỉ trích, quở trách [quyền tiểu], thời Bát Nhã đào thải [những chấp trước quyền tiểu], hơn bốn mươi năm, đến hội Pháp Hoa mới có thể gom hết về Nhất Thừa).
Ở đây, [sách Diễn Nghĩa] đã ban cho chúng ta một sự khải thị rất lớn.Ngày nay chúng ta học Phật, học chưa được mấy bữa đã là nhất định muốn tu hành chứng quả. Nếu chẳng chứng quả, bèn không có tâm nhẫn nại. Quý vị nghĩ: Ta tu hành nhiều năm như thế, ngay cả tin tức cũng chẳng có, vậy thì Phật pháp chưa chắc đáng tin cậy, không tu nữa! Còn có một hạng người mới tu được mấy ngày liền tự cảm thấy “ta đã khai ngộ rồi”, “ta đã kiến tánh rồi”, “ta đã chứng đắc A La Hán”, nói đơn giản, thẳng thừng là [những kẻ ấy] “nói nhăng, nói cuội”! Chúng ta phải hiểu, những vị có phước phận học với Thích Ca Mâu Ni Phật thuở ấy, bất luận xét theo thiện căn, phước đức, hay nhân duyên, bất cứ nói theo phương diện nào cũng đều sâu dầy hơn chúng ta. Chúng ta không có cơ duyên gặp Phật, không có cơ hội học với Phật! Ngay cả người học với Phật mà còn phải học suốt bốn mươi năm mới khai ngộ, chúng ta học dăm ba năm làm sao có thể thành công cho được?
Thứ tự dạy học của Phật là A Hàm mười hai năm, giống như giáo dục Tiểu Học của Phật giáo, tạo lập cơ sở, giáo dục cơ sở trong mười hai năm. Chúng ta ngày nay có ai chịu phát tâm tự mình tạo lập cơ sở trong mười hai năm? Phương Đẳng tám năm, Phương Đẳng là tiến nhập Đại Thừa, rồi lại nói Bát Nhã hai mươi hai năm. Thời gian tổng cộng bốn mươi năm! Người thuở ấy thật sự có tâm kiên trì, hằng ngày nghe Phật giảng kinh, nghiên cứu, thảo luận, y giáo phụng hành, như vậy thì mới có thể thành tựu! Nay chúng ta học Phật không đạt thành tích, chính mình phải phản tỉnh, kiểm điểm cho nhiều, vì sao không có thành tích? [Các đệ tử] có bốn mươi năm vun bồi cơ sở rồi [đức Phật] mới vì mọi người nói pháp Nhất Thừa. Giáo nghĩa của Pháp Hoa và Hoa Nghiêm không hai, không khác; khi ấy “hội Tam Thừa quy Nhất Thừa” (dung hội Tam Thừa về Nhất Thừa), “hội” (會) là dung hội, dung hội tất cả A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, quy nạp pháp Nhất Thừa.
(Diễn) Quyền tức tam, Thật tức nhất.
(演) 權即三,實即一。
(Diễn: Quyền là ba, Thật là một).
Nói theo mặt phương tiện thì có ba giai đoạn, có ba tầng lớp; còn nói thật sự thì đích thực chỉ một; đủ thấy là một nhưng ba, ba nhưng một. Chính vì những pháp ấy “tuy một mà ba, tuy ba mà một”, nên cổ đức mới nói: “Viên nhân thuyết pháp, vô pháp bất viên” (người viên đốn thuyết pháp, không pháp nào chẳng viên). Chúng ta hỏi A Hàm có phải là pháp Nhất Thừa hay không? Phương Đẳng có phải là pháp Nhất Thừa hay không? Bát Nhã có phải là pháp Nhất Thừa hay không? Nếu chẳng phải là pháp Nhất Thừa thì làm sao có thể hội quy pháp Nhất Thừa? Nếu chẳng phải là pháp Nhất Thừa, vì sao có thể tách thành pháp Tam Thừa? Một mà ba, ba nhưng một. Nói cách khác, pháp Nhất Thừa có thể nói cạn, có thể nói sâu, có thể nói dài, có thể nói ngắn, cùng một ý nghĩa mà có thể dài, ngắn, sâu, cạn. Trình độ cạn thì nói cạn, trở thành A Hàm. Trình độ bậc trung thì nói ở mức độ trung bình, trở thành Phương Đẳng hay Bát Nhã. Với người đã chín muồi thì nói chân thật, trở thành pháp Nhất Thừa, chuyện là như vậy đó! Do vậy, nhất định chớ nên chấp trước! Nếu khởi phân biệt, chấp trước trong ấy, khế nhập Nhất Thừa sẽ bị chướng ngại, quyết định chớ nên có phân biệt, chấp trước!
Chúng ta thấy rất nhiều người học Phật pháp tại Trung Quốc từ xưa đến nay, hễ học Phật bèn học ngay Đại Thừa, chưa hề học theo thứ tự thuận “A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã”. Ví như chúng ta học kinh Hoa Nghiêm, vừa nhập môn liền học kinh Hoa Nghiêm, được không? Được chứ! Kinh Hoa Nghiêm nói cạn sẽ là A Hàm, nói sâu là Phương Đẳng. Nếu dạy quý vị hãy “lìa hết thảy tướng, chính là hết thảy pháp” để đọc kinh Hoa Nghiêm thì là Bát Nhã. Có thể biến toàn bộ kinh Hoa Nghiêm thành cuộc sống của chúng ta, thành tâm hạnh hiện thời của chúng ta, thì gọi là pháp Nhất Thừa. Từ một bộ kinh cũng có thể thấy nghĩa quyền biến của Tam Thừa, tức ý nghĩa Quyền Giáo. Nếu quý vị hiểu đạo lý này, mới hiểu cổ nhân Trung Quốc tấn tu như thế nào.
Thuở ấy, Thanh Lương đại sư tuyên giảng kinh Hoa Nghiêm tại Ngũ Đài, lão nhân gia suốt đời giảng năm mươi lượt, có học trò đã nghe Ngài giảng năm mươi lần. Năm mươi biến kinh Hoa Nghiêm là từ A Hàm giảng đến Phương Đẳng, giảng tới Bát Nhã, cuối cùng giảng đến Nhất Thừa, chẳng cần phải giảng gì khác, người đời sau tôn xưng lão nhân gia là Hoa Nghiêm Bồ Tát. Thật ra, giáo pháp đâu có Nhất Thừa hay Tam Thừa? Giáo không có Thừa, Thừa là do con người phân ra. Tam Thừa là do căn tánh chúng sanh bất đồng mà chia ra, Giáo chẳng có một hay ba, [căn tánh của] con người thì có một và ba; đem Giáo phối hợp với người nên Giáo cũng biến thành một hay ba, có ý nghĩa như vậy. Do vậy, hết thảy Phật pháp, không pháp nào chẳng sống động, hoạt bát, chớ nên chấp trước tướng văn tự thì mới có thể hiểu thông suốt đại nghĩa.
(Diễn) Đại xa, vị đại bạch ngưu xa, tức Đại Thừa diệu pháp dã.
(演) 大車,謂大白牛車,即大乘妙法也。
(Diễn: “Xe to” là xe ngựa, tức diệu pháp Đại Thừa).
Đây là tỷ dụ trong kinh Pháp Hoa, “đại bạch ngưu xa” là xe ngựa, người Ấn Độ gọi ngựa là “đại bạch ngưu”. Vào thời cổ, xe ngựa lớn nhất, có thể ngồi được mười mấy người, nên thường được sánh ví với Đại Thừa.
Đoạn này nhằm giải thích câu “đẳng ban trân tứ” (bình đẳng ban cho món quý báu); chỉ cần căn tánh chín muồi, Phật đối xử bình đẳng với hết thảy chúng sanh, quyết định giúp đỡ quý vị khế nhập pháp Nhất Thừa, đấy là bổn hoài xuất thế và bổn nguyện dạy học của Như Lai. “Thử Như Lai nhất đại thời giáo chi đại trí dã” (nêu lên những nét chánh yếu trong giáo pháp cả một đời Như Lai vậy). Tiếp theo đây giảng về pháp môn Niệm Phật, nói đến pháp môn đặc biệt.
(Sớ) Nhi ư kỳ trung, phục xuất Niệm Phật nhất môn, bất luận đại căn, tiểu căn, đản niệm Phật giả, tức đắc vãng sanh, diệc bất đãi căn thục, phương nãi hội chi quy Thật. Đản vãng sanh giả, tức đắc Bất Thoái, dụ như bất thứ chi trạc, ấm tự chi quan, ân xuất phi thường, danh “thù ân” dã.
(疏) 而於其中,復出念佛一門,不論大根小根,但念佛者,即得往生。亦不待根熟,方乃會之歸實。但往生者,即得不退,喻如不次之擢、廕序之官,恩出非常,名殊恩也。
(Sớ: Nhưng trong ấy lại nêu ra một môn Niệm Phật, bất luận đại căn hay tiểu căn, chỉ niệm Phật liền được vãng sanh, cũng chẳng cần phải đợi đến khi căn cơ chín muồi mới dung hội về Thật pháp. Chỉ cần được vãng sanh sẽ liền được Bất Thoái, ví như chẳng theo thứ tự mà được nâng lên [địa vị cao tột], làm quan do tập ấm[62], ân đức ấy vượt trỗi lẽ thường, nên gọi là ân đức thù thắng vậy).
Đoạn này nhằm giải thích câu cuối cùng, tỷ dụ pháp môn Niệm Phật. “Nhi ư kỳ trung” tức là trong các pháp Tam Thừa và Nhất Thật, mà cũng là trong giáo pháp suốt một đời đức Phật, “phục xuất Niệm Phật nhất môn” (lại nêu ra một môn Niệm Phật), “phục” (復) có nghĩa là “lại”, lại giảng cho quý vị pháp môn Niệm Phật này. Pháp môn này đặc biệt, Tam Thừa và Nhất Thừa trong phần trước đều có đại căn và tiểu căn, tiểu căn chỉ có thể học pháp Tiểu Thừa và Trung Thừa, [căn tánh] Đại Thừa mới học được pháp Bồ Tát; nhưng pháp môn Niệm Phật không cần! Quý vị hãy đọc lời chú giải trong bộ Diễn Nghĩa.
(Diễn) “Bất luận đại căn, tiểu căn” tam cú, đối thượng “thỉ thành Chánh Giác, diễn Đại Hoa Nghiêm” thuyết, vị: Hoa Nghiêm thuần tiếp thượng căn, hạ căn tuyệt phận.
(演) 不論大根小根三句,對上始成正覺,演大華嚴說。謂華嚴純接上根,下根絕分。
(Diễn: Ba câu “bất luận đại căn hay tiểu căn…” là nói đối ứng với câu “mới thành Chánh Giác, diễn Đại Hoa Nghiêm” trong phần trên. Ý nói: Hoa Nghiêm thuần tiếp thượng căn, hạ căn trọn chẳng có phần).
Đối tượng của Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ. Kẻ chưa phá vô minh, chưa chứng Pháp Thân sẽ chẳng có phần. Do vậy nói “hạ căn tuyệt phận”.
(Diễn) Kim tắc thượng tự Bất Thoái Bồ Tát, hạ cập du du phàm phu, tam căn phổ lợi cố.
(演) 今則上自不退菩薩 ,下及悠悠凡夫 ,三根普利故。
(Diễn: Nay thì trên từ hàng Bất Thoái Bồ Tát, dưới đến kẻ phàm phu miệt mài [mê muội], lợi lạc trọn khắp ba căn).
Nói về pháp môn Niệm Phật. “Thượng tự Bất Thoái Bồ Tát”: Bất Thoái Bồ Tát là Pháp Thân đại sĩ. Luận theo những bậc thượng căn thì [pháp môn Niệm Phật] có thể bao gồm trọn hết chúng đương cơ của kinh Hoa Nghiêm, đồng thời lại còn có thể bao gồm tất cả phàm phu, lục đạo phàm phu, pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn! “Tam căn phổ lợi” (lợi ích khắp ba căn): Đối tượng của pháp này hết sức rộng lớn, thượng căn, trung căn, hạ căn, không gì chẳng bao gồm, họ đều đạt được lợi ích, đó gọi là “phổ lợi”. Trong phần Sớ đã viết: “Đản niệm Phật giả, tức đắc vãng sanh” (Chỉ cần là người niệm Phật liền được vãng sanh ). Tám chữ này hết sức quan trọng; nhưng “niệm Phật” thì quý vị phải biết niệm, nhất định phải đúng lý, đúng pháp thì sẽ đúng là “vạn người tu, vạn người về”.
(Diễn) Diệc bất đãi căn thục tứ cú.
(演) 亦不待根熟四句。
(Diễn: Bốn câu “cũng chẳng đợi căn cơ chín muồi…”).
Tức là đoạn “diệc bất đãi căn thục, phương nãi hội chi quy Thật, đản vãng sanh giả, tức đắc Bất Thoái” (cũng chẳng đợi căn cơ chín muồi rồi mới dung hội về pháp chân thật, chỉ cần được vãng sanh sẽ liền được Bất Thoái) trong lời Sớ, nói về bốn câu ấy.
(Diễn) Đối thượng “đại giáo nan đầu” ngũ cú thuyết, vị: Pháp Hoa đãi căn thành thục, phương nãi hội quy; kim tắc bất sĩ đàn ha, vô phiền đào thải, tức đắc Tây quy cố.
(演) 對上大教難投五句說,謂法華待根成熟,方乃會歸。今則不俟彈呵,無煩淘汰,即得西歸故。
(Diễn: Là nhằm đối ứng với năm câu “đại giáo khó thích hợp mọi căn cơ…” trong phần trên mà nói, nghĩa là: Pháp Hoa phải đợi căn cơ chín muồi rồi mới dung hội, quy nạp về [Nhất Thật], nay pháp môn này chẳng đợi chê bai, quở trách [các pháp quyền, tiểu], chẳng nhọc công đào thải, mà liền được về Tây vậy).
Đã trải qua bốn mươi năm tu học mới có tư cách tham gia pháp hội Pháp Hoa. Nay thì chẳng cần phải chê bai, quở trách [pháp quyền tiểu], mà cũng chẳng cần phải đào thải [chấp trước tiểu pháp], liền thành tựu. Tập khí nặng nhất của phàm phu là phân biệt, chấp trước. Phật dành mười hai năm giảng cho họ pháp Tiểu Thừa, họ bèn chấp trước Tiểu Thừa. Phật thấy tu học pháp Tiểu Thừa đã đủ rồi, thành tích đã thuần thục rồi, có thể nâng họ lên cao một mức nữa, lại giảng kinh Phương Đẳng. Kinh Phương Đẳng chỗ nào cũng quở trách Tiểu Thừa, phê bình người Tiểu Thừa là “tiêu nha, bại chủng” (mầm mộng bị cháy, hạt giống lép), khuyên người tu Tiểu Thừa phải bỏ Tiểu Thừa, học pháp Đại Thừa, hồi Tiểu, hướng Đại, vì sao? Khi ấy mới có tư cách học Đại Thừa, họ đã có cơ sở Tiểu Thừa. Nói “xả Tiểu Thừa” là buông xuống, đừng nên chấp trước Tiểu Thừa, tiếp tục tấn tu Phật pháp Đại Thừa không ngừng, từ cơ sở Tiểu Thừa tấn tu Phật pháp Đại Thừa, như vậy là đúng! Họ học Phương Đẳng tám năm khá lắm, nhưng căn bệnh cũ lại bùng lên, lại chấp vào Phật pháp Đại Thừa. Hai mươi hai năm Bát Nhã hoàn toàn giảng về ly tướng, nói tới “tam luân thể không”, đào thải sạch sẽ chấp trước phàm tình của họ, hoàn toàn dùng tấm lòng thanh tịnh để tiếp nhận pháp Nhất Thừa. Trong hội Pháp Hoa giảng về pháp Nhất Thừa, tâm phải thanh tịnh mới có thể tiếp nhận pháp Nhất Thừa; nhưng trong pháp môn Niệm Phật, chẳng cần phải trải qua những giai đoạn ấy, chỉ cần vãng sanh sẽ đắc ba thứ Bất Thoái, thật chẳng thể nghĩ bàn!
Tiếp theo đó là tỷ dụ: Ví như “bất thứ chi trạc”, “trạc” (擢) là nâng cao lên; giống như thăng quan, mọi người đều có đẳng cấp, dần dần thăng lên chức cao hơn. Người này chẳng trải qua từng đẳng cấp, vừa được thăng chức liền đạt tới địa vị tối cao, do duyên cớ nào? “Ấm tự chi quan”, giống như trong thời đại đế vương thuở trước, cha là thân vương, con cái khôn lớn lại được phong làm thân vương, loại quan này gọi là “ấm tự chi quan” (làm quan nhờ tập ấm), tức thế tập, chẳng cần phải qua thăng chức dần dần, đây là ân đức đặc thù của hoàng đế. “Ân xuất phi thường, danh thù ân dã” (Ân đức vượt trỗi lẽ thường nên gọi là “thù ân”), mang ý nghĩa ấy. Chúng ta niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ giống như tình trạng này, chẳng cần phải trải qua nhiều đẳng cấp ngần ấy, [vừa vãng sanh] liền đạt ngay địa vị Pháp Thân đại sĩ, tuy chưa chứng đắc, dẫu chỉ là Hạ Phẩm Hạ Sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, hễ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới liền được đãi ngộ, hưởng thụ giống như trong cõi Thật Báo, giống như quan chức do thế tập vậy. Ân vượt trỗi lẽ thường, chẳng thể nghĩ bàn!
Hôm nay lập hội Phật Giáo, chúng tôi và mấy vị chủ quản tôn giáo của chánh phủ cùng dùng cơm, chúng tôi rất cảm khái. Vì sao Phật giáo ở Trung Quốc có lịch sử tồn tại lâu dài như vậy? Vì sao nó có ảnh hưởng to lớn và sâu đậm đến văn hóa Trung Quốc như vậy? Ấy là vì nó được sức mạnh từ hàng quốc vương cho đến đại thần, sức mạnh của quốc gia hộ trì, cho nên có thể phát triển rạng rỡ. Hiện thời, tình thế khác rồi, dị đoan nẩy nở như rừng, mỗi cá nhân mua một khoảnh đất nhỏ, có thể giảng kinh thuyết pháp ở đó, mỗi người giảng một phách. Hiện thời, giảng kinh thuyết pháp chẳng biết là bao nhiêu! Mỗi một đạo tràng nhỏ tụ tập một nhóm tín đồ, phân tán sức mạnh của toàn thể Phật giáo, Phật giáo chẳng có sức ảnh hưởng đối với xã hội. Nếu hiện thời, pháp hội của chúng ta là tập trung thuyết pháp, tại thành phố Đài Bắc chỉ có một đại giảng đường, chẳng cần phải tách rời. Lần giảng kinh này, mấy ngàn người nghe, gây sức ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội. Quý vị thấy giảng kinh hằng ngày tại đây, hằng ngày có mấy ngàn người đến nghe, người không học Phật cũng đến học Phật. Họ thấy đằng kia, nơi này có mấy người, hai mươi người, ba mươi người, chẳng bằng Cơ Đốc giáo. Nếu họ muốn nghe kinh thì nơi này giảng khác nơi kia, giảng những ý nghĩa khác nhau; nghe nhiều người giảng, chẳng biết ai giảng đúng, ai giảng trật, nên nghe thuyết pháp theo kiểu nào? Đấy là tri kiến không thống nhất, không có nhận thức chung, đấy là tướng suy, tướng diệt pháp trong Phật pháp.
Trước kia, người xuất gia có tư cách xuất gia, hoằng pháp có tiêu chuẩn hoằng pháp, chẳng thể ai cũng có thể tùy tiện giảng kinh, mà cũng chẳng phải ai cũng có thể tùy tiện xuất gia. Do vậy, họ có trình độ khá cao. Nếu hiện thời quốc gia thật sự chú ý đến chuyện này, nhân tài hoằng pháp phải tập trung huấn luyện. Nếu kiến giải khác nhau, trong nhà mình có thể đóng cửa để thảo luận, nhưng khi giảng cho bên ngoài nhất định phải giảng giống như nhau, chớ nên gây nghi hoặc, hoài nghi cho người nghe, như vậy mới được! Pháp sư giảng kinh phải thường nhóm họp một chỗ, cùng nghiên cứu thảo luận, trao đổi những điều tâm đắc, có thể thường họp lại biện luận, nhằm đối nội chứ không đối ngoại. Như vậy thì bất luận là lý luận, phương pháp, hay sự tu trì cá nhân, mọi người nhất định có tiến bộ.
Không cần biết là giảng bộ kinh nào, nói chung không gây hiểu lầm, theo cùng một phương hướng. Phương hướng ấy chính là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Hoặc là trong Hành Môn có một nguyên tắc tối cao: Tam Quy Y. Đây là nguyên tắc chỉ đạo của chúng ta: Quy y Phật, Phật là giác chứ không mê; quy y Pháp, Pháp là chánh chứ không tà, chánh tri chánh kiến, chẳng phải là tà tri, tà kiến; quy y Tăng, Tăng là tịnh chứ không nhiễm.
Thân tâm thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần. Nguyên tắc lớn này tốt lắm, Phật pháp có thể hưng vượng.
(Diễn) Bất thứ chi trạc giả, ngôn thử độ tu hành, tiệm tiệm đoạn Hoặc, phương xuất sanh tử, như thọ quan giả, tất tuần tư cách, thứ đệ thăng thọ.
(演) 不次之擢者,言此土修行,漸漸斷惑,方出生死,如授官者,必循資格次第升授。
(Diễn: “Chẳng theo thứ tự mà được nâng cao lên” là nói tu hành trong cõi này, phải đoạn Hoặc dần dần thì mới thoát khỏi sanh tử, như được phong làm quan, phải căn cứ trên tư cách mà lần lượt trao cho những chức quan cao hơn).
Ý nghĩa này vừa mới giảng rồi.
(Diễn) Kim Niệm Phật pháp môn, bất tất tiệm tiệm đoạn Hoặc, đản đắc vãng sanh tức siêu sanh tử, dụ như bất tuần thứ đệ, đốn thọ cao quan dã. Ấm tự chi quan giả, ngôn thử độ tu hành, công viên hạnh mãn, phương thành thánh quả.
(演) 今念佛法門,不必漸漸斷惑,但得往生即超生死,喻如不循次第,頓授高官也。廕序之官者,言此土修行,功圓行滿,方成聖果。
(Diễn: Nay pháp môn Niệm Phật chẳng cần phải dần dần đoạn Hoặc, chỉ cần được vãng sanh liền vượt thoát sanh tử, ví như chẳng theo thứ tự, liền được trao ngay chức quan cao. “Được tập ấm làm quan” là nói tu hành trong cõi này, phải công hạnh viên mãn thì mới thành tựu thánh quả được).
Đây là nói về tu hành theo đường lối thông thường.
(Diễn) Như đắc quan giả, tất Minh Kinh trúng thức.
(演) 如得官者,必明經中式。
(Diễn: Như được làm quan ắt phải thi đỗ khóa thi Minh Kinh).
Trước kia, khảo thí Tứ Thư, Ngũ Kinh, ắt phải thông đạt, hiểu rõ những kinh luận ấy [thì mới đậu khoa thi Minh Kinh], đó là quan văn.
(Diễn) Hoặc hãn mã thành công.
(演) 或汗馬成功。
(Diễn: Hoặc dầy công hãn mã[63]).
Đây là quan võ, đều phải qua khảo thí.
(Diễn) Kim Niệm Phật pháp môn, bất tất công hạnh viên mãn.
(演) 今念佛法門,不必功行圓滿。
(Diễn: Nay pháp môn Niệm Phật không cần phải công hạnh viên mãn).
Không cần đến.
(Diễn) Trượng Phật nguyện lực, tật đăng bỉ ngạn.
(演) 仗佛願力,疾登彼岸。
(Diễn: Nhờ vào nguyện lực của Phật, mau chóng lên bờ kia).
Đây là nói tới đới nghiệp vãng sanh, chẳng cần phải phá vô minh, chẳng cần phải đoạn Kiến Tư phiền não, đới nghiệp vãng sanh là thành công rồi!
(Diễn) Dụ như tổ tông di ấm, hiện ưng tước lộc dã.
(演) 喻如祖宗遺廕,現膺爵祿也。
(Diễn: Ví như tổ tông di ấm[64], nay con cháu được hưởng tước lộc).
Thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Sánh ví hết sức hay. Hôm nay đã hết giờ rồi!
— o0o —
Tập 23
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang hai mươi sáu:
(Sớ) Hựu thù ân phục hàm nhị nghĩa, nhất giả, niệm Phật thị ân trung chi thù, nhị giả, trì danh niệm Phật, hựu thù ân trung chi thù dã.
(疏) 又殊恩復含二義,一者念佛是恩中之殊,二者持名念佛,又殊恩中之殊也。
(Sớ: Lại nữa, “thù ân” còn bao gồm hai nghĩa: Một, niệm Phật là ân đức thù thắng nhất, hai, trì danh niệm Phật lại là thù thắng nhất trong các ân thù thắng).
Sách Diễn Nghĩa có giải thích mấy câu này.
(Diễn) Niệm Phật ân trung chi thù giả.
(演) 念佛恩中之殊者。
(Diễn: “Niệm Phật là ân thù thắng nhất” là…)
Ý nghĩa của chữ “thù ân” đã được giải thích trong phần trước.
(Diễn) Niệm Phật chi tỷ kỳ dư pháp môn, cố vi thù ân.
(演) 念佛之比其餘法門,故為殊恩。
(Diễn: So sánh Niệm Phật với các pháp môn khác, nên nói là ân thù thắng đặc biệt).
Trong phần trước, đại sư đã so sánh từng chuyện một trong quá trình dạy học suốt đời của Thích Ca Mâu Ni Phật: Dẫu là Nhất Thừa Viên Giáo như Hoa Nghiêm hay Pháp Hoa, tuy là đại pháp rốt ráo viên mãn, nhưng chẳng khế hợp căn cơ của chúng sanh trong thời kỳ Mạt Pháp. Nói cách khác, chẳng thể tắt gọn, nhanh chóng chứng nhập trong một đời. Chúng ta lại thấy các bộ kinh Đại Thừa quy kết Tây Phương Tịnh Độ.
Nếu có một phương pháp thật sự thành tựu Tịnh Độ, được sanh về Tịnh Độ thì nói cách khác, há chẳng phải là thõng tay cũng đạt được pháp Nhất Thừa viên mãn ư? Đức Phật nói kinh điển nhiều dường ấy, có thể nói dụng ý của Ngài là lót đường cho pháp môn Di Đà, dạy chúng ta so sánh từng pháp môn thì mới thật sự phát hiện, thật sự nhận biết pháp môn này đặc biệt lạ lùng chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, đức Phật nói Hoa Nghiêm và Pháp Hoa là “ân đức”, nói pháp môn Di Đà là “thù ân” (ân đức đặc biệt thù thắng). Đây là so sánh pháp môn Niệm Phật với các pháp môn khác.
(Diễn) Nhi Niệm Phật nhất môn, phục hữu đa chủng, như Quán Tượng, Quán Tưởng, Thật Tướng đẳng.
(演) 而念佛一門,復有多種,如觀像、觀想、實相等。
(Diễn: Nhưng một môn Niệm Phật lại có nhiều thứ, như Quán Tượng, Quán Tưởng, Thật Tướng v.v…)
Pháp môn Niệm Phật lại có rất nhiều thứ, ở đây, quy nạp thành bốn loại: Quán Tượng, Quán Tưởng, Thật Tướng, Trì Danh.
Quán Tượng là nhìn tượng Phật. Do vậy, tượng Phật nhất định phải tạc trang nghiêm, giống như quy củ tạc tượng được dạy trong Tạo Tượng Lượng Độ Kinh[65], phải khắc họa được ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp của Phật, chẳng thể thuận theo sự tưởng tượng trong tâm chính mình để tạo tượng Phật. Nếu tạc [theo sự tưởng tượng của chính mình] như vậy, sẽ là sai, [tạc tượng] có pháp tắc nhất định. Nói đến tượng Phật thì cũng có đồng học đến hỏi: “Chúng con thỉnh một bức tượng Phật về thờ trong nhà, nghe nói tượng Phật phải khai quang; không khai quang sẽ chẳng linh?” Năm ngoái, tôi giảng kinh tại Cựu Kim Sơn (San Francisco), có một cư sĩ thỉnh tôi khai quang cho tượng Thiên Thủ Quán Âm. Tượng Thiên Thủ Quán Âm ấy tạc rất trang nghiêm, cao bảy thước[66]. Tôi còn chụp mấy tấm ảnh đem về làm kỷ niệm, tôi khai quang cho bức tượng Thiên Thủ Quán Âm ấy. Trong Phật môn, đây cũng là pháp tu học tất yếu.
“Khai quang” chẳng phải là khai quang cho tượng Phật. Nếu có thể khai quang cho tượng Phật thì quý vị lạy Phật sao bằng lạy tôi! Tôi khai quang cho tượng Phật khiến cho tượng Phật linh thiêng, tượng sẽ linh; tôi không khai quang, tượng chẳng linh. Vậy là tôi thiêng hơn tượng Phật nhiều lắm! Hằng ngày, quý vị mời tôi về nhà cúng dường tốt hơn, cần gì phải thỉnh tượng Phật bằng đất nặn, gỗ khắc? Đấy là lầm lẫn quá đỗi! Do vậy, tượng Phật vừa tạo xong, cử hành một điển lễ bắt đầu [đưa tượng Phật] vào sử dụng, giống như dựng nhà xong làm lễ khánh thành, đến chúc mừng một phen. Tượng Phật có ý nghĩa càng đặc biệt hơn! Phải nói rõ ý nghĩa của tượng Phật. Vì sao phải thờ phụng? Ý nghĩa thờ phụng là đâu? Do nhờ vào tượng Phật để mở mang trí huệ quang minh của chính mình, đó gọi là “khai quang”. Nhờ vào tượng Phật để khơi mở ánh sáng Bát Nhã trong tự tánh của chính mình, chứ không phải là chúng ta khai quang cho tượng Phật. Chớ nên điên đảo chuyện này! Chúng ta vừa thấy [tượng] A Di Đà Phật, liền nghĩ A Di Đà Phật tượng trưng cho Vô Lượng Giác. Vừa trông thấy vị Phật ấy chúng ta liền giác chứ không mê, giác là ánh sáng! Cúng dường tượng Phật bèn suốt ngày từ sáng đến tối thời thời khắc khắc khai phát cho tâm địa của chính mình quang minh, ý nghĩa là như vậy đó. Do vậy, hôm thứ nhất thỉnh tượng Phật mới toanh để thờ về, thỉnh pháp sư đến thuyết pháp cho chúng ta, nói ý nghĩa của tượng Phật, công đức cúng dường, cách cúng dường đúng pháp là như thế nào thì chúng ta mới đạt được lợi ích chân thật do cúng dường, đó gọi là “khai quang”.
Hiện thời, mọi người đều làm sai, cứ ngỡ là khai quang tượng mới linh, linh ở chỗ nào? Tượng linh, còn quý vị chẳng linh. Tượng linh, nhưng bản thân quý vị mê hoặc, điên đảo, lầm lẫn rồi! Quán Tượng Niệm Phật thì phải là người rất có phước khí vì sao? Người ấy không cần làm việc, chẳng phải lo cơm áo, trong nhà tạc một tượng Phật, suốt ngày từ sáng đến tối nhìn tượng Phật, đó gọi là Quán Tượng. Phải nhờ vào tượng Phật bên ngoài để hiển lộ Tánh Đức của chính mình, đó gọi là Quán Tượng Niệm Phật. Thường xuyên nghĩ tới sự tu nhân chứng quả của Phật, chúng ta phải “thấy người hiền, mong được bằng”, đó là Quán Tượng Niệm Phật. Do vậy, Quán Tượng Niệm Phật không phải ai cũng có thể làm được. Nếu quý vị bôn ba vì cơm áo, lấy đâu ra thời gian để suốt ngày từ sáng đến tối quán tượng Phật?
Quán Tưởng Niệm Phật là mười sáu phép Quán trong Thập Lục Quán Kinh (còn gọi là Quán Vô Lượng Thọ Kinh), nhưng cách Quán này hết sức tinh tế, miên mật, cũng chẳng dễ dàng gì! Mười sáu thứ cảnh giới, càng về sau càng sâu hơn. Ví như phép Quán thứ nhất là quán mặt trời lặn giống như cái trống treo nhằm tưởng Tây Phương. Khi hoàng hôn, thấy thái dương đỏ rực lặn xuống núi, quán thành công sẽ ra sao? Bất luận khi nào, quý vị mở banh mắt hay nhắm tịt mắt, vầng mặt trời đỏ ấy luôn ở trước mặt, đó gọi là “quán thành” (quán tưởng thành tựu). Đấy chẳng phải là tưởng tượng, chẳng phải là ta tưởng tượng có vầng thái dương ở trước mặt, không phải vậy! Quý vị mở banh mắt hay nhắm tịt mắt, vầng thái dương vẫn ở ngay trước mắt thì phép Quán thành tựu. Phép Quán thứ nhất đã thành công, lại quán phép Quán thứ hai, “biển cả đóng thành băng”. Nếu phép Quán này thành công, bất luận ở chỗ nào, quý vị thấy mặt đất đều là đất lưu ly, phỉ thúy. Đó là gì vậy? Dùng sức quán biến đổi cảnh giới bên ngoài.
Cảnh chuyển theo tâm, nói đơn giản là toàn thể thế giới này biến thành thế giới Cực Lạc. Người bình thường cũng chẳng thể làm được chuyện này! Chú sớ kinh Thập Lục Quán, nêu bày lý luận của Tịnh Độ hết sức tinh vi, sâu xa, thấu triệt chính là bộ Thập Lục Quán Kinh Diệu Tông Sao. Tuy chúng ta chẳng thể nương theo phương pháp này để tu hành, vì thật sự cách tu này rất khó, nhưng nhất định phải hiểu những lý luận ấy do chúng sẽ có ích rất lớn cho việc trì danh niệm Phật của quý vị.
Thật Tướng Niệm Phật hiện thời chúng ta không làm được, vì sao? Phải đạt đến Lý nhất tâm bất loạn rồi mới có thể Thật Tướng niệm Phật. Trong bốn loại Niệm Phật, chúng ta có thể tu pháp Trì Danh. Đối với Quán Tưởng và Quán Tượng thì quán tượng chúng ta chẳng thể có thời gian để làm như vậy được, Quán Tưởng thì lúc nào, chỗ nào cũng đều có thể quán, nhưng chẳng thấy ai có thể quán thành tựu!
(Diễn) Nhi quán tượng, tắc tượng khứ, hoàn vô, nhân thành gián đoạn.
(演) 而觀像,則像去還無,因成間斷。
(Diễn: Nhưng quán tượng thì rời khỏi tượng, lại là không, cái nhân trở thành gián đoạn).
Quán tượng chẳng thể gián đoạn, trong mười hai thời phải đối trước tượng Phật thì công phu mới chẳng gián đoạn, mấy ai có phước báo lớn dường ấy?
(Diễn) Quán tưởng, tắc tâm thô, cảnh tế, diệu quán nan thành.
(演) 觀想,則心粗境細,妙觀難成。
(Diễn: Quán tưởng thì tâm thô, cảnh vi tế, phép Quán mầu nhiệm khó thành).
Thật đấy! Chẳng giả tí nào! Trong tâm chúng ta quá nhiều tạp niệm, vọng tưởng quá nhiều. Thập Lục Quán Kinh giảng những cảnh giới vi tế, quả thật chẳng dễ gì quán thành công.
(Diễn) Thật Tướng, tắc thượng trí nãi khắc thừa đương, trung hạ vị năng lãnh hà.
(演) 實相,則上智乃克承當,中下未能領荷。
(Diễn: Thật Tướng niệm Phật thì bậc thượng trí mới hòng tiếp nhận, căn cơ trung hạ chưa thể nhận lãnh, gánh vác).
Sau khi đắc Lý nhất tâm bất loạn, niệm Phật mới là Thật Tướng Niệm Phật, chứ Sự nhất tâm bất loạn sẽ chẳng thể!
(Diễn) Duy thử trì danh, chí giản, chí dị, phổ nhiếp chư căn, hạc xung, bằng cử, ký sậu, long phi, thù ân trung chi thù ân dã.
(演) 唯此持名,至簡至易,普攝諸根,鶴沖鵬舉,驥驟龍飛,殊恩中之殊恩也。
(Diễn: Chỉ có pháp trì danh này, đơn giản nhất, dễ dàng nhất, nhiếp khắp các căn, hạc tung mình, đại bàng sải cánh, ngựa Ký phi nước đại, rồng bay lên, là ân thù thắng nhất trong các ân thù thắng).
Mấy câu này tán thán công đức của Trì Danh Niệm Phật trong bốn thứ Niệm Phật. Trong pháp môn Niệm Phật, pháp môn này đơn giản dễ dàng, mà thành tựu thù thắng chẳng thể nghĩ bàn! Mấy loại Niệm Phật kể trên nhiếp thọ hết thảy chúng sanh khác nhau. Ví như Thật Tướng Niệm Phật chỉ có bậc thượng trí lợi căn mới hành được, kẻ căn tánh trung hạ chẳng có phần. Quán Tưởng cũng phải từ trung căn trở lên, kẻ hạ căn không thể làm được. Trì Danh thích hợp khắp ba căn, thâu tóm lợi căn lẫn độn căn, có thể nói là hết thảy chúng sanh không ai chẳng thể tu, chỉ cần chịu tu, không một ai chẳng thành tựu. Cổ nhân bảo: “Vạn người tu, vạn người về” chính là nói về pháp môn Trì Danh Niệm Phật. “Phổ nhiếp chư căn”: Phổ biến nhiếp thọ hết thảy chúng sanh.
Hai câu tiếp theo đó là tỷ dụ sự thành tựu của người ấy, giống như bạch hạc, như chim đại bàng. Đấy đều là những loài chim bay cao nhất. Câu tiếp đó tỷ dụ rồng và ngựa, chạy nhanh, bay cao, đều nhằm hình dung pháp môn Niệm Phật thù thắng nhất, thành tựu chẳng thể nghĩ bàn nhất. Trong mấy cách Niệm Phật này, Trì Danh thành tựu thù thắng nhất. Nói thật ra, thù thắng hơn Quán Tưởng rất nhiều. Quán Tưởng rất khó thành tựu, quán thành công khá khó khăn. Quý vị phải hiểu: Khi đã quán thành công rồi, nếu quý vị nâng cao cảnh giới để đến cõi Thật Báo Trang Nghiêm thì phải bỏ tướng đã quán thành công ấy. Vì sao? Tướng ấy là tướng hư vọng. Phàm những gì có tướng đều là hư vọng. Quán Tượng là chấp tướng. Quán Tưởng lẫn Quán Tượng đều là chấp tướng, vẫn phải bỏ sự chấp trước ấy. Chẳng dễ gì quán thành tựu, quán thành tựu khó khăn, bỏ đi cũng khó, vì ấn tượng quá sâu nên bỏ ấn tượng ấy cũng khó. Bỏ danh tự dễ dàng, vì danh tự là giả danh, đổi tên cũng được! Do vậy, đến cuối cùng, bỏ đi danh tự ấy dễ dàng hơn bỏ Quán Tưởng, Quán Tượng nhiều lắm! Vì thế, trong bốn phương pháp Niệm Phật, chỉ có Trì Danh là gần với Thật Tướng nhất, đến cuối cùng nhất định phải cầu Thật Tướng thì đấy mới là Lý nhất tâm bất loạn. Do đây, có thể biết: Từ phương pháp Trì Danh đến Thật Tướng Niệm Phật là con đường tắt. Vì vậy mới có hai câu tỷ dụ ấy.
Đoạn thứ nhất là Tán Kinh, được chia thành hai đoạn lớn, trước hết là Tổng Tán, sau đó Biệt Tán. Trong phần Biệt Tán có bốn đoạn nhỏ. Đoạn thứ nhất nói rõ vì sao Thích Ca Mâu Ni Phật phải nói kinh này, giới thiệu ý nghĩa đến đây đã xong. Tiếp theo đây là tiểu đoạn thứ hai, tựa đề của khoa này là…
Nhị, thống luận Tịnh Độ công đức.
(Tự) Chỉ tứ thập bát chi nguyện môn, khai nhất thập lục chi Quán pháp, nguyện nguyện quy hồ phổ độ, Quán Quán tông hồ diệu tâm.
二, 統論淨土功德。
(序) 指四十八之願門,開一十六之觀法,願願歸乎普
度,觀觀宗乎妙心。
(Hai, luận chung về công đức của Tịnh Độ.
Tựa: Chỉ bày bốn mươi tám nguyện môn, mở ra mười sáu phép Quán, nguyện nào cũng quy về phổ độ, phép Quán nào cũng đề cao diệu tâm).
Đoạn này chỉ có bốn câu. Ý nghĩa được bao hàm trong bốn câu hết sức rộng lớn.
(Diễn) Chỉ tứ thập bát nguyện môn giả.
(演) 指四十八願門者。
(Diễn: “Chỉ bày bốn mươi tám nguyện môn”…)
Câu này nói về điều gì? Nói đến A Di Đà Phật khi còn tu nhân, đây là chuyện [được chép] trong kinh Vô Lượng Thọ, tức chuyện tu hành của A Di Đà Phật khi còn tu nhân.
(Diễn) Pháp Tạng tỳ-kheo, ư Thế Tự Tại Vương Phật sở, phát tứ thập bát nguyện.
(演) 法藏比丘,於世自在王佛所,發四十八願。
(Diễn: Tỳ-kheo Pháp Tạng ở chỗ Thế Tự Tại Vương Phật, phát ra bốn mươi tám nguyện).
Đây là nói lúc A Di Đà Phật xuất gia lần đầu tiên, Ngài phát tâm học Phật với Thế Tự Tại Vương Phật, mang thân phận quốc vương, vứt bỏ ngôi vua, phát tâm xuất gia. Do đây, có thể biết: Xuất gia còn thù thắng hơn làm quốc vương, Ngài thật sự hiểu công đức và lợi ích xuất gia. Đấy là thật sự phát tâm. Thuở ấy, khi Ngài xuất gia đã phát ra bốn mươi tám nguyện; nguyên văn của bốn mươi tám lời nguyện được chép trong kinh Vô Lượng Thọ.
(Diễn) Phật nãi nhất nhất niêm xuất, chỉ thị chúng sanh, cố viết “chỉ tứ thập bát” giả.
(演) 佛乃一一拈出,指示眾生,故曰指四十八者。
(Diễn: Đức Phật nêu ra từng điều chỉ dạy chúng sanh, nên nói “chỉ bày bốn mươi tám nguyện”).
Chữ “Phật” chỉ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài đã nêu ra từng điều nhằm chỉ dạy chúng ta. Không riêng Phật Thích Ca là như vậy, mà hết thảy chư Phật trong mười phương thế giới, không vị nào chẳng như thế. Vì sao chúng ta biết? Qua kinh A Di Đà, chúng ta thấy mười phương chư Phật khác miệng cùng lời, không vị nào chẳng tán thán A Di Đà Phật, các Ngài đã tán thán A Di Đà Phật thì cũng nhất định khuyên chúng sanh trong thế giới của các Ngài cầu sanh Tịnh Độ. Đấy là đạo lý đương nhiên.
(Diễn) Như quốc trung vô tam ác đạo nguyện, nãi chí tối hậu tức đắc chư Nhẫn cứu cánh nguyện.
(演) 如國中無三惡道願,乃至最後即得諸忍究竟願。
(Diễn: Như nguyện “trong cõi nước không có ba ác đạo” cho đến nguyện cuối cùng là “liền rốt ráo đắc các Nhẫn”).
Đây là nêu đại lược: Nguyện thứ nhất, nếu Ngài thành Phật, trong cõi nước của Ngài không có ba ác đạo. Vì sao không có ba ác đạo? Phàm ai sanh về nước Ngài, quyết định chẳng tạo nghiệp duyên ba ác đạo. Học Phật, đặc biệt là người xuất gia, theo kinh điển, truyện ký và bút ký của cổ nhân qua các đời ghi chép, người xuất gia đọa lạc quá nhiều, đọa vào địa ngục, đọa trong ác đạo, vì duyên đọa lạc quá nhiều, đọa lạc hết sức dễ dàng! Trong Thích Môn Pháp Giới Lục[67] ghi chép rất nhiều, đấy chẳng qua là những trường hợp rành rành. Cuốn sách này do đệ tử của Ấn Quang đại sư là Quách cư sĩ biên soạn. Ông ta trích lục từ kinh, luận và truyện ký, mỗi chuyện đều chân thật. Chúng ta đọc xong, điều lành phải bắt chước; điều ác phải nỗ lực phản tỉnh kiểm điểm, sửa lỗi, đổi mới. Chẳng đọc cuốn sách này, nói thật ra, chính bản thân chúng ta chẳng biết chính mình có bao nhiêu tội lỗi, nói chung là cứ ngỡ điều gì ta cũng làm đúng. Chẳng soi gương, chẳng biết mặt mình bẩn thỉu. Thích Môn Pháp Giới Lục là một tấm gương, phải đọc hằng ngày nhằm kiểm điểm tâm hạnh của chính mình, hòng biết chính mình có đọa lạc hay không.
Người thành công, trong mười hai thời tâm luôn nghĩ về đạo. Pháp môn này tuy là đạo dễ hành, trong mười hai thời, Phật hiệu chẳng thể gián đoạn, trong mười hai thời chớ nên khởi một vọng niệm nào, đấy gọi là “công phu thành phiến”, mới nắm chắc điều kiện vãng sanh. Có điều kiện tốt đẹp dường ấy, đương nhiên chẳng đọa lạc trong ba ác đạo. Nói cách khác, chính chúng ta phải luôn ghi nhớ, chính chúng ta phải biết: Nhân duyên ác đạo chẳng đoạn, dẫu niệm Phật tốt đẹp đến mấy cũng chẳng thể vãng sanh. Sức mạnh của ác đạo nơi quý vị quá mạnh, chẳng tương ứng với Tây Phương Cực Lạc thế giới, quả báo là trong ngạ quỷ đạo. Trong thế giới Cực Lạc không có ngạ quỷ đạo, quý vị không có cách nào [vãng sanh Cực Lạc]. Quý vị phải hiểu rõ điều này, tối thiểu là quý vị phải có đủ tư cách sanh vào hai đường trời người thì mới đến được Tây Phương. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới có nhân đạo (loài người), ta hội đủ điều kiện sanh trong nhân đạo thì mới có tư cách vãng sanh. Tam ác đạo là gì? Tham, sân, si, mạn. Trong tâm chúng ta có những thứ ấy hay không? Nếu còn có tham, sân, si, mạn, sẽ là chướng ngại. Người xuất gia tạo tội nghiệp càng nhiều, càng nghiêm trọng, chẳng thể tu học đúng lý, đúng pháp sẽ là tội nghiệp, là chướng ngại. Cổ đức nói rất hay: “Thí chủ nhất lạp mễ, đại như Tu Di sơn, kim sanh bất liễu đạo, phi mao đới giác hoàn” (Một hạt gạo thí chủ, to như núi Tu Di, đời này chẳng liễu đạo, mang lông, đội sừng đền). Chúng ta phải kiêng sợ!
Giống như A Di Đà Phật trong lúc tu nhân đã phát ra đại nguyện như vậy, quả thật là hết sức khó có. Tuy Phật Phật đạo đồng, nhưng trong khi tu nhân, mỗi vị Phật đã phát nguyện hoàn toàn chẳng giống nhau. “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” là lời nguyện chung, cách độ như thế nào là lời nguyện riêng. Bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật là nguyện độ chúng sanh đặc biệt, biệt nguyện ấy không giống với những vị Phật khác!
(Diễn) Khai nhất thập lục Quán pháp giả, nhân Vy Đề khải thỉnh, nãi vị tuyên thuyết, kim nhật thỉ sáng, cố viết “khai”. Nhất thập lục giả, thỉ tự lạc nhật huyền cổ quán, chung chí tam bối vãng sanh quán. Quán viết Pháp giả, các hữu pháp tắc tu bất nhất cố.
(演) 開一十六觀法者,因韋提啟請,乃為宣說,今日始創,故曰開。一十六者,始自落日懸鼓觀,終至三輩往生觀。觀曰法者,各有法則修不一故。
(Diễn: “Mở ra mười sáu phép Quán” là do bà Vy Đề Hy khải thỉnh, đức Phật bèn vì bà ta tuyên thuyết, nay mới bắt đầu thành lập nên gọi là “khai”. Mười sáu phép Quán bắt đầu bằng phép Quán mặt trời lặn giống như cái trống treo cho đến phép Quán cuối cùng là ba bậc vãng sanh. Quán được gọi là Pháp vì mỗi môn Quán đều có pháp tắc tu trì khác nhau).
Giới thiệu giản lược Thập Lục Quán Kinh. Nhân duyên của Thập Lục Quán Kinh cũng hết sức đặc biệt, bà Vy Đề Hy thỉnh cầu đức Phật, đức Phật vì bà ta thị hiện các thứ trang nghiêm nơi Tây Phương Tịnh Độ. Bà ta thấy rồi, cầu Thích Ca Mâu Ni Phật dạy bà ta cách vãng sanh cõi Phật như thế nào. Do bản thân bà ta có thân phận là một vị hoàng hậu, sanh trong gia đình phú quý, thông minh, lợi căn, đức Phật dạy bà ta phương pháp này. Do vậy, đối với bà ta, phương pháp này không khó! Trong kinh ấy có tất cả mười sáu cảnh giới, “thỉ tự lạc nhật huyền cổ” (bắt đầu bằng [phép Quán] mặt trời lặn giống như cái trống treo), đây là phép Quán thứ nhất, quán mặt trời lặn lúc hoàng hôn, thái dương đỏ rực giống như cái trống treo giữa trời. Bắt đầu quán từ chỗ này, những cảnh giới [trong các phép Quán] sau càng vi tế, thâm mật hơn cảnh giới trước, đến phép Quán thứ mười sáu là ba bậc thượng, trung, hạ vãng sanh, cảnh giới ấy hết sức trang nghiêm, rất chẳng dễ quán cho lắm.
Mỗi một phép Quán trong ấy đều có phương pháp hết sức tinh tế, hàng hành nhân sơ cơ quyết chẳng thể tu tập được. Do vậy, cách tu khác nhau.
(Diễn) Nguyện nguyện quy hồ phổ độ giả, như Tứ Giáo, Tứ Hoằng các hữu tứ chủng.
(演) 願願歸乎普度者,如四教四弘各有四種。
(Diễn: Nguyện nguyện quy về phổ độ là như Tứ Hoằng Thệ Nguyện trong Tứ Giáo mỗi nguyện đều có bốn loại).
Tứ Hoằng Thệ Nguyện thì mỗi giáo trong Tứ Giáo Tạng, Thông, Biệt, Viên đều có. Tuy tên gọi của Tứ Hoằng Thệ Nguyện trong Tứ Giáo giống nhau, nhưng cảnh giới khác nhau.
(Diễn) Kim tắc thuần thị chúng sanh vô biên thệ nguyện độ dã.
(演) 今則純是眾生無邊誓願度也。
(Diễn: Nay những nguyện của A Di Đà Phật thuần là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”).
Bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật đều là pháp môn đặc biệt để độ chúng sanh, Ngài nói tường tận như thế đó!
(Diễn) Phổ vị thụ cùng hoành biến.
(演) 普謂豎窮橫遍。
(Diễn: Chữ “Phổ”có ý nói: Tột cùng theo chiều dọc, trọn khắp theo chiều ngang).
Theo chiều dọc tột cùng ba đời, theo chiều ngang trọn khắp mười phương.
(Diễn) Quy giả, vị tuy hữu tứ thập bát chủng bất đồng.
(演) 歸者,謂雖有四十八種不同。
(Diễn: “Quy” là tuy có bốn mươi tám thứ khác nhau).
Bốn mươi tám nguyện đều là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ” trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện, từ nguyện này khai triển thành bốn mươi tám phương pháp khác nhau để độ chúng sanh.
(Diễn) Nhi yếu kỳ sở quy, tắc vô phi phổ độ dã.
(演) 而要其所歸,則無非普度也。
(Diễn: Nhưng quy kết về tánh chất trọng yếu của từng nguyện, không nguyện nào chẳng nhằm phổ độ).
Nguyện nào cũng nhằm giúp đỡ và thành tựu chúng sanh, khiến cho hết thảy chúng sanh thành tựu Vô Thượng Bồ Đề trong một đời. Chữ “nguyện nguyện” [trong câu “nguyện nguyện quy hồ phổ độ giả”] chỉ bốn mươi tám nguyện, mỗi một nguyện trong bốn mươi tám nguyện đều nhằm phổ độ chúng sanh, từ đây chúng ta có thể hiểu được lòng đại từ đại bi của A Di Đà Phật!
(Diễn) Tông hồ diệu tâm giả, tông do chủ dã, vị tuy hữu nhất thập lục chủng bất đồng, nhi cứu kỳ sở chủ, tắc vô phi diệu tâm dã.
(演) 宗乎妙心者,宗猶主也,謂雖有一十六種不同,而究其所主,則無非妙心也。
(Diễn: “Đề cao diệu tâm”: “Tông” giống như “chủ”, ý nói: Tuy có mười sáu phép Quán khác nhau, nhưng xét đến chỗ chủ yếu thì không phép nào chẳng nhằm lấy diệu tâm [làm chủ]).
Mười sáu phép Quán, phép Quán nào cũng đề cao diệu tâm. Tâm được gọi là Diệu là Diệu ở chỗ nào? Tiếp đó, sách viết:
(Diễn) Diệu tâm giả, vị thập lục Quán trung, nhược y, nhược chánh, giai dĩ pháp giới tâm, quán pháp giới cảnh, sanh ư pháp giới y chánh sắc tâm dã.
(演) 妙心者,謂十六觀中,若依若正,皆以法界心,觀法界境,生於法界依正色心也。
(Diễn: Diệu tâm là nói trong mười sáu phép Quán, dù y báo hay chánh báo đều dùng pháp giới tâm để quán pháp giới cảnh, sanh ra y báo, chánh báo, sắc và tâm trong pháp giới).
Đây là tông chỉ của Thập Lục Quán Kinh, là hết sức gần với Pháp Giới Quán trong kinh Hoa Nghiêm. Trong phần trước, chúng ta nói đến “tế tâm” (tâm vi tế), trên thực tế, nó là Định cảnh, tâm thanh tịnh mới có thể thành tựu diệu quán. Y báo, chánh báo trang nghiêm hiện tiền không gì chẳng phải là Nhất Chân pháp giới. “Pháp giới tâm” là chân tâm; nếu có phân biệt, chấp trước là không được rồi! “Pháp giới cảnh” là thật cảnh. Do đây có thể biết: Dùng mười sáu phép Quán để giúp đỡ và thành tựu quý vị sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Cõi Thật Báo Trang Nghiêm và Nhất Chân pháp giới được nói trong kinh Hoa Nghiêm là cùng một pháp giới.
Câu này nói rõ: A Di Đà Phật độ chúng sanh với mục tiêu dạy quý vị thành Phật, dạy quý vị nhập Nhất Chân pháp giới. Câu trước đó nói về bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng nhằm độ chúng sanh; bốn câu này quả thật đã gồm trọn công đức của Tịnh Độ. Một đằng là Nguyện, một đằng là Hạnh. Nguyện và Hạnh đều đạt đến tột cùng.
(Sớ) Thượng tán Tịnh Độ pháp môn chi thắng, kim ư Tịnh Độ, tiên xuất dư kinh, nhiên hậu giảo lượng thử kinh cánh vi thù thắng.
(疏) 上讚淨土法門之勝。今於淨土,先出餘經,然後較量此經更為殊勝。
(Sớ: Trên đây đã khen ngợi sự thù thắng của pháp môn Tịnh Độ, nay đối với pháp môn Tịnh Độ, trước hết nêu ra các kinh khác, rồi mới so sánh để thấy kinh [A Di Đà] này càng thù thắng hơn nữa).
Ý nghĩa rất sâu, phương pháp rất xảo diệu, vì bốn mươi tám nguyện được giảng trong kinh Vô Lượng Thọ, mười sáu phép Quán được giảng trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, rồi mới hiển thị phép Trì Danh Niệm Phật của kinh A Di Đà, quý vị thấy rất tuyệt! Đây là lấy ba kinh Tịnh Độ để so sánh giữa ba kinh với nhau, “nhiên hậu giảo lượng thử kinh cánh vi thù thắng” (rồi mới so sánh để thấy kinh này càng thù thắng hơn nữa). “Thử kinh” là kinh A Di Đà, càng thù thắng hơn, so với hai thứ trước (Quán Kinh và kinh Vô Lượng Thọ) vẫn thù thắng hơn.
(Sớ) Nguyện môn, Quán pháp cụ tại nhị kinh.
(疏) 願門,觀法,具在二經。
(Sớ: Bốn mươi tám lời nguyện và Quán pháp được chép đầy đủ trong hai kinh kia).
“Nhị kinh” là Vô Lượng Thọ Kinh và Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh. Tịnh Độ có ba kinh, như vậy là đoạn này nói đến hai bộ kinh kia.
(Sớ) Ngôn tùng sơ nguyện dĩ chí nguyện chung, vô phi tận nhiếp chúng sanh đồng sanh Tịnh Độ.
(疏) 言從初願以至願終,無非盡攝眾生同生淨土。
(Sớ: Ý nói: Từ nguyện đầu tiên cho đến nguyện cuối cùng, không nguyện nào chẳng nhiếp trọn các chúng sanh cùng sanh về Tịnh Độ).
Đây là tông chỉ của kinh Vô Lượng Thọ.
(Sớ) Tự sơ quán dĩ chí quán mạt, tất thị Không, Giả, Trung Đạo, viên cực nhất tâm. Diêu thử nhất tâm, xuất sanh đại nguyện nhi thành Chánh Giác.
(疏) 自初觀以至觀末,悉是空假中道圓極一心,繇此一心,出生大願而成正覺。
(Sớ: Từ phép Quán đầu tiên cho đến phép Quán cuối cùng, đều là Không, Giả, Trung Đạo, nhất tâm viên mãn đến tột bậc. Do nhất tâm này, xuất sanh đại nguyện để thành Chánh Giác).
Đây là tông chỉ của Thập Lục Quán Kinh.
(Sớ) Tức dĩ bổn nguyện hoàn độ chúng sanh, nhi quy nhất tâm Tịnh Độ pháp môn. Nhị kinh đại giảo, ý cái như thử.
(疏) 即以本願還度眾生,而歸一心淨土法門。二經大較,意蓋如此。
(Sớ: Tức là do bổn nguyện, trở lại độ chúng sanh để họ nhất tâm hướng về pháp môn Tịnh Độ. So sánh đại lược hai kinh thì ý nghĩa vốn là như vậy).
“Đại” (大) là đại lược. So sánh đại khái thì ý nghĩa là như vậy đó. Đây là nói đến hai bộ kinh kia trong ba kinh Tịnh Độ, “tất thị Không, Giả, Trung Đạo, viên cực nhất tâm” (đều là Không, Giả, Trung Đạo nhất tâm viên mãn đến tột bậc). Đạo lý này có thể giúp chúng ta trì danh niệm Phật.
(Diễn) Tất thị Không, Giả, Trung Đạo viên cực nhất tâm giả,
Quán pháp hữu nhị, hữu Sự, hữu Lý. Sự Quán giả, thả như nhật quán, hành nhân diện Tây chánh tọa.
(演) 悉是空假中道圓極一心者,觀法有二,有事有理。事觀者,且如日觀,行人面西正坐。
(Diễn: “Đều là Không, Giả, Trung Đạo nhất tâm viên mãn đến tột bậc”: Quán pháp có hai loại là Sự và Lý. Sự Quán là như quán mặt trời, hành nhân quay mặt về phía Tây).
“Hành nhân” là người tu hành, khi mặt trời lặn xuống sau núi, quay mặt nhìn về phía Tây.
(Diễn) Quán nhật dục lạc, trạng như huyền cổ, bế mục, khai mục, nhật tướng hiện tiền, danh vi Sự Quán.
(演) 觀日欲落,狀如懸鼓,閉目開目,日相現前,名為事觀。
(Diễn: Quán mặt trời sắp lặn, có hình dạng như cái trống treo, nhắm mắt, mở mắt, tướng mặt trời hiện tiền, gọi là Sự Quán).
Thật sự quán thành công chuyện này. Tôi vừa mới thưa cùng quý vị. Sự quán thành công thì chẳng có gì hy hữu, lạ lùng! Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng, quý vị phải hiểu đạo lý này. Hôm nay, có một người học trò hỏi tôi: “Trước đây không lâu, con gặp một vị lạt-ma Tây Tạng có thần thông, vừa gặp mặt liền biết rất nhiều chuyện của con, chuyện này là như thế nào?” Tôi bảo anh ta: “Ông ta có tiểu thần thông, biết một chút những chuyện nhỏ nhặt, chứ không có đại thần thông!” Nhưng người trong thế gian ham chuộng chuyện quái lạ, cho rằng ai có một chút thần thông nhỏ nhoi bèn là phi phàm, người ấy là siêu nhân rồi! Kinh Lăng Nghiêm có nói trong thời kỳ Mạt Pháp những hiện tượng như vậy rất nhiều, yêu ma quỷ quái dựa vào thân người ta, người ấy (tức người bị yêu ma dựa vào) bèn có thần thông. Sau khi yêu ma quỷ quái rời đi, kẻ ấy mất sạch năng lực. Bởi lẽ, thứ năng lực mà kẻ ấy có chẳng phải là năng lực chính mình vốn có, mà do tinh linh quỷ thần dựa vào thân. Kẻ ấy đến khắp nơi trong thế gian bịa đặt, gạt gẫm, tạo vô lượng vô biên tội nghiệp; tạo tội nghiệp như thế nào, chính kẻ ấy chẳng biết. Chính kẻ ấy mê hoặc, điên đảo, tạo tội nghiệp dường ấy, mà vẫn ngỡ mình đã tạo rất nhiều công đức, làm nhiều chuyện tốt, oan uổng quá! Đến ngày nào đó, chạm mặt vua Diêm La thẩm vấn, vua Diêm La chỉ ra từng chuyện một, kẻ ấy mới hiểu chính mình đã phạm sai lầm, đến khi ấy, có hối cũng chẳng kịp.
Phật dạy cho chúng ta chánh pháp, giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ không nhiễm, chẳng dạy chúng ta tin tưởng những kẻ có thần thông. Đức Phật dùng chánh pháp giáo hóa chúng sanh, trọn chẳng đem những thứ kỳ quái mê hoặc chúng sanh. Đức Phật có năng lực ấy, nhưng tuyệt đối chẳng dùng. Bồ Tát, A La Hán đều có năng lực ấy, đức Phật vẫn dùng chánh pháp giáo hóa chúng sanh, nhất định chẳng đề xướng những thứ ấy. Do vậy, [người nào] thị hiện một chút thần thông mà đã coi người ấy là phi phàm, gạt chánh pháp qua một bên, chẳng đếm xỉa tới, đó gọi là “tà sư thuyết pháp như cát sông Hằng”. Đấy là điềm báo sẽ gặp kiếp nạn! Trong Tả Truyện, cổ nhân Trung Quốc có nói: “Quốc gia tương hưng, thính ư dân”, [tức là] nghe theo ý kiến của bá tánh để cai trị, quốc gia ấy sẽ hưng vượng. “Quốc gia tương vong, thính ư thần”, nghĩa là suốt ngày từ sáng đến tối hỏi ý thần thánh, quốc gia ấy sắp diệt vong. Hai câu này của sách Tả Truyện quả thật đã được chứng thực trong lịch sử Trung Quốc. Khi một quốc gia nào đó hưng vượng thì đều là do con người mưu tính, tập hợp ý kiến đại chúng: Chúng ta phải làm theo cách như vậy! Đời Thanh, Từ Hy Thái Hậu bất luận chuyện lớn hay nhỏ đều cầu cơ, xin thần giáng bút, nghe theo lệnh thần, bà ta vong quốc! Chúng ta nghĩ đến tương lai, phải dựa vào Lý Tánh của chính mình để quyết định, gắng sức nỗ lực thì mới có tương lai, chứ quý vị suốt ngày từ sáng đến tối dựa dẫm thần thánh, tiền đồ của quý vị sẽ là một bầu hắc ám. Quý vị dựa dẫm vị thần ấy, ngày nào đó, thần bỏ đi, hết thảy mọi chuyện xong luôn! Gia đình quý vị muốn hưng vượng thì người trong nhà hòa thuận, cả nhà hợp tác, cùng nỗ lực tạo dựng cơ nghiệp, tương lai của gia đình quý vị mới sáng sủa. Cả nhà quý vị đều nghe lệnh quỷ thần, nhà ấy chẳng thể nào không diệt vong, làm sao không suy sụp cho được? Chớ nên nghe theo lời thần!
Phật dạy chúng ta tin vào chính mình, chứ không dạy chúng ta nghe lệnh Ngài. Phật dạy chúng ta tự giác. Do có đồng học tạc tượng Phật, tôi đặc biệt nêu lên ý nghĩa khai quang tượng Phật, đừng hiểu lầm. Phật dạy con người tự giác, dạy con người tự tin, chỗ vĩ đại của Phật khác với các thần giáo chính là ở chỗ này. Bất cứ tôn giáo nào [cũng đều phải là] “các ngươi đều phải nghe theo lệnh ta, quyết định chớ nên trái nghịch ta”. Phật chẳng vậy, Phật dạy chúng ta nghe lệnh của chính mình, quý vị phải tự giác. Phật không có cách nào độ quý vị, Phật chẳng độ chúng sanh; nói rõ ràng, minh bạch như thế. Phật chỉ làm Tăng Thượng Duyên cho chúng ta, chính quý vị tự độ. Lục Tổ nói rất hay: “Phật pháp là tự ngộ, tự tu, tự chứng, tự độ”. Trong sách Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã giảng về tín tâm, món thứ nhất là Tín Tự (tin vào chính mình). Đây là điều kiện trọng yếu nhất, phải tin tưởng chính mình; kế đó, điều thứ hai là Tín Tha (tin vào người khác), chữ Tha chỉ những bậc đã từng trải, những người ấy có thể thành Phật thì ta cũng có thể thành Phật. Họ có thể khai ngộ, ta cũng có thể khai ngộ, phải tin tưởng điều này. Tin tưởng con đường do người từng trải đã đi, đáng cho chúng ta tham khảo, bắt chước, đấy là Tín Tha. Do vậy, đệ tử Phật chẳng nương dựa, ỷ lại bất cứ ai, mà hãy nương cậy chính mình, Phật chẳng dạy chúng ta dựa dẫm Ngài. Do vậy, [người tu học] Phật pháp là một “vô y đạo nhân” (người tu đạo không dựa dẫm) độc lập, tự chủ. Đấy là chỗ khác biệt giữa Phật pháp và tất cả các tôn giáo. Phật dạy chúng ta phải tin vào chính mình, kiến lập tín tâm nơi chính mình thì mới có thể thành tựu. Do vậy, Sự Quán thật sự có thể thành tựu, trong Duy Thức gọi đó là “cảnh chuyển theo tâm”. Mười sáu phép Sự Quán này đều dựa trên lý luận này để kiến lập.
(Diễn) Lý Quán giả hựu nhị.
(演) 理觀者又二。
(Diễn: Lý Quán lại có hai loại).
Lý Quán hết sức trọng yếu, đối với pháp môn Niệm Phật, chúng ta phải nắm được [Lý Quán]. Trong Thập Lục Quán Kinh, nắm được Lý Quán sẽ có thể giúp cho chúng ta nhanh chóng thành tựu công phu thành phiến và nhất tâm bất loạn, nó có thể trợ giúp! Thế nhưng quý vị phải nhớ: Dùng lý luận, chứ không dùng phương pháp, vận dụng lý luận vào việc trì danh niệm Phật, phải hiểu ý nghĩa này!
(Diễn) Thứ Đệ Tam Quán giả.
(演) 次第三觀者。
(Diễn: Ba phép quán [Không, Giả, Trung] theo thứ tự là…)
Trong Lý Quán, trước hết nói tới Thứ Đệ Tam Quán, ở đây nêu lên một ví dụ, thế nào là Thứ Đệ Tam Quán?
(Diễn) Tiên quán thử nhật, do tưởng sở thành, toàn thể tánh Không, vô hữu tự tánh vi Không Quán.
(演) 先觀此日,由想所成,全體性空,無有自性為空觀。
(Diễn: Trước hết quán mặt trời do tưởng mà thành, toàn thể tánh là Không, chẳng có tự tánh, đó là Không Quán).
Sau khi quý vị quán thành công, mở banh mắt, mặt trời ở ngay trước mặt; nhắm mắt, mặt trời vẫn ở ngay trước mặt quý vị. Đúng là ở ngay trước mặt, quả thật có hiện tượng ấy. Hiện tượng ấy do đâu mà có? Do chính quý vị tưởng thành, trọn chẳng phải là vầng mặt trời thật. Thật sự có hình tướng ấy, hình tướng ấy do quý vị tưởng thành. Tưởng niệm quá sâu, kết thành tướng ấy. Nếu quý vị hiểu rõ đạo lý này, mới thật sự thấu hiểu ba tế tướng trong A Lại Da Thức. Tướng Phần do đâu mà có? Tướng Phần từ Kiến Phần biến hiện ra, Kiến Phần là quán tưởng, tưởng ấy thật sự có thể biến thành Tướng Phần. Do vậy, Tướng là giả, Tướng do Kiến Phần biến hiện ra. Từ đây, chúng ta có thể thật sự ngộ nhập ba tế tướng đã nói trong Duy Thức, hiểu Tánh và Tướng có cùng một nguồn, Tánh và Tướng bất nhị, đối với điều này càng hiểu rõ ràng, minh bạch hơn, mà cũng thật sự giác ngộ những câu “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”, “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng” (hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng; phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng) như kinh Kim Cang đã nói. Vì sao? Chúng không có tự tánh, chẳng có tự thể. Đấy là Không Quán. Nói theo mặt Lý, đấy là Không Quán. Nói theo mặt Sự, quả thật có sự tướng tồn tại.
(Diễn) Phục hữu quán tưởng nhân duyên, thành thử nhật tướng, tắc bất hoại giả tướng vi Giả Quán.
(演) 復有觀想因緣,成此日相,則不壞假相為假觀。
(Diễn: Lại có nhân duyên quán tưởng tạo thành tướng mặt trời ấy, nên chẳng hoại giả tướng, đó là Giả Quán).
Giả tướng ấy có tồn tại hay không? Tồn tại! Giả tướng thành tựu như thế nào? Chiếu theo phương pháp đức Phật đã nói. Chiếu theo phương pháp ấy để quán tưởng khi giả tướng ấy biến hiện, [sẽ thấy] quả thật có giả tướng tồn tại, nhưng bản thể của giả tướng ấy chính là Không.
(Diễn) Dĩ thử nhị Quán vi phương tiện, thứ quán Giả xứ toàn
Không, Không xứ toàn Giả, phi Không, phi Giả vi Trung Quán, thị nãi
tiên Không, thứ Giả, hậu Trung, vi Thứ Đệ Tam Quán dã.
(演) 以此二觀為方便,次觀假處全空,空處全假,非
空非假為中觀。是乃先空次假後中,為次第三觀也。
(Diễn: Lấy hai phép Quán ấy làm phương tiện, kế đó, quán nơi Giả toàn là Không, quán nơi Không toàn là Giả, chẳng phải Không chẳng phải Giả là Trung Quán. Đấy chính là: Trước hết là Không, kế đến là Giả, cuối cùng là Trung, đó là Thứ Đệ Tam Quán).
Nêu ra một thí dụ. Nếu quý vị biết cách sử dụng thì trong hiện thời, bất luận mắt quý vị thấy gì, tai nghe tiếng gì, thân tiếp xúc gì, cho đến tâm suy nghĩ gì, đều có thể dùng phương thức này, dùng ví dụ này, sẽ thấy thấu suốt chân tướng của sự thực trước mắt. Đấy là dùng phương pháp Thứ Đệ Tam Quán để nhìn thấu suốt muôn hình tượng. Sau khi thấy thấu suốt, tướng còn có hay không? Có chứ! Có còn chấp trước hay không? Chẳng chấp trước! Trong tâm quý vị, hết thảy muôn hình tượng đều thanh tịnh, há chẳng phải là giúp cho quý vị đạt nhất tâm bất loạn ư? Từ bậc trung căn trở lên mới sử dụng phương pháp này được. Nhất Tâm Tam Quán còn khó hơn nhiều. Quả thật chúng ta đều có thể vận dụng Thứ Đệ Tam Quán.
(Diễn) Nhất Tâm Tam Quán giả, sở quán chi cảnh, tức Chân, tức Tục, tức Trung.
(演) 一心三觀者,所觀之境,即真即俗即中。
(Diễn: Nhất Tâm Tam Quán là cảnh được quán chính là Chân, là Tục, là Trung).
“Tục” là Giả.
(Diễn) Năng quán chi quán, tức Không, tức Giả, tức Trung.
(演) 能觀之觀,即空即假即中。
(Diễn: Sự quán chiếu của cái tâm quán tưởng chính là Không, là Giả, là Trung).
Một mà ba, ba nhưng một, đồng thời, chẳng theo thứ tự.
(Diễn) Dĩ Nhất Tâm Tam Quán, quán Tam Đế nhất cảnh, nhi
cảnh ngoại vô quán, quán ngoại vô cảnh, cảnh quán song vong, duy nhất diệu tâm.
(演) 以一心三觀,觀三諦一境,而境外無觀,觀外無境,境觀雙忘,唯一妙心。
(Diễn: Dùng Nhất Tâm Tam Quán để quán cảnh Tam Đế, ngoài cảnh không có quán, ngoài quán không có cảnh, cảnh và quán cùng mất, chỉ có một diệu tâm).
Đây là kiến tánh, cảnh giới ấy là Nhất Chân pháp giới.
(Diễn) Thử tức dĩ cụ nhật chi tâm, quán ư tức tâm chi nhật, linh bổn tánh nhật, hiển hiện kỳ tiền, vi nhất tâm viên diệu chi quán pháp dã.
(演) 此即以具日之心,觀於即心之日,令本性日,顯現其前,為一心圓妙之觀法也。
(Diễn: Đây chính là dùng cái tâm sẵn có mặt trời để quán mặt trời trong tâm, khiến cho vầng mặt trời trong bổn tánh hiển hiện trước mặt, đấy là cách Quán bằng nhất tâm viên diệu vậy).
Hiện tại, chúng ta chẳng thể học được điều này. Nếu hiện thời chúng ta muốn học, hãy học theo cách Thứ Đệ Tam Quán. Thứ Đệ Tam Quán thành tựu rồi, sẽ có thể buông cả thân tâm lẫn thế giới xuống; sau khi tâm thanh tịnh hiện tiền, đến khi ấy, Nhất Tâm Tam Quán sẽ tự nhiên hiển hiện. Có thể học Thứ Đệ Tam Quán, chứ Nhất Tâm Tam Quán chẳng thể. Đây là tinh hoa của mười sáu phép Quán, mười sáu loại cảnh giới đều dùng phương pháp này. Dùng Thứ Đệ Tam Quán có thể đạt công phu thành phiến, có thể đạt Sự nhất tâm bất loạn. Dùng Nhất Tâm Tam Quán có thể đắc Lý nhất tâm bất loạn. Nhưng thưa quý vị, nói chung, [các pháp Quán ấy] chẳng bằng trì danh niệm Phật. Chẳng biết quán những điều ấy, hằng ngày cứ khởi vọng tưởng, quý vị dùng vọng tưởng để quán, lầm mất rồi! Đấy chẳng phải là “tác quán” (đang thực hành quán tưởng) mà là “tác quái”, phiền phức rất lớn! Chẳng những quý vị tu không thành, mà đâu đâu cũng biến thành chướng ngại! Đây chẳng phải là chuyện dễ dàng đâu nhé! Nếu quý vị tu học Tam Chỉ Tam Quán, ắt phải nghiên cứu giáo nghĩa Thiên Thai, những thứ ấy đều phát xuất từ bộ Ma Ha Chỉ Quán. Bộ Ma Ha Chỉ Quán in theo lối đóng gáy bằng cách xỏ chỉ, gồm hai mươi quyển, đấy là phương pháp tu Tam Chỉ Tam Quán của tông Thiên Thai, có lý luận và phương pháp khá rắc rối. Tiếp theo là nói về kinh này, trong ba kinh, đã nói đại lược hai kinh như trong phần trên, đối với kinh này (kinh A Di Đà), [sách Diễn Nghĩa] giảng tỉ mỉ hơn.
Tam, đặc thị trì danh vi yếu.
三、特示持名為要。
(Ba là đặc biệt chỉ ra tánh chất quan trọng của pháp trì danh).
Kinh này chủ trương trì danh. Trong các phương pháp tu hành của Tịnh Độ, cách này mới thật sự là tinh yếu, tâm yếu. Nếu như chúng ta nói Bát Nhã Tâm Kinh là tâm yếu của bộ Đại Bát Nhã sáu trăm quyển, mọi người công nhận điều này. Bát Thức Quy Củ Tụng là tâm yếu của kinh luận tông Duy Thức, lịch đại tổ sư đại đức cũng công nhận điều này, không bàn cãi gì nữa! Bát Thức Quy Củ Tụng do Huyền Trang đại sư biên soạn, quả thật phi phàm! “Kinh Di Đà là tâm yếu của toàn bộ Đại Tạng Kinh”, Ngẫu Ích đại sư nói như vậy, điều này cũng được các vị đại đức trong Tịnh Độ sau này công nhận, đây mới là trọng yếu! Trong phần này có hai đoạn:
Sơ, giảo luận yếu ước, nhị cứu minh lợi ích.
初較論要約,二究明利益。
(Trước hết, so sánh luận định [để chỉ rõ vì sao] phải chọn lấy cách hành trì đơn giản, trọng yếu, hai là nêu rõ lợi ích rốt ráo).
Chúng ta đọc đoạn thứ nhất.
(Tự) Hựu dĩ nguyện môn quảng đại, quý tại tri tiên. Quán pháp thâm huyền, vưu ưng thủ ước. Tri tiên tắc vụ sanh bỉ quốc, thủ ước tắc duy sự trì danh, cử kỳ danh hề, kiêm chúng đức nhi câu bị, chuyên hồ trì dã, thống bách hạnh dĩ vô di.
(序) 又以願門廣大,貴在知先,觀法深玄,尤應守約。知先則務生彼國,守約則惟事持名,舉其名兮,兼眾德而俱備,專乎持也,統百行以無遺。
(Tựa: Lại do nguyện môn rộng lớn, cần nhất phải biết đâu là chỗ cần kíp trước hết. Phép Quán sâu xa, u huyền, càng phải nên chọn lấy cách đơn giản. Biết đâu là chỗ cần kíp trước hết, sẽ chú trọng sanh vào cõi kia, giữ lấy cách hành trì giản ước, sẽ chỉ chăm chú trì danh. Nêu lên danh hiệu ấy, các đức đều được đầy đủ. Chuyên trì sẽ gồm thâu trăm hạnh chẳng sót).
Mấy câu này nhằm so sánh ba kinh Tịnh Độ, kinh nào là ách yếu, đơn giản, dễ dàng, tức là tu học dễ dàng? Chúng ta đọc lời chú giải trong sách Diễn Nghĩa. Trước hết, sách Diễn Nghĩa giảng câu “nguyện môn quảng đại, quý tại tri tiên”.
(Diễn) Quảng dĩ “quảng đa, quảng bác” vi nghĩa. Quảng đa giả, Như Lai tánh trung bổn hữu diệu dụng, tiềm hưng, mật ứng, vô hữu cùng tận.
(演) 廣以廣多廣博為義。廣多者,如來性中本有妙用,潛興密應,無有窮盡。
(Diễn: Quảng có nghĩa là “rộng nhiều, rộng lớn mênh mông”. “Rộng nhiều” là trong tánh Như Lai vốn có diệu dụng, ngầm dấy lên, thầm ứng hiện chẳng cùng tận).
“Như Lai tánh trung” là nói theo mặt Lý, mỗi một người chúng ta đều trọn đủ. Nếu chẳng trọn đủ, lẽ nào có y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới? Trong cái tâm tự tánh của chúng ta, có trọn đủ y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn sẵn đầy đủ” chính là nói đến ý nghĩa này. “Nào ngờ tự tánh, có thể sanh ra vạn pháp” cũng là ý nghĩa này. Quý vị phải biết, trong thiên hạ có nhiều chuyện kỳ quái lắm, có hay không? Có chứ! Do đâu mà có? Từ trong tự tánh của chúng ta sanh ra, có gì đáng ngạc nhiên! Hiện thời, chuyện bậc nhất trước mắt là chúng ta phải kiến tánh, đấy mới là chuyện khẩn yếu. Trước mắt, chúng ta đã mê mất tự tánh và đức dụng của tự tánh, chúng ta không còn cảm thấy quen thuộc nữa nên kinh ngạc. Thật ra, chẳng có chuyện gì không phải là đức dụng của tự tánh.
(Diễn) Quảng bác giả, thử vô tận nguyện, nhất nhất đồng ư giác tánh, vô hữu phân hạn.
(演) 廣博者,此無盡願,一一同於覺性,無有分限。
(Diễn: “Rộng rãi mênh mông” là nguyện này vô tận, mỗi một nguyện giống như giác tánh chẳng có giới hạn).
“Bác” (博) là vô tận, không có cùng tận. “Phân hạn” là không có phân biệt, không có giới hạn. Hễ có phân biệt, có giới hạn, sẽ là mê. “Phân” (分) là phân biệt, là thức thứ sáu, tức Ý thức. “Hạn” (限) là giới hạn, tức thức thứ bảy chấp trước. Không chấp trước, lẽ đâu có giới hạn? Không có giới hạn! Chỉ cần tách lìa phân biệt, chấp trước, sẽ tương ứng với giác tánh, đó là Giác. Hễ có phân biệt, chấp trước bèn mê, chẳng tương ứng với giác tánh. Giác tánh không có giới hạn, chẳng có phân hạn. Quý vị có phân biệt, có giới hạn, sẽ mê mất giác tánh của chính mình.
(Diễn) Đại dĩ thụ cùng hoành biến vi nghĩa.
(演) 大以豎窮橫遍為義。
(Diễn: “Đại” có nghĩa là tột cùng theo chiều dọc, trọn khắp theo chiều ngang).
Theo chiều dọc tột cùng ba đời, theo chiều ngang trọn khắp mười phương.
(Diễn) Thụ cùng giả, thử nguyện tận vị lai tế vô hữu hưu tức. Hoành biến giả, thử nguyện sung mãn thập phương vô hữu biên tế.
(演) 豎窮者,此願盡未來際無有休息。橫遍者,此願充滿十方無有邊際。
(Diễn: “Tột cùng theo chiều dọc”: Nguyện này trọn hết đời vị lai không ngưng dứt; “trọn khắp theo chiều ngang”: Nguyện này tràn ngập mười phương không có ngằn mé).
Mấy câu này hình dung bốn mươi tám nguyện do A Di Đà Phật đã phát, nguyện nào cũng đều như vậy. Bốn mươi tám nguyện chính là tánh Bổn Giác của A Di Đà Phật, mà cũng chân tâm của Ngài toàn thể hiện tiền. Nay chúng ta phát cái tâm có phân biệt, có giới hạn, cho nên nó chẳng phải là toàn bộ giác tánh. Đây là chỗ chúng ta thua kém Phật, Bồ Tát, sai biệt quá xa! Do vậy, chúng ta tu học siêng khổ như thế nào đi nữa, vẫn chẳng có cách nào đạt đến mức thành tựu lý tưởng, đạo lý là ở chỗ này, chẳng thể tương ứng với giác tánh mà! Giác tánh là chân tâm, chân tâm thường trụ, là Chân Như bổn tánh, [tâm chúng ta] chẳng tương ứng [với giác tánh]. Hãy nhớ: Chẳng tương ứng ở ngay trong câu này. Các Ngài không có phân biệt, giới hạn, chúng ta tạo lập phân biệt, giới hạn. Vốn chẳng có phân biệt, giới hạn, nhưng chúng ta lại khư khư tạo lập các thứ phân biệt, các thứ chấp trước; hễ như vậy bèn mê mất giác tánh.
Đã mê mất giác tánh thì tâm lượng quý vị sẽ nhỏ nhoi, nhỏ đến nỗi chỉ có mình quý vị, chẳng thể dung nạp một người nào khác! Quý vị nói xem có đáng thương hay không? Giác tánh của quý vị vốn là tận hư không, khắp pháp giới, như thường nói: “Tâm bao khắp thái hư, lượng trọn khắp các cõi nhiều như cát”. Hiện thời tâm lượng quý vị quá ư nhỏ bé, ngay cả một người, một vật ở bên ngoài cũng chẳng thể dung nạp, làm sao có thể thành Phật được? Tâm lượng nhỏ xíu như thế, đời sau có được làm thân người hay không? Chẳng thể được thân người! Hãy nên nói “người” là như thế nào? Người có lòng nhân, do lòng nhân nên có thể dung nạp người khác, có thể suy từ mình để nghĩ đến người, “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (điều gì ta không muốn, đừng làm cho người khác). Đấy là đạo làm người. Điều kiện cơ bản của đạo làm người là “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, chúng ta không thực hiện được điều đầu tiên (lòng nhân) là vì tâm lượng quá nhỏ, chẳng dung được người khác! Nhân (仁) là hai người, chứ không phải một người, trừ chính mình ra, còn có người khác; phải như vậy thì mới được làm người. Thứ gì cũng vì chính mình, chẳng có người khác, sẽ chẳng thể sanh vào loài người trong lục đạo, nguyên nhân là do tâm lượng quá nhỏ. Do vậy, tự tư tự lợi chỉ có chính mình, không có người khác, quả báo chắc chắn là trong tam ác đạo, cũng có thể nói là “sanh trưởng trong lục đạo được quyết định bởi tâm lượng lớn hay nhỏ”. Tâm lượng của chư thiên lớn hơn loài người, tâm lượng của con người lớn hơn súc sanh, tâm lượng của súc sanh lớn hơn ngạ quỷ.
Đọc kinh nhất định phải giác ngộ. Do vậy, đọc đoạn này, quý vị biết A Di Đà Phật phát tâm trong khi tu nhân người bình thường chẳng thể sánh bằng được. Khi Lục Tổ đại sư phát tâm, chúng ta đọc Đàn Kinh xong, thấy quả thật không có ai có khí khái như Ngài, Ngài phát tâm: “Tôi đến để làm gì? Tôi đến làm Phật!” Tâm lượng ấy hiếm có, nhưng nếu so sánh với bốn mươi tám nguyện của tỳ-kheo Pháp Tạng tức A Di Đà Phật trong khi còn tu nhân, Lục Tổ chẳng thể nào bén gót được! Lục Tổ mong cầu toàn thể giác tánh, không có đại dụng. A Di Đà Phật vừa có toàn thể vừa có đại dụng. Nói theo mặt Thể, Lục Tổ và tỳ-kheo Pháp Tạng chẳng khác nhau; nói theo Dụng, khác biệt rất lớn! Bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng phổ độ hết thảy chúng sanh trong mười phương ba đời, thật phi phàm! Bốn mươi tám nguyện, nguyện nào cũng cụ thể dường ấy, chẳng phải là nói suông. Sau đây là lời giải thích câu “quý tại tri tiên”.
(Diễn) Tiên hữu thỉ nghĩa, tức hành viễn tự nhĩ chi ý.
(演) 先有始義,即行遠自邇之意。
(Diễn: “Tiên” có nghĩa là bắt đầu, ý nói: Đi xa phải bắt đầu từ chỗ gần).
“Nhĩ” (邇) là gần; đi xa nhất định phải từ chỗ đặt chân cất bước.
(Diễn) Hựu tiên hữu cấp nghĩa, tức tiên vụ chi vi cấp ý.
(演) 又先有急義,即先務之為急意。
(Diễn: “Tiên” lại có nghĩa là gấp rút, ý nói: Trước hết, phải chú trọng nơi chuyện cần phải làm gấp).
Gấp nhất, trọng yếu nhất.
(Diễn) Quý tại tri tiên giả, do Di Đà ngộ nhập Pháp Tánh, tùng tánh khởi nguyện, tánh vô tận, cố nguyện diệc vô tận. Cố tri dục nhập Di Đà nguyện hải, tất tiên ngộ triệt tự tâm, bất ngộ quảng đại chi tâm, bất nhập quảng đại nguyện hải cố.
(演) 貴在知先者,由彌陀悟入法性,從性起願,性無盡,故願亦無盡。故知欲入彌陀願海,必先悟徹自心,不悟廣大之心,不入廣大願海故。
(Diễn: “Cần nhất là phải biết chỗ cần kíp trước hết”: Do Di Đà ngộ nhập Pháp Tánh, từ tánh khởi ra nguyện, vì tánh vô tận nên nguyện cũng vô tận. Do vậy biết: Muốn nhập Di Đà nguyện hải, ắt trước hết phải ngộ thấu triệt tự tâm. Chẳng ngộ cái tâm rộng lớn, chẳng thể vào biển nguyện rộng lớn được!)
Mấy câu này có ý nghĩa rất rõ ràng, chẳng khó hiểu. Do vậy, nếu chúng ta tu pháp môn Tịnh Độ, chẳng thể không khai ngộ, chẳng thể không giác ngộ, chẳng thể không mở rộng tâm lượng. Tâm lượng của Phật Di Đà quá lớn, chúng ta muốn vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, phải có cùng chí, cùng tâm, cùng nguyện, có độ lượng giống như A Di Đà Phật, những điều này đều tương ứng, lẽ nào chẳng vãng sanh? Quý vị phải nhớ: Tâm lượng nhỏ nhoi sẽ chướng ngại vãng sanh. Tuy
quý vị suốt ngày từ sáng đến tối niệm Phật hiệu không gián đoạn, niệm Phật suốt đời, vì sao chẳng vãng sanh? Tâm lượng quá nhỏ mà! A Di Đà Phật có thể dung nạp quý vị, nhưng quý vị chẳng thể dung nạp A Di Đà Phật, không có cách nào hết! Phật Di Đà có thể dung nạp quý vị, quý vị cũng có thể dung nạp Ngài thì mới được! Tâm lượng nhất định phải to, tâm lượng to thì mới có thể phá trừ tất cả giới hạn bởi phân biệt, chấp trước, mới thành công. Hôm nay đã hết giờ rồi!
— o0o —
Tập 24
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, trang hai mươi tám, đoạn này nói về tánh chất trọng yếu của pháp Trì Danh Niệm Phật.
(Tự) Hựu dĩ nguyện môn quảng đại, quý tại tri tiên. Quán pháp thâm huyền, vưu ưng thủ ước. Tri tiên tắc vụ sanh bỉ quốc, thủ ước tắc duy sự trì danh, cử kỳ danh hề, kiêm chúng đức nhi câu bị, chuyên hồ trì dã, thống bách hạnh dĩ vô di.
(序) 又以願門廣大,貴在知先,觀法深玄,尤應守約。知先則務生彼國,守約則惟事持名,舉其名兮,兼眾德而俱備,專乎持也,統百行以無遺。
(Tựa: Lại do nguyện môn rộng lớn, cần nhất phải biết đâu là chỗ cần kíp trước tiên. Do phép Quán sâu xa, u huyền, càng phải nên chọn lấy cách [hành trì] đơn giản. Biết chỗ cần kíp trước tiên sẽ chú trọng sanh vào cõi kia, giữ lấy cách [hành trì] giản ước sẽ chỉ chăm chú trì danh. Nêu lên danh hiệu ấy, các đức sẽ đều được đầy đủ. Chuyên trì sẽ gồm thâu trăm hạnh chẳng sót).
Trong đoạn văn thuộc phần lời tựa trên đây, lần trước, do thời gian hạn chế, tôi chỉ giảng câu thứ nhất. Câu thứ nhất nói về kinh Vô Lượng Thọ, đặc biệt chỉ ra A Di Đà Phật trong khi tu nhân đã phát bốn mươi tám nguyện, quả thật chẳng dễ dàng. Trong quá trình chúng ta học Phật, quả thật chúng ta rất khó thấy nghe những hoằng nguyện thù thắng như vậy. Nhìn từ chỗ này, chúng ta mới hiểu thế giới Tây Phương thù thắng là thật sự có lý. Câu thứ hai nói về kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Hai câu này được sách Diễn Nghĩa chú giải như sau:
(Diễn) “Thâm” vị Quán thâm diệu, “huyền” vị Lý u huyền.
Kinh trung Quán pháp, nãi dĩ pháp giới tâm quán pháp giới cảnh.
(演) 深謂觀深妙,玄謂理幽玄。經中觀法,乃以法界心,觀法界境。
(Diễn: “Thâm” là phép Quán sâu mầu, “huyền” là Lý huyền diệu, u viễn. Pháp Quán được nói trong kinh chính là dùng pháp giới tâm để quán pháp giới cảnh).
Gộp cả ba kinh lại để nhìn, chúng ta sẽ rất dễ thấu hiểu lý luận, hành pháp, cảnh giới của pháp môn này. Pháp môn này là pháp môn Đại Thừa. Điều quan trọng nhất trong pháp môn Đại Thừa là tâm lượng phải lớn; tâm lượng chẳng lớn sẽ chẳng tương ứng với pháp môn này. Thật sự muốn cầu sanh về Tây Phương Tịnh Độ, chúng ta nhất định phải chú ý chuyện này, phải mở rộng tâm lượng của chính mình. “Pháp giới tâm” là chân tâm, chẳng phải vọng tâm, chữ “pháp giới” chỉ điều gì? Chỉ Nhất Chân pháp giới. Nếu không có chân tâm, sẽ chẳng thể thấy toàn thể pháp giới, cho đến cảnh giới vi tế trong pháp giới. Người bình thường quyết chẳng thể tu [các pháp Quán trong] Thập Lục Quán Kinh được, đừng nói mười sáu phép Quán, phép Quán thứ nhất là quán “mặt trời lặn giống như cái trống treo” đã khá khó thành tựu rồi! Những cảnh giới trong những phép Quán sau đó, mỗi một tầng càng sâu mầu hơn. Nói cách khác, mỗi tầng sau càng khó quán hơn tầng trước. Lý luận [trong kinh ấy] được nói hết sức châu đáo, tường tận, do vậy, tuy chúng ta là người tu theo cách Trì Danh Niệm Phật, lịch đại tổ sư đại đức vẫn thường khuyến khích chúng ta đọc Quán Kinh Diệu Tông Sao vì sách này giảng rõ đạo lý Tịnh Độ.
(Diễn) Sanh ư pháp giới y chánh sắc tâm, khởi phi thâm diệu? Kinh trung y chánh, đản Ứng sắc nhất tướng khả chiếu tam thân, y báo nhất trần tức Tịnh Quang độ, khởi bất u huyền?
(演) 生於法界依正色心,豈非深妙。經中依正,但應色一相可照三身,依報一塵即寂光土,豈不幽玄。
(Diễn: Sanh ra y báo và chánh báo, sắc, tâm của pháp giới, há chẳng phải là sâu mầu? Y báo và chánh báo trong kinh, chỉ một sắc tướng nơi Ứng Thân đã có thể chiếu ba thân, một mảy trần của y báo chính là cõi Tịch Quang, há chẳng u huyền ư?)
Đây là hành pháp, căn cứ lý luận, đồng thời là cảnh giới của mười sáu phép Quán. Y báo, chánh báo, sắc pháp, tâm pháp của mười phương thế giới đều là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Pháp giới tâm tức chân tâm có thể hiện, thức tâm có thể biến, biến hóa sâu mầu quả thật chẳng thể nghĩ bàn! Trong Quán Kinh nói tới y báo và chánh báo trang nghiêm của thế giới Tây Phương; ở đây, sách Diễn Nghĩa đã quy nạp thành câu “đản Ứng sắc nhất tướng” (chỉ một sắc tướng nơi Ứng Thân), Ứng (應) là Ứng Thân, một tướng nơi sắc thân của Ứng Thân có thể chiếu ba thân. “Y báo nhất trần” (một hạt bụi nơi y báo) chính là Thường Tịch Quang Tịnh Độ, lý được chứa đựng trong ấy hết sức sâu. Từ Yếu Giải và Sớ Sao, chúng ta đã từng đọc thấy [bốn cõi Tịnh Độ], tuy nói bốn cõi, nhưng bốn cõi ấy viên dung. Do đây có thể biết: Trong cảnh giới, có phải là thật sự có bốn cõi hay chăng? Nếu thật sự có bốn cõi thì làm sao bốn cõi có thể viên dung được? Chúng ta hãy nghĩ kinh Bát Nhã đã nói: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Chúng ta hỏi: Bốn cõi có phải là pháp hữu vi hay không? Bốn cõi có sắc tướng hay không? Đã có sắc tướng, đương nhiên chẳng thể trái nghịch định luật này. Do đây có thể biết: Bốn cõi do đâu mà có? Từ tâm thức của chúng sanh biến hiện ra. Tây Phương Tịnh Độ là như vậy, [thế giới] hiện tiền của chúng ta há là ngoại lệ? Vấn đề ở chỗ tâm uế hay tịnh, tâm thanh tịnh sẽ hiện Tịnh Độ, tâm ô uế sẽ hiện uế độ, cảnh giới do chính mình biến hiện.
Ví như người tâm địa thiện lương hằng ngày nằm mộng tốt lành, người lòng dạ hiểm ác thường gặp ác mộng. Cảnh mộng ấy từ đâu mà có? Từ tâm của chính mình biến hiện ra. Những cảnh giới biến hiện ra để chính mình hưởng thụ, chính mình biến cho chính mình dùng. Mười phương thế giới cũng không ra ngoài lệ ấy, Lý và Quán ấy hết sức sâu mầu! Đặc biệt là Tây Phương thế giới. Ở Tây Phương thế giới, chẳng những là bản thân mình giác chứ không mê, mà còn có điều thù thắng nhất là có thể ở cùng một chỗ với các vị thượng thiện nhân. Chữ “thượng thiện” chỉ các vị Đẳng Giác Bồ Tát. Cảnh giới của các vị Đẳng Giác Bồ Tát là Tịch Quang Tịnh Độ. Do vậy, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu là hạ phẩm hạ sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, cũng đã có thể cùng các vị Đẳng Giác Bồ Tát nắm tay cùng đi, cho thấy họ cũng có sự thụ dụng của các cõi Tịch Quang và Thật Báo. Đấy là chỗ thù thắng chẳng thể nghĩ bàn của thế giới Tây Phương.
Phép Quán quá sâu, quá huyền, cho thấy nó rất khó đối với hạng người tầm thường như chúng ta. Về Lý, chắc chắn chúng ta có thể tin tưởng, chẳng có nghi vấn, nhưng cách tu quả thật chẳng dễ dàng. Ở đây, đại sư dạy chúng ta, đối với phương pháp tu hành, càng phải nên “thủ ước” (giữ lấy cách đơn giản). “Ước” (約) là đơn giản, phương pháp tu hành càng đơn giản càng hay!
(Diễn) Ước giả, giản ước dã. Duy thử tứ tự, cánh vô biệt pháp, hà đẳng giản dị.
(演) 約者,簡約也。唯此四字,更無別法,何等簡易。
(Diễn: “Ước” là giản ước. Chỉ có bốn chữ, không còn pháp nào khác, đơn giản, dễ dàng chi bằng?)
Chính vì pháp này quá đơn giản, quá dễ dàng, cho nên có người đâm ra không tin tưởng, hoài nghi, đó là một tầng chướng ngại. Còn có một tầng chướng ngại khác nữa: Cảm thấy pháp này đơn giản, dễ dàng, chịu tu tập, nhưng không nghiên cứu sâu xa đạo lý; do vậy, tuy miệng niệm bốn chữ Phật hiệu, tâm chẳng tương ứng, niệm chẳng đúng pháp, nên cũng chẳng thể thành công. Thật ra, muốn tương ứng cũng thật sự rất đơn giản, đúng như tâm pháp do hòa thượng Biến Dung đời Minh truyền cho Liên Trì đại sư. Khi ấy, lão hòa thượng Biến Dung là bậc đại đức đương thời, Liên Trì đại sư đến chỗ Ngài tham phỏng, Ngài chỉ dạy cho đại sư ba câu: “Chẳng tham lợi, chẳng tham danh, đừng nắm níu kẻ quyền quý”. Đối với những kẻ làm quan, có tiền, có thế lực trong thế gian, trọn chớ nên bợ đỡ, trọn chớ nên dựa dẫm, dùng ba câu ấy, thật thà niệm Phật!
Thành tựu một đời của Liên Trì đại sư, theo như lão nhân gia nói, Ngài đắc lực nhờ lần giáo huấn ấy của pháp sư Biến Dung. Ngài đến tham phỏng thật chẳng dễ dàng, tam bộ nhất bái, lạy miết đến trước mặt lão hòa thượng. Lão hòa thượng dạy Ngài mấy câu như vậy, những người bên cạnh nghe xong, đều cười nhạo: “Từ chốn xa xôi, tam bộ nhất bái kiền thành như thế, dập đầu trước mặt lão hòa thượng, chúng tôi đều cho rằng lão hòa thượng sẽ có lời khai thị bất phàm nào khác, [hóa ra, Ngài chỉ nói những câu] tầm thường vốn nghe đã nhàm tai!” Đấy chính là như tổ Ấn Quang đã nói: “Một phần cung kính được một phần lợi ích, mười phần cung kính được mười phần lợi ích”. Liên Trì đại sư do tấm lòng mười phần cung kính, nên Ngài thật sự được một đời thành tựu nhờ bốn câu sau đây: “Chẳng tham của, chẳng tham danh, chẳng nắm níu kẻ quyền quý, thật thà niệm Phật”. Thiền sư Biến Dung tuy là bậc đại triệt đại ngộ trong Thiền Tông, cuối cùng Ngài vẫn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Thế nhưng ba câu nói ấy chẳng dễ gì thực hiện! Mấy ai có thể bỏ tiếng tăm, lợi dưỡng? Bỏ chẳng được, sẽ chẳng tương ứng; đừng nói chẳng đắc nhất tâm, ngay cả công phu thành phiến cũng chẳng thể thành tựu. Đừng nói công phu thành phiến chẳng thể thành tựu, ngược lại còn chuốc lấy một thân đầy tội nghiệp, quả báo ở trong tam đồ, chúng ta chẳng thể không cảnh giác điều này. Nếu nói còn chút nào chưa buông xuống được, tuy vãng sanh bị chướng ngại, nhưng còn có thể hưởng phước báo trong đường trời người thì kể ra cũng còn đỡ! Chẳng những sự vãng sanh của quý vị bị chướng ngại, mà còn bị lôi kéo vào trong ba ác đạo, rắc rối ở chỗ này!
Vì thế, bốn chữ [A Di Đà Phật] này đơn giản thật đấy, nhưng thật sự niệm Phật cho tốt đẹp phải cần đến học vấn. Có thể buông hết thân tâm, thế giới xuống là có học vấn. Ngàn kinh, vạn luận nói gì cũng chẳng ngoài những điều như vậy mà thôi!
(Diễn) Hựu ước giả, yếu ước dã.
(演) 又約者,要約也。
(Diễn: “Ước” còn có nghĩa là giản lược nhưng tinh yếu).
Chữ “yếu” (要) ở đây là tinh yếu.
(Diễn) Niệm Phật công thành, vô sự bất biện, hà đẳng yếu ước?
(演) 念佛功成,無事不辦,何等要約。
(Diễn: Công Niệm Phật thành tựu, không chuyện gì chẳng hoàn thành, còn gì đơn giản mà tinh yếu bằng?)
Câu này cũng là thật. Một câu Phật hiệu niệm tốt đẹp, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, vô lượng vô biên công đức đều viên mãn, đúng là không chuyện gì chẳng hoàn tất. Ở đây, đại sư khích lệ chúng ta:
(Diễn) Vưu ưng thủ ước giả, dĩ Thập Lục Diệu Quán, nãi toàn tánh thành tu, toàn tu thành tánh, ngộ tâm thượng sĩ, nãi khắc hành trì.
(演) 尤應守約者,以十六妙觀,乃全性成修,全修成性。悟心上士,乃克行持。
(Diễn: “Càng phải nên chọn lấy cách tu tập giản ước”: Do mười sáu phép Quán mầu nhiệm chính là toàn thể tánh trở thành tu, toàn thể tu trở thành tánh, bậc thượng sĩ ngộ tâm mới có thể hành trì thành công được).
Nói rất rõ ràng! Bậc thượng sĩ ngộ tâm là ai? Chính là người đại triệt đại ngộ mới có thể tu tập được.
(Diễn) Sơ học hành nhân, vô do thấu bạc cố.
(演) 初學行人,無由湊泊故。
(Diễn: Hành nhân vừa mới học không cách nào chen chân được).
Học nhân sơ phát tâm quyết chẳng thể tu Quán Tưởng Niệm Phật. [Tổ khẳng định] điều này nhằm khích lệ chúng ta là hàng sơ phát tâm càng phải nên tuân thủ pháp môn Trì Danh Niệm Phật.
Trong lời tựa có nói “tri tiên, tắc vụ sanh bỉ quốc” (biết được điều nào là cần kíp trước tiên, sẽ chăm chú sanh về cõi ấy). Đối với yếu lãnh (cương lãnh quan trọng) của ba kinh, kinh Vô Lượng Thọ quả thật chú trọng nơi phát tâm. Trong đoạn trước, [sách Diễn Nghĩa] đã bảo chúng ta: “Dục nhập Di Đà nguyện hải, tất tiên ngộ triệt tự tâm, bất ngộ quảng đại chi tâm, bất nhập quảng đại nguyện hải cố” (Muốn nhập Di Đà nguyện hải, ắt trước hết phải ngộ thấu triệt tự tâm. Chẳng ngộ cái tâm rộng lớn sẽ chẳng thể nhập biển nguyện rộng lớn). Mấy câu này nói hết sức thấu triệt. Nói thật ra, Quán Kinh cũng dạy chúng ta trì danh niệm Phật. “Thủ ước tắc duy sự trì danh” (giữ lấy cách tu tập giản ước thì chỉ có chuyên chú trì danh). Nhìn theo cách này, ba kinh có công đức chẳng thể nghĩ bàn! Trì danh có những chỗ tốt đẹp gì vậy? Mấy câu tiếp theo đây sẽ nêu ra các công đức và lợi ích của trì danh. “Cử kỳ danh hề, kiêm chúng đức nhi câu bị” (nêu lên danh hiệu ấy thì các đức đều được trọn đủ), xin xem lời giải thích:
(Diễn) Cử danh kiêm chúng đức giả, do danh triệu Thể.
(演) 舉名兼眾德者,由名召體。
(Diễn: “Nêu danh kiêm các đức” là do [niệm] Phật hiệu mà cảm vời Thể).
“Thể” là Chân Như bổn tánh, tức là bổn tánh của chính mình. Danh hiệu A Di Đà Phật chính là danh xưng của bổn tánh. Niệm danh hiệu này, sao cho Thật Thể, Thật Tướng, Thật Dụng của danh hiệu đều niệm ra được thì mới là “thật sự trì danh”. Tự tánh thanh tịnh tâm vốn là giác chứ không mê. Trong Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát gọi nó là Bổn Giác, “Bổn Giác vốn có”. Danh hiệu ấy hoàn toàn là tiếng Phạn dịch âm, có nghĩa là Vô Lượng Giác. Niệm một câu danh hiệu là niệm giác tánh của chính mình, từng tiếng lay tỉnh tánh giác của chúng ta, giác chứ không mê, đó gọi là “chấp trì danh hiệu”, quý vị phải hiểu đạo lý này.
Nếu mỗi ngày cầm xâu chuỗi niệm danh hiệu, câu nào cũng mê chứ không giác, đó chẳng gọi là trì danh, chẳng gọi là niệm Phật. Phật nghĩa là giác; niệm Phật là niệm giác, niệm niệm giác chứ không mê, đó gọi là “niệm Phật”. Quý vị niệm niệm mê chứ không giác, làm sao có thể gọi là “niệm Phật”? Điều này chứng tỏ bốn chữ [danh hiệu] này chẳng dễ dàng! Chẳng trách người hiện thời nói: “Người niệm Phật thì nhiều, người vãng sanh ít ỏi!” Người ấy niệm Phật là niệm Danh Tự Phật, chẳng niệm Quán Hạnh Phật. Niệm Quán Hạnh Phật phải có phương cách. Chỉ niệm danh tự, ngay cả danh tự có nghĩa là gì cũng không hiểu, mê hoặc, điên đảo, niệm Phật kiểu đó làm sao thành công cho được? Niệm Quán Hạnh Phật là niệm niệm tự mình đề cao cảnh giác: Chúng ta vừa mới khởi một niệm phân biệt, chấp trước nơi cảnh giới, đó là mê, đó là vô minh; vô minh liên tục phát triển không ngừng, sẽ biến thành Kiến Tư phiền não, sẽ tạo nghiệp, thọ báo. Do vậy, một câu Phật hiệu nhằm kéo chúng ta từ mê muội quay trở lại.
“Nam-mô” là quy y, từ trong mê quay đầu trở lại, trở về! Nương theo giác ngộ, nương vào giác tâm, giác tâm là thanh tịnh, giác tâm là bình đẳng, giác tâm là rộng lớn. Như vậy thì mới có thể thành công. Người thật sự giác ngộ, nhất định biết đời người ngắn ngủi, khổ sở, sao cứ phải tạo nghiệp? Thời gian mấy chục năm trong khoảng khảy ngón tay đã hết, rộng tạo tội nghiệp chẳng đáng tí nào, đúng là ngu si, mê hoặc, điên đảo! Càng phải nên giác ngộ [đúng như] cổ nhân thường nói: “Hoàng tuyền lộ thượng vô lão thiếu” (Đường đến suối vàng không phân biệt già hay trẻ). Đừng tưởng ta hiện thời vẫn trẻ, mai sau sẽ trưởng thành, quý vị có ký hợp đồng với vua Diêm La hay không? Hãy nhìn vào tháp thờ cốt trong rất nhiều chùa miếu, bao nhiêu người trẻ tuổi? Chúng ta phải đặc biệt đề cao cảnh giác điều này!
Thể của giác tâm là bản thể của Chân Như bổn tánh. Kinh thường nói “trạm tịch hư linh” để hình dung nó. Lục Tổ đại sư nói: “Vốn chẳng có một vật”. Đấy đều là nói về bản thể, tánh thể, Tướng của nó là thanh tịnh, bình đẳng, tác dụng (Dụng) của nó là đại từ đại bi. Do vậy, chúng ta phải nương vào bốn chữ này, niệm cho ra Thể – Tướng – Dụng nơi chân tánh của chính mình. Thể – Tướng – Dụng của chân tánh là con người thật sự [của mỗi người chúng ta], Thiền Tông gọi [chân tánh] là “diện mục sẵn có trước khi cha mẹ sanh ra”; trong các kinh Đại Thừa, nó được gọi là “bổn hữu gia trân” (của báu sẵn có trong nhà), hoặc Như Như Phật. Kinh Hoa Nghiêm, kinh Viên Giác gọi nó là “bổn lai thành Phật” (vốn sẵn thành Phật), đều nhằm ý nghĩa này. Ở đây, [sách Diễn Nghĩa] nói đến chuyện dùng danh hiệu [của A Di Đà Phật] để chiêu cảm Thể.
(Diễn) Thể ngoại vô danh, Thể cụ chúng đức, tắc danh diệc kiêm chúng đức. Cố nhất xưng danh, tức xưng Phật chúng đức dã.
(演) 體外無名,體具眾德,則名亦兼眾德。故一稱名,即稱佛眾德也。
(Diễn: Ngoài Thể không có danh, Thể có đủ các đức, nên danh cũng kèm theo các đức. Vì thế, xưng danh chính là xưng niệm các đức hạnh của Phật vậy).
Ở đây, chữ Phật mang ý nghĩa kép: Tự Phật và Tha Phật. Tha Phật là tán thán Tây Phương giáo chủ A Di Đà Phật, Tự Phật là tâm thanh tịnh của chính mình, tức Phật Tánh của chính mình. Nhất định phải hiểu rõ điều này.
Câu “chuyên hồ trì dã, thống bách hạnh dĩ vô di” (Chuyên trì danh, gồm thâu trăm hạnh chẳng sót) là nói:
(Diễn) Dĩ nhất tâm trì danh, vạn duyên tự xả, tức Bố Thí hạnh. Nhất tâm trì danh, tam nghiệp tự tịnh, tức Trì Giới hạnh đẳng.
(演) 以一心持名,萬緣自捨,即布施行。一心持名,三業自淨,即持戒行等。
(Diễn: Do nhất tâm trì danh nên tự bỏ vạn duyên, đấy là hạnh Bố Thí. Nhất tâm trì danh, ba nghiệp tự tịnh, đấy là hạnh Trì Giới v.v…)
Ở đây, chỉ nêu lên hai điều trong Lục Ba La Mật, những điều khác bị tỉnh lược. Một câu A Di Đà Phật thâu nhiếp viên mãn lục độ vạn hạnh. Do vậy, nói tới chuyên trì danh hiệu thì “bách hạnh” mà chúng ta thường gọi là “lục độ, vạn hạnh”, toàn bộ đều được bao gồm trong ấy. Thế nhưng quý vị phải đặc biệt chú ý chữ Chuyên và chữ Trì. “Chuyên” (專) là chuyên nhất, tức nhất tâm trì danh. “Trì” (持) là niệm niệm chẳng quên, chẳng thể gián đoạn. Đó gọi là công phu. Thật sự quyết tâm muốn vãng sanh, phải buông thân tâm thế giới xuống, phải buông sạch sành sanh, chẳng nhiễm mảy trần, niệm niệm đều mong sanh về Tây Phương. Thế giới Tây Phương tốt đẹp hơn thế giới này quá nhiều, quý vị phải hiểu điều này! Chỉ cần quý vị có mảy may tham luyến, sẽ chẳng chuyên. Tuy trì danh, nhưng không nhất tâm, tức là không nhất tâm trì danh, sự thành tựu của quý vị sẽ có vấn đề. Công phu thành phiến rất gần với nhất tâm, công phu thành phiến là giai đoạn nào vậy? Kinh nói rất rõ ràng, tuy chưa đoạn phiền não, nhưng một câu Phật hiệu quả thật có thể chế phục phiền não. Kinh Kim Cang nói “vân hà hàng phục kỳ tâm?” (hàng phục cái tâm như thế nào?), cái tâm vọng tưởng thật sự bị một câu Phật hiệu chế ngự. Có năng lực như vậy thì mới gọi là “công phu thành phiến, đới nghiệp vãng sanh”. Nếu công phu niệm Phật của chúng ta mà ngay cả phiền não cũng không chế ngự được, sẽ chẳng thể vãng sanh!
Thật ra, trong đời đời kiếp kiếp từ vô lượng kiếp trước, các vị đồng tu đang hiện diện đều niệm A Di Đà Phật, nhưng chẳng thể vãng sanh, nguyên nhân là vì đâu? Đời đời kiếp kiếp đều chưa đạt công phu thành phiến, một câu Phật hiệu của quý vị chẳng thể chèn ép phiền não. Sức niệm Phật quá mỏng yếu, sức phiền não quá mạnh mẽ, chèn ép không nổi; do vậy, không thể vãng sanh được! Vì sao không chế ngự được? Quý vị không có tâm buông bỏ, không thật sự bỏ phiền não được; đấy là một nguyên nhân lớn. Nguyên nhân thứ hai là công phu niệm Phật của quý vị không liên tục, trở thành hiện tượng “đứt đứt, nối nối”, nên công phu chẳng đắc lực! Muốn công phu đắc lực, danh hiệu phải niệm niệm liên tục, đừng để gián đoạn. Hễ đoạn thì phiền não nổi dậy, tham, sân, si, mạn trỗi lên. Công phu chẳng đoạn, tâm tâm niệm niệm đều là một câu A Di Đà Phật, như vậy mới có thể áp chế tập khí phiền não, chẳng cho nó dấy lên hiện hành. Đàn áp lâu ngày, Phật hiệu có sức mạnh thì mới có thể đới nghiệp vãng sanh.
Còn có một nhân tố trọng yếu nữa, kinh nói “tâm chẳng điên đảo”. Người niệm Phật sợ nhất là lúc lâm chung nghiệp chướng hiện tiền. Đó là gì? Có bệnh khổ! Hễ có bệnh khổ sẽ nguy hiểm, chuyện này là chuyện phiền phức to lớn. Khi lâm chung cầu gì? Cầu qua đời tốt lành. Cổ nhân Trung Quốc nói tới Ngũ Phước, tức là phước báo gồm có năm thứ; trong Ngũ Phước có “thọ khảo chung”, nghĩa là khi chết không bị bệnh khổ, tỉnh táo, sáng suốt, hiểu biết rõ ràng, đó là đại phước báo. Trong Ngũ Phước, phước báo lớn nhất là điều này. Khi lâm chung tỉnh táo, sáng suốt, hiểu biết rõ ràng, chẳng đau khổ chút nào, dẫu người ấy chẳng học Phật, cũng trọn chẳng đọa trong ba ác đạo, vì người ấy sáng suốt. Phàm những ai đọa ác đạo, [lâm chung] đều mê hoặc, điên đảo. Nếu người ấy tỉnh táo, sáng suốt, làm sao có thể nhìn vào đường súc sanh [mà ưa thích], làm sao có thể yêu mến ngạ quỷ đạo được? Đó là chuyện không thể có! Người sáng mắt sẽ khéo chọn lựa. Do vậy, người ấy cũng đến hưởng phước báo trong hai đường trời – người. Nếu là người học Phật, quyết định vãng sanh, quý vị chọn sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do vậy, quý vị muốn phán đoán một người có thật sự vãng sanh hay không, hãy xem lúc lâm chung người ấy có tỉnh táo hay không, có thể [dựa vào đó] để phán đoán gần đúng tám chín phần trong mười phần. Khi lâm chung bị đau khổ là không được rồi!
Trong quá khứ, khi tôi xuất gia chưa được bao lâu, Phó Hội Trưởng Cư Sĩ Lâm của Hội Niệm Phật chùa Lâm Tế tại Viên Sơn[68] vãng sanh, tướng trạng rất tệ. Ông ta bình thường hướng dẫn người khác niệm Phật, đến khi chết đau khổ cực điểm. Chẳng những chính mình không thể niệm Phật, mà người khác niệm Phật cho ông ta nghe, ông ta còn chửi họ. Khi ấy, hết thảy Phật hiệu đều cự tuyệt, chẳng nghe, quý vị nói xem còn có cách gì nữa đây! Nghiệp chướng quá nặng! Chúng tôi trông thấy hiện tượng này, mới hiểu vãng sanh chẳng dễ dàng! Từ cổ đến nay, tổ sư đại đức dạy chúng ta tu phước, tu phước báo chẳng cần hưởng phước, để dành đến lúc lâm chung phước báo hiện tiền, tâm chẳng điên đảo, có thể chọn lựa thế giới Cực Lạc để an ổn vãng sanh. Hiện thời, trong thế gian này, cắn chặt răng chịu khổ đôi chút, coi sự khổ ấy chẳng thấm vào đâu, đời đời kiếp kiếp đều bị những nhân tố ấy làm hỏng đại sự của chính mình, đời này giác ngộ rồi, phải nên quay đầu! Do vậy, phải sốt sắng tu phước, nhưng chớ nên hưởng phước, phải mở rộng tâm lượng của chính mình, phải buông xuống hết thảy các duyên, tự bỏ vạn duyên. Trừ phi quý vị chẳng nhất tâm, hễ nhất tâm, đương nhiên sẽ bỏ được! Trong tâm có vướng mắc sẽ chẳng phải là nhất tâm trì danh. Trong nhất tâm trì danh, chắc chắn không có một vọng niệm nào, không có tơ hào vướng mắc nào! Bố Thí Ba La Mật của quý vị được viên mãn, tức là tu tâm bố thí. Nhất tâm trì danh, tam nghiệp tự nhiên thanh tịnh, đấy là Trì Giới Ba La Mật. Nhất tâm trì danh, chắc chắn quý vị chẳng tranh chấp với người khác, “đối với người chẳng tranh, đối với cõi đời chẳng cầu”, đấy là Nhẫn Nhục Ba La Mật. Niệm niệm tiếp nối, đấy là Tinh Tấn Ba La Mật.
Pháp môn Niệm Phật thật sự đơn giản, nhưng trọng yếu, danh xứng với Thật, chẳng sai chút nào! Ai cũng có thể tu, ai cũng có thể thành tựu, tùy thuộc quý vị có chịu tu hay không! Nói cách khác, Vô Thượng Bồ Đề ai nấy đều có phần. Đừng nghĩ ta rất ngu si, rất nghèo hèn, không ai chẳng có phần! Pháp này thích hợp khắp ba căn, thâu tóm độn căn lẫn lợi căn. Nói thành thật, kẻ nghèo túng hèn kém đâm ra dễ thành công hơn, vì sao? Họ bỏ dễ dàng, chẳng có phiền não! Càng giàu có, sang trọng, càng khó tu pháp môn này! Vướng mắc càng nhiều, không buông xuống được! Do vậy, phải xả, phải bỏ sạch, bỏ gì? Bỏ những thứ gây chướng ngại vãng sanh, những thứ ấy quý vị không bỏ được! Chúng đều là những thứ gây chướng ngại vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chuyện này phiền phức to lớn; do vậy, giác ngộ chính là giác ngộ chuyện này!
(Sớ) Tức tiền Đại Bổn, Quán Kinh, giảo nhi luận chi.
(疏) 即前大本觀經,較而論之。
(Sớ: Trên đây là so sánh để định luận Đại Bổn A Di Đà Kinh và Quán Kinh).
Chữ “tức tiền” chỉ đoạn lời tựa ở phía trên, Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ, Quán Kinh là Thập Lục Quán Kinh. Gộp cả ba kinh Tịnh Độ lại để nhìn, so sánh chúng để nói.
(Sớ) Tri trì danh vưu vi yếu ước dã.
(疏) 知持名尤為要約也。
(Sớ: Biết trì danh thật là tinh yếu, đơn giản vậy).
Đây mới là thật sự phát hiện phép Trì Danh thật là đơn giản, thật khẩn yếu, giản ước.
(Sớ) Quảng đại giả, dĩ tứ thập bát nguyện, bình bao u hiển, thống quát thánh phàm, quảng đại khôi hoằng, mang vô bạn ngạn, nhập chi tất hữu diêu tiệm, cố quý tri tiên.
(疏) 廣大者,以四十八願,帡包幽顯,統括聖凡,廣大恢宏,茫無畔岸,入之必有繇漸,故貴知先。
(Sớ: “Rộng lớn” là do bốn mươi tám nguyện phủ trọn u, hiển, gồm hết thánh, phàm, rộng lớn, bao la, mênh mông không bờ bến, vào trong ấy ắt sẽ có thể chứng nhập dần dần; vì thế, cốt yếu là phải biết điều nào là cần kíp trước tiên).
Mấy câu này nói về kinh Vô Lượng Thọ, tức [A Di Đà] Đại Kinh. Trong Đại Kinh, chúng ta có thể thấy được sự vĩ đại của A Di Đà Phật, mười phương ba đời hết thảy chư Phật chẳng thể sánh bằng, đạo lý này hết sức hiển nhiên. Từ kinh luận, chúng ta đọc thấy [chuyện như thế này] rất nhiều: Hễ nói đến thành Phật, bất luận là luận theo mặt Sự hay nói theo mặt Lý, không gì chẳng phải là phá sạch hai thứ chấp, tức là đoạn sạch Ngã Chấp, Pháp Chấp cũng phải đoạn hết, Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh thảy đều đoạn sạch, chứng trọn vẹn ba đức (Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát), đó gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tám vạn bốn ngàn pháp môn chỉ là những mánh khóe nhằm tu chứng mà thôi, bất luận dùng phương pháp nào cũng đều có thể thành Vô Thượng Đạo. Lục Ba La Mật, tùy tiện dùng điều nào cũng đều được cả! Ví như dùng Bố Thí, tức Xả, ta có thể bỏ sạch Ngã Chấp lẫn Pháp Chấp; Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh đều bỏ sạch, sẽ thành Phật. Pháp môn nào cũng được, pháp môn bình đẳng, tuy khác đường lối nhưng cùng về một nơi. Sau khi thành Phật, Phật Phật đạo đồng, trí huệ, đức tướng hoàn toàn chẳng khác nhau!
Thế nhưng, hết thảy chư Phật lúc tu nhân phát tâm mỗi vị mỗi khác. Hiện thời, chúng ta phát tâm quá bé, chẳng những không thể gọi là Bồ Đề tâm, mà chúng ta phát ra cái tâm “công lợi”[69], vì sao chúng ta học Phật? Hy vọng “lìa khổ, được vui”. Lìa khổ, được vui là cái tâm công lợi. Hiện tại chúng ta khổ quá, hy vọng cuộc sống thoải mái một chút, hy vọng học Phật có thể phát tài, hy vọng học Phật sẽ có thể trường thọ, hy vọng học Phật người nhà được bình an, vì những lẽ đó. Nói cách khác, từ trước đến nay, chưa hề phát tâm liễu sanh tử, thoát tam giới, không hề có! Miệng đúng, tâm sai, miệng nói ta muốn thoát tam giới, nhưng tâm chẳng hề mong thoát khỏi tam giới. Miệng nói muốn vãng sanh, chúng ta đả Phật thất tại đây, bảy ngày sẽ vãng sanh, chẳng một ai đến cả. Không được đâu! Bảy ngày sau sẽ chết, mạng tôi còn dài lắm! Chẳng có ai đến hết, miệng đúng, tâm sai!
Chúng ta thấy Lục Tổ phát tâm quá hy hữu! Theo Đàn Kinh chép, Ngài đến núi Hoàng Mai, Ngũ Tổ hỏi Ngài: “Ngươi đến để làm gì?” Ngài thưa: “Con đến làm Phật!” Không cầu chi khác, chỉ muốn đến làm Phật! Phát tâm như vậy, khẩu khí như thế đó, đúng là từ trước đến giờ chúng ta chưa hề thấy, chưa hề nghe nói tới. Điều này thật sự chẳng thể nghĩ bàn, khiến cho người khác kính phục; nhưng đem so Lục Tổ với A Di Đà Phật, Lục Tổ sai kém quá xa! Lục Tổ nói “con đến làm Phật”, rất mơ hồ, không rõ ràng cho lắm. Bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật, mỗi một điều đều rất cụ thể, rất thực tế, Lục Tổ chẳng thể nào sánh bằng được! Nhìn như vậy thì tuy Phật Phật đạo đồng, nhưng do khi tu nhân phát tâm khác nhau, phát tâm nhất định có kết pháp duyên. Do phát tâm khi tu nhân, mỗi một vị Phật kết pháp duyên với hết thảy chúng sanh khác nhau.
Bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật quá sức rộng lớn. Phát tâm trong khi tu nhân đã phát ra cái tâm ấy, quả thật rất khó có, thật sự chẳng dễ dàng! Chúng ta đọc kinh Vô Lượng Thọ, đọc bốn mươi tám nguyện phải thấu hiểu được một chút ý nghĩa, tâm ấy quả thật đại từ bi, quá thanh tịnh, quá rộng lớn, không ai sánh bằng! Chúng ta cũng có cái tâm thanh tịnh ấy, cũng có lòng từ bi ấy, cũng có cái tâm rộng lớn ấy, nhưng không phát được, vì sao không phát được? Bị vô minh mê hoặc, bị nghiệp chướng gây chướng ngại, tuy có, chẳng thể hiển lộ, chẳng phát ra được!
(Diễn) U hiển thánh phàm giả, u chỉ tam đồ, hiển chỉ nhân thiên, thánh chỉ tam thừa, phàm chỉ lục đạo.
(演) 幽顯聖凡者,幽指三途,顯指人天,聖指三乘,凡指六道。
(Diễn: “U hiển thánh phàm”: “U” chỉ tam đồ, “hiển” chỉ trời người, “thánh” chỉ tam thừa, “phàm” chỉ sáu đường).
Bốn mươi tám nguyện bao gồm trọn khắp, hữu tình chúng sanh trong chín pháp giới đều được bao gồm trong ấy. Quý vị thấy tâm người ta lớn dường ấy! Tôi thường khuyến khích các đồng tu cầu vãng sanh, nhất định phải bắt đầu bằng tu cái tâm bình đẳng. Bắt đầu tu cái tâm bình đẳng từ đâu? Từ oán thân bình đẳng, chướng ngại trong tâm lượng của chúng ta mới có thể trừ sạch. Oán thân là bất bình đẳng lớn nhất! Nếu tâm quý vị trọn chẳng dung nạp kẻ oan gia đối đầu, làm sao quý vị có thể dung nạp Tam Thừa lục đạo? Ắt phải trừ sạch [những quan niệm, chấp trước oán thân]! Trừ sạch sẽ khiến cho chính quý vị mau chóng thành Phật. Quý vị có thể chướng ngại kẻ oán gia đối đầu hay không? Chẳng thể chướng ngại hắn! Thật ra, hắn cũng chẳng thể chướng ngại quý vị! Tự mình sanh chướng ngại, đáng thương thay! Ngẫu Ích đại sư nói rất hay: “Cảnh duyên vô hảo xú”, tức là cảnh giới bên ngoài không có tốt hay xấu, chẳng có thiện hay ác, chúng đều là trung lập. Hết thảy thiện, ác, tốt, xấu đều do cái tâm của chính mình sanh ra, chính mình chướng ngại chính mình. Nói ngược lại sẽ là: Chính mình thành tựu chính mình. Do vậy, nghiệp chướng quyết chẳng phải do người bên ngoài chướng ngại mình. Nếu quý vị nói người ngoài chướng ngại mình, tức là trên chướng lại chồng thêm chướng, đã mê càng thêm mê, bên ngoài làm sao có thể chướng ngại quý vị được? Nếu người ngoài có thể chướng ngại khiến quý vị chẳng thành tựu, hay người bên ngoài thật sự có thể giúp đỡ quý vị, mười phương chư Phật đại từ đại bi cũng giúp cho quý vị thành Phật rồi! Chính là vì chư Phật Như Lai chẳng thể giúp quý vị thành Phật, yêu ma quỷ quái cũng chẳng thể chướng ngại quý vị thành Phật. Chướng ngại không được! Nói chung, chuyện này là chuyện của chính mình.
Trong Đàn Kinh, Lục Tổ nói rất hay: “Người học Phật phải tự ngộ, tự tu, tự chứng”, chẳng phải là người khác giúp quý vị thành tựu! Do vậy mới nói: “Mười phương ba đời chư Phật chẳng độ chúng sanh”. Thật đấy! Phật chẳng độ chúng sanh, vì quý vị tự độ! Quý vị tự ngộ, tự tu, tự chứng, tự độ, Phật đâu có độ quý vị? Phật chỉ làm Tăng Thượng Duyên cho chúng ta mà thôi, nhắc nhở bản thân chúng ta hãy [tự ngộ, tự tu, tự chứng], tự mình làm như vậy thì mới có thể tự độ. Do vậy, thành công hay thất bại hoàn toàn do mình chịu trách nhiệm! Người giác ngộ, kẻ hiểu rõ, quyết chẳng oán trời hờn người. Nay chúng ta từ phải trừ sạch tội chướng trong tâm từ vô thỉ kiếp đến nay, tội chướng lớn nhất là bất bình đẳng. Quý vị vốn có Bình Đẳng Tánh Trí, nhưng do quý vị không bình đẳng, nó chuyển biến thành Mạt Na thức. Nay học Phật, Phật bảo quý vị chuyển thức thành trí; khi mê bèn chuyển trí thành thức, chúng ta biến thành tình trạng như hiện tại. Sau khi giác ngộ, chuyển thức thành trí, khôi phục diện mục vốn có của chúng ta, đó mới gọi là học Phật.
Tôi thường khuyên người ta, đối với kẻ oán gia đối đầu số một, hãy viết một tấm Trường Sanh Lộc Vị cho hắn, đem thờ bên cạnh tượng Phật, mỗi ngày sáng tối lễ Phật đều lễ hắn, coi hắn như Phật vậy, quý vị có chịu làm hay không? Quý vị không chịu làm, tội chướng của chính mình đừng mong dẹp trừ! Có người cũng làm theo, làm được mấy ngày, đến nói với tôi: “Không được rồi! Tâm sân của con vẫn còn, thấy kẻ ấy vẫn nổi nóng, làm sao bây giờ?” Tôi bảo anh ta: “Anh mới thờ mấy bữa, công phu chưa đến mức! Đối đãi với kẻ oán gia đối đầu như Phật, Bồ Tát, tâm sẽ bình. Tâm bình khí hòa, thân thể cũng khỏe mạnh, công phu tăng tấn, hết sức khẩn yếu!”
Mấy câu tiếp theo đây nói về tâm lượng rộng lớn, nguyện lực vô cùng. Dưới đây là mấy câu hết sức trọng yếu!
(Sớ) Cố quý tri tiên.
(疏) 故貴知先。
(Sớ: Cho nên điều cốt yếu là phải biết đâu là chuyện cần kíp trước tiên).
Đây là nói: Học Phật thì trước tiên là phát đại nguyện, trước tiên phải phát đại tâm.
(Sớ) Truyền viết: “Tri sở tiên hậu, tắc cận đạo hĩ”.
(疏) 傳曰:知所先後,則近道矣。
(Sớ: Có lời dạy rằng: “Biết trước sau thì gần với đạo vậy”).
Đây là lời Khổng lão phu tử nói. Câu này trích từ Luận Ngữ. “Truyền” (傳) là lời hay đẹp, cách ngôn của tiền nhân để lại. Quý vị biết chuyện nào trước, chuyện nào sau, thì sẽ gần với đạo. Do vậy, người học đạo, trước hết phải mở rộng tâm lượng, trước hết phải phát đại nguyện. Ngày nay, có rất nhiều người trong chúng ta phát nguyện giả dối, là vọng ngữ, cứ một lần phát nguyện là một lần tạo tội nghiệt. “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, nguyện ấy lớn lắm! Ta vẫn còn có kẻ thù, hễ trông thấy là nổi nóng, ta độ chúng sanh, ta chẳng độ kẻ ấy! Đủ thấy nguyện ấy là vọng ngữ, mỗi lần phát nguyện là một lần gây trọng tội, tự mình tạo nghiệp chướng mà chẳng hiểu! Trong tương lai, gặp vua Diêm La, vua Diêm La phán tội vào địa ngục, nói kẻ ấy phạm tội, [liền cãi] “tôi đâu có tội!” Đâu có biết hằng ngày khởi vọng ngữ là tội.
Quen thói trở thành tự nhiên, chẳng biết chính mình đang tạo tội :
Hằng ngày đối trước Phật, Bồ Tát, buổi sáng dối gạt một lần, buổi tối dối gạt lần nữa, làm sao không có tội? Buổi sáng quý vị đọc Tam Quy Y, buổi tối đọc Tam Quy Y, Tam Quy Y là quy y Phật, Phật là giác chứ không mê, nhưng chính mình hằng ngày vẫn đang mê chẳng giác, hết cách rồi! Lần này, tôi lưu thông cuốn Thích Môn Pháp Giới Lục, trong ấy chỉ có một trăm hai mươi bốn điều, đính kèm phần trích lục pháp ngữ của Liên Trì đại sư, quý vị đọc kỹ sẽ hiểu. Trong ấy có những tấm gương: Có người xuất gia chết đi bị vua Diêm La lôi ra thẩm vấn, người ấy cứ ngỡ mình chẳng có tội lỗi gì, kết quả khi bị vua Diêm La moi ra từng điều một, hoàn toàn là tội lỗi. Do vậy, nhất định phải tin tưởng nhân quả.
Đại sư nói rất đúng, trước hết, phải phát đại nguyện, pháp môn này lấy Tín, Nguyện, Hạnh làm ba món tư lương. Điều đầu tiên là phải mở rộng tâm lượng, “tâm bao khắp thái hư, lượng trọn khắp các cõi nước nhiều như cát”, có thể thật sự phát tâm to lớn ngần ấy, thì nguyện lực của quý vị và nguyện lực của A Di Đà Phật sẽ chẳng sai khác cho mấy. Công phu chẳng bằng Ngài, nhưng tâm lượng của ta chẳng nhỏ hơn Ngài. Thật đấy, chẳng giả đâu! Có thể dung người, có thể bao hàm người khác thì hạng người ấy có phước.
“Tiên hậu”: Trước phát nguyện, sau trì danh. Phát nguyện là chân tâm hiện tiền, trì danh là niệm niệm gọi ra chân tâm. A Di Đà Phật là vô lượng giác tâm, giác là chân tâm, mê là vọng tâm. Nếu biết trước sau thì sẽ gần với đạo. Câu nói này của Khổng lão phu tử có tánh nguyên tắc, bất luận dùng vào đâu cũng đều thích đáng; nếu áp dụng vào pháp môn niệm Phật thì đạo này sẽ là vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Vô Thượng Bồ Đề đại đạo.
(Sớ) Thâm huyền giả.
(疏) 深玄者。
(Sớ: Sâu thẳm u huyền là…)
Bắt đầu từ chỗ này, dùng Quán Kinh để so sánh.
(Sớ) Dĩ môn phân thập lục.
(疏) 以門分十六。
(Sớ: Do môn quán tưởng này được chia thành mười sáu pháp).
Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh chia thành mười sáu phép Quán.
(Sớ) Sự phỉ nhất đoan, nhi phục diệu quán tinh vi, sơ tâm mị cập, thao chi tất đắc kỳ yếu, cố ưng thủ ước.
(Diễn) Sơ tâm mị cập giả, Diệu Tông Sao vân: “Quán tuy thâm diệu, bổn bị sơ tâm, nhược năng tấn công, hà ưu bất tựu?”
(疏) 事匪一端,而復妙觀精微,初心靡及,操之必得其要,故應守約。
(演) 初心靡及者,妙宗鈔云:觀雖深妙,本被初心,若能進功,何憂不就。
(Sớ: Sự chẳng phải chỉ có một mối, phép Quán mầu nhiệm lại tinh vi, hàng sơ tâm chẳng thể thực hiện được. Hễ tu tập, ắt phải nhận biết chỗ quan trọng, vì thế, phải nên chọn lấy cách giản ước.
Diễn: “Hàng sơ tâm chẳng thể thực hiện được”: Sách Diệu Tông Sao viết: “Phép Quán tuy sâu mầu, nhưng cũng thích hợp cho hàng sơ tâm. Nếu có thể gắng công, lo gì chẳng thành tựu?”)
Đây lời Trí Giả đại sư nói khi chú giải Quán Kinh. Trong phần trên đã có nói pháp Quán gồm Thứ Đệ Tam Quán và Nhất Tâm Tam Quán. Pháp Quán tuy sâu mầu, nhưng chiếu theo Lý để nói thì người mới phát tâm cũng có thể tu tập được. Ngài vốn cũng vì hàng sơ phát tâm mà nói, tuân theo thứ tự định sẵn, từ cạn đến sâu, “nhược năng tấn công”, “tấn” (進) là tinh tấn, “công” (功) là công phu. Nếu có thể tinh tấn thì “hà ưu bất tựu” (lo gì chẳng thành tựu), “tựu” (就) là thành tựu. Lẽ đâu chẳng thành tựu?
(Diễn) Nhi đại sư như thử thuyết giả.
(演) 而大師如此說者。
(Diễn: Nhưng đại sư nói như vậy).
Chữ “đại sư” chỉ Liên Trì đại sư, Ngài nói hàng sơ phát tâm sợ chẳng thể tu tập được [các phép Quán] vì hai ý nghĩa như sau:
(Diễn) Nhất giả, dĩ kim chánh kiến lập Trì Danh pháp môn cố.
(演) 一者,以今正建立持名法門故。
(Diễn: Một là vì nay đang kiến lập pháp môn Trì Danh).
Vì pháp được lão nhân gia đề xướng là Trì Danh Niệm Phật. Trì
Danh Niệm Phật dễ dàng hơn pháp Quán rất nhiều.
(Diễn) Nhị giả, sơ tâm diệc thậm bất đồng, hữu cụ túc viên giải chi sơ tâm, nãi chí hữu mang nhiên vị thức chi sơ tâm cố.
(演) 二者,初心亦甚不同,有具足圓解之初心,乃至有茫然未識之初心故。
(Diễn: Hai là vì hàng sơ tâm hết sức khác nhau. Có người là sơ tâm nhưng trọn đủ sự hiểu biết trọn vẹn, cho đến có hàng sơ tâm hoang mang chẳng hiểu biết gì).
Lời này hết sức có lý. Kẻ sơ phát tâm thật sự chẳng giống nhau. Lấy Tứ Giáo của tông Thiên Thai để luận định thì Sơ Phát Tâm trong Tạng, Thông, Biệt, Viên khác nhau. Có người nghe kinh Hoa Nghiêm nói tới hàng Sơ Tín Bồ Tát, Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, rất nhiều đồng tu đến hỏi tôi: “Chúng con hiện thời có được coi là Sơ Tín Bồ Tát hay không?” Kinh Hoa Nghiêm là Viên Giáo.
Trong kinh giảng rất rõ ràng điều kiện để thuộc về hàng Sơ Tín Bồ Tát của Viên Giáo. Điều kiện gì vậy? Tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới đã đoạn sạch thì mới gọi là Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín. Chúng ta xem nhé, tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc đoạn sạch thì giống như Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa. Nếu Tiểu Thừa của Tu Đà Hoàn hồi Tiểu hướng Đại, hướng tới Viên Giáo, họ sẽ là Sơ Tín vị Bồ Tát, chúng ta đâu có đủ tư cách! Nếu nói theo Tạng Giáo, đại khái là không sai khác lắm. Chúng ta là hạng Sơ Phát Tâm mơ mơ màng màng, mờ mịt chẳng hiểu biết như vậy thì cũng có thể nói quý vị là hàng Sơ Phát Tâm Bồ Tát trong Tạng Giáo. Do vậy, Sơ Phát Tâm chẳng dễ dàng đâu nhé!
Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, bắt đầu tin tưởng vào Đại Thừa, bắt đầu tin tưởng thì đương nhiên là sơ tâm, nhưng điều kiện cao lắm. Địa vị Kiến Đạo trong Đại Thừa là phải phá một phẩm vô minh, thấy một phần chân tánh. Do vậy, chuẩn mực này là cao nhất. Địa vị Bồ Tát được nói trong kinh Kim Cang giống như Đại Thừa Khởi Tín Luận, đấy là tiêu chuẩn cao nhất. Địa vị Sơ Phát Tâm Bồ Tát trong bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ chính là Sơ Trụ trong Viên Giáo. Do vì Sơ Phát Tâm khác nhau, “sơ tâm diệc thậm bất đồng” (sơ tâm hết sức khác nhau), chẳng thể nói hàm hồ, luông tuồng: Chúng ta đều gọi là Sơ Phát Tâm, chẳng thể nói như vậy được! “Hữu cụ túc viên giải chi sơ tâm” (có hàng sơ tâm trọn đủ sự hiểu biết trọn vẹn) chính là Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo. Đối với Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo thì không có vấn đề gì, đừng nói là Thứ Đệ Tam Quán, ngay cả Nhất Tâm Tam Quán, Ngài đều có thể tu, có thể học được, chỉ cần người ấy thật sự tinh tấn không biếng nhác, quả thật sẽ thành tựu. Thế nhưng, đối với hết thảy những kẻ sơ tâm vô tri mờ mịt Phật pháp, bảo họ tu pháp môn Niệm Phật thì được! Quả thật dễ dàng, chứ giảng những lý luận, phương pháp và cảnh giới trong Thập Lục Quán Kinh cho họ, sợ rằng họ nghe không hiểu, vì kinh ấy thật sự có mức độ khá sâu.
“Thao chi tất đắc kỳ yếu, cố ưng thủ ước”: Ý nói chúng ta thật sự muốn đạt được công đức, lợi ích chân thật trong Phật pháp, thành tựu công đức và lợi ích chân thật ngay trong một đời thì quý vị nhất định phải hiểu đạo lý này. Nếu chẳng thành tựu trong một đời này, bất luận đạt được lợi ích như thế nào cũng đều uổng công. Quý vị đắc Thiền Định hay khai ngộ cũng thế, đều vô ích, hễ đầu thai lại bị mê muội khi cách ấm. Do vậy, công đức lợi ích thật sự là trong Tây Phương Tịnh Độ. Thật sự sanh về Tây Phương Tịnh Độ mới được coi là thật sự đạt được công đức, lợi ích. Trừ điều này ra, những thứ khác đều chẳng thể gọi là công đức lợi ích chân thật, chúng ta phải đặc biệt chú ý điều này.
Những gì chúng ta đạt được trước mắt toàn là cảnh giới trong mộng; nếu thật sự giác ngộ, chúng hoàn toàn rỗng tuếch! Tuy nay vẫn còn chưa chết, chết rồi mới hiểu cổ nhân nói “vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân” (mọi thứ không mang được, chỉ có nghiệp theo thân), không mang theo được thứ gì hết! Thế nhưng chúng ta có giác ngộ hay không? Mỗi ngày, tối đến quý vị đi ngủ là một lần chết nhẹ nhàng, cứ cách vài tiếng đồng hồ quý vị phải chết nhẹ nhàng một bận, quý vị có giác ngộ hay chưa? Quý vị ngủ say vùi, có đem theo thứ gì vào dùng trong mộng được hay chăng? Chẳng mang theo gì cả! Không có thứ gì là của quý vị, ngay cả thân thể, quý vị ngủ rồi, người ta khiêng cái thân quý vị đi, quý vị cũng không biết, thân chẳng phải là chính mình, huống hồ vật ngoài thân! Mỗi ngày tỉnh giấc phải khéo suy nghĩ một phen, thế gian này chẳng có thứ gì là của chính mình, quý vị phải thường nghĩ đến điều này, quý vị sẽ giác ngộ, mà cũng chẳng còn tạo tội nghiệp nữa!
Chính mình chẳng kiếm phiền phức cho chính mình, sau đấy, quý vị mới giác ngộ rằng: Hết thảy người trong thế gian và xuất thế gian cũng không có cách nào tạo phiền phức cho quý vị được, mà cũng chẳng có cách nào giúp đỡ quý vị. Tự mình giúp chính mình, mà tự mình cũng chướng ngại chính mình. Trong Phật pháp có câu “vô y đạo nhân”, tức là không dựa dẫm, không ỷ lại, chuyện gì cũng cậy vào chính mình thì mới gọi là “vô y đạo nhân”!
Phật pháp dạy chúng ta phải tự mình nương tựa chính mình, chẳng dối người, đó là không mê tín, là chân thật vậy!
(Sớ) Kha thị viết: “Thủ ước nhi thí bác giả, thiện đạo dã”.
(疏) 軻氏曰:守約而施博者,善道也。
(Sớ: Mạnh Kha nói: “Tiết kiệm, nhưng bố thí rộng rãi, thì là thiện đạo”).
Đây là lời Mạnh Tử nói.
(Diễn) Thủ ước vị tu thân.
(演) 守約謂修身。
(Diễn: “Thủ ước” nghĩa là tu thân).
Tự mình phải khắc khổ, phải cần kiệm.
(Diễn) Thí bác vị thiên hạ bình.
(演) 施博謂天下平。
(Diễn: “Bố thí rộng rãi” ý nói: thiên hạ yên bình).
“Thí” (施) là bố thí, chịu hy sinh chính mình để giúp đỡ người khác, ai nấy đều có thể làm như vậy thì thiên hạ thái bình, thiên hạ mới đạt đến công bình. Người khác chưa thể làm, chứ chúng ta nhất định phải làm. Đối với hết thảy mọi người trong thiên hạ, chúng ta đều đối xử bằng tấm lòng bình đẳng, đối đãi bằng cái tâm công chánh. Giản ước là tu phước, cần kiệm là tu phước.
Dùng cái tâm công chánh, tâm công bình, tâm thanh tịnh để đối đãi hết thảy mọi người, đó gọi là Bố Thí.
Đấy là Bố Thí Ba La Mật trong Lục Độ, là thiện đạo, là đạo đạt tốt lành tột cùng, ở đây là nói tới “đạo thành Phật, đạo vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới”. Nếu chúng ta nghe hiểu, thật sự hiểu rõ, từ hôm nay trở đi, hãy thực hiện đúng như thật, quý vị sẽ đạt được đạo thành Phật và đạo vãng sanh Tây Phương. Nếu chịu làm theo, chịu tu theo; sau đấy mới có thể thành đạo. Hôm nay hết giờ rồi, chúng tôi giảng đến chỗ này.