A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA
QUYỂN 1 – Tập 25-30
Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong
— o0o —
Tập 25
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, trang ba mươi:
(Sớ) Vân hà tri tiên, diêu sanh bỉ quốc, cận sự Như Lai, như thị đại nguyện, thứ khả hy ký, đản đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ? Cố dĩ cầu nguyện vãng sanh vi tiên vụ chi cấp dã.
(疏) 云何知先,繇生彼國,近事如來,如是大願,庶可希冀,但得見彌陀,何愁不開悟,故以求願往生為先務之急也。
(Sớ: “Biết điều cần kíp trước hết” là như thế nào? Do sanh về cõi ấy, gần gũi phụng sự Như Lai, mới hòng thỏa đại nguyện như vậy. Chỉ được thấy Di Đà, lo gì chẳng khai ngộ? Vì thế, cầu nguyện vãng sanh là chuyện cấp bách phải lo toan trước hết).
Vì sao gọi “tri tiên”? Lần khai thị này hết sức quan trọng, vì chúng ta ở trong thế giới này, đừng nói là chứng quả, ngay cả khai ngộ cũng khó lắm. Vì sao? Ngộ môn bị Nhị Chướng (Phiền Não Chướng, Sở Tri Chướng) và Nhị Chấp (Ngã Chấp, Pháp Chấp) ngăn lấp. Phiền Não Chướng không chỉ chướng ngại Niết Bàn mà còn chướng ngại Bồ Đề. Chướng ngại Bồ Đề tức là chướng ngại ngộ tánh và giác tánh của quý vị. Sở Tri Chướng chướng ngại Bồ Đề, mà cũng chướng ngại Niết Bàn. Niết Bàn là chứng quả, Bồ Đề là đại triệt đại ngộ. Hai thứ chướng ngại này chẳng dễ đoạn trừ. Chẳng trừ Nhị Chướng mà muốn khai ngộ, chẳng có cách nào hết! Ở đây, đại sư khuyến khích chúng ta phải “tri tiên vụ chi cấp” (biết chuyện nào là chuyện cần phải làm gấp trước hết): “Vụ” (務) là chuyện phải làm, chúng ta phải làm chuyện này trước hết, mà còn phải làm cho nhanh, chuyện gì vậy? Phát nguyện vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ.
Do vậy, hai chữ “tri tiên” rất quan trọng. “Diêu sanh bỉ quốc, cận sự Như Lai” (do sanh về cõi ấy, gần gũi, phụng sự Như Lai): Chúng ta chỉ mong sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân cận A Di Đà Như Lai thì mới có hy vọng thật sự thực hiện trọn vẹn Tứ Hoằng Thệ Nguyện!
Đúng như cổ nhân đã nói: “Đản đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ” (Chỉ được thấy Di Đà, lo gì chẳng khai ngộ). Trong đoạn Diễn Nghĩa này, [pháp sư Cổ Đức] là đã dẫn lời Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư, mấy câu kệ ấy hết sức nổi tiếng, bài kệ ấy được gọi là Tứ Liệu Giản.
(Diễn) Vĩnh Minh Tứ Liệu Giản vân: “Vô Thiền, vô Tịnh Độ, thiết sàng tịnh thiết ma, vạn kiếp dữ thiên sanh, một cá nhân y hỗ”.
(演) 永明四料簡云:無禪無淨土,鐵床并鐵磨,萬劫與千生,沒個人依怙。
(Diễn: Bài Tứ Liệu Giản của tổ Vĩnh Minh có đoạn: “Không Thiền, không Tịnh Độ, giường sắt và cối sắt, không một ai nương tựa”).
Thiền lẫn Tịnh đều chẳng có, nếu quý vị tu những pháp môn khác, sợ rằng chẳng thể thành tựu! Nếu chẳng thể thành tựu, sẽ không có cách gì tránh khỏi tam ác đạo được!
(Diễn) Vô Thiền, hữu Tịnh Độ. Vạn tu, vạn nhân khứ, đản đắc kiến Di Đà, hà sầu bất khai ngộ?
(演) 無禪有淨土 ,萬修萬人去 ,但得見彌陀,何愁不開悟。
(Diễn: Không Thiền, có Tịnh Độ. Vạn tu, vạn người đến. Chỉ được thấy Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ?)
Chúng ta hãy nên để hết những chuyện chứng quả, khai ngộ bên Tây Phương Cực Lạc thế giới, hãy vãng sanh trước hết. Do vậy, nói: “Cầu nguyện vãng sanh vi tiên vụ chi cấp” (cầu nguyện vãng sanh là chuyện trước hết phải làm gấp). Chuyện trước hết phải làm gấp là như Mạnh Tử đã nói:
(Diễn) Mạnh Tử vân: “Tri giả, vô bất tri dã. Đương vụ chi vi cấp, Nghiêu Thuấn chi tri, nhi bất biến vật, cấp tiên vụ dã”.
(演) 孟子云:知者,無不知也,當務之為急。堯舜之知,而不遍物,急先務也。
(Diễn: Mạnh Tử nói: “Biết tức là không gì chẳng biết. Nghiêu – Thuấn biết chuyện gấp rút phải làm, nhưng không thể làm hết mọi việc [cùng một lúc] được, nên lo liệu những chuyện cần làm gấp trước”).
“Tri” (知) là hiểu rõ hết thảy mọi thứ. “Vụ” (務) nói theo cách bây giờ là những chuyện phải làm. Chuyện khẩn yếu nhất trong những thứ phải làm thì gọi là “đương vụ chi cấp”. Trong kinh này, chuyện “cần phải làm gấp” chính là cầu vãng sanh. Muốn cầu vãng sanh, niệm một câu Phật hiệu đến rốt ráo là được rồi, chuyện này quan trọng hơn bất cứ chuyện nào khác.
Tiếp theo đây, Tổ giảng chữ “thủ ước”. Trong phần trên, chúng ta đã hiểu nhiệm vụ cần làm gấp chính là phải cầu vãng sanh, làm như thế nào mới có thể thật sự đạt được mục đích vãng sanh? Vậy thì tiếp theo đây, chúng ta phải “thủ ước” (chọn lấy cách giản ước).
(Sớ) Vân hà thủ ước? Lương dĩ Quán tuy thập lục, ngôn Phật tiện châu. Phật tuy chí cực, duy tâm tức thị. Kim văn Phật danh, nhất tâm chấp trì, khả vị chí giản, chí dị, công bất phiền thi, nhi vạn pháp duy tâm, tâm thanh tịnh cố, hà sự bất biện?
(Diễn) “Quán tuy thập lục, ngôn Phật tiện châu” giả, Thập Lục Quán Kinh, đề viết Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh giả, dĩ thập lục Quán pháp, bất xuất y, chánh, chủ, bạn.
(疏) 云何守約,良以觀雖十六,言佛便周。佛雖至極,惟心即是。今聞佛名,一心執持,可謂至簡至易,功不繁施。而萬法惟心,心清淨故,何事不辦。
(演) 觀雖十六,言佛便周者,十六觀經,題曰觀無量壽佛經者,以十六觀法,不出依正主伴。
(Sớ: “Giữ lấy cách giản ước” là như thế nào? Ấy là vì tuy có mười sáu phép Quán, nhưng nói “Phật” là đã trọn đủ. Phật tuy là tột bậc, nhưng tâm chính là Phật. Nay nghe danh hiệu Phật, nhất tâm chấp trì, có thể nói là đơn giản nhất, dễ dàng nhất, thực hiện chẳng rắc rối gì; nhưng vạn pháp duy tâm, tâm đã thanh tịnh thì có chuyện gì mà chẳng hoàn tất được?
Diễn: “Tuy có mười sáu phép Quán, nhưng nói tới Phật là đã trọn đủ”: Tựa đề của Thập Lục Quán Kinh là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, vì mười sáu phép Quán chẳng ra ngoài y báo, chánh báo, chủ, bạn).
Mười sáu phép Quán chẳng ra ngoài y báo và chánh báo của thế giới Cực Lạc. “Chủ” (主) là giáo chủ A Di Đà Phật, “bạn” (伴) là các vị thượng thiện nhân.
(Diễn) Phật thị chánh báo, cử chánh túc dĩ nhiếp y, nhật, địa,
hàng thụ, bảo trì đẳng, vô bất nhiếp cố.
(演) 佛是正報,舉正足以攝依。日、地、行樹、寶池等,無不攝故。
(Diễn: Phật là chánh báo, nêu lên chánh báo là đủ để bao gồm y báo, [các phép Quán như] mặt trời, đất, hàng cây, ao báu v.v… không gì chẳng được bao gồm).
Mọi thứ đều được bao gồm trong ấy.
(Diễn) Phật thị hóa chủ, cử chủ túc dĩ nhiếp bạn, Quán Âm, Thế Chí, nãi chí cửu phẩm vãng sanh, vô bất nhiếp cố.
(演) 佛是化主,舉主足以攝伴。觀音、勢至,乃至九品往生,無不攝故。
(Diễn: Phật là hóa chủ, nêu ra chủ đủ để gồm thâu bạn. Từ Quán Âm, Thế Chí cho đến chín phẩm vãng sanh, không gì chẳng thâu gồm).
[Chủ và bạn] cũng đều được bao gồm.
(Diễn) Phật tuy chí cực, duy tâm tức thị giả.
(演) 佛雖至極,唯心即是者。
(Diễn: Phật tuy là chí cực, nhưng tâm chính là Phật).
“Chí cực” là đạt đến địa vị cao tột.
(Diễn) Phật tuy thị vạn đức quả nhân.
(演) 佛雖是萬德果人。
(Diễn: Phật tuy là bậc đắc quả vị vạn đức).
Phật là bậc đã chứng quả, chứng được quả vị rốt ráo, nói theo Lý thì…
(Diễn) Thật bất ly đương nhân hiện kim nhất niệm, dĩ tâm ngoại mịch Phật, tức tà ma cố.
(演) 實不離當人現今一念。以心外覓佛,即邪魔故。
(Diễn: Nhưng thật sự chẳng lìa nhất niệm hiện tiền của hành giả, vì tìm Phật ngoài tâm sẽ chính là tà ma).
Như vậy là sẽ biến thành ma, ma là gì? Ma là thử thách, chướng ngại, ngăn trở quý vị chứng đắc nhất tâm. Bất đắc dĩ phải nói danh từ “nhất tâm”, cho nên tôi khuyên quý vị đừng chấp vào tướng ngôn thuyết, chớ nên chấp trước tướng danh tự thì quý vị mới có thể chứng đắc. Nếu quý vị chấp tướng ngôn thuyết, danh tự, sẽ bị ma dựa. Phật là chân tâm của chính mình, chân tâm là “hiện kim nhất niệm” (nhất niệm hiện tiền). Hiện thời, ý niệm của chúng ta hết sức tạp, rất nhiều tạp niệm đều từ nhất niệm sanh ra. Nhất niệm là căn bản, nhất niệm là chân thật; nhị niệm, tam niệm là vọng tưởng, chẳng chân thật. Nếu có thể bỏ được nhị niệm lẫn tam niệm, khôi phục nhất niệm, chân tâm sẽ hiện tiền.
(Diễn) Chí giản, chí dị giả, nhất tâm chấp trì, chí giản nhi bất phiền, chí dị nhi bất nan, thử thủ ước dã.
(演) 至簡至易者,一心執持,至簡而不繁,至易而不難,此守約也。
(Diễn: “Đơn giản nhất, dễ dàng nhất”: Nhất tâm chấp trì, đơn giản nhất, chẳng rắc rối, dễ dàng nhất, chẳng khó khăn, đây là giữ lấy cách giản ước vậy).
“Thủ ước” (giữ lấy cách hành trì đơn giản) là nhất tâm chấp trì danh hiệu. Nhất tâm là gì? Nói đơn giản, hiện tại chúng ta chẳng khởi lên ý niệm thì thôi! Hễ một ý niệm vừa khởi lên, bèn một câu A Di Đà Phật, đấy gọi là “nhất tâm chấp trì danh hiệu”. Ngàn vạn phần đừng chuyển thành ý niệm nào khác, chuyển thành ý niệm khác là sai! Do vậy, phương pháp này đơn giản, dễ dàng, quyết định thành tựu, tùy thuộc chúng ta trong mười hai thời có chịu làm hay không? Đối với hết thảy pháp, bất luận là pháp thế gian hay Phật pháp, người tu Tịnh Độ tùy phận tu học. “Tùy phận” là tùy duyên, tùy phận chẳng miễn cưỡng tí nào! Chúng ta học rất tự tại, vì sao phải học theo cách này? [Phải học như vậy] thì quý vị mới giữ được nhất tâm để chấp trì danh hiệu; hiểu pháp này là trọng yếu nhất, cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ là hành pháp duy nhất.
Những thứ thuộc về Tông Môn và Giáo Hạ ta hiểu, rất tốt! Không hiểu cũng chẳng sao cả, tạm thời chẳng mong hiểu. Vĩnh Minh đại sư dạy: “Chỉ được thấy Di Đà, lo chi chẳng khai ngộ?” Những thứ thuộc về Tông Môn, Giáo Hạ khi ta sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ thưa hỏi A Di Đà Phật, đấy là tự tại! Cớ gì cứ phải truy cầu không ngừng trong hiện tại, [vì truy cầu sẽ] chướng ngại sự nhất tâm của chính mình, phá hoại chánh niệm của chính mình, kết quả sẽ ra sao? Đôi đằng đều lỡ làng, chẳng khai ngộ, lại chẳng thể vãng sanh, đấy mới là đáng tiếc! Do vậy, phải tùy phận.
Còn một phương thức nữa. Ví như đối với kinh này, trong quá khứ, tôi học giảng kinh đã có kinh nghiệm như sau: Khi chuẩn bị bài giảng, hễ đọc đoạn kinh văn nào giảng không được, tôi bèn tìm tài liệu tham khảo để đọc, mà [đọc rồi] cũng chẳng hiểu. Nếu quý vị khổ sở suy nghĩ, tra cứu, sợ rằng đầu óc sẽ rối tung, làm cách nào đây? Buông xuống hết mọi thứ, điều gì cũng chẳng nghĩ tới nữa! Niệm Phật, lạy Phật, niệm một hai tiếng đồng hồ, tâm niệm rất yên tĩnh; lễ Phật một hai trăm lạy, đột nhiên những ý nghĩa ấy hiện tiền, liền hiểu được ý nghĩa. Mỗi người phát tâm giảng kinh đều có kinh nghiệm này. “Tịnh cực quang thông đạt”, tức là tâm thanh tịnh đã đến mức cùng cực, thần lực của Tam Bảo gia trì, đột nhiên thông suốt ý nghĩa ấy! Do đây có thể biết: Nhất tâm chấp trì hết sức trọng yếu!
(Diễn) Vạn pháp duy tâm giả, cổ vân: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Hựu vân: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo”.
(演) 萬法唯心者,古云:三界唯心,萬法唯識。
又云:應觀法界性,一切唯心造。
(Diễn: “Vạn pháp duy tâm”: Cổ nhân nói: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Lại nói: “Hãy nên quán tánh của pháp giới, hết thảy đều do tâm tạo”).
Kinh Hoa Nghiêm nói như vậy đó.
(Diễn) Tâm thanh tịnh cố, hà sự bất biện giả, ký đắc kỳ bổn, bất sầu kỳ mạt dã.
(演) 心清淨故,何事不辦者。既得其本,不愁其末也
(Diễn: “Tâm thanh tịnh thì có chuyện gì mà chẳng hoàn tất”: Đã đạt được cái gốc, lo chi cái ngọn?)
“Bổn” (本) là tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh hiện tiền, pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều thông đạt chẳng khó khăn gì.
(Diễn) Hạ văn lục cú, chánh thích thử cú chi nghĩa.
(演) 下文六句,正釋此句之義。
(Diễn: Sáu câu dưới đây nhằm giải thích ý nghĩa của câu này).
Sáu câu nào vậy?
(Sớ) Sát-na vận tưởng, y chánh uyển nhiên, cử niệm dục sanh, tiện đăng bỉ quốc, thị tắc nan thành chi Quán, bất tập nhi thành.
(Diễn) Vận tưởng uyển nhiên giả, vị tam-muội ký thành, tưởng hàng thụ tắc hàng thụ minh, tưởng bảo trì tắc bảo trì hiện, tưởng Bồ Tát tắc Bồ Tát tại tiền, tưởng Như Lai tắc Như Lai uyển nhĩ, dĩ tam-muội tâm trung tùy tâm hiện tướng cố.
(疏) 剎那運想,依正宛然,舉念欲生,便登彼國,是則難成之觀,不習而成。
(演) 運想宛然者,謂三昧既成,想行樹則行樹明,想寶池則寶池現,想菩薩則菩薩在前,想如來則如來宛爾,以三昧心中隨心現相故。
(Sớ: Quán tưởng trong khoảng một sát-na, y báo và chánh báo rành rành. Dấy ý niệm muốn vãng sanh, liền lên cõi kia. Đây là phép Quán khó thành, chẳng tu tập mà được thành tựu.
Diễn: “Quán tưởng rành rành” là tam-muội đã thành thì tưởng hàng cây, hàng cây bèn rõ rệt, tưởng ao báu, ao báu bèn hiện, tưởng Bồ Tát, Bồ Tát liền ở trước mặt, tưởng Như Lai thì Như Lai rành rành như vậy. Đó là vì trong tâm tam-muội có thể tùy ý hiện tướng).
Ý nghĩa này rất dễ hiểu!
(Diễn) Cử niệm tiện đăng giả, Giải Thoát trưởng giả ngôn: “Ngã dục kiến A Di Đà Phật, tùy ý tức kiến”, thị dã.
(演) 舉念便登者,解脫長者言,我欲見阿彌陀佛,隨意即見,是也。
(Diễn: “Khởi niệm liền đạt lên”: Trưởng giả Giải Thoát[70] nói: “Tôi muốn thấy A Di Đà Phật, tùy ý liền thấy” là nói về ý này).
Chúng ta đọc thấy điều này trong kinh Hoa Nghiêm. Công phu ấy do niệm Phật mà có. Chỉ cần nhất tâm niệm Phật, niệm đến công phu thành phiến, cảnh giới ấy hiện tiền. Công phu thành phiến có ba bậc, chín phẩm; công phu [thành phiến] thượng thừa sẽ đạt đến cảnh giới này. Ở đây nói là “tam-muội ký thành” (tam-muội đã thành tựu), tiêu chuẩn là Sự nhất tâm bất loạn, nhưng công phu thành phiến thượng thừa đã rất gần với nhất tâm, cảnh giới ấy bèn hiện tiền. Sau đấy, chính quý vị mới thật sự chứng đắc “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, dùng chuyện này để chứng minh. Khi nào muốn thấy Phật, chỉ cần tâm vừa khởi niệm, Phật bèn hiện tiền. Muốn thấy các Bồ Tát, ý niệm vừa dấy, Bồ Tát liền hiện tiền. Đấy chẳng phải là vọng tưởng, mà là chân thật, vì sao chẳng phải là vọng tưởng? Vì quý vị chẳng dùng vọng tâm. Vọng tưởng thì nhất định là dùng tâm ý thức, tức là dùng vọng tâm, còn ở đây là dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm. Chân tâm hiện ra cảnh giới chân thật, vọng tâm hiện ra cảnh giới hư vọng. Do vậy, ở đây chẳng phải là khởi vọng tưởng.
Điều này nói rõ: Quý vị dùng phương pháp nhất tâm chấp trì danh hiệu, sẽ có thể thành tựu cảnh giới giống hệt như trong Thập Lục Quán Kinh. Chỉ cần quý vị niệm đến nhất tâm, cảnh giới trong Thập Lục Quán Kinh sẽ chẳng tu mà tự nhiên hiện tiền. Nếu dùng phương pháp trong Thập Lục Quán Kinh để tu hành, sẽ khá khó khăn, rất khó thành tựu. Chúng ta nhất định phải ghi nhớ kỹ càng điều này.
(Sớ) Cố dĩ trì danh niệm Phật, sở thủ vưu vi yếu ước dã.
(疏) 故以持名念佛,所守尤為要約也。
(Sớ: Vì vậy, lấy trì danh niệm Phật [làm phương pháp tu hành], thì sự chọn lựa càng thật là tinh yếu, giản ước).
Ở đây, “cố” (故) là lời tổng kết, chúng ta hiểu rõ ràng như thế này: Trong tất cả các pháp môn, Trì Danh Niệm Phật là hành môn đơn giản nhất, dễ dàng nhất, giản ước nhất. Tuy dễ dàng, nhưng thành công cao lắm!
(Sớ) Thiên Như vị: “Đại thánh bi lân, trực khuyến chuyên trì danh hiệu” thị dã.
(疏) 天如謂大聖悲憐,直勸專持名號是也。
(Sớ: Ngài Thiên Như nói: “Đại thánh bi mẫn, khuyên thẳng thừng hãy nên trì danh” chính là nói tới điều này).
Thiên Như[71] là đức hiệu của một vị pháp sư, Ngài cũng là một vị cổ đại đức.
(Diễn) Đại thánh bi lân giả, Thiên Như vân: “Quán pháp lý vi, chúng sanh tâm tạp. Tạp tâm tu quán, quán tưởng nan thành. Đại thánh bi lân, trực khuyến chuyên trì danh hiệu”.
(演) 大聖悲憐者,天如云:觀法理微,眾生心雜,雜心修觀觀想難成,大聖悲憐,直勸專持名號。
(Diễn: “Đại thánh bi lân”: Ngài Thiên Như nói: “Quán pháp, lý vi diệu, tâm chúng sanh tạp loạn. Tạp tâm mà tu quán, quán tưởng sẽ khó thành tựu. Đại thánh thương xót, khuyên thẳng thừng hãy nên chuyên trì danh hiệu”).
Đây là sự thật. “Đại thánh bi lân”: Chữ “đại thánh” chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật, đặc biệt từ bi, thương xót chúng sanh. Nếu chúng ta dốc sức nơi phép quán tưởng sẽ chẳng thể thành tựu, chẳng bằng chuyên trì danh hiệu. Do vậy, bản kinh này “khuyên thẳng thừng hãy chuyên trì danh hiệu” là do ý nghĩa này. Tiếp theo đây, [sách Sớ Sao] nói về công đức và lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của danh hiệu ấy.
(Sớ) Cử danh giả, Phật hữu vô lượng đức, kim đản tứ tự danh hiệu, túc dĩ cai chi.
(疏) 舉名者,佛有無量德,今但四字名號足以該之。
(Sớ: “Nêu lên danh hiệu”: Phật có vô lượng đức, nay chỉ dùng danh hiệu gồm bốn chữ đã đủ để bao gồm trọn hết).
Bốn chữ A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Giác, quả thật vô lượng trí huệ, đức năng đều được bao gồm trong bốn chữ này, cũng có thể nói là mười phương ba đời hết thảy chư Phật, Bồ Tát đều được bao gồm trong ấy, chẳng sót một vị nào! Do vậy, mới được gọi là Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật. Tiếp theo đó, sách giải thích…
(Sớ) Dĩ Di Đà tức thị toàn thể nhất tâm, tâm bao chúng đức, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Bổn Giác, Thỉ Giác, Chân Như, Phật Tánh, Bồ Đề, Niết Bàn, bách thiên vạn danh, giai thử nhất danh nhiếp vô bất tận.
(疏) 以彌陀即是全體一心,心包眾德,常樂我淨,本覺始覺,真如佛性,菩提涅槃,百千萬名,皆此一名攝無不盡。
(Sớ: Do Di Đà chính là toàn thể nhất tâm, tâm bao gồm các đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Bổn Giác, Thỉ Giác, Chân Như, Phật Tánh, Bồ Đề, Niết Bàn, trăm ngàn vạn danh hiệu đều được một danh hiệu này gồm thâu, không gì chẳng trọn hết).
Đây là nói đến nội hàm[72] của một câu danh hiệu, nó bao gồm những ý nghĩa này. Nếu quý vị đọc [lời chú giải cho] mấy câu này trong sách Diễn Nghĩa, thì [những lời chú giải ấy] cũng là giảng những điều quan trọng trong đoạn này. Trước hết, chúng ta nhất định phải hiểu rõ: Danh hiệu này chính là toàn thể nhất tâm của chính mình, là bổn lai diện mục trước khi được cha mẹ sanh ra. Đây là nói theo phương diện mỗi cá nhân, [danh hiệu ấy] chính là chính mình. Nếu mở rộng phạm vi để nói, danh hiệu ấy là toàn thể pháp giới, vì sao vậy? Vì y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là vật được biến hiện bởi nhất tâm của chính mình. Chính mình là một tiểu pháp giới, bên ngoài là đại pháp giới. Lớn – nhỏ chẳng hai, Tự – Tha hệt như một; do vậy, một câu danh hiệu này là danh xưng chung của toàn thể pháp giới.
(Diễn) Di Đà tức thị toàn thể nhất tâm, hữu nhị nghĩa: Nhất giả, A Di Đà Phật tức thị toàn thể nhất tâm, dĩ Phật phục bổn nguyên cứu cánh giác thể.
(演) 彌陀即是全體一心有二義:一者,阿彌陀佛即是全體一心,以佛復本源究竟覺體。
(Diễn: “Di Đà là toàn thể nhất tâm” có hai nghĩa: Một, A Di Đà
Phật chính là toàn thể nhất tâm, vì Phật đã khôi phục cội nguồn giác thể rốt ráo).
“Phục” (復) là khôi phục. Thành Phật là gì? Thành Phật không có gì khác ngoài khôi phục cội nguồn giác thể rốt ráo, chỉ là như vậy mà thôi! Nếu nay chúng ta tự mình cũng có thể tự khôi phục cội nguồn giác thể rốt ráo thì gọi là Phật. Chưa thể khôi phục rốt ráo thì là Bồ Tát. Hoàn toàn mê hoặc điên đảo thì là phàm phu.
(Diễn) Cố Khởi Tín vân: “Ly niệm tướng giả, đẳng hư không giới, vô sở bất biến, pháp giới nhất tướng, tức thị Như Lai bình đẳng Pháp Thân”.
(演) 故起信云:離念相者,等虛空界,無所不遍,法界一相,即是如來平等法身。
(Diễn: Vì vậy, Khởi Tín Luận chép: “Lìa niệm tướng, giống như hư không giới, không đâu chẳng trọn khắp. Pháp giới một tướng chính là Pháp Thân bình đẳng của Như Lai”).
“Khởi Tín vân”: Trong Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát bảo chúng ta, “ly niệm tướng giả, đẳng hư không giới”, đấy là nói về tự tâm của chính quý vị. Nếu tâm của quý vị thanh tịnh, tâm ấy sẽ bằng với hư không pháp giới, to như nhau, thanh tịnh như nhau, chẳng thể nghĩ bàn như nhau. Nếu trong tâm quý vị có ý niệm, hễ có ý niệm là chẳng được rồi, tâm lượng sẽ rất nhỏ, chẳng thể bằng hư không, pháp giới. “Niệm” là gì? “Bất giác niệm khởi, nhi hữu vô minh” (bất giác dấy niệm bèn có vô minh). Niệm gọi là vô minh, niệm ấy là “phân biệt, chấp trước, vọng tưởng” như trong kinh Phật thường nói; khởi lên những ý niệm ấy. Niệm ấy cũng được các nhà Duy Thức gọi là “tâm ý thức”, thức thứ sáu, tức Ý Thức, phân biệt; thức thứ bảy, là Mạt Na, chấp trước. Thức thứ tám lưu giữ chủng tử của ấn tượng, khiến cho cái tâm của ta vốn bằng với hư không pháp giới, mà nay ta tự mình vạch ra rất nhiều giới hạn. Nói theo Lý, những giới hạn ấy là hư vọng, chẳng chân thật. Tuy là hư vọng, chúng khởi tác dụng. Tác dụng ấy chướng ngại toàn thể đại dụng của quý vị, biến hiện thành luân hồi trong sáu đường, ở trong ấy, gánh chịu những tai nạn chẳng hư vọng. Phật pháp dạy chúng ta khôi phục cội nguồn giác thể rốt ráo. Do vậy, nói cho chúng ta biết chân tướng sự thật này, mong chúng ta giác ngộ, mong chúng ta sẽ lìa hết thảy phân biệt, chấp trước. Khởi Tín Luận nói hết sức cụ thể, “lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên”. Lìa tướng ngôn thuyết là không phân biệt, lìa tướng danh tự là không chấp trước, lìa tướng tâm duyên là lìa hết thảy vọng tưởng. Giác tánh ấy cũng là chân tâm, hợp thành một với toàn thể pháp giới. “Vô sở bất biến, pháp giới nhất tướng” (không đâu chẳng trọn khắp, pháp giới nhất tướng), kinh Hoa Nghiêm gọi nó là Nhất Chân pháp giới, trong Tịnh Độ gọi là cõi Thật Báo, cõi Tịch Quang, vì nó vốn là một tướng. Do vậy, ắt phải đắc nhất tâm thì mới có thể chứng đắc, đấy là “Như Lai bình đẳng Pháp Thân”. Trong kinh điển, chúng ta thường đọc thấy: “Chư Phật Như Lai chứng đắc Pháp Thân thanh tịnh”.
(Diễn) Phù pháp giới nhất tướng, thị ly niệm chi tâm thể dã.
(演) 夫法界一相,是離念之心體也。
(Diễn: Pháp giới nhất tướng là tâm thể ly niệm).
Do đây, chúng ta có thể biết: Bản thể của chân tâm chúng ta vốn là pháp giới. Pháp giới là tổng tướng của nhất tâm. Lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, thì tâm ấy là pháp giới. Không chỉ là pháp giới mà còn là…
(Diễn) Nhi tức thị Như Lai, tắc Như Lai khởi bất thị toàn thể nhất tâm?
(演) 而即是如來,則如來豈不是全體一心。
(Diễn: Mà còn chính là Như Lai, vậy thì Như Lai há chẳng phải là toàn thể nhất tâm ư?)
Đây là ý nghĩa thứ nhất, giải thích A Di Đà Phật là toàn thể nhất tâm, là Nhất Chân pháp giới.
(Diễn) Nhị giả, A Di Đà Phật tứ tự, tức thị toàn thể nhất tâm.
(演) 二者,阿彌陀佛四字,即是全體一心。
(Diễn: Hai, bốn chữ A Di Đà Phật chính là toàn thể nhất tâm).
Bốn chữ này thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Nếu quý vị hoàn toàn thông đạt đoạn này, quý vị mới thật sự hiểu rõ bốn chữ danh hiệu A Di Đà Phật chẳng thể nghĩ bàn! Quý vị mới thật sự phát tâm “nhất tâm chấp trì”, mà cũng là chẳng thể buông lung. Bốn chữ A Di Đà Phật là toàn thể nhất tâm.
(Diễn) Thử tứ tự tại ngã tâm trung, minh minh, lịch lịch.
(演) 此四字在我心中,明明歷歷。
(Diễn: Bốn chữ này sáng ngời vằng vặc trong tâm ta).
“Minh minh, lịch lịch” nói theo cách bây giờ là “sáng sủa, rõ ràng”.
(Diễn) Huýnh nhiên độc chiếu.
(演) 迥然獨照。
(Diễn: Riêng chiếu rạng ngời).
Dùng danh hiệu Phật, danh hiệu Phật là chân tâm của chính mình, tức là toàn thể pháp giới. Quý vị hãy nghĩ xem: Bốn chữ này có sai khác gì với “tam mật tương ứng” như trong Mật Tông đã nói hay chăng? Miệng trì chú, tay kết ấn, ý quán tưởng là “tam mật tương ứng”. Nay chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật, [trong khi giảng] Tâm Kinh, tôi đã thưa với quý vị, câu A Di Đà Phật này là “đại thần chú, đại minh chú, chú vô thượng, chú không gì có thể sánh bằng”. Niệm câu danh hiệu này là trì chú, so ra còn cao minh hơn trì chú trong Mật Tông nhiều lắm! Quý vị ngàn vạn phần đừng nghĩ: Ta phải trì chú này, chú nọ, thứ gì cũng đều chẳng dùng tới. Có chú nào linh nghiệm hơn chú (Phật hiệu) này? Chú nào cũng chẳng giản yếu bằng chú này! Quý vị niệm câu danh hiệu này, dùng phương cách quán tưởng như thế nào? Quý vị hãy nghĩ đến ý nghĩa ở chỗ này, đấy chính là quán tưởng thù thắng nhất. Tay kết ấn, chắp tay, hay buông tay đều nhằm ý nghĩa sau đây: Khi chắp tay biểu lộ sự nhất tâm, khi buông tay biểu thị pháp giới.
(Diễn) Tứ tự chi ngoại vô ngã tâm, ngã tâm chi ngoại vô tứ tự, khởi bất thị toàn thể nhất tâm.
(演) 四字之外無我心,我心之外無四字,豈不是全體一心。
(Diễn: Ngoài bốn chữ chẳng có tâm ta, ngoài tâm ta chẳng có bốn chữ, há chẳng phải là toàn thể nhất tâm ư?)
Câu này là nói hết sức minh bạch. Ý nghĩa tiếp theo đây càng viên mãn hơn nữa!
(Diễn) Hựu phục chân niệm Phật giả, duy sắc, duy tâm, duy quán, duy cảnh.
(演) 又復真念佛者,唯色唯心,唯觀唯境。
(Diễn: Lại nữa, thật sự niệm Phật là sắc, là tâm, là quán, là cảnh).
Tôi vừa mới nêu tỷ dụ về sự trì chú trong Mật Tông, quý vị thấy có đúng như vậy hay không? Do vậy, câu danh hiệu này chẳng dễ dàng niệm đâu nhé! Nhất định phải biết niệm. Biết niệm sẽ thành tựu nhanh chóng. Không biết niệm thì niệm suốt đời cũng chẳng có tin tức gì. Chỉ có nhất tâm trì danh từng tiếng tương ứng với quán cảnh thì mới có công năng chế phục phiền não, đoạn phiền não, mới có thể phá vô minh, chứng Pháp Thân. Do vậy, trong phần trước, tôi đã nhắc quý vị: Mỗi tiếng niệm Phật đều phải đầy đủ Tam Học, Tam Huệ, Tam Tư Lương, tôi lại nhắc thêm quý vị: Mỗi tiếng niệm câu danh hiệu này trọn đủ lục độ, vạn hạnh, chẳng giả tí nào, vì nó là toàn thể nhất tâm.
(Diễn) Nhất danh, nhất tự, vô phi Thật Tướng, khởi bất tức thị toàn thể nhất tâm?
(演) 一名一字,無非實相,豈不即是全體一心。
(Diễn: Mỗi danh hiệu, mỗi chữ, không gì chẳng phải là Thật Tướng, há chẳng phải là toàn thể nhất tâm ư?)
Ở đây đại sư nói ra hai ý nghĩa của “A Di Đà Phật chính là toàn thể nhất tâm”.
(Diễn) Tâm bao chúng đức giả.
(演) 心包眾德者。
(Diễn: Tâm bao gồm các đức là…)
Chữ “tâm” này là toàn thể nhất tâm được nói tới trong phần trên, vô lượng vô biên đức năng đều được bao gồm trong ấy. Ở đây nhắc đến nhiều danh từ Phật học, có những danh từ được chú giải đơn giản; đối với người mới học Phật thì những danh từ này rất quan trọng, đặc biệt là đối với những đồng học muốn học giảng kinh. Ở đây, đại sư dùng những câu chữ rất đơn giản để chú giải những danh tướng này, đúng là chú giải đơn giản, trọng yếu, tường tận, rõ ràng. Xin xem đoạn văn sau đây:
(Diễn) Dĩ Chân Như thể trung, cụ túc vô lậu tánh công đức cố.
(演) 以真如體中,具足無漏性功德故。
(Diễn: Do trong cái Thể của Chân Như có đủ các công đức của tánh vô lậu).
“Vô lậu tánh” chính là chân tánh, tức là Chân Như bổn tánh; trong bổn tánh có đầy đủ vô lượng vô biên công đức.
(Diễn) Thử tâm bất vị tam tế thiên lưu viết Thường.
(演) 此心不為三際遷流曰常。
(Diễn: Trong ba đời, tâm này chẳng bị dời đổi, nên gọi là Thường).
Trước hết, [sách Diễn Nghĩa] giảng bốn tịnh đức “Thường, Lạc, Ngã, Tịnh”. “Thường” là gì? “Tam tế” là quá khứ, hiện tại, vị lai. Nói cách khác, đó là thời gian, chẳng bị biến đổi theo thời gian, vĩnh viễn là như vậy, vĩnh viễn chẳng bị thay đổi, nên gọi là Thường.
(Diễn) Bất vị nhị tử bức bách viết Lạc.
(演) 不為二死逼迫曰樂。
(Diễn: Chẳng bị hai thứ chết bức bách nên gọi là Lạc).
Phần Đoạn Sanh Tử của phàm phu trong lục đạo và Biến Dịch Sanh Tử của Nhị Thừa, Bồ Tát chẳng liên can gì với chân tánh. Nói cách khác, chẳng liên quan gì đến nhất tâm. Chỉ cần quý vị đạt được nhất tâm sẽ chẳng có sanh tử. Nhị tâm bèn có sanh tử, nhất tâm không có sanh tử. Do vậy, bảo quý vị nhất tâm chấp trì danh hiệu để có thể liễu sanh tử, thoát tam giới, chứ nhị tâm thì sẽ trôi nổi trong tam giới. Nhất tâm vượt thoát tam giới, vượt khỏi thời gian lẫn không gian. Hiện thời, có những nhà khoa học và triết gia Tây Phương đang suy đoán: Không gian vũ trụ chẳng phải chỉ là không gian ba chiều hay bốn chiều, rất có thể là vô hạn chiều. Cách suy đoán này khá phù hợp với những gì Phật giáo nói. Những khoa học gia ấy từ đầu đến cuối vẫn suy tính làm thế nào để đột phá không gian ba chiều, tiến nhập không gian bốn chiều, hoặc đột phá không gian bốn chiều để tiến nhập không gian có nhiều chiều hơn. Có như vậy thì mới có thể đến được vị lai, mà cũng có thể quay về quá khứ. Phật pháp đã sớm có phương pháp, những nhà khoa học ấy rất thông minh, rất đáng tiếc họ chẳng có duyên phận gặp được Phật pháp. Nếu họ gặp được Phật pháp, tôi nghĩ họ nhất định chứng quả trong một đời, nhất định khai ngộ. Phật pháp dùng phương pháp gì để đột phá không gian ba chiều và không gian bốn chiều? Dùng nhất tâm, nhất tâm sẽ đột phá được, mới có thể thật sự thấy được bổn lai diện mục của vũ trụ vạn hữu.
(Diễn) Cụ bát tự tại viết Ngã.
(演) 具八自在曰我。
(Diễn: Có đủ tám điều tự tại thì gọi là Ngã).
“Bát tự tại” là điều được nói tới trong kinh, nhưng có phải là tự tại chỉ giới hạn trong tám thứ mà thôi? Không phải! Tám thứ tự tại chỉ là liệt kê đại lược mà thôi. Do thời gian hạn chế, không cần phải kể từng điều. Ví như tự do, nay chúng ta có được hưởng tự do hay chăng? Trong hết thảy cảnh giới chẳng thể thuận theo lòng muốn, đấy là chẳng tự tại. Có ai trong chúng ta chẳng hy vọng chính mình sống mãi chẳng già? Mỗi ngày một già suy hơn, đấy là chẳng tự tại. Vì sao chúng ta không được tự tại? Đó là vì chúng ta có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, tam tâm, nhị ý, xử sự bằng loạn tâm. Vì vậy, vốn là tự tại, tự tại là giải thoát; nói theo cách bây giờ, giải thoát là tự do tự tại, bị mất sạch rồi! Cũng nhờ nhất tâm mà [giải thoát được] khôi phục. Vì vậy, tâm càng thanh tịnh, quý vị càng tự tại. Tâm chẳng thanh tịnh mà mong tự tại sẽ là chuyện không thể nào xảy ra được!
(Diễn) Ly ngũ trụ ô nhiễm viết Tịnh.
(演) 離五住污染曰淨。
(Diễn: Lìa ngũ trụ ô nhiễm thì gọi là Tịnh).
Đây là nói tới Ngũ Trụ Địa vô minh[73], tức là nói về căn bản sanh tử của tam giới lục đạo. Nó cũng chính là Kiến Tư phiền não, Trần Sa phiền não, căn bản vô minh như chúng ta thường nói. Quý vị đoạn sạch
những thứ này thì gọi là Tịnh. Đây là giới thiệu Thường, Lạc, Ngã, Tịnh; trong Phật pháp, chúng được gọi là Tứ Tịnh Đức, là những thứ vốn sẵn có trong nhất tâm của chúng ta. Có thể thấy rằng: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là có, chứ chẳng phải không có, nhưng khi mê, chúng đều mất sạch, toàn bộ bốn thứ cảnh giới Thường, Lạc, Ngã, Tịnh không còn nữa. Mê là gì? Nhị tâm là mê; nhất tâm là ngộ. Chỉ cần quý vị niệm đến mức nhất tâm bất loạn, bốn thứ thanh tịnh đức ấy sẽ được khôi phục. Pháp Thân có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, trong Bát Nhã có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, trong Giải Thoát cũng có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Mấy câu dưới đây đều trích từ Đại Thừa Khởi Tín Luận.
(Diễn) Bổn lai diệu minh viết Bổn Giác.
(演) 本來妙明曰本覺。
(Diễn: Vốn sẵn diệu minh gọi là Bổn Giác).
“Bổn Giác” là giác tánh vốn sẵn có trong cái tâm thanh tịnh của chúng ta, chẳng phải do bên ngoài mà có, có bị mất đi hay chăng? Chẳng bị mất! Mỗi người đều sử dụng nó hằng ngày, tuy sử dụng nó mà chính mình chẳng nhận biết. Đó là mê. Mắt chúng ta thấy sắc, cổ đại đức thường nói: “Khi mắt thấy lần thứ nhất là giác tánh thấy”, vì sao? Khi mắt tiếp xúc để nhìn lần thứ nhất, quý vị còn chưa vướng mắc tâm ý thức, còn chưa sử dụng phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, những thứ ấy đều chưa dấy lên. Tròng mắt vừa mở ra nhìn cảnh giới bên ngoài đó là nhìn bằng tánh Thấy, đấy là nhất tâm; nhưng tốc độ rất nhanh, chẳng biết nhanh hơn dòng điện bao nhiêu ức vạn lần, ý niệm thứ hai liền mê, khởi phân biệt, chấp trước. Do đây có thể biết: Chư Phật, Bồ Tát từ đầu đến cuối có thể giữ được cái nhìn thứ nhất, giữ cho nó chẳng biến đổi, nên gọi là chư Phật Như Lai. Ý niệm thứ hai liền biến đổi, gọi là phàm phu. Nếu quý vị hỏi: “Vô minh do đâu mà có?” Chính quý vị hãy nên biết: Vô minh là vô thỉ, không có bắt đầu, mà là quý vị đang mê trong mỗi niệm, chứ không phải là do vô minh khởi lên trong quá khứ, khiến cho hiện tại phải ở trong cảnh giới mê. Không phải vậy! Niệm niệm đều mê. Chư Phật, Bồ Tát niệm niệm đều giác, khác nhau ở chỗ này!
(Diễn) Phương thỉ xuất triền viết Thỉ Giác.
(演) 方始出纏曰始覺。
(Diễn: Vừa mới thoát khỏi trói buộc gọi là Thỉ Giác).
“Thỉ Giác” là nói đến địa vị trong tu hành, tức địa vị Bồ Tát. Từ Sơ Phát tâm cho đến thành Phật đều gọi chung là Thỉ Giác. Vì sao? Mỗi ngày đều có sự giác ngộ mới. Do vậy, khi đức Phật thị hiện thành Phật, quý vị thấy Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh ghi là “thỉ thành Chánh Giác” (vừa mới thành Chánh Giác). Đức Phật ở dưới cội Bồ Đề, đêm nhìn sao Mai, vừa mới thành Chánh Giác, cho đến khi thành Phật vẫn gọi là Thỉ Giác, Ngài bắt đầu thành Phật. Ví như Sơ Trụ Bồ Tát, Ngài bắt đầu chứng được Sơ Trụ, đến Nhị Trụ, Ngài bắt đầu chứng đắc Nhị Trụ. Từ giai đoạn này sang giai đoạn khác đều là bắt đầu. Giống như đi học, mỗi một niên khóa học một lớp, bắt đầu cho năm học ấy. Nếu quý vị suy nghĩ cặn kẽ hơn, mỗi một tháng thì sao? Ngày mồng Một mỗi tháng là ngày bắt đầu. Còn mỗi ngày thì sao? Ngày hôm nay bắt đầu bằng buổi sáng sớm, niệm niệm đều là bắt đầu.
Quý vị phá sạch vô minh trong Ngũ Trụ Địa, khi ấy, danh tự Bổn Giác lẫn Thỉ Giác đều không còn nữa, vì Bổn Giác và Thỉ Giác là hai khái niệm được kiến lập đối ứng với nhau. Đạt đến quả vị Như Lai, những danh tướng ấy hoàn toàn không còn nữa. Nếu còn có những danh tướng ấy, sẽ là thoái chuyển, lại mê hoặc rồi! Kẻ mê mới kiến lập những danh tướng ấy, người ngộ chẳng có. Do vậy, nói: “Danh khả danh, phi thường danh”, phải nhớ kỹ! Vì sao Phật, Bồ Tát dạy chúng ta đạo lý “lìa tướng danh tự”? Hy vọng dùng những tướng danh tự ấy để giúp quý vị giác ngộ, nhưng đừng chấp trước; hễ chấp trước sẽ biến thành chướng ngại cho ngộ môn.
“Phương thỉ xuất triền”: Triền (纏) là vô minh phiền não. Đã vượt thoát thì gọi là Thỉ Giác. Thế nhưng hễ vượt thoát, nhất định phải tương ứng với Bổn Giác thì mới gọi là Thỉ Giác. Nếu không, trong ấy có tà giác, chứ không phải là chánh giác. Rất nhiều ngoại đạo cũng tu hành, thậm chí rất nhiều người công phu khá lắm. Ví như hôm trước có đồng học nói với tôi: Ông ta tiếp xúc một số ngoại đạo, rất nhiều ngoại đạo học được công phu khá lắm, tu đến mức có thể xuất hồn khỏi thân thể. Khi linh hồn lìa khỏi thân, họ có thể tiếp xúc cổ nhân. Người mấy trăm năm trước hay mấy ngàn năm trước, họ đều có thể thấy được. Ông ta hỏi tôi: “Dùng Phật pháp để luận thì công phu ấy là đã đạt tới cảnh giới gì?” Lão cư sĩ Châu Kính Trụ viết cuốn Bát Đại Nhân Giác Kinh Giảng Nghĩa, quý vị hãy đọc sẽ biết ngay. Ông ta có chép một câu chuyện, nhạc phụ của ông ta là lão tiên sinh Chương Thái Viêm, cụ Chương là một bậc Quốc Học đại sư đầu thời Dân Quốc. Khi cụ Chương còn sống, từng làm phán quan cho Đông Nhạc Đại Đế, giống như chức Bí Thư Trưởng (Secretary General) vậy, chưởng quản năm tỉnh. Buổi tối, cụ vào âm tào địa phủ làm việc, trông thấy những người sống vào đời Đường, thời Hán. Ông cụ đọc sách khá nhiều, những người ấy còn có tên trong lịch sử, vẫn thường gặp mặt họ. Bản thân cụ là một học giả, cùng thảo luận văn chương với họ, cụ có thể gặp mặt cổ nhân. Điều này chứng minh những điều nói trong kinh Phật không sai, tuổi thọ của loài quỷ dài lâu. Kinh Phật nói thọ mạng của loài quỷ gần như là một ngàn năm. Dùng phương pháp này để tính toán: Mỗi tháng trong nhân gian là một ngày trong ngạ quỷ đạo. Thọ mạng loài quỷ tính theo [năm tháng] trong nhân gian là mấy ngàn vạn năm, thọ mạng khá dài! Quý vị hãy hiểu rõ chuyện này: Công phu gì có thể thoát hồn khỏi thất khiếu? Đó là công phu của loài quỷ, chẳng liên can gì tới Phật pháp hết!
Công phu của loài quỷ nếu khá sẽ có thể đến chơi Tứ Vương Thiên, nhưng chẳng đến được Đao Lợi Thiên, [họ có thể tới những cõi] từ Tứ Vương Thiên trở xuống cho đến ngạ quỷ đạo, công phu của những kẻ ấy như vậy mà thôi, chẳng đáng bàn tới! Người thế gian hiếu kỳ, nghĩ chuyện có thể giao tiếp với quỷ là phi phàm! Thường qua lại với quỷ, trong tương lai, chính mình nhất định đọa trong ngạ quỷ đạo. Thường qua lại với Phật, Bồ Tát, quý vị mới có thể thành Phật, Bồ Tát. Trong tam giới, Khổng lão phu tử nói rất hay: “Vật dĩ tụ loại, nhân dĩ quần phân” (Vật họp lại theo từng loài, con người phân chia thành từng nhóm). Qua lại lâu ngày với những người chí đồng đạo hợp thuộc đường nào, bản thân người ấy nhất định sẽ đi theo con đường ấy. Người học Phật phải có trí huệ, phải hiểu rõ, thông đạt, chẳng bị mê bởi ngoại cảnh. Trong thế gian này, kinh Lăng Nghiêm đã giảng rất rõ ràng, yêu ma quỷ quái thường dựa vào thân người để giở trò, người bị chúng dựa vào thân chẳng hay biết, cứ ngỡ mình có năng lực rất lớn, có thần thông. Quỷ thần dựa vào thân là tiểu thần thông, chứ không có đại năng lực. Bởi lẽ, chúng sanh ham điều lạ, chuộng chuyện quái dị, chẳng ưa thích tu học chánh pháp.
Chư Phật, Bồ Tát có đại thần thông, quyết chẳng dùng thần thông làm Phật sự! Bất cứ vị Phật hay Bồ Tát nào cũng đều dùng chánh pháp dạy người. [Vận dụng] thần thông làm Phật sự sẽ phát sanh hiểu lầm, vì sao? Chẳng phân biệt được Phật và ma. Ma luôn thích dùng thần thông để làm Phật sự. Phật và ma chắc chắn khác nhau, Phật nhất định dùng chánh pháp để dạy học. Một đằng là chánh pháp, một đằng là trổ thần thông; đấy là chỗ khác nhau giữa Phật và ma, đặc biệt là trong thời kỳ Mạt Pháp. Một quyển rưỡi cuối kinh Lăng Nghiêm giảng về năm mươi thứ Ấm Ma, chúng đều dùng thần thông để biểu diễn nhằm nhiếp thọ hết thảy chúng sanh. Phật không như vậy, Phật dạy quý vị tu Tam Quy Y, dạy quý vị giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ không nhiễm, dạy quý vị thật thà niệm Phật, tu đến nhất tâm bất loạn, dạy quý vị giữ bổn phận, đúng quy củ, Phật pháp là như vậy đó. Do vậy, Phật pháp nhất định phải là giác, chẳng thể mê.
(Diễn) Bất vọng bất biến viết Chân Như.
(演) 不妄不變曰真如。
(Diễn: Chẳng vọng, chẳng biến đổi, gọi là Chân Như).
“Vọng” là giả. Chẳng giả, quyết định chẳng biến đổi, vĩnh viễn là như vậy thì mới gọi là Chân Như. Thể là Chân Như, Tướng cũng là Chân Như, tác dụng vẫn là Chân Như. Quý vị suy nghĩ kỹ càng điều này sẽ thấu hiểu được!
(Diễn) Ly quá tuyệt phi viết Phật Tánh.
(演) 離過絕非曰佛性。
(Diễn: Lìa lỗi tuyệt sai gọi là Phật Tánh).
“Quá” (過) là quá thất (lầm lỗi), vô minh, tà kiến, phiền não, hết thảy ô nhiễm đều không có. “Phi” (非) là hết thảy sai lầm, hoàn toàn lìa dứt, đó gọi là Phật Tánh. Phật là tiếng Ấn Độ, dịch sang chữ Hán là Giác. Phật Tánh là giác tánh, đúng như Lục Tổ đã nói về giác tánh: “Vốn chẳng có một vật, nào sợ nhuốm bụi trần”. “Trần ai” là tỷ dụ lỗi lầm, không có lầm lỗi, sai trái.
(Diễn) Chư Phật sở đắc chi trí viết Bồ Đề.
(演) 諸佛所得之智曰菩提。
(Diễn: Trí chư Phật đã đắc gọi là Bồ Đề).
Bồ Đề (Bodhi) là tiếng Ấn, dịch nghĩa sang tiếng Hán là Giác; kinh cũng thường gọi nó là A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttarā Samyak Sambodhi), là chúng ta dịch thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, là trí huệ được chứng đắc bởi chư Phật.
(Diễn) Chư Phật sở chứng chi Lý viết Niết Bàn.
(演) 諸佛所證之理曰涅槃。
(Diễn: Lý được chứng bởi chư Phật gọi là Niết Bàn).
Chứng Lý gì vậy? Hết thảy pháp bất sanh, bất diệt, không có pháp nào chẳng viên mãn, pháp nào cũng viên dung. Không chỉ là tướng viên mãn, mà pháp nào cũng đều là tướng thanh tịnh, tịch diệt, đó gọi là Niết Bàn (Nirvāna). Trước hết, chúng ta hãy đọc đoạn chú giải tiếp theo, rồi mới quay lại xem kinh văn.
(Diễn) Tứ Đế giả.
(演) 四諦者。
(Diễn: Tứ Đế là…)
Đều là những phần chú thích nhỏ rất đơn giản nhưng trọng yếu, chú giải hết sức hay.
(Diễn) Khổ, Tập, Diệt, Đạo dã. Khổ vi bức bách tướng, Tập vi chiêu cảm tướng.
(演) 苦集滅道也,苦為逼迫相,集為招感相。
(Diễn: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Khổ là tướng bức bách, Tập là tướng cảm vời).
“Tướng” (相) là hình dạng. Khổ (Dukkha) là gì? Thân tâm bị bức bách, tâm có ưu sầu, thân có đau khổ. Đấy là tướng bức bách, đó gọi là Khổ. Tập (Dukhha Samudaya) là tướng chiêu cảm, chiêu tập những gì? Có phiền não, kẻ ấy liền khởi Hoặc, tạo nghiệp, nghiệp có tánh chiêu cảm.
Hoặc (惑) là gì? Đối với chính mình, đối với cảnh giới, chẳng thể hiểu rõ chân tướng, đó là mê hoặc. Sau khi mê hoặc sẽ vọng động, nên chiêu tập, cảm ứng các thứ nghiệp báo. Tướng ấy là tướng chiêu cảm.
(Diễn) Thử thế gian nhân quả dã.
(演) 此世間因果也。
(Diễn: Đây là nhân quả thế gian).
Tập là nhân thế gian, Khổ là quả báo thế gian.
(Diễn) Đạo vi khả tu tướng, Diệt vi khả chứng tướng. Thử xuất thế gian nhân quả dã.
(演) 道為可脩相,滅為可證相,此出世間因果也。
(Diễn: Đạo là tướng có thể tu, Diệt là tướng có thể chứng. Đây là nhân quả xuất thế gian).
“Đạo” (Dukka Nirodha Gamini Patipada Magga: Con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ) là tướng có thể tu, có thể học. “Đạo” là lý luận, phương pháp; có thể chiếu theo những lý luận và phương pháp ấy để tu học, do vậy, tướng trạng của nó là có thể tu. “Diệt” (Dukha Nirodha) là tướng có thể chứng đắc, có thể khế nhập, có thể chứng minh. “Diệt” là diệt hết thảy khổ, diệt hết thảy Tập. Nói cách khác, Khổ Tập chẳng phải là pháp chân thật, hễ mê bèn có, ngộ rồi chẳng còn. Đạo và Diệt là nhân quả xuất thế gian.
(Diễn) Thử Tứ Đế thông Đại Tiểu Thừa, hữu sanh diệt, vô sanh, vô lượng, vô tác.
(演) 此四諦通大小乘,有生滅、無生、無量、無作。
(Diễn: Tứ Đế chung cho cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa, có [bốn loại Tứ Đế] là sanh diệt, vô sanh, vô lượng và vô tác).
Tứ Đế (Catvāri-Āryasatyāni) là pháp căn bản trong Phật pháp. Sanh Diệt Tứ Đế là Tạng Giáo, thuộc Tiểu Thừa. Vô Sanh Tứ Đế là Thông Giáo. Vô Lượng Tứ Đế là Biệt Giáo. Vô Tác Tứ Đế là Viên Giáo. Phẩm Tứ Đế trong kinh Hoa Nghiêm nói về Vô Lượng Tứ Đế, tuy kinh Hoa Nghiêm là Nhất Thừa Viên Giáo, nhưng phẩm Tứ Đế trong kinh Hoa Nghiêm lại dùng Biệt Giáo để nói, tức là nói về Vô Lượng Tứ Đế. Bởi lẽ, không có cách nào để giảng Vô Tác Tứ Đế, hiểu được Vô Lượng Tứ Đế thì những thứ trước và sau nó sẽ đều thông đạt.
(Diễn) Tứ giáo bất đồng, nhiên Tứ Đế thị cảnh, phi hạnh, kim vân hạnh giả, cử sở quán chi cảnh, hiển năng quán chi hạnh dã.
(演) 四教不同,然四諦是境非行。今云行者,舉所觀之境,顯能觀之行也。
(Diễn: Tứ giáo thì khác nhau, nhưng Tứ Đế là cảnh, không phải hạnh. Nay nói tới hạnh thì nêu lên cảnh được quán nhằm chỉ rõ cái hạnh để quán).
Chúng ta phải đặc biệt lưu ý những ý nghĩa này, phải nhận thức rõ ràng, rồi mới đọc lại lời Sớ sẽ dễ hiểu.
(Sớ) Dĩ Di Đà tức thị toàn thể nhất tâm, tâm bao chúng đức, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Bổn Giác, Thỉ Giác, Chân Như, Phật Tánh, Bồ Đề, Niết Bàn, bách thiên vạn danh, giai thử nhất danh.
(疏) 以彌陀即是全體一心,心包眾德,常樂我淨,本覺始覺,真如佛性,菩提涅槃。百千萬名,皆此一名。
(Sớ: Do Di Đà chính là toàn thể nhất tâm, tâm bao gồm các đức, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Bổn Giác, Thỉ Giác, Chân Như, Phật Tánh, Bồ Đề, Niết Bàn, trăm ngàn vạn tên gọi đều là một danh hiệu này).
“Nhất danh” chính là A Di Đà Phật. A Di Đà Phật bao gồm trọn hết các danh tự. Ví như Trung Hoa Dân Quốc là quốc hiệu của Đài Loan, chúng ta nói tỉnh nọ, huyện kia [của Trung Hoa Dân Quốc] đều chẳng ra ngoài nước này. A Di Đà Phật là toàn thể của nhất tâm, nói Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, nói Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát, nói Bổn Giác, Thỉ Giác, nói Bồ Đề, Niết Bàn, bất luận nói gì, vô tận danh tướng được nói trong ngàn kinh vạn luận đều chẳng lìa khỏi A Di Đà Phật. A Di Đà Phật là pháp môn Đại Tổng Trì, chúng ta phải nên tin tưởng; bởi lẽ, danh hiệu này thâu nhiếp không gì chẳng trọn hết. Chẳng những tất cả các kinh luận pháp môn trong Hiển Giáo đều nằm trong câu danh hiệu này, mà hết thảy kinh luận pháp môn trong Mật Giáo cũng bao gồm trong ấy. Tôi lại thưa với quý vị, có pháp môn thế gian hay xuất thế gian nào lìa khỏi toàn thể nhất tâm hay chăng? Nếu quý vị hiểu rõ điều này, đạo gì cũng chẳng cần phải tu! Quý vị thích ngoại đạo thì nó cũng được bao gồm trong đây, Cơ Đốc giáo, Thiên Chúa giáo, Nhất Quán Đạo[74] cũng được bao gồm trong ấy, chẳng có gì ra khỏi nhất tâm toàn thể! Một câu A Di Đà Phật bao gồm trọn hết. Tu gì mới là tốt đẹp? Vẫn là tu A Di Đà Phật là tốt đẹp, vì tu A Di Đà Phật thì thứ gì cũng đều đạt được, tu những thứ khác chỉ có thể đạt được phần nào. Tu theo cách linh hồn thoát khỏi thất khiếu, cao lắm là tu thành quỷ vương, có thể hưởng phước trong quỷ đạo, tương đối tự tại, chẳng bị bó buộc, nhưng vẫn thuộc trong ngạ quỷ đạo!
Cớ sao chẳng tu A Di Đà Phật? Đây là nêu ra công đức chẳng thể nghĩ bàn của một câu danh hiệu.
(Sớ) Chuyên trì giả.
(疏) 專持者。
(Sớ: Chuyên trì là…)
Đây là bảo quý vị hãy nhất tâm chuyên trì.
(Sớ) Chúng sanh học Phật, diệc hữu vô lượng hành pháp.
(疏) 眾生學佛,亦有無量行法。
(Sớ: Chúng sanh học Phật, cũng có vô lượng phương pháp để hành trì).
Đây là tám vạn bốn ngàn hạnh môn do đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói, chẳng phải chỉ có một thứ!
(Sớ) Kim đản trì danh nhất pháp, túc dĩ cai chi.
(疏) 今但持名一法,足以該之。
(Sớ: Nay chỉ một pháp trì danh đã đủ để bao gồm trọn hết).
Chúng ta phải nên nhận biết điều này.
(Sớ) Dĩ trì danh tức thị trì thử nhất tâm, tâm cai bách hạnh, Tứ Đế, Lục Độ, nãi chí bát vạn tứ thiên Hằng sa vi trần nhất thiết hạnh môn, nhiếp vô bất tận.
(疏) 以持名即是持此一心,心該百行,四諦六度,乃
至八萬四千恆沙微塵一切行門,攝無不盡。
(Sớ: Do trì danh chính là trì nhất tâm này, tâm gồm thâu trăm hạnh, Tứ Đế, Lục Độ, cho đến tám vạn bốn ngàn Hằng sa vi trần hết thảy hạnh môn, thâu nhiếp không cùng tận).
Hết thảy đều được bao gồm trong ấy. Ngẫu Ích đại sư nói: “Chỉ cần chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật cho thuần thục thì Tam Tạng mười hai phần giáo đều bao gồm hết trong ấy, một ngàn bảy trăm thiên công án cũng thuộc trong ấy”. Thiền gia nói tới một ngàn bảy trăm công án tức là nói tới bộ sách Ngũ Đăng Hội Nguyên[75]. Đây là nêu lên một tỷ dụ để nói: Thiền cũng nằm trong ấy, mà ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh là nói về Giới, tức Luật Tông, Tam Tạng mười hai phần giáo là nói tới Giáo Hạ. Giáo Hạ, Thiền Tông, Luật Tông đều thuộc trong ấy. Không chỉ là mười tông phái Tiểu Thừa và Đại Thừa của Phật pháp, mà tất cả ngoại đạo trong thế gian, có thứ nào ra ngoài nhất tâm được hay chăng? Do vậy, một câu A Di Đà Phật niệm cho thuần thục thì hết thảy các pháp thế gian lẫn xuất thế gian đều đạt được, vì sao còn phải thấy lạ, nghĩ khác, tu pháp môn này, tu pháp môn nọ? Đấy đều là do chẳng hiểu ý nghĩa chân thật của Như Lai. Nói cách khác, chẳng thông hiểu Phật pháp. Người thông đạt Phật pháp trọn chẳng làm chuyện xuẩn ngốc ấy, chắc chắn thâm nhập một môn. Một môn chính là nhất tâm chấp trì danh hiệu, thứ gì cũng đều thành tựu, thứ gì cũng đều đạt được, vui sướng như thế, sao chẳng làm đi?
(Sớ) Cố danh thủ ước.
(疏) 故名守約。
(Sớ: Cho nên gọi là giữ lấy cách hành trì giản ước).
Đó gọi là “thủ ước” (giữ lấy cách hành trì đơn giản, tinh yếu), thật sự thỏa đáng danh phù hợp Thật. Chúng tôi vừa giảng xong đoạn lớn thứ nhất trong phần Tán Kinh (khen ngợi kinh), đến đây là hết một đoạn lớn thứ nhất. Năm nay chúng tôi giảng tới chỗ này bèn ngưng.
— o0o —
Tập 26
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba mươi ba:
Nhị cứu minh lợi ích.
二究明利益。
(Hai, nêu rõ lợi ích rốt ráo).
Đoạn này được chia thành ba tiểu đoạn. Đoạn thứ nhất nói về “nhân thành” (tu nhân thành tựu).
Sơ, nhân thành.
(Tự) Tùng tư nhi vạn lự hàm hưu, cứu cực hồ nhất tâm bất loạn.
初因成。
(序) 從茲而萬慮咸休,究極乎一心不亂。
(Thứ nhất, tu nhân thành tựu.
Tựa: Từ đây, muôn mối lo đều dứt, đạt đến rốt ráo cùng cực là nhất tâm bất loạn).
Hai câu này là một đoạn kinh văn. Đoạn này do tiếp nối ý trong phần trước mà có. Trong đoạn lớn ở phần trước nói rõ: Về mặt tu hành, lấy Tịnh Độ làm chỗ chỉ quy, nhưng trong pháp môn Tịnh Độ, lại nên coi Trì Danh Niệm Phật là khẩn yếu nhất. Đoạn văn trong phần trước là so sánh ba kinh Tịnh Độ để chúng ta khẳng định pháp môn được nói trong Tiểu Bổn A Di Đà Kinh là tinh yếu nhất. Đề mục của đoạn này là “cứu minh lợi ích” (nêu rõ lợi ích rốt ráo). “Cứu” (究) là cứu cánh (rốt ráo), [do vậy, “cứu minh lợi ích” là] thuyết minh triệt để lợi ích thù thắng của pháp môn này. Do vậy, câu mở đầu bèn chỉ rõ: Trong sự tu học, trước hết, hành giả phải khuất phục phiền não, “vạn lự hàm hưu” (muôn mối lo đều dứt), đạt đến chỗ cùng cực là nhất tâm bất loạn. Hai câu này rất đơn giản, nhưng đã chỉ bày toàn bộ tông thú tu học trong Phật pháp. Do vậy, thường có người học Phật nêu câu hỏi, có lẽ bản thân chúng ta cũng có thắc mắc giống như vậy, “tu học Phật pháp rốt cuộc là tu gì vậy?” Kinh luận nhiều dường ấy, pháp môn nhiều ngần ấy, tu gì đây? Pháp môn nào là thù thắng nhất? Học Tịnh Độ thì nói Tịnh Độ tốt, học Thiền thì nói Thiền hay, học Mật thì nói Mật giỏi, rốt cuộc pháp nào mới tốt đẹp? Ở đây, sách Sớ Sao đã ban cho chúng ta một tiêu chuẩn thích đáng nhất: Nếu một pháp môn có thể thật sự giúp cho chúng ta hàng phục phiền não thì pháp môn ấy là tốt đẹp! Pháp môn nào có thể giúp quý vị đạt được nhất tâm bất loạn thì pháp môn ấy được gọi là bậc nhất!
Bất luận quý vị dùng pháp môn nào, nếu pháp môn ấy chẳng thể giúp quý vị hàng phục phiền não, suốt ngày từ sáng đến tối phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, khởi tâm động niệm vẫn tạo đủ thứ tội nghiệp, thì pháp môn ấy không thích hợp, học theo sẽ chẳng có hiệu quả gì! Điều này giống như chúng ta bị bệnh, phải uống thuốc, uống vào lành bệnh thì thuốc ấy hữu hiệu. Nếu uống thuốc ấy mà chẳng thấy có hiệu quả gì, chớ nên tiếp tục uống thuốc ấy nữa. Nếu uống thuốc ấy mà bị phản tác dụng thì chẳng những không có ích mà còn có hại, phải lập tức ngưng uống thuốc ngay. Đó là kiến thức thông thường chúng ta phải có. Do vậy, tu học Phật pháp là [xét xem pháp môn ta đang tu ấy] có thật sự trị được chứng bệnh hay không, hiệu quả là có giảm thiểu phiền não hay không, tâm chúng ta có thanh tịnh hay không, quan sát từ những chỗ này. Nếu phiền não thật sự giảm thiểu, tâm địa thật sự thanh tịnh thì pháp môn ấy là tốt đẹp.
Có mấy vị đồng học thường đến nghe kinh tại giảng đường của chúng ta, đôi khi cũng đi ra ngoài nghe người khác giảng, nghe rồi cảm thấy khó chịu, nghe xong rất phiền não, trở về thưa với tôi. Tôi nghe lời họ kể, lắc đầu, bảo: “Quý vị sai rồi! Sai ở chỗ nào? Quý vị bị cảnh giới chuyển. Quý vị nghe tôi giảng đã nghe thành thói quen, cho những gì tôi nói là đúng, chứ trên thực tế, đã bị tôi xỏ mũi lôi đi, quý vị chẳng phải là trang hảo hán! Khi quý vị nghe người khác nói không đúng như tôi nói, ngay lập tức quý vị phản kháng, cho thấy quý vị nghe kinh nhiều năm như vậy, đã chấp vào tướng, nên quý vị không thể khai ngộ. Ở chỗ tôi, nếu quý vị nghe mà chẳng chấp tướng thì nghe người khác giảng cũng sẽ chẳng chấp tướng, quý vị đã tự tại rồi!”
Sở dĩ Thích Ca Mâu Ni Phật cao minh là vì suốt đời Ngài chẳng xỏ mũi lôi người nào đi. Vì vậy, trong kinh Kim Cang, lão nhân gia phủ định toàn bộ các kinh Ngài đã nói trong cả một đời, nếu ai nói Phật có thuyết pháp thì kẻ đó báng Phật! Chẳng những không có pháp nhất định để nói, mà từ trước đến giờ, Phật chưa hề thuyết pháp. Đây là nói thật, chẳng giả, là sự thật ngàn vạn phần xác đáng. Do vậy, học Phật thì điều thứ nhất là phải hiểu rõ nguyên lý sau đây: Khi chúng ta nghe, chúng ta hiểu rõ ràng phân minh, đó là tăng trưởng trí huệ; nhưng trong nội tâm nhất định phải giữ được như như bất động, chẳng bị người khác lôi đi, đó là quý vị có công phu, có Định! Ở trước mặt chư Phật nghe kinh, tôi “chẳng giữ lấy tướng, như như bất động”, hết thảy yêu ma quỷ quái thuyết pháp tôi cũng nghe, tôi vẫn là “chẳng giữ lấy tướng, như như bất động”. Vậy thì quý vị có thành tựu, thành tựu vô lượng vô biên trí huệ. Quý vị xem năm mươi ba lần tham học trong kinh Hoa Nghiêm, trong số năm mươi ba vị thiện tri thức, có vị học Phật, cũng có ngoại đạo, các ngành các nghề trong xã hội, nam, nữ, già, trẻ, ban khải thị cho chúng ta, dạy chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối, sáu căn tiếp xúc cảnh giới lục trần bên ngoài, thứ gì cũng đều phải hiểu rõ, thành tựu vô lượng trí huệ, nhưng trong hết thảy cảnh giới, phải giữ được như như bất động, thành tựu Đại Định rất sâu; đó là Phật pháp.
Bài xích tà môn ngoại đạo cố nhiên là chuyện đáng làm, nhưng nếu chấp vào ngôn từ của Thích Ca Mâu Ni Phật rồi bị xoay chuyển thì vẫn là sai! Từ xưa đến nay, các vị tổ sư đại đức muốn chúng ta chuyển kinh, đừng bị kinh xoay chuyển. Trong Đàn Kinh có chép thiền sư Pháp Đạt trước khi gặp Lục Tổ đã bị kinh Pháp Hoa xoay chuyển. Nói khó nghe hơn, “bị chuyển” là kẻ ấy có một loại thành kiến nào đó. Thường xuyên nghe tôi giảng kinh, người ấy có thành kiến đối với lời tôi giảng, khi nghe người khác giảng, người ấy nghe chẳng lọt tai, nghe không quen! Chỉ cần quý vị có thành kiến là đã sai lầm, có thiên vị lệch lạc rồi, vì sao vậy? Muôn mối lo của quý vị chưa dứt. Do vậy, công phu thật sự là bất luận trong cảnh giới nào, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, một bề thanh lương, không gì chẳng tự tại, đấy gọi là “nghe pháp”. Nghe Phật pháp hiểu được nguyên lý và nguyên tắc ấy, sau đấy pháp gì cũng đều có thể nghe được, cảnh giới gì cũng có thể tiếp xúc được. Khi tiếp xúc, nhất định chẳng động tâm, quyết định chẳng khởi niệm, quyết định thứ gì cũng đều hiểu rõ. Nói cách khác, sáu căn tiếp xúc sáu trần đều là Giới, Định, Huệ, Tam Học, Tam Huệ, không có gì chẳng viên mãn, không có gì chẳng đầy đủ, đó gọi là “tu hành thật sự”.
(Diễn) Vạn lự hàm hưu, thị vọng tâm sơ tức.
(演) 萬慮咸休,是妄心初息。
(Diễn: Muôn mối lo đều dứt là vọng tâm vừa mới ngưng dứt).
Đây là nói về “công phu thành phiến”. Bất luận trong cảnh giới nào, bất luận nghị luận và ngôn thuyết ra sao, chúng ta nghe xong liền biết là đúng hay sai, vừa nghe liền biết nhân quả của nó, chẳng cần phải suy nghĩ, xét đoán, vừa tiếp xúc liền hiểu rõ. Hiểu rõ điều gì? Quá khứ, hiện tại, vị lai, như thường nói: “Hoành biến thập phương, thụ cùng tam thế” (theo chiều ngang trọn khắp mười phương, theo chiều dọc tột cùng ba đời). Vừa tiếp xúc liền hiểu rõ ngay, tiếp xúc mà chẳng động tâm thì là “như như bất động”, đấy mới là công phu thành phiến, tức là “vọng tâm sơ tức” (vọng tâm vừa mới dứt). Từ đấy trở đi, không ngừng rèn luyện trong cảnh giới, luyện gì vậy? Chánh niệm thành tựu, đấy là nhất tâm bất loạn. Bất luận là thuận cảnh hay nghịch cảnh, chánh pháp hay tà pháp, tâm quý vị trọn chẳng loạn. Trong hết thảy các pháp tà – chánh, quý vị quyết định là nhất tâm, chẳng phải là nhị tâm. Thưa quý vị, trong nhất tâm, không có tà hay chánh. Nếu còn có phân định tà – chánh, quý vị đã là nhị tâm! Chẳng phân tà – chánh, quý vị cũng là nhị tâm. Quý vị hãy suy nghĩ xem có đúng là như vậy hay không? Đối diện của “phân” là “bất phân”, đối diện của “bất phân” vẫn là “phân”; hễ có một bèn có hai, khởi tâm động niệm là nhị tâm!
Trong Phật pháp nói “tam tâm, nhị ý”, thì tam tâm nhị ý là khởi tâm động niệm rớt vào tám thức. A Lại Da, Mạt Na, và Ý thức, gọi là tam tâm; “nhị ý” chỉ Mạt Na và Ý thức tức thức thứ sáu. Tam tâm nhị ý là mê hoặc; tam tâm nhị ý là vô minh. Đọa lạc trong vô minh, làm sao quý vị có thể ngưng dứt vọng niệm? Chẳng ngưng dứt được! Do vậy, bước đầu học Phật là quý vị phải thấy thấu suốt, phải buông xuống! Bất luận thiện sự hay ác sự, chớ nên so lường. Ác sự, ác duyên phải buông xuống, mà thiện sự, thiện duyên cũng đừng nên nắm níu, nắm níu vẫn là sai! Do vậy, đức Phật dạy chúng ta: “Tùy duyên tiêu cựu nghiệp, mạc cánh tạo tân ương” (Tùy duyên tiêu nghiệp cũ, đừng tạo ương họa mới). Tùy duyên mới có thể tiêu nghiệp, tùy duyên là gì vậy? Trong hết thảy cảnh duyên, chẳng khởi tâm, động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, hết thảy tùy duyên, tùy duyên tự tại, tùy duyên sẽ chẳng dấy khởi phiền não. Nắm níu là phiền não, nắm níu là gì? Tôi nhất định phải như thế này, tôi nhất định phải như thế nọ. Quý vị nhất định như vậy, tức là phân biệt, chấp trước, tạo nghiệp. Do vậy, muôn mối lo không dứt, chúng ta niệm Phật không tốt đẹp, công phu chẳng thể thành phiến.
Pháp môn quyết định là bình đẳng, không có cao – thấp. Nếu quý vị có cao – thấp thì là vọng niệm, vọng tưởng. Trong các bộ kinh Đại Thừa, đức Phật đã nói rất nhiều, vạn pháp đều Như, không có pháp nào chẳng Như, không có pháp nào chẳng bình đẳng, không có pháp nào chẳng thanh tịnh. Do đây biết: Chẳng bình đẳng, chẳng Như, chẳng thanh tịnh đều do vô minh, vọng tưởng của chính mình biến hiện ra. Trong pháp chân thật, chắc chắn không có những sự tình ấy, nhất tâm bất loạn là khôi phục sự chân thật. Khi ấy, chánh niệm hiện tiền. Chánh Niệm chẳng phải là không có niệm. Chánh Tư Duy chẳng phải là không có tư duy. Tuy có niệm, có tư duy, nhưng chẳng rớt vào tâm ý thức nên gọi là Chánh. Nói cách khác, niệm và tư duy chẳng kèm theo vô minh thì gọi là Chánh. Ý niệm và tư duy mà còn đèo thêm vô minh thì chẳng Chánh, chẳng đèo thêm vô minh, chẳng kèm phiền não thì gọi là Chánh. Nói cách khác, nhất tâm là Chánh, nhị tâm là Tà. Hết thảy tư duy, niệm lự đều nương vào nhất tâm để khởi, đó là Chánh. Nếu dựa trên nhị tâm để khởi thì là Tà.
Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế, đức Phật đã giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh nhiều ngần ấy, đấy là Chánh Tư Duy và Chánh Niệm của Như Lai. Hiện tại, khi chúng ta mở cuốn kinh ra xem, bèn phân biệt vô lượng vô biên danh tướng. Chúng ta dùng cái tâm phân biệt, dùng cái tâm chấp trước, dùng cái tâm vọng tưởng để nghiên cứu, kết quả là chánh tri, chánh kiến, chánh tư duy của Phật bị biến thành tà tri, tà kiến, biến thành tà tư duy. Thật ra, những pháp của Phật có bị biến đổi hay chăng? Các pháp của Phật chẳng bị biến đổi! Pháp của Phật là chánh, nhưng ngay trong lúc pháp ấy được in vào tâm thức của chúng ta, chúng ta biến nó thành tà, nhưng Phật pháp vẫn là chánh tri chánh kiến. Trước kia, chúng tôi đã nói tới chuyển pháp luân, chữ “chuyển” (轉) này chẳng dễ dàng đâu nhé! Như Lai là chánh tri chánh kiến, chuyển đến tâm quý vị vẫn là chánh tri chánh kiến thì mới gọi là Chuyển. Chánh tri chánh kiến của Như Lai chuyển đến tâm quý vị mà bị biến thành tà tri tà kiến, thì có khác gì chẳng chuyển! Đấy là chỗ khó khăn trong Phật pháp. Nói thật ra, vấn đề này là do chính mình có hiểu hay là không. Thiền gia thường khám nghiệm người đến học: “Hiểu không?” Câu này cũng có thể dùng giống hệt như vậy trong Giáo Hạ, mà cũng có thể dùng tương tự trong công phu niệm Phật. Vì vậy, trong vô lượng vô biên pháp môn, pháp môn Niệm Phật quả thật chẳng thể nghĩ bàn! Nếu quý vị thâm nhập kinh tạng, quý vị mới có thể thấu hiểu, mới có thể chứng thực.
Pháp môn này bao hàm hết thảy các pháp môn, không có pháp môn nào vượt ngoài một câu A Di Đà Phật, kể cả Thiền Tông, kể cả Mật Thừa, trong phần trên, chúng tôi đã từng hé lộ tin tức với quý vị. Vậy thì chúng ta nhận thức, khẳng định điều ấy; sau đó, chúng ta ắt phải nghiên cứu, tìm tòi xem nên dùng phương pháp nào để niệm thì mới có thể thật sự đạt đến hiệu quả thù thắng? Phải niệm như thế nào thì mới có thể niệm đạt công phu đắc lực? Nói “đắc lực” có nghĩa là người ấy thật sự có thể chế phục phiền não, thật sự đắc nhất tâm bất loạn. Nói cách khác, phải biết niệm! Biết niệm và không biết niệm sai biệt rất lớn. Người biết niệm có thể niệm một câu A Di Đà Phật để thành Phật trong một đời, giống như trong kinh Lăng Nghiêm, Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói: “Bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai” (Chẳng nhờ đến phương tiện nào khác mà tâm tự khai ngộ). Tâm tự khai ngộ là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh.
(Sớ) Bất niệm Phật tiền, niệm niệm trần lao, sở vị: “Nhất sát-na gian, cửu bách sanh diệt”. Sanh trụ dị diệt phân tễ đầu số vô lượng vô biên, thiên nhãn mạc thứ, danh vạn lự dã.
(疏) 不念佛前,念念塵勞,所謂一剎那間九百生滅,生住異滅分劑頭數無量無邊,天眼莫覷,名萬慮也。
(Sớ: Trước khi niệm Phật thì niệm nào cũng là trần lao, như đã nói: “Trong một sát-na, có chín trăm lần sanh diệt”. Thứ tự sanh, trụ, biến đổi, diệt trong từng loại khác biệt nhiều đến vô lượng vô biên, ngay cả thiên nhãn cũng chẳng thể thấy được, đó gọi là “vạn lự”).
“Bất niệm Phật tiền” tức là khi quý vị chưa biết niệm Phật, trước khi niệm Phật. “Niệm niệm trần lao”: Quý vị có vô lượng vô biên vọng tưởng, có tìm được số lượng [của những vọng tưởng ấy] hay không? Thưa quý vị, không thể định được số lượng, thật sự là quá nhiều. Tiếp theo đó là lời đức Phật dạy: “Nhất sát-na gian, hữu cửu bách sanh diệt” (Trong khoảng một sát-na, có chín trăm lần sanh diệt). “Sanh, trụ, dị, diệt” là nói về một niệm; tuy một niệm rất ngắn ngủi, tạm thời, nhưng nó vẫn có bốn tướng này. Một niệm sanh ra, sanh rồi sẽ tồn tại, tồn tại rồi biến đổi (“dị” là đổi khác), biến đổi rồi diệt mất.
Quý vị hãy suy nghĩ: “Nhất sát-na” là thời gian cực ngắn ngủi, kinh thường nói “nhất đàn chỉ” (một khảy ngón tay), tức là nói một người hết sức khỏe mạnh, dũng mãnh, người ấy có sức lực, khảy ngón tay rất nhanh. [Trong thời gian] một khảy ngón tay có sáu mươi sát-na, trong một sát-na có chín trăm lần sanh diệt. Giống như người bình thường chúng ta khảy ngón tay nhanh hơn một chút, trong một giây có bốn lần khảy ngón tay, một khảy ngón tay là sáu mươi sát-na, bốn nhân sáu mươi lại nhân với chín trăm [lần sanh diệt], quý vị tính ra con số hơn hai mươi vạn lần!
Hơn hai mươi vạn lần đem nhân với bốn lần “sanh, trụ, dị, diệt” thì những thứ vọng tưởng, ý niệm vi tế ấy từ vô thỉ đến nay chưa hề gián đoạn, quý vị sẽ hiểu cái tâm của chúng ta tạp đến mức nào, rối loạn dường ấy! Người niệm Phật chúng ta thường có thể nhận biết trong khi ta niệm Phật vọng tưởng nhiều đến mức nào, đương nhiên là nhiều! Nếu quý vị niệm đến mức vọng tưởng chẳng khởi lên, muôn mối lo đều dứt, công phu đã thành tựu rồi! Nói cách khác, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, quý vị đã đạt được. Đấy là mục tiêu thật sự của người học Phật, thật sự thụ dụng, những thứ khác đều là giả!
Đời người mấy chục năm, trong khoảng khảy ngón tay đã qua! Con người hiện thời mỗi ngày đều đọc báo, quý vị xem báo là xem gì vậy? Khi tôi mới học Phật, mỗi ngày, trang báo đầu tiên tôi đọc là trang đăng cáo phó: Ngày hôm nay có bao nhiêu người chết, người này tuổi đã cao mới chết, kẻ kia còn trẻ tuổi đã chết, trên nẻo suối vàng không phân già trẻ! Tôi hằng ngày đọc những thứ ấy, đọc những thứ ấy để làm gì? Để có cảnh giác: Mạng người vô thường! Nghĩ tới đời người để làm gì? Một đời dẫu là đế vương thì cũng là “vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân” (muôn thứ không mang được, chỉ có nghiệp theo thân). Kẻ ấy là vua chúa, có mang thứ gì đi theo được hay chăng? Cái mang theo là một thân đầy tội lỗi oan nghiệt! Kinh dạy chẳng sai tí nào! Đức Phật dạy chúng ta cách hoán chuyển tội lỗi oan nghiệt, đổi nó thành A Di Đà Phật, đổi nó thành mười đại nguyện vương, có thể mang theo điều này đi được! Do vậy, phải biết đổi! Mười đại nguyện vương, nguyện nào cũng có cảnh giới là tận hư không, trọn pháp giới, cũng là tột cùng chiều dọc, trọn khắp chiều ngang. Nguyện nào cũng là như vậy, thật sự chẳng thể nghĩ bàn!
(Diễn) Niệm niệm trần lao giả, trần giả bất tịnh, lao giả bất dật.
(演) 念念塵勞者,塵者不淨,勞者不逸。
(Diễn: “Niệm niệm trần lao”: Trần là chẳng tịnh, Lao là chẳng thảnh thơi).
Đây là tỷ dụ nhằm sánh ví cái tâm của chúng ta không thanh tịnh. “Trần” (塵) có nghĩa là nhuốm bẩn, bị nhuốm bẩn bởi gì? Nhuốm bẩn bởi tiếng tăm, lợi dưỡng, bị ngũ dục lục trần nhuốm bẩn, bị vọng tưởng, phân biệt, chấp trước nhuốm bẩn. Do vậy, ý niệm của quý vị bất tịnh. Ý niệm bị nhuốm bẩn thì gọi là vọng niệm. Nếu chẳng bị nhuốm bẩn thì sẽ là thanh tịnh, ý niệm ấy được gọi là “chánh niệm”. “Dật” (逸) là tự tại, “lao” (勞) là mệt mỏi, phiền lụy, quý vị chẳng thể tự do tự tại.
(Diễn) Tụ duyên nội dao, xu ngoại bôn dật, thị kỳ tướng dã.
(演) 聚緣內搖,趨外奔逸,是其相也。
(Diễn: Duyên tụ tập xáo động bên trong, hướng ra ngoài rong ruổi là tướng trạng của “trần lao”).
Hai câu này trích từ kinh Lăng Nghiêm. “Duyên” (緣) là “duyên khí” (緣氣), nói theo cách bây giờ là kiến giải, vọng tưởng. Tụ tập rất nhiều kiến giải, rất nhiều vọng niệm ở trong tâm, khiến cho tâm của chính mình chẳng thể an tịnh. Nói cách khác, cái tâm của quý vị chẳng tịnh được, tâm không định được, đấy là “tụ duyên nội dao”. “Xu ngoại bôn dật” là chỗ nào cũng nắm níu ngoại cảnh. Lục căn nắm níu cảnh giới sáu trần bên ngoài, trong cảnh duyên lo được, lo mất, đấy là tướng “niệm niệm trần lao”.
(Diễn) Sát-na trung hữu cửu bách sanh diệt giả, sát-na, thời cực tốc dã. Kinh vân: “Chúng sanh nhất niệm, hữu cửu thập sát-na, nhất sát-na trung, hữu cửu bách sanh diệt”. Sanh trụ dị diệt giả, hữu vi tứ tướng dã.
(演) 剎那中有九百生滅者,剎那,時極速也。
經云:眾生一念,有九十剎那,一剎那中,有九百生滅。生住異滅者,有為四相也。
(Diễn: “Trong một sát-na có chín trăm lần sanh diệt”: Sát-na là khoảng thời gian rất nhanh. Kinh dạy: “Một niệm của chúng sanh có chín mươi sát-na, trong một sát-na có chín trăm lần sanh diệt”. Sanh, trụ, dị, diệt là bốn tướng hữu vi vậy).
Nếu quý vị đã đọc Duy Thức thì câu này sẽ dễ hiểu. Chữ “hữu vi” chỉ pháp hữu vi. Trong pháp hữu vi gồm có Tâm Vương, tám Thức, năm mươi mốt Tâm Sở, hai mươi bốn pháp bất tương ứng, và mười một sắc pháp, những pháp này đều gọi là pháp hữu vi. Hết thảy pháp hữu vi đều có bốn tướng “sanh, trụ, dị, diệt”.
(Diễn) Sanh biểu thử pháp tiên phi hữu, diệt biểu thử pháp hậu thị vô, dị biểu thử pháp phi ngưng nhiên, trụ biểu thử pháp tạm hữu dụng.
(演) 生表此法先非有,滅表此法後是無,異表此法非凝然,住表此法暫有用。
(Diễn: “Sanh” biểu thị pháp này trước đó chẳng có, “diệt” biểu thị pháp này sau đấy sẽ không còn, “dị” biểu thị pháp này chẳng ngưng đọng, “trụ” biểu thị pháp này tạm thời có tác dụng).
Chúng ta dùng cách nói phương tiện để diễn tả, những pháp hữu vi sâm la vạn tượng trong mười pháp giới có tướng “tương tục” (tiếp nối) tạm bợ. Tôi vừa mới thưa cùng quý vị, đây là lời lẽ phương tiện, là Phật pháp sơ cấp, nhằm nói với những người mới học. Nếu là thật ngữ rốt ráo thì “hết thảy các pháp chẳng sanh, chẳng diệt”; nói như vậy [kẻ mới học] sẽ không hiểu được! Lời chân thật là thật, nói thật sẽ chẳng hiểu, chẳng thể tiếp nhận, còn lời lẽ phương tiện thì [kẻ mới học] nghe cảm thấy còn có lý, còn tiếp nhận được. Đây là lý do vì sao Phật pháp chẳng thể không dùng pháp phương tiện, đạo lý ở chỗ này. Thế nhưng học Phật nhất định phải từ pháp phương tiện của Phật để ngộ nhập chân thật, sự chân thật không nói ra được, có nói cũng chẳng hiểu! Pháp chân thật đòi hỏi quý vị phải ngộ nhập, ngộ nhập rồi thì sẽ như cổ nhân nói: “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri” (Như người uống nước, tự biết là nước nóng hay lạnh). Sau khi đã nhập cảnh giới ấy, nhìn vào lời Phật, lời Bồ Tát, hay lời tổ sư nói, đều cảm thấy thú vị chẳng thể nào diễn tả được. Đương nhiên là pháp hỷ phát sanh.
(Diễn) Phân tễ đầu số giả.
(演) 分劑頭數者。
(Diễn: “Lớp lang trong từng loại riêng biệt” là…)
“Phân tễ đầu số” là gì? Ở đây chú giải đơn giản như sau:
(Diễn) Thử phi bỉ viết phân tễ.
(演) 此非彼曰分劑。
(Diễn: Cái này chẳng phải là cái kia nên gọi là “phân tễ”).
“Phân” (分) là khác nhau, “tễ” (劑) là tễ loại (chia thành từng loại riêng biệt), hết thảy vạn vật có thể chia thành từng loại; trong kinh Phật gọi là “phân tễ”, tức là như chúng ta nói “phẩm chủng, phẩm loại”.
(Diễn) Các hữu tự viết đầu số.
(演) 各有緒曰頭數。
(Diễn: Mỗi thứ có lớp lang nên gọi là “đầu số”).
“Tự” (緒) là nó có thứ tự, chẳng rối loạn, đó gọi là “đầu số”. Lớp lang số đến vô lượng vô biên, dẫu Thiên Nhãn của bậc A La Hán cũng chẳng thể thấy rõ ràng, mà cũng chẳng có cách nào thấy rốt cuộc có bao nhiêu lớp lang. Từ kinh điển, chúng ta đọc thấy: Thiên nhãn của A La Hán có thể thấy được vi trần. Quả thật Thiên Nhãn của bậc A La Hán có khả năng quan sát vi tế hơn chúng ta quá nhiều. Vi trần còn có thể chia ra [thành những phần nhỏ hơn nữa], cho nên có sắc tụ cực vi, cực vi vi (Lân Hư Trần)[76], bậc A La Hán chẳng thể thấy được chúng. Điều này cho thấy A La Hán cũng không có cách nào biết được số lượng lớp lang
khác biệt của các trần lao trong từng niệm. A La Hán cũng nhìn không ra!
(Sớ) Thử vạn lự giả, Giáp diệt, tắc Ất sanh, nga khứ, tắc thúc phản, bách kế trừ chi, chung mạc năng đắc.
(疏) 此萬慮者,甲滅則乙生,俄去則倏返,百計除之,終莫能得。
(Sớ: Muôn mối lo này, Giáp diệt, Ất sẽ sanh, khoảnh khắc này vừa đi, khoảnh khắc sau đã trở lại, dùng trăm phương cách trừ khử, rốt cuộc vẫn chẳng thể trừ được).
Đây là chỗ khổ não nhất của người tu hành. Quý vị đọc phần chú giải, lời văn có ý nghĩa trong ấy rất sâu, hết sức quan trọng. Giáp, Ất là gì vậy?
Đều là nói về ý niệm, tượng trưng cho vọng niệm, niệm thứ nhất vừa diệt, niệm thứ hai lại sanh, tiếp nối nhau dấy lên.
(Diễn) Giáp diệt, Ất sanh giả, ước bỉ thử thuyết.
(演) 甲滅乙生者,約彼此說。
(Diễn: “Giáp diệt, Ất sanh” là dựa theo niệm này, niệm kia để nói).
Niệm kia vừa diệt, niệm này bèn sanh; tiếp theo đó, sách viết:
(Diễn) Như tham diệt, sân sanh đẳng.
(演) 如貪滅瞋生等。
(Diễn: Như ý niệm tham vừa diệt, ý niệm sân bèn sanh v.v…)
Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối khởi lên những phiền não ấy. Tham, sân, si, mạn là những ý niệm phiền não mạnh mẽ nhất! “Nga khứ thúc phản”: Trong khoảnh khắc này nó vừa đi, trong khoảnh khắc sau nó trở lại.
(Diễn) Nga khứ thúc phản giả, ước nhất pháp thuyết.
(演) 俄去倏返者,約一法說。
(Diễn: “Khoảnh khắc này vừa đi, khoảnh khắc sau trở lại” là ước theo một pháp để nói).
“Nhất pháp” là nói về pháp tương tục, ý niệm này là tương tục. Thật ra, niệm trước chắc chắn chẳng phải là niệm sau, chỉ là tướng trạng tiếp nối mà thôi. Giống như chúng ta coi phim, những hình tượng chúng ta thấy trên màn bạc giống như là cùng một chuyện, nhưng [thật ra] quý vị nhìn vào từng tấm phim khác nhau, quý vị mới hiểu mỗi ý niệm đều độc lập, đây là nói thật với quý vị. Có thể thật sự thấu hiểu chân thật thì quý vị mới có thể tin tưởng, trong một đời này quý vị “phản bổn quy nguyên” (trở về nguồn cội). Sử dụng pháp phương tiện đúng như đức Phật đã dạy thì sẽ theo đường trở về nhà, chẳng cần phải đi đường vòng, đấy mới là hàng lợi căn thật sự có trí huệ chân thật. Điều này đúng như trong kinh Kim Cang, tôn giả Tu Bồ Đề đã thỉnh vấn Thích Ca Mâu Ni Phật hai vấn đề lớn, đều là những vấn đề căn bản.
Do vậy, trong ngàn kinh muôn luận, tại Trung Quốc, chẳng riêng gì các tổ sư Thiền Tông mà bất luận một tông một phái nào, không tông phái nào chẳng coi trọng kinh Kim Cang. Hai vấn đề lớn trong kinh Kim Cang, thứ nhất là “vân hà hàng phục kỳ tâm” (hàng phục cái tâm như thế nào). Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ, vọng niệm tơi bời, dùng phương pháp nào để hàng phục ý niệm? “Ưng vân hà trụ” (nên trụ như thế nào), tâm chúng ta nên trụ vào đâu? Hai vấn đề lớn này chính là tổng cương lãnh tu học trong Phật pháp. Tâm chúng ta nên ở yên tại chỗ nào? Quý vị thấy người thế gian đặt cái tâm nơi đâu? Đặt trong tiếng tăm, lợi dưỡng! Tâm họ trụ trong tiếng tăm, lợi dưỡng! Nói cách khác, tâm họ suốt ngày từ sáng đến tối vướng mắc trong tiếng tăm, lợi dưỡng, vướng mắc bởi những thứ ấy, vướng mắc gọi là “trụ”.
Cái tâm của chúng ta nên vướng mắc điều gì? Chúng tôi dùng ngay lời này để giảng chắc mọi người dễ hiểu hơn. Quý vị vướng mắc trong tiếng tăm, lợi dưỡng thế gian, thứ gì cũng đều là giả. Đó là gì vậy? Tri kiến luân hồi, là tri kiến sanh tử luân hồi. Quý vị vướng mắc trong sanh tử luân hồi, làm thế nào để thoát khỏi luân hồi? Chúng ta lấy hai câu hỏi ấy từ kinh Kim Cang và dùng kinh A Di Đà để giải đáp thì sẽ dễ thực hiện. Tâm quý vị nên trụ vào đâu? Hãy nên trụ vào Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Dùng phương pháp nào để hàng phục cái tâm? Dùng một câu A Di Đà Phật để hàng phục cái tâm! Bất luận niệm nào khởi lên, lập tức chuyển biến, chuyển đổi nó thành A Di Đà Phật, quý vị sẽ đại công cáo thành. Thiện niệm, ác niệm, tham niệm, sân niệm, bất luận ý niệm nào, chỉ cần nó khởi lên, ngay lập tức chuyển thành A Di Đà Phật. Nếu quý vị niệm Phật như vậy, công phu sẽ đắc lực. Bằng phương pháp niệm Phật này, quý vị niệm không lâu, nhất định mọi mối lo sẽ đều ngưng. Do vậy, quý vị phải biết niệm! Phương pháp này hay hơn Thiền, mà cũng hay hơn Mật.
Khi tôi giảng Tâm Kinh đã từng nói một câu A Di Đà Phật là đại thần chú vô thượng, là đại minh chú, là chú không có gì sánh bằng, tôi nói rất rõ ràng! Hiểu một câu A Di Đà Phật: Thiền, Giáo, Mật thảy đều bao gồm trong ấy. Một câu A Di Đà Phật là pháp môn Đại Tổng Trì. Nếu quý vị không nắm vững điều này, quý vị sẽ chẳng nắm được những thứ cành lá, khổ chẳng kham nói nổi! Mong giải quyết vấn đề chẳng phải là chuyện dễ dàng! Nhưng phải niệm một câu A Di Đà Phật rất khá, mức độ thấp nhất là phải đau đáu đổ công nghiên cứu cặn kẽ, thảo luận tường tận bộ Sớ Sao Diễn Nghĩa này, công phu bỏ ra ấy trọn chẳng luống uổng.
Chúng tôi dự định giảng bộ kinh này ba năm mới viên mãn, đại khái phải giảng ba trăm năm mươi lượt, tuyệt đối chẳng lãng phí thời gian ấy. Do vậy, chúng ta một mặt nghiên cứu thảo luận, một mặt mọi người cùng tu một chỗ, giải và hạnh cùng tiến, các đồng tu dự hội đều có phước!
Chúng ta sanh nhằm thời Mạt Pháp, trong kinh, đức Phật đã dạy rất minh bạch: “Thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh nghiệp thành tựu”. Có thể chọn lựa pháp môn này, thâm nhập một môn, thì chính là bậc thượng thiện, chính là “chư thượng thiện nhân” như trong kinh này đã nói. Quý vị có thể chết sạch lòng mong ngóng, so đo, kiên quyết chọn lựa pháp môn này, quý vị là bậc thượng thiện, có trí huệ. Phải là thượng căn lợi trí thì mới biết chọn lựa pháp môn này. Dẫu tiếp xúc các pháp môn khác, vẫn chẳng kinh, chẳng sợ, như như bất động, vì sao? Tiếp xúc hết thảy pháp môn đều biến những pháp môn ấy thành A Di Đà Phật, trọn chẳng dao động!
(Sớ) Kim dĩ trì danh chi lực, chánh niệm tài cử, tạp tưởng tự trừ.
(疏) 今以持名之力,正念纔舉,雜想自除。
(Sớ: Nay nhờ vào sức trì danh, chánh niệm vừa dấy lên, những ý tưởng tạp loạn tự trừ).
Quý vị nhất định phải biết dụng công. Vọng niệm vừa khởi lên, vọng niệm đương nhiên là có, chẳng thể nào không có. Nếu quý vị không có vọng niệm thì đã sớm thành Phật rồi, chẳng phải là phàm phu nữa! Quý vị có vọng niệm, phải ghi nhớ, quyết định là phàm phu. Không có vọng niệm sẽ là thánh nhân. Quý vị phải dùng một câu Phật hiệu để trừ khử vọng niệm!
Do vậy, khi niệm Phật mà có vọng niệm dấy lên, khi ấy phải làm sao? Phải dốc hết tinh thần vào câu Phật hiệu, tức là quý vị phải chú ý câu Phật hiệu, đừng quan tâm tới vọng niệm, tự nhiên vọng niệm sẽ không còn nữa!
Vọng niệm khởi lên mà quý vị đặc biệt quan tâm tới vọng niệm thì sẽ quên mất câu Phật hiệu, vậy là hỏng rồi! Vọng niệm ngày càng nhiều, Phật hiệu ngày càng ít. Vì sao? Quý vị lo bận tâm tới vọng niệm. Khi ấy, biết dụng công hay không chính là quý vị có thể chuyên chú nơi Phật hiệu, chẳng quan tâm đến vọng niệm thì quý vị biết dụng công. Công phu đắc lực, vọng niệm tự nhiên chẳng còn nữa.
Đừng mong trừ vọng niệm, mong trừ khử vọng niệm là tăng thêm một vọng niệm. Vọng niệm đã nhiều rồi, ta còn muốn trừ vọng niệm thì “muốn trừ vọng niệm” là tăng thêm một vọng niệm nữa, chắc chắn chẳng trừ được vọng niệm! Do vậy, căn bản là đừng quan tâm tới vọng niệm, toàn bộ tinh thần tập trung nơi một câu Phật hiệu; như vậy sẽ thật sự trừ được vọng niệm.
Tiếp theo đây, đại sư nêu lên một tỷ dụ.
(Sớ) Dụ như sư tử xuất quật, bách thú tiềm tung, cảo nhật chiếu sương, thiên lâm thất bạch, danh hàm hưu dã.
(疏) 喻如獅子出窟,百獸潛蹤,杲日照霜,千林失白,名咸休也。
(Sớ: Ví như sư tử ra khỏi hang, trăm loài thú đều ẩn tăm tích, mặt trời rạng rỡ chiếu màn sương, ngàn khu rừng đều hết màu trắng, đó gọi là “đều ngưng dứt” vậy).
Tỷ dụ điều gì vậy? Phần chú giải giảng:
(Diễn) Sư tử, cảo nhật dụ chánh niệm.
(演) 獅子杲日喻正念。
(Diễn: Chánh niệm được ví như sư tử hay mặt trời rực rỡ).
Sư tử và mặt trời rực rỡ đều sánh ví chánh niệm. Chánh niệm là gì? Sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật” là chánh niệm.
(Diễn) Bách thú dữ sương dụ vạn lự.
(演) 百獸與霜喻萬慮。
(Diễn: Vạn mối lo được ví như trăm loài thú hoặc màn sương).
Trăm loài thú và sương đều ví cho “vạn lự” (muôn mối lo, các thứ phiền não), tức là loạn tưởng, suy nghĩ tán loạn. Đây là tỷ dụ một câu A Di Đà Phật vừa mới dấy lên, hết thảy vọng tưởng của quý vị đều bị dứt trừ, công phu ấy thực hiện nơi khởi tâm động niệm, nhất định phải chế phục vọng tưởng.
Hôm nay, trong khi đang niệm Phật, tôi nói với quý vị mấy câu, đặc biệt dẫn phần Tam Phước trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, đấy là cơ sở tu hành, là căn bản tu hành. Mười sáu phép Quán trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh được kiến lập trên cơ sở Tam Phước, không có ba điều kiện ấy thì không có cách nào tu Quán được. Cũng thế, niệm Phật mà mong đạt đến nhất tâm bất loạn thì vẫn chẳng lìa khỏi những điều kiện ấy. Điều thứ nhất là “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”. Chúng ta hãy suy nghĩ, chúng ta có làm được điều này hay chưa? Đấy là cơ sở của Nhân Thiên Thừa trong Ngũ Thừa Phật Pháp. Nếu không làm được điều này thì đời sau sẽ chẳng được làm thân người.
Điều thứ hai là “thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”. Chúng ta nhìn vào thì đây là pháp căn bản của Thanh Văn Thừa và Duyên Giác Thừa, tức pháp Tiểu Thừa.
Điều thứ ba là “phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả”. Ngày nay, chúng ta đang đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả ở nơi này. “Hành giả” là người tu hành, [khuyến tấn hành giả] là khuyên mọi người tu hành, khuyên mọi người hãy phát tâm tự hành, hóa độ người khác, đây là pháp Bồ Tát. Do đây có thể biết: Đại Thừa Phật pháp được kiến lập trên cơ sở Thanh Văn, Duyên Giác và Nhân Thiên Thừa. Một câu Phật hiệu của chúng ta lấy Tam Phước làm cơ sở thì mới có thể thật sự đạt đến “vạn lự hàm hưu”. Dưới đây là một đoạn dẫn chứng:
(Sớ) Cố Vĩnh Minh vị: “Hữu nhân sổ tức, giác quán bất hưu, niệm Phật xưng danh, tức phá giác quán”, thử kỳ nghiệm dã. Hưu chi hựu hưu, cùng kỳ nguyên bổn, cố vân “cứu cực”. Chí ư nhất tâm bất loạn, thị vị thành tựu Niệm Phật tam-muội.
(疏) 故永明謂有人數息,覺觀不休,念佛稱名,即破覺觀,此其驗也。休之又休,窮其源本,故云究極。至於一心不亂,是為成就念佛三昧。
(Sớ: Vì thế ngài Vĩnh Minh nói: “Có người tu Sổ Tức, giác quán chẳng ngớt, niệm Phật xưng danh liền dứt trừ giác quán” Đấy là sự hiệu nghiệm của [pháp trì danh niệm Phật]. Đã ngưng dứt lại càng ngưng dứt hơn, thấu tột cội nguồn, nên nói là “cứu cực” (đạt đến rốt ráo cùng cực), còn đối với nhất tâm bất loạn thì pháp này sẽ thành tựu Niệm Phật tam-muội).
Trong đoạn này, Liên Trì đại sư trích dẫn một câu nói của tổ sư vĩnh Minh Diên Thọ hòng chứng minh. Sách Diễn Nghĩa chú giải như sau:
(Diễn) Sổ Tức giả, Sổ Tức Quán dã. Sổ xuất nhập tức, tùng nhất chí thập, đối trị tán loạn pháp dã.
(演) 數息者,數息觀也。數出入息,從一至十,對治散亂法也。
(Diễn: Sổ Tức là Sổ Tức Quán, tức là đếm hơi thở ra vào từ một đến mười, là phương pháp đối trị tán loạn).
“Sổ Tức” là Sổ Tức Quán là phương pháp sử dụng trong nhà Thiền. “Sổ xuất nhập tức” là đếm hơi thở từ một đến mười. Phương pháp này có thể “đối trị tán loạn”. Khi tâm tán loạn có vọng tưởng, quý vị bèn dùng cách đếm hơi thở hoặc chuyên đếm hơi thở ra, hoặc chuyên đếm hơi hít vào, đều được cả!
(Diễn) Thử pháp thông thế gian xuất thế gian Thiền, như căn bản Thiền, đa do Sổ Tức nhi nhập, nhi Lục Diệu Môn.
(演) 此法通世間出世間禪,如根本禪,多由數息而入。而六妙門。
(Diễn: Pháp này chung cho Thiền thế gian lẫn xuất thế gian, như các phép Thiền căn bản phần nhiều do cách đếm hơi thở mà nhập, nhưng sáu môn mầu nhiệm…)
Lục Diệu Môn[77] là phương pháp tu hành trong tông Thiên Thai, cũng là một loại Thiền.
(Diễn) Diệc tiên dĩ Sổ Tức vi thủ.
(演) 亦先以數息為首。
(Diễn: Cũng trước hết lấy cách đếm hơi thở làm đầu).
Cũng dùng cách này làm phương tiện tối sơ để tu tập.
(Diễn) Thỉnh Quán Âm diệc tất dĩ Sổ Tức vi trợ dã.
(演) 請觀音亦必以數息為助也。
(Diễn: Thỉnh Quán Âm tam-muội cũng dùng Sổ Tức để phụ trợ).
Câu này nhằm nói rõ ý nghĩa: Sổ Tức Quán là phương pháp sử dụng phổ biến nhất trong Đại Thừa Phật pháp, Tông Môn lẫn Giáo Hạ đều dùng nó làm phương tiện nhập môn. Giác quán là gì?
(Diễn) Sơ tâm tại duyên viết Giác, tế tâm quán sát viết Quán, chánh thị thử nhân sổ tức công phu.
(演) 初心在緣曰覺,細心觀察曰觀,正是此人數息工夫。
(Diễn: Lúc ban đầu, tâm nhận biết chỗ để nó duyên vào thì gọi là Giác, sự quán sát khi tâm đã vi tế hơn thì gọi là Quán, đây chính là công phu đếm hơi thở của người ấy).
“Giác” là gì? Trước hết, khi sử dụng công phu này, tự mình cảm thấy tâm ràng buộc nơi hơi thở ra vào, đấy cũng là như kinh Kim Cang nói: “Ưng vân hà trụ?” (Nên trụ như thế nào). Tâm người ấy trụ nơi đâu? Vướng mắc nơi đâu? Vướng mắc nơi hơi thở ra vào. Vậy là chẳng vướng mắc nơi ngũ dục lục trần, chẳng suy nghĩ tán loạn, nhưng chuyên chú nơi hơi thở ra vào, khi đó gọi là Giác. Về sau, công phu dần dần nhỏ nhiệm hơn thì gọi là Quán. Do vậy, Giác và Quán chỉ là một đằng là thô giác, một đằng là tế giác. Tế giác gọi là Quán, thô giác gọi là Giác, chỉ là phân định dựa theo mức độ thô hay tế. Nếu công phu của quý vị thành tựu thì công phu ấy dần dần tăng tấn, đấy chính là tăng trưởng điều sẽ được nói ngay sau đây:
(Diễn) Giác quán bất hưu, diệc tức thị bệnh.
(演) 覺觀不休,亦即是病。
(Diễn: Giác quán chẳng ngơi thì cũng chính là bệnh).
Cho thấy điều này giống như uống thuốc. Uống thuốc này rất có hiệu quả, nó có thể trị bệnh. Đến khi bệnh sắp lành, lại phải bỏ thuốc ấy đi, chứ nếu tiếp tục uống sẽ sanh ra tác dụng phụ, lại biến thành bệnh. Điều này cho thấy pháp phương tiện này có thể dùng vào lúc mới học, chứ nó chẳng phải là pháp rốt ráo, nó có thể ngưng dứt vọng niệm, nhưng chưa thể làm cho quý vị khai ngộ. Nếu quý vị hiểu rõ đạo lý này, mới biết A La Hán thành tựu Cửu Thứ Đệ Định mà chưa thể khai ngộ, chưa thể phá vô minh, chưa thể minh tâm kiến tánh cũng do cùng một đạo lý. Do vậy…
(Diễn) Toại tá xưng danh vi chuyển trị dã.
(演) 遂借稱名為轉治也。
(Diễn: Bèn chuyển sang nhờ vào phép xưng danh để chữa trị).
Đến khi đã có công phu này, lại dùng Niệm Phật, dùng một câu A Di Đà Phật để phá trừ giác quán.
(Diễn) Đản tự tự phân minh, diệc thị Giác. Cú cú tiếp tục (tựu thị tương tục), diệc thị Quán. Vân hà tức phá giác quán? Cái thị dĩ độc công độc, dụng binh chỉ binh, độc tận, binh tiêu, thân tâm an lạc nhĩ.
(演) 但字字分明,亦是覺。句句接續(就是相續),亦是觀。云何即破覺觀,蓋是以毒攻毒,用兵止兵,毒盡兵消,身心安樂耳。
(Diễn: Nhưng từng chữ phân minh cũng là Giác, từng câu tiếp nối thì cũng là Quán, làm sao có thể phá giác quán? Ấy là vì dùng độc trị độc, dùng binh dẹp binh, độc hết, binh tiêu, thân tâm an lạc vậy).
Thật ra, niệm một câu A Di Đà Phật vẫn là giác quán, nhưng phương thức quả thật khác với Sổ Tức. Sổ Tức là từ một đến mười, con số ấy nhất định phải rất rõ ràng, chẳng thể lầm loạn. Do vậy, tinh thần phải rất tập trung, đích xác là một phương pháp đối trị vọng niệm rất hay. Niệm Phật, có khi hành giả vừa niệm Phật vừa khởi vọng tưởng, vì sao? Người ấy chẳng đếm hơi thở. Câu Phật hiệu [được niệm] giống như ca thuộc lòng bài hát mà thôi, đâm ra chẳng thể chế phục vọng tưởng. Do vậy, niệm Phật phải đếm số là đạo lý này. Khi đếm số, niệm Phật và nguyên lý Sổ Tức được vận dụng đồng thời. Ví như sử dụng xâu chuỗi, một tiếng A Di Đà Phật lần một hạt, chẳng dễ khắc phục vọng tưởng. Nếu quý vị niệm ba tiếng A Di Đà Phật mới lần một hạt, so ra dễ dàng hơn, vì sao? Chuyên tâm! Khi chẳng chuyên tâm, ba tiếng sẽ bị quên. Niệm ba tiếng, chẳng thể nói “A Di Đà Phật một, A Di Đà Phật hai, A Di Đà Phật ba”, đếm như vậy là không được! Một câu A Di Đà Phật niệm rất bình thường, niệm rất thuần thục, tự nhiên, con số ấy phải ghi nhớ chẳng sai chút nào, có như vậy thì mới có thể hàng phục vọng niệm. Từ ba tăng lên bốn, tăng lên năm, tăng lên dần dần. Nếu có thể niệm đến mười tiếng A Di Đà Phật mới lần một hạt thì đương nhiên công phu khá cao minh. Kẻ mới học suốt hai ba năm chưa chắc đã làm được!
Phương thức này là một biện pháp dùng độc trị độc, độc là gì? Độc là chấp trước. Dùng phương pháp này để phá trừ chấp trước Sổ Tức. Do đây có thể biết: Nguyên tắc lớn trong Phật pháp từ đầu đến cuối là phá trừ chấp trước. Trước hết phá Nhân Ngã Chấp, kế đến phá Pháp Ngã Chấp, là vì trong Chân Như tự tánh không có phân biệt, chấp trước. Có phân biệt, có chấp trước là phàm phu; không có phân biệt, không chấp trước là Phật, Bồ Tát. Đây cũng là nguyên tắc, nguyên lý tu học tối cao trong Phật pháp. Hết thảy phân biệt, chấp trước đều gạt bỏ, thân tâm sẽ an lạc.
(Diễn) Hựu hoặc thử nhân kính tựu Lý trì, nghiên cứu chi cực, đốn nhập vô tâm tam-muội, diệc bất khả tri. Thử chánh thị nhất cá hàm hưu dạng tử, cố thủ chi dĩ vi nghiệm dã.
(演) 又或此人徑就理持,研究之極,頓入無心三昧,亦不可知。此正是一個咸休樣子,故取之以為驗也。
(Diễn: Lại có khi người ấy sẽ mau chóng dùng cách Lý Trì, nghiên cứu đến tột cùng, nhanh chóng chứng nhập vô tâm tam-muội cũng không chừng! Đây chính là một thí dụ về “muôn mối phiền não đều dứt”, nên nêu ra để làm chứng nghiệm vậy).
“Nghiệm” (驗) là chứng nghiệm, tức là chứng minh; nay chúng ta gọi là “kiến chứng” (bằng chứng thấy rõ ràng). Chấp trì danh hiệu có Sự Trì và Lý Trì. Sự Trì là gì? Lý Trì là gì? Trong phần sau sẽ có đoạn kinh văn thảo luận cặn kẽ, đấy đều là nói về phương pháp, cảnh giới, hết sức trọng yếu! Nếu thật sự hiểu rõ, thông đạt lý luận và phương pháp thì không có chướng ngại gì, quả thật là có thể “đốn nhập vô tâm tam-muội”. “Vô tâm” là không có vọng tâm, vô niệm là không có vọng niệm, chứ không phải là chẳng có chân tâm, chẳng phải là không có chánh niệm. Đạt đến cảnh giới ấy sẽ là nhất tâm bất loạn, là Niệm Phật tam-muội hiện tiền. Đấy chính là tất cả vọng niệm đều ngưng dứt, toàn bộ hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều chẳng còn nữa, đều tiêu mất sạch sành sanh!
Do vậy, đại sư nêu lên một tỷ dụ để làm bằng chứng, khiến cho chúng ta tin tưởng một câu Phật hiệu quả thật có thể đạt đến công phu tối cao, rốt ráo nhất. Hôm nay đã hết giờ rồi!
— o0o —
Tập 27
Xin đọc A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba mươi bốn:
(Sớ) Cố Vĩnh Minh vị: “Hữu nhân sổ tức, giác quán bất hưu, niệm Phật xưng danh, tức phá giác quán”, thử kỳ nghiệm dã, hưu chi hựu hưu, cùng kỳ nguyên bổn, cố vân cứu cực, chí ư nhất tâm bất loạn, thị vi thành tựu Niệm Phật tam-muội.
(疏) 故永明謂有人數息,覺觀不休,念佛稱名,即破覺觀,此其驗也。休之又休,窮其源本,故云究極。至於一心不亂,是為成就念佛三昧。
(Sớ: Vì thế, ngài Vĩnh Minh nói: “Có người tu Sổ Tức, giác quán chẳng ngơi, niệm Phật xưng danh liền phá giác quán”. Đấy là sự chứng nghiệm vậy, [đó là] đã ngưng dứt lại càng ngưng dứt hơn, thấu tột cội nguồn, nên nói là “rốt ráo đến tột bậc”, đạt đến nhất tâm bất loạn, đó là thành tựu Niệm Phật tam-muội).
Hôm qua tôi đã giới thiệu các từ ngữ Sổ Tức và Giác Quán rồi.
(Diễn) Hưu chi vị hưu, tức sở vị “tinh tấn cánh tinh tấn, phóng hạ hựu phóng hạ” dã.
(演) 休之又休,即所謂精進更精進,放下又放下也。
(Diễn: “Đã ngưng dứt lại càng ngưng dứt hơn”, ý nói: Đã tinh tấn lại càng tinh tấn, đã buông xuống lại càng buông xuống hơn).
Những khai thị này đều là nguyên tắc chỉ đạo tối cao trong Hành môn (phương diện tu hành). Chúng ta muốn công phu thành tựu, cổ đức thường nói: “Thấy thấu suốt, buông xuống”. Thấy thấu suốt và buông xuống có những tầng lớp khác nhau, hình thành năm mươi mốt địa vị Bồ Tát khác nhau, tức là Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác. Ngẫu Ích đại sư và Liên Trì đại sư cùng phán định kinh này có một phần thuộc Viên Giáo. Địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo đã buông xuống tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới, trong Tịnh Độ gọi cảnh giới này là “công phu thành phiến thượng phẩm”. Nếu quý vị đạt đến cảnh giới này, có phải là trọn đủ hay chăng? Thưa quý vị, chưa thể được! Phải nên làm như thế nào? Phải càng tinh tấn hơn, từ cảnh giới này phải không ngừng nâng cao hơn, phải nỗ lực cho đến hết tuổi thọ! Nỗ lực trên phương diện nào? Tinh tấn trên hai phương diện buông xuống và thấy thấu suốt. Thấy thấu suốt và buông xuống giúp nhau thành tựu; thấy thấu suốt là trí huệ, buông xuống là công phu, đấy mới là tinh tấn thật sự, là “đã ngưng dứt càng ngưng dứt hơn”, phải đạt đến mục tiêu như thế nào? Câu tiếp theo nói giảng từ ngữ “cùng kỳ nguyên bổn”.
(Diễn) Nguyên bổn thị vạn lự chi nguyên đầu căn bản.
(演) 源本,是萬慮之源頭根本。
(Diễn: “Cội nguồn” là gốc rễ đầu mối của mọi mối lo sầu).
Trong Giáo Hạ thường nói tới điều này, gọi nó là “căn bản vô minh”. Chúng ta có thể bỏ ngay căn bản vô minh được hay chăng? Chẳng thể nào! Giống như chúng ta mặc quần áo, trời lạnh, mặc rất nhiều quần áo, mặc tới mấy bộ quần áo, căn bản vô minh giống như bộ quần áo sát thân. Khi quý vị cởi ra, nhất định phải cởi lớp bên ngoài trước, cởi từng lớp một thì mới cởi được lớp tận trong cùng, trọn chẳng thể nào không tháo bỏ những lớp ngoài mà cởi ngay được lớp bên trong. Đó là chuyện không thể nào làm được! Chúng ta phải buông xuống từ ngoài vào trong, từ thô đến tế; trước hết là buông xuống Kiến Tư phiền não, rồi buông xuống Trần Sa phiền não, cuối cùng buông xuống căn bản vô minh. Chiếu theo thứ tự thuận này thì mới tột cùng nguồn cội được. Sách Diễn Nghĩa lại dùng mấy câu kinh Lăng Nghiêm để chứng minh.
(Diễn) Cận ngôn chi, tức thị dung thông vọng tưởng, dĩ vi kỳ bổn. Cùng vị phù tưởng tiêu trừ, ư giác minh tâm, như khử trần cấu, thử tức thị Sự nhất tâm dã.
(演) 近言之,即是融通妄想,以為其本。窮謂浮想消除,於覺明心,如去塵垢,此即是事一心也。
(Diễn: Nói gần gũi thì chính là dung thông vọng tưởng, lấy nó (tức vô minh) làm gốc. “Cùng” có nghĩa là tiêu trừ những vọng tưởng hời hợt nơi tâm giác minh như trừ khử bụi nhơ. Đây chính là Sự nhất tâm).
“Dung thông vọng tưởng” là đối với điên đảo mà nói. Lũ chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối khởi tâm động niệm, nghĩ trước, lo sau, những vọng tưởng ấy gọi là “dung thông vọng tưởng”. Vô lượng vô biên vọng tưởng đều sanh ra từ đây, chúng vẫn lấy vô minh làm căn bản. Nếu hiểu rõ, thông đạt chân tướng của hết thảy các pháp, người ấy sẽ chẳng khởi vọng tưởng nữa. Quả thật là do chẳng hiểu rõ, thông đạt tướng chân thật của hết thảy các pháp, do chẳng hiểu rõ nên dấy lên nghi hoặc, do dấy nghi hoặc bèn sanh ra vọng tưởng.
Chữ “cùng” (窮) có nghĩa là công phu, nhất định phải gạt bỏ vọng tưởng. “Phù tưởng tiêu trừ”: Nói tới “phù tưởng” (những vọng tưởng hời hợt) thì có thể thấy những tướng được biến hiện bởi những vọng tưởng ấy là thô nhất, là tầng ngoài cùng hời hợt nhất [nên gọi là “phù tưởng”], chúng ta thường gọi chúng là Kiến Tư phiền não. Kiến (見) là kiến giải sai lầm, Tư (思) là tư tưởng sai lầm. Kiến giải và tư tưởng đều chẳng chính xác. Trước hết phải trừ bỏ những thứ ấy, tâm chúng ta sẽ thanh tịnh giống như trừ sạch bụi nhơ, tâm thanh tịnh dần dần thấu lộ. Đấy là cảnh giới Sự nhất tâm, mà cũng là mục tiêu thứ nhất trong sự học Phật của chúng ta.
(Diễn) Viễn ngôn chi, tắc thị võng tượng hư vô, điên đảo vọng tưởng, dĩ vi kỳ bổn. Cùng vị thúc nhiên huy liệt, viên minh tinh tâm, ư trung phát hóa, thử tức thị Lý nhất tâm dã.
(演) 遠言之,則是罔象虛無,顛倒妄想,以為其本。
窮謂倏然隳裂,圓明精心,於中發化,此即是理一心也。
(Diễn: Nói xa xôi thì những hình tượng được biến hiện hư vọng, hư vô, điên đảo vọng tưởng, lấy nó làm gốc. “Cùng” có nghĩa là đột nhiên vỡ nát, cái tâm tinh thuần viên minh phát khởi tác dụng từ trong ấy. Đây chính là Lý nhất tâm vậy).
Công phu càng sâu hơn. Do vậy, chúng ta niệm Phật, công phu bước đầu là trước hết cầu công phu thành phiến, không có cách nào bỏ qua được những điều này. Vì sao hiện thời công phu của chúng ta chẳng thể thành phiến? Nói cách khác, do chúng ta không buông xuống. Chẳng thể buông xuống, đó là chướng ngại. Chỉ cần quý vị không chịu buông xuống, công phu của quý vị vĩnh viễn chẳng thể thành phiến được!
Vừa rồi, Trịnh cư sĩ ngồi ở chỗ tôi cả tiếng đồng hồ. Ông ta và tôi bàn đến rất nhiều thứ đang được giới Tâm Lý Học Tây phương nghiên cứu, thảo luận hiện thời. Tâm có thể chuyển cảnh giới; gần đây nhất, họ công nhận đó là chuyện có thể được, có xu thế như vậy. Họ khảo sát tại mọi nơi, đặc biệt là [khảo sát] những người tu hành trong Phật giáo. Họ nói tâm có thể khống chế thân thể, khống chế tuổi thọ, có thể khiến cho thọ mạng kéo dài, hoặc khiến cho thọ mạng rút ngắn, [“khống chế thân thể”] là danh từ được dùng bởi giới Tâm Lý Học hiện thời. Trong Phật pháp, chúng ta gọi đó là “sanh tử tự tại”; họ chẳng gọi là “sanh tử tự tại”, mà gọi là “khống chế thân thể”. Tâm linh có thể khiến cho thân thể khỏe mạnh, [và cũng] có thể khiến cho thân thể trường thọ. Người Tây phương hiện nay đang dốc sức nghiên cứu chuyện này, họ nghĩ những nghiên cứu ấy sẽ giúp cho các nhà khoa học nghiên cứu, thảo luận Phật pháp, học Phật. Như vậy là có phải họ sẽ thật sự đạt đến Phật pháp hay chăng? Vẫn còn có một khoảng cách khá dài, vì chẳng thể dùng tâm ý thức để nghiên cứu mà hòng thấu đạt Phật pháp được! Bọn họ vẫn sử dụng phân biệt hư vọng, chấp trước hư vọng, vẫn đi theo đường lối ấy.
Do những hiện tượng ấy là sự thật, tôi nêu lên một trường hợp: Bà Hoàng vãng sanh chưa được mấy ngày. Bà ta bị ung thư bao tử, ung thư ruột; do ung thư bao tử mà chuyển thành ung thư ruột. Mọi người đều biết bệnh nhân mắc chứng này hết sức đau khổ, nhưng bà ta nghiễm nhiên chẳng đau khổ tí nào, ăn uống như bình thường. Do vậy, ngay cả bác sĩ cũng ngơ ngác, vì sao vậy? Chưa từng thấy có bệnh án nào như thế. Bà ta suốt ngày từ sáng đến tối niệm A Di Đà Phật, buông nỗi thống khổ xuống, bệnh khổ cũng buông xuống luôn. Do vậy, khi vãng sanh hết sức tự tại, không bị đau khổ mảy may nào, chắc chắn vãng sanh! Với tình hình như vậy, chắc chắn bà ta vãng sanh, chẳng có mảy may nghi vấn nào, đủ thấy tầm trọng yếu của buông xuống!
Những người niệm Phật chẳng thể thành tựu là vì trong lòng vướng mắc quá nhiều sự việc, tâm chẳng chuyên, niệm chẳng nhất. Tổ sư đại đức thường dạy chúng ta: “Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” (Niệm chẳng chuyên nhất, chẳng sanh Tịnh Độ). Sanh về Tịnh Độ nhất định phải chuyên nhất, siêng năng niệm. Do vậy, hết thảy vọng tưởng đều phải buông xuống, tâm an trụ trong một câu Phật hiệu, có như vậy mới hòng thành tựu. Người thế gian chúng ta cứ tưởng người có nhiều kiến thức là kẻ thông minh, học rộng, lắm tài, nhưng trong cái nhìn của nhà Phật, chẳng hề nói như vậy! Những thứ kiến giải, tư tưởng ấy hoàn toàn chẳng chân thật, mà là căn bản của lục đạo luân hồi, là Kiến Tư phiền não. Kiến Tư phiền não đều buông xuống hết. Đó là Sự nhất tâm bất loạn. Tiến hơn nữa là Trần Sa phiền não và Vô Minh phiền não cũng buông xuống, đó là Lý nhất tâm bất loạn.
Ở chỗ này, kinh văn được dẫn [trong lời Sớ] là kinh Lăng Nghiêm: “Võng tượng hư vô”. “Võng” (罔) là hư vọng, chẳng chân thật. “Tượng” (象) là hiện tượng. Đúng như kinh Kim Cang đã dạy: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, đấy là “võng tượng hư vô” (những hình tượng được biến hiện đều hư vọng, rỗng tuếch). Trong hết thảy cảnh giới hư vọng, chúng ta chẳng liễu giải tướng chân thật; do vậy, bị những tướng cảnh giới ấy xoay chuyển, tức là tâm bị cảnh chuyển, chẳng thể tự tại! Chỗ cao minh của người tu hành là “cảnh chuyển theo tâm”. Vừa rồi, Trịnh cư sĩ bảo tôi: “Hiện thời, người phương Tây dùng những dụng cụ đo đạc khoa học để khám nghiệm hành giả Du Già (Yoga) nhập Định và người tu Thiền nhập Định, thu được kết quả khác nhau. Đối với người tu Thiền Định theo lối Yoga, qua quan sát làn sóng điện ghi nhận sự phản ứng của người ấy, [các nhà khoa học nhận thấy] nếu cho người [đang nhập Thiền Yoga] ấy nghe âm thanh, [nhìn vào] làn sóng điện thể hiện sự phản ứng, [ta nhận thấy] người ấy dường như hoàn toàn không có tri giác, giống như cánh cửa đóng chặt. Điều này cũng giống như Vô Tưởng Định được nói trong kinh Phật, người ấy chẳng có tri giác đối với hết thảy cảnh giới bên ngoài. Những người nhập Thiền Định trong nhà Phật có cảm giác, lần thứ nhất cảm giác rất rõ rệt, lần thứ hai cảm giác nhẹ yếu hơn, đến lần thứ ba dần dần bất động. Do điều này, chứng tỏ rằng: Thiền Định trong Phật môn có tri giác, thứ gì cũng đều nhận biết. Cách nói này hoàn toàn phù hợp với những ý nghĩa về Thiền Định đã được giảng trong kinh Phật.
Thiền Định Phật pháp gọi là Tịnh Lự. “Tịnh” (靜) là tâm thanh tịnh, xa lìa hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. “Lự” (慮) là hiểu rõ phân minh. Có Chỉ, có Quán; Chỉ và Quán cùng vận dụng thì mới gọi là Thiền. Do vậy, Thiền Định hoàn toàn chẳng phải là “cái gì cũng không biết”, không phải vậy! Nếu là như vậy, sẽ biến thành Vô Tưởng Định, trở thành ngoại đạo. Điều này cũng chứng tỏ, Phật pháp gọi Yoga là ngoại đạo, cảnh giới và công phu của họ khác với cách tu trì trong Phật pháp. Nói cách khác, Thiền Định có thể đoạn phiền não, có thể phá vô minh, nhưng Định của Yoga không thể làm được! Nó đọa trong vô minh, chẳng thể phá vô minh. Trong Định, họ (hành giả Yoga) có thể ngăn dứt phiền não, nhưng sau khi xuất Định, phiền não lại hiện tiền. Chúng ta cũng phải nên hiểu rõ điều này. Do hiện thời, những thứ này khá thịnh hành trên cả thế giới, thuật Yoga của Ấn Độ cũng hết sức thịnh hành tại Âu Mỹ, cảnh giới của họ đã dần dần bị các nhà khoa học dò lường. Điều này hữu ích đối với sự hoằng dương Phật pháp, sau đấy, họ mới liễu giải Phật pháp là chánh pháp.
Chữ “cùng” (窮) ở đây cũng là công phu, công phu ấy càng sâu hơn [so với công phu được nói trong đoạn trước]. Đột nhiên [vô minh] bị vỡ nát! Đây là nói “phá vô minh, khai trí huệ”, nhà Thiền gọi điều này là “hoát nhiên đại ngộ”. Trong phần trên là tiêu trừ những phù tưởng (suy tưởng hời hợt) bên ngoài, đấy là đắc Định, nhưng chưa khai trí huệ; còn trong tầng này là từ Định mà khai Huệ, đại triệt, đại ngộ, cảnh giới khác biệt rất lớn.
“Viên minh tinh tâm, ư trung phát hóa” (cái tâm viên mãn, sáng suốt, tinh thuần được phát khởi tác dụng từ trong ấy): “Viên” (圓) là viên mãn, “minh” (明) là quang minh, trí huệ đầy ắp, “tinh” (精) là thuần nhất, chẳng tạp, nhất tâm đấy! Nhất tâm là viên mãn, nhất tâm là quang minh, là trí huệ. “Tinh tâm” là nhất tâm. “Ư trung phát hóa”: “Phát” (發) là làm sáng tỏ, “hóa” (化) là biến hóa. Hai chữ này đều nói về tác dụng, tức là cái tâm tinh thuần, viên mãn, sáng suốt khởi tác dụng, biến hiện điều gì? Biến hiện y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Điều này cũng thường được các tôn giáo gọi là “toàn tri toàn năng”, không gì chẳng biết, không gì chẳng thể, đấy là Lý nhất tâm bất loạn. Nói theo Viên Giáo, từ Sơ Trụ Bồ Tát cho đến Đẳng Giác Bồ Tát đều gọi là Lý nhất tâm. Do đây biết rằng: Công phu nơi Lý nhất tâm có sâu hay cạn khác nhau; đấy chính là bốn mươi mốt đẳng cấp [Bồ Tát] được liệt kê trong kinh điển, chúng cùng là Lý nhất tâm, từ Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên đều gọi là Lý nhất tâm bất loạn.
Kinh Hoa Nghiêm gọi [những vị đã chứng đắc] Lý nhất tâm là Pháp Thân đại sĩ. Nếu chúng ta hỏi: Trong một đời, chúng ta có thể đạt đến cảnh giới này hay không? Thưa quý vị, có thể chứ, chẳng phải là không có thể, mà thật sự là có thể! Chứng đắc công phu này, đừng hỏi ai khác! Khi quý vị chứng đắc sẽ hiểu rõ ràng, nhưng khi quý vị chứng đắc sẽ có tầng lớp, có cấp bậc. Nhất định trước hết phải là khinh an, đạt được cái trong cửa Phật thường nói là “tám gió thổi chẳng động”. Tám gió thổi chẳng động, thưa cùng quý vị, thì vẫn chưa phải là nhập môn, mà tính là công phu thành phiến, tức là công phu thành phiến trung hạ phẩm trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, chẳng phải là thượng phẩm. Đoạn sạch tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc thì mới là công phu thành phiến thượng phẩm. Trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, cũng có ba bậc, chín phẩm. Do vậy, trong quá trình tu học, quý vị nhất định phải trải qua thứ tự như vậy. Hiện thời, cái tâm của chúng ta hễ được người ta khen ngợi mấy câu liền vui sướng mấy hôm, người ta chửi vài câu bèn giận mấy chục bữa chưa tan, làm thế nào được đây? Tám gió nhỏ xíu từ cảnh giới bên ngoài vừa thổi, tâm đã dấy động ầm ầm, không được rồi! Niệm Phật như vậy thì niệm suốt đời, vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ vẫn có vấn đề lớn!
Trong việc niệm Phật, tôi lại thưa cùng quý vị: Nay chúng ta coi vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ là chuyện to lớn nhất. Thế giới này khổ quá, thế giới này chẳng đáng lưu luyến! Nếu quý vị nói: Trong nhà tôi còn có cha mẹ, còn có con cái, chẳng thể không bận tâm! Quý vị có thể thật sự bận tâm được sao? Quý vị thật sự chăm sóc họ được ư? Chăm sóc chẳng được! Phải giác ngộ điều này! Chính mình chưa thể vượt thoát luân hồi, làm sao có thể chăm sóc người khác, có năng lực gì để chăm sóc người khác? Đúng là mê hoặc, điên đảo! Chẳng phải là bảo quý vị hãy mặc kệ cha mẹ, quyến thuộc, chẳng phải vậy. Điều kiện thứ nhất trong pháp môn Tịnh Độ là “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”, đủ thấy pháp môn này được kiến lập trên cơ sở luân lý. Hiện thời, [ta và thân quyến] tụ hội một chỗ, hãy tận tâm tận lực chiếu cố, nhưng cái tâm của chính mình nhất định phải an trụ nơi Tây Phương.
Làm như thế nào thì mới có thể chiếu cố người nhà và quyến thuộc? Thưa quý vị, cách chiếu cố viên mãn rốt ráo nhất chính là khuyên họ niệm Phật. Họ niệm một câu Phật hiệu thành công cũng có thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đấy mới là đạt đến rốt ráo, mới là đạt đến viên mãn. Khuyên họ chẳng nghe thì nêu gương cho họ thấy. Bà Hoàng rất tuyệt vời, chồng, con trai, con gái bà ta đều tin Phật, đều chẳng hoài nghi, do nguyên nhân nào vậy? Thấy bà ta vãng sanh, bà ta độ không ít người. Ngay cả bác sĩ trong bệnh viện thấy hiện tượng ấy cũng phải động tâm, rốt cuộc chuyện này là như thế nào vậy? Bất cứ bệnh nhân nào cũng không nhịn đau nổi, bà ta tỉnh như không! Khi mất, mặt còn lộ nét tươi cười, một tí đau khổ cũng chẳng có! Độ không ít người! Chính mắt chúng tôi trông thấy chuyện này, chẳng giả tí nào hết. Do vậy, nhất định phải hiểu: Chỉ có sanh về Tây Phương Tịnh Độ mới là rốt ráo.
Quý vị ở trong thế gian này, đem cả thế giới tặng cho quý vị thì quý vị lại có thể đạt được gì? Một hơi thở ra không hít vào được nữa, món gì cũng chẳng mang theo! Đấy là “vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân” (muôn thứ chẳng đem được, chỉ có nghiệp theo thân). Quý vị chẳng thể mang theo thứ gì cả, cũng có vị nghĩ rằng: “Hiện tại ta còn chưa chết”, đấy là một cách nghĩ sai lầm. Quý vị mỗi đêm đi ngủ, ngủ là chết nhẹ nhàng một lần, mỗi ngày phải chết một lần. Quý vị thấy khi ngủ, quý vị có biết gì hay không? Khi quý vị ngủ, có vật nào trong thế gian thuộc về bản thân quý vị hay chăng? Ngủ say thì người ta có khiêng thân quý vị đi, bê đi, quý vị cũng không biết! Có khác gì đã chết hay chăng? Mỗi ngày phải chết nhẹ nhàng một phen, còn chưa tỉnh giác ư? Nhất định phải tỉnh giác!
(Diễn) Sự Lý nhất tâm, giai vi thành tựu Niệm Phật tam-muội.
(演) 事理一心,皆為成就念佛三昧。
(Diễn: Sự nhất tâm và Lý nhất tâm đều là thành tựu Niệm Phật tam-muội).
Đều gọi là Niệm Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội có thứ tự sâu hay cạn khác nhau. Sự nhất tâm nói theo Viên Giáo thì là sự chứng đắc của hàng Bồ Tát thuộc địa vị Thất Tín. Do đây biết: Chúng ta thường nói tới cõi Phàm Thánh Đồng Cư, nhưng nếu chiếu theo Viên Giáo để nói, từ Sơ Tín tới Lục Tín, đối với mức độ thấp nhất trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, có sáu cấp bậc: Sáu cấp bậc ấy là thượng trung phẩm (thượng phẩm, trung phẩm) trong những người đới nghiệp vãng sanh. Nếu trong cảnh giới, “tám gió thổi chẳng động”, chẳng qua là hạ phẩm trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, nhưng thưa với quý vị, người ấy quyết định vãng sanh. Chửi quý vị, hủy nhục quý vị, quý vị chẳng nóng giận; khen ngợi quý vị, quý vị cũng chẳng sanh tâm hoan hỷ. Trong cảnh giới thường ngày, quý vị có thể giữ gìn cái tâm bình tịnh, chẳng bị ngoại cảnh lay động, công phu ấy không cao, chẳng được coi là công phu cao, nhưng quyết định vãng sanh!
Sự nhất tâm bất loạn là cõi Phương Tiện Hữu Dư trong Tịnh Độ. Nếu dùng Viên Giáo để nói thì [Sự nhất tâm bất loạn] có bốn tầng cấp là Thất Tín, Bát Tín, Cửu Tín, Thập Tín. Lý nhất tâm bất loạn là bốn mươi mốt tầng cấp trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Thế nhưng, đạt từ Sự nhất tâm trở lên mới gọi là “thành tựu Niệm Phật tam-muội”. Tam-muội là gì? Dưới đây là lời giải thích.
(Diễn) Tam-muội giả, Phạn ngữ.
(演) 三昧者,梵語。
(Diễn: Tam-muội là tiếng Phạn).
Từ tiếng Phạn của Ấn Độ dịch âm.
(Diễn) Thử vân Chánh Định, diệc vân Chánh Thọ.
(演) 此云正定,亦云正受。
(Diễn: Cõi này dịch là Chánh Định, còn dịch là Chánh Thọ).
Định là gì? Thọ là gì? Dưới đây sẽ có giải thích.
(Diễn) Ly tà danh Chánh, ly tán danh Định.
(演) 離邪名正,離散名定。
(Diễn: Lìa tà nên gọi là Chánh, lìa tán loạn nên gọi là Định).
Người ấy lìa khỏi hết thảy tà tri kiến, tâm hệ niệm một chỗ, chẳng tán loạn; do vậy, gọi là Chánh Định.
(Diễn) Dĩ nhất tâm bất loạn, bất đồng phàm phu chi bất định, ngoại đạo chi tà định.
(演) 以一心不亂,不同凡夫之不定、外道之邪定。
(Diễn: Do nhất tâm bất loạn nên chẳng giống với phàm phu bất định và tà định của ngoại đạo).
Vì lẽ đó mà gọi là Chánh Định. Tâm phàm phu suốt ngày từ sáng đến tối tưởng Đông nghĩ Tây, bất định mà! Ngoại đạo thì giống như tôi vừa mới nói người ngoại quốc trắc nghiệm thuật Yoga, khi họ (người tu Yoga) nhập Định bèn chẳng biết gì về cảnh giới bên ngoài nữa, đó là tà định, chẳng gọi là Chánh Định. Do vậy, [Thiền Định] trong Phật pháp gọi là Chánh Định, không có tà tư, mà có chánh niệm. Chánh niệm phân minh, có giác, có quán, chẳng phải là Định chết cứng, mà là Định hoạt bát, sống động. Chánh Thọ là gì?
(Diễn) Bất thọ chư thọ, danh vi Chánh Thọ.
(演) 不受諸受,名為正受。
(Diễn: Chẳng nhận lãnh các cảm thọ, nên gọi là Chánh Thọ).
“Chư thọ”: Phật pháp quy nạp hết thảy các thứ cảm nhận thành năm loại lớn: “Khổ, Lạc, Ưu, Hỷ, Xả”. [Sự cảm nhận nơi] thân được quy nạp thành hai loại khổ và lạc, tâm cũng có hai loại cảm nhận là ưu và hỷ (lo và mừng). Thân chẳng khổ chẳng lạc, tâm chẳng ưu chẳng hỷ thì khi ấy gọi là Xả Thọ. Chánh Thọ là lìa khỏi năm thứ cảm thọ này, hoàn toàn không có, khi ấy mới là sự thụ hưởng đúng đắn. Nói cách khác, quý vị có khổ, lạc, ưu, hỷ, xả thì sự cảm nhận ấy không đúng đắn. Trong sự cảm thọ đúng đắn, nhất định không có khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Do đây, có thể biết: Nếu chúng ta có những cảm thọ khổ, lạc, ưu, hỷ, xả hiện tiền, chính mình nhất định phải giác ngộ, phải liễu giải những thứ cảm thọ ấy là không bình thường, ta là phàm phu, không phải là thánh nhân!
(Diễn) Dĩ nhất tâm bất loạn, vô nhất pháp đương tình, danh Chánh Thọ dã.
(演) 以一心不亂,無一法當情,名正受也。
(Diễn: Do nhất tâm bất loạn, không có một pháp nào là tình thức, nên gọi là Chánh Thọ).
Câu này rất quan trọng. Chữ Tình (情) có phạm vi hết sức rộng lớn. Ở đây, nó là tên gọi chung của vô minh phiền não. Khi tâm đã đạt nhất tâm, trong ấy quả thật không có vô minh, mà cũng chẳng có phiền não. Nhất tâm là tâm thanh tịnh, trong nhị tâm sẽ khởi lên tình, tức là có tình kiến, có tình thức. Nói cách khác, có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Nếu khi tâm quý vị chuyên nhất, chắc chắn chẳng sanh phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, đó gọi là Chánh Thọ. Hiểu rõ ràng, minh bạch những cảnh giới trước mắt, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, tâm quý vị là một, không hai. Nhất tâm là chân tâm, nhị tâm là vọng tâm. Nói cách khác, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần bằng chân tâm thuần nhất. Trong chân tâm đầy ắp trí huệ, đầy đủ hết thảy công năng, giống như Lục Tổ khi ngộ nhập đã nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn sẵn thanh tịnh”. Chân tâm là thanh tịnh, quyết chẳng có ô nhiễm. “Nào ngờ tự tánh, vốn sẵn đầy đủ”: Nhất tâm đầy đủ vạn pháp, vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, thứ gì cũng viên mãn, chẳng khiếm khuyết thứ gì. “Nào ngờ tự tánh, có thể sanh ra muôn pháp”. Đấy chính là “ư trung phát hóa” (khởi tác dụng trong ấy). Do vậy, không có một pháp nào là tình thức thì cảm thọ ấy mới gọi là Chánh Thọ, mới gọi là Niệm Phật tam-muội. Do đây, biết rằng: Niệm Phật tam-muội có nhiều trình độ sâu hay cạn khác biệt, từ Sự nhất tâm đến Lý nhất tâm, từ địa vị Thất Tín trong Viên Giáo cho đến quả vị Như Lai rốt ráo, đều gọi là Chánh Thọ. Đấy mới là sự hưởng thụ tối cao và chân thật nhất trong đời người.
Đoạn này giảng về “nhân thành”, tức là tu nhân sẽ có thành tựu. Nay chúng ta cũng đang niệm Phật. Niệm Phật là tu nhân, tuy tu nhưng mà như thế nào? Chẳng thành tựu! Do vậy, mọi người phải đặc biệt học thuộc hai câu trong đoạn văn trên đây. Câu thứ nhất là “vạn lự hàm hưu” (mọi mối lo đều ngưng dứt), câu thứ hai là “nhất tâm bất loạn”. Đấy là thành tích trong khi tu nhân. Nay chúng ta tuy tu nhân mà chẳng đạt được thành tích, là vì chúng ta hiện đang muôn mối lo sầu tơi bời, chẳng thể khống chế được tí nào, còn nói gì đến nhất tâm nữa? Người ta là nhất tâm bất loạn, chúng ta chẳng biết có bao nhiêu cái tâm? Đúng là thiên hạ đại loạn! Lời này cũng rất đúng vậy!
Tại Trung Quốc, trong quá khứ do chánh phủ nỗ lực, đề xướng nền giáo dục ưu mỹ, tốt đẹp, nên tâm người Trung Quốc nằm trong phạm vi luân thường đạo đức. Tuy quý vị có rất nhiều niệm lự (tức vọng tưởng), nhưng vọng tưởng có phạm vi, chẳng vượt quá những phạm vi ấy, nên xã hội có thể đạt đến an ninh, hòa bình. Giềng mối đạo đức có thể duy trì cho đến hiện tại là nhờ vào từ đường. Bất cứ dân tộc quốc gia nào trên thế giới cũng không có từ đường, chỉ có người Trung Quốc mới có từ đường; nay lại muốn dẹp bỏ từ đường. Nói cách khác, căn bản của dân Trung Quốc bị dao động, nếp suy nghĩ của mọi người không có phạm vi, chẳng có chuẩn tắc. Trước kia, chuẩn tắc dựa theo Nho gia, lấy Tứ Thư, Ngũ Kinh làm tiêu chuẩn, nếp suy nghĩ chẳng thể vượt khỏi những tiêu chuẩn ấy. Do lấy chúng làm phạm vi, nên chúng trở thành phạm vi đạo đức. Hiện thời, phạm vi đạo đức này bị đả phá.
Nói cách khác, hiện thời không có nguyên tắc, chẳng có phạm vi, còn làm gì được nữa! Những học thuyết lạ lùng, những dị đoan xuất hiện khắp nơi. Trước kia thì không được! Trước kia, nếu ngôn luận, trước tác nào phản kháng giềng mối đạo đức Nho gia, chánh phủ sẽ ngăn cấm, chẳng cho phép lưu thông. Trong Phật pháp, những thứ gì trái nghịch Đại Thừa Phật pháp thì chúng là dị đoan, cũng chẳng được phép lưu thông. Hiện thời, nói là “dân chủ, tự do”, không còn hạn chế nữa! Do vậy, bao nhiêu là “tôn giáo” mới xuất hiện, dị đoan, tà thuyết, giống như trong kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”. Tư tưởng đã loạn thì thiên hạ cũng loạn. Ví như trong đoàn thể chúng ta, nếu mỗi người nghĩ một cách, mỗi người làm một kiểu, làm sao đoàn thể của quý vị không loạn cho được? Trong đoàn thể của quý vị, mỗi người chỉ có một kiểu nghĩ, cùng một cách làm, đoàn thể ấy nhất định phục hưng, đó là đạo lý rất rõ rệt vậy!
…Trong Phật pháp, quý vị muốn thành tựu quả vị rốt ráo, càng phải nhất tâm. Vì sao Tây Phương Cực Lạc thế giới thù thắng nhất trong hết thảy thế giới? Là vì điều kiện để đến được nơi đó là nhất tâm bất loạn. Phàm những người đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, ai nấy đều là nhất tâm bất loạn. Nói cách khác, người dân trong toàn cõi có cùng một cái tâm, cùng một tri kiến, không có dị thuyết, chẳng có dị đoan. Thế giới Cực Lạc cao minh là cao minh ở chỗ này. Quý vị có tri kiến, do tri kiến ấy, chắc chắn chẳng thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, ắt phải buông xuống hết thảy tri kiến, phải vứt bỏ hết, thì mới thỏa điều kiện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Sự và Lý này chẳng khó hiểu. Do vậy, y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới quả thật là có lý.
Chúng ta thấy thế giới ngày nay loạn lạc, vô lượng vô biên tà thuyết dị đoan cùng dấy lên, đấy là điềm đại loạn. Chúng ta lại chẳng có năng lực ngăn dứt, dẹp yên mối loạn ấy, không có năng lực cứu khổ chúng sanh. Không có năng lực ấy thì trước hết phải tự cứu. Chẳng thể cứu người thì phải cứu chính mình trước. Đợi đến khi chúng sanh thế giới này đã khổ tới mức cùng cực rồi, muốn quay trở lại thì khi ấy có thể thừa nguyện tái lai.
Do đây biết: Y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới nhờ vào đâu mà có? Chúng ta hiểu rõ Sự và Lý này, rồi mới hiểu nên tu hành như thế nào thì mới có thể ổn thỏa, thích đáng vãng sanh Tịnh Độ. Tu nhân nhất định có thành tựu, phải có thành tích. Chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh điều này, hy vọng các đồng tu sẽ chú ý.
Nhị, quả chứng.
二果證。
(Hai, chứng quả).
Do có thành tích, đương nhiên có kết quả. Trong phần Quả Chứng, lời văn gồm hai dòng rưỡi và được chia thành bốn đoạn, xin hãy xem kinh văn.
(Tự) Nãi tri phỉ ly khuể bộ, bảo trì dũng tứ sắc chi hoa.
(序) 乃知匪離跬步,寶池涌四色之華。
(Tựa: Bèn biết: Chẳng lìa nửa bước, ao báu trổ hoa bốn màu).
Đây là đoạn thứ nhất.
(Tự) Bất xuất hộ đình, kim địa nhiễu thất trùng chi thụ.
(序) 不出戶庭,金地遶七重之樹。
(Tựa: Chẳng ra khỏi sân, khỏi cửa, bảy hàng cây vây quanh đất vàng).
Đây là đoạn thứ hai.
(Tự) Xứ xứ Di Đà thuyết pháp, thời thời liên nhụy hóa sanh.
(序) 處處彌陀說法,時時蓮蕊化生。
(Tựa: Chốn chốn Di Đà thuyết pháp, thời thời hóa sanh trong hoa sen).
Đây là đoạn thứ ba.
(Tự) Trân cầm dữ thứ điểu giai âm, quỳnh viện cộng mão đường tịnh thái.
(序) 珍禽與庶鳥偕音,瓊院共茆堂並彩。
(Tựa: Chim quý lẫn chim thường hòa tiếng hót nhịp nhàng, lầu quỳnh cùng lều tranh cùng nhau khoe sắc).
Đây là đoạn thứ tư. Bốn câu này toàn nói về quả báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, quả báo thù thắng chẳng thể nghĩ bàn. Xin đọc lời chú giải trong sách Diễn Nghĩa.
(Diễn) Nãi tri hạ, thị minh Lý nhất tâm cảnh giới.
(演) 乃知下,是明理一心境界。
(Diễn: Từ chữ “nãi tri” trở đi, nói về cảnh giới Lý nhất tâm).
Đây là nói chung.
(Diễn) Phỉ ly tứ cú, chánh thuyết duy tâm Tịnh Độ dã.
(演) 匪離四句,正說唯心淨土也。
(Diễn: Bốn câu “chẳng lìa…” nói thẳng vào duy tâm Tịnh Độ).
Chúng ta vừa nói tới bốn đoạn. Trong ấy, đoạn thứ nhất và thứ hai nói về duy tâm Tịnh Độ.
(Diễn) Xứ xứ lưỡng cú, ngôn xúc xứ đỗng nhiên.
(演) 處處兩句,言觸處洞然。
(Diễn: Hai câu “chốn chốn” ý nói những chỗ tiếp xúc đều rỗng rang).
Chốn chốn Di Đà thuyết pháp là đoạn thứ ba. “Ngôn xúc xứ đỗng nhiên”: Lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần [bèn nhận biết] rõ ràng, minh bạch.
(Diễn) Trân cầm lưỡng cú, ngôn nhất vị bình đẳng.
(演) 珍禽兩句,言一味平等。
(Diễn: Hai câu “trân cầm” ý nói một vị bình đẳng).
Trong đây còn có một lời tiểu chú.
(Diễn) Tế ngoạn chú trung tự kiến.
(演) 細玩註中自見。
(Diễn: Từ những lời chú thích, hãy suy ngẫm cặn kẽ sẽ tự thấy từng ý nghĩa thú vị).
Chú thích ở đâu? Trong phần sau. Đối với lời chú giải tiếp theo đây, phải chú ý suy gẫm cặn kẽ sẽ thấy rất ý vị, mới có thể thấy được ý nghĩa được nêu ra trong đoạn văn này. Chúng ta hãy xem từng đoạn.
(Diễn) Khuể bộ dũng hoa giả.
(演) 跬步湧華者。
(Diễn: “Nửa bước, trổ hoa” là…)
“Khuể bộ” ý nói rất gần, giống như chúng ta đi đường, nửa bước gọi là Khuể (跬). [“Khuể bộ”] là còn chưa được một bước chân, nghĩa là rất gần. Trong từ ngữ “dũng hoa” (hoa trồi lên, hoa vọt lên) thì chữ “hoa” chỉ hoa sen.
(Diễn) Vị tâm hoa xán phát, tả hữu phùng nguyên, thanh tịnh quang minh chi Thể, đương xứ xuất sanh dã.
(演) 謂心華燦發,左右逢源,清淨光明之體,當處出生也。
(Diễn: Ý nói tâm hoa nở rạng rỡ, đâu đâu cũng gặp nguồn, Thể thanh tịnh quang minh xuất sanh từ ngay nơi ấy).
Quả thật là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Duyên Khởi Tánh Không được nói trong Tánh Tông cũng chính là cảnh giới này. Hoa tượng trưng cho “nhân hạnh” (hạnh thực hiện trong khi tu nhân). Phần trước là tu nhân, nhân viên, quả mãn. Nhân đã tu trọn vẹn, sẽ đắc quả báo viên mãn. Nói “tâm hoa xán phát” (tâm hoa trổ rực rỡ) thì hoa ở đây là hoa Lục Độ, mà cũng chính là “tinh tấn hựu tinh tấn, phóng hạ hựu phóng hạ” (đã tinh tấn lại càng tinh tấn, đã buông xuống lại càng buông xuống) như đã nói trong phần trước. Đó chính là “tâm hoa xán phát”. Hết thảy đều buông xuống sạch sành sanh; khi ấy, bổn lai diện mục hiện tiền.
Đến khi ấy, trong cảnh giới hiển thị “tả hữu phùng nguyên, đầu đầu thị đạo” (đâu đâu cũng gặp nguồn, chuyện gì cũng là đạo), đúng như cổ đức đã nói: “Có pháp nào chẳng phải là Phật pháp?” Không có một pháp nào chẳng phải là Phật pháp, đấy mới là “đâu đâu cũng gặp nguồn, chuyện gì cũng là đạo”, mà cũng là Lý Sự Vô Ngại, Sự Sự Vô Ngại như kinh Hoa Nghiêm đã nói, nhập cảnh giới “vô chướng ngại tự tại giải thoát”.
“Thanh tịnh quang minh chi Thể” chính là Chân Như bổn tánh, “đương xứ xuất sanh” (xuất sanh từ ngay nơi ấy). Chân Như bổn tánh ở đâu? Không đâu chẳng phải là nó, không lúc nào chẳng phải là nó, chẳng có một vật, một sự nào chẳng phải là nó; đấy là cảnh giới Lý nhất tâm bất loạn. Sự nhất tâm chưa đạt đến cảnh giới này, công phu thành phiến chẳng cần phải nhắc tới nữa! Cảnh giới ấy chẳng hai chẳng khác những điều được nói trong kinh Hoa Nghiêm. Đây là một cách giải thích. Lại xem tiếp:
(Diễn) Hựu tâm bao pháp giới, ký diệu ngộ nhất tâm, tức vạn ức sát ngoại chi liên hoa, diệc bất ly thốn bộ dã.
(演) 又心包法界 ,既妙悟一心,即萬億剎外之蓮花,亦不離寸步也。
(Diễn: Lại nữa, tâm chứa trọn pháp giới. Đã diệu ngộ nhất tâm thì hoa sen ở ngoài mười ức cõi cũng chẳng cách xa một tấc bước chân nào).
Pháp nào cũng viên dung giống như kinh Hoa Nghiêm nói: “Nhất vi trần trung, hiện vô lượng vô biên đích sát hải” (Trong mỗi vi trần hiện vô lượng vô biên sát hải). Không chỉ là hạt cải chứa đựng núi Tu Di, hạt cải chứa đựng núi Tu Di thấm vào đâu? Chúng ta đọc thấy những điều này trong kinh Hoa Nghiêm.
Vi trần và cõi nước viên dung, một niệm và cả kiếp viên dung, cảnh giới ấy mới được gọi là Nhất Chân pháp giới, quyết định là chân thật. Hễ mê thì sẽ có cái được gọi là “mười pháp giới”, vô lượng vô biên pháp giới; ngộ rồi thì pháp giới là một, chẳng phải mười! Đây hoàn toàn là cảnh giới sau khi đã ngộ, mới biết “tâm bao pháp giới”.
Vì vô lượng vô biên pháp giới đều là Tướng Phần được hiện trong
tự tâm, tâm có thể hiện tướng, thức có thể biến tướng. Vì sao có thiên sai vạn biệt (muôn vàn sai khác) nhiều dường ấy? Duy thức sở biến. Những tướng được biến hiện ấy do đâu mà có? Duy tâm sở hiện. Do vậy, phải hiểu tâm rộng lớn, thức có công năng chẳng thể nghĩ bàn!
“Tâm” là chính mình. Cách nói này thường khiến cho chúng ta mê hoặc, hồ đồ. Vì sao mê hoặc? Vì chúng ta cứ một mực cho rằng cái thân này là chính mình. Trừ cái thân ra, chẳng có gì là chính mình! Tâm ở nơi đâu? Tâm ở trong cái thân ta, tâm chẳng ở bên ngoài. Đó là sai lầm căn bản! Nói cách khác, nó cũng là căn bản vô minh. Minh là hiểu rõ, [vô minh] là chẳng hiểu rõ!
Do vậy, Phật pháp thường lấy mộng cảnh để tỷ dụ, hy vọng quý vị sẽ từ mộng cảnh mà thấu hiểu. Trong khi chúng ta đang nằm mộng, lúc chúng ta tỉnh dậy hãy suy nghĩ: Cảnh giới trong mộng và giấc mộng do đâu mà có? Do cái tâm của chính mình biến hiện. Cảnh trong mộng há chẳng phải do tâm hiện thức biến? Rất dễ dàng cảm nhận: Những cảnh giới trong mộng chỉ do thức biến, những cảnh giới trong mộng chỉ do tâm hiện, dễ dàng hiểu rõ điều này! Nếu giác ngộ rồi thì tâm thức ấy mới thật sự là chính mình, cái có khả năng biến (Năng Biến) là chính mình, cái được biến (Sở Biến) cũng chẳng hai. Năng và Sở bất nhị.
Nếu quý vị giác ngộ như vậy thì có cảnh nào trong mộng chẳng phải là chính quý vị? Trong mộng, đương nhiên có cái thân thể của chính mình thì nó cũng là chính mình, hết thảy nhân vật được hiện trong giấc mộng vẫn là chính mình, đều do cái tâm của chính mình biến ra. Ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm, vốn là chính mình. Trong mộng gặp một kẻ oán gia đối đầu, cãi cọ với hắn, đánh lộn với hắn, tỉnh giấc rồi, đúng là chán ngắt, tự mình đánh chính mình. Tự mình do chính cái tâm của mình biến hiện. Oán gia đối đầu vẫn là do chính cái tâm của mình biến ra, đánh lộn chẳng phải là tự mình đánh chính mình đó ư? Đâu còn có chuyện ấy nữa!
Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật dạy: “Tự tâm thủ tự tâm, phi huyễn thành huyễn pháp” (Do tự tâm chấp lấy tự tâm, nên cái chẳng huyễn trở thành pháp hư huyễn). Thích Ca Mâu Ni Phật rất cảm thán, chúng sanh mê hoặc, điên đảo, chẳng biết tâm lượng của chính mình rộng lớn, chẳng biết công năng nơi chân tâm của chính mình. Do vậy, phàm là người minh tâm kiến tánh, nhất định sẽ một dạ từ bi, người ấy liễu giải chân tướng, thật sự hiểu rõ trời, đất và ta có cùng một gốc, vạn vật và ta cùng một Thể.
Thật sự hiểu rõ rồi thì khi ấy sẽ khởi tác dụng là vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, thanh tịnh, bình đẳng, bác ái đối với hết thảy chúng sanh. Nếu quý vị chẳng ngộ, đại dụng này chắc chắn chẳng thể hiện tiền. Nếu quý vị mê hoặc, sẽ phân chia giới hạn, có phân biệt, chấp trước, có vô lượng vô biên vọng tưởng trong ấy. Nói cách khác, mê mất chân tướng của toàn thể vũ trụ nhân sinh.
Ở đây, sách Diễn Nghĩa bảo chúng ta người đã ngộ, “ký diệu ngộnhất tâm” (đã diệu ngộ nhất tâm) thì y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới là Tướng Phần của nhất tâm. Quý vị hãy suy nghĩ: Quý vị niệm Phật đến mức nhất tâm bất loạn, sẽ tuyệt diệu lắm! Khi nào niệm đến mức nhất tâm bất loạn, niệm thành tựu Niệm Phật tam-muội, tận hư không khắp pháp giới là chính mình, làm sao chẳng tự tại? Đó gọi là giải thoát thật sự, tự tại thật sự.
“Tức vạn ức sát ngoại chi liên hoa, diệc bất ly thốn bộ”. (Ngay cả hoa sen cách ngoài mười vạn ức cõi, cũng chẳng lìa khỏi khoảng cách chừng bằng một tấc bước chân). Chữ “vạn ức” ngụ ý xa xôi, Tây Phương Cực Lạc thế giới cách chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Dẫu là cách mười vạn ức cõi Phật, cảnh giới trong ấy cũng chẳng lìa khỏi [khoảng cách] chừng bằng một tấc của bước chân, vì sao? Nó do nhất tâm hiện ra.
Ý nghĩa trong câu này hết sức sâu xa, thật sự hiểu rõ đạo lý này, mới biết thế giới Tây Phương cách chúng ta mười vạn ức cõi Phật, tuy xa xôi ngần ấy, muốn đến đó chẳng khó, chẳng lìa khoảng cách chừng bằng một bước chân! Vì sao nói bước chân chẳng rời khỏi một tấc đã đến được? Vì nó là do tâm của chính mình hiện ra, do tám thức của chính mình biến.
[Lời Sớ] nói cho ta biết lý ấy! Nếu nói theo phương diện cảnh giới và công phu thì đây là sự thật. Thế giới Tây Phương là liên hoa hóa sanh; do vậy, lời Sớ mới viết “phi ly khuể bộ”, tức là chẳng rời khỏi nửa bước chân, trong ao sen bảy báu trổ hoa sen bốn màu. Hoa sen là chỗ hóa sanh của người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Câu này nhằm bảo chúng ta: Bất luận là nói theo mặt Lý, hay nói theo mặt Sự, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới quyết định là sự thật, chắc chắn có thể được, đúng như cổ đức đã nói: “Vạn người tu, vạn người đến”. Sợ quý vị không hiểu rõ đạo lý này, chứ nếu đã hiểu rõ đạo lý này, quý vị mới có thể đoạn trừ nghi hoặc.
Đoạn nghi sanh tín là điều kiện cơ bản nhất trong sự tu học của Tịnh Độ. Do đây biết rằng: Bản kinh và bản chú giải này có công đức rất lớn đối với chúng ta, thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Hôm nay đã hết thời gian, chúng tôi giảng đến đoạn này.
— o0o —
Tập 28
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba mươi lăm:
Nhị, quả chứng.
(Tự) Nãi tri phỉ ly khuể bộ, bảo trì dũng tứ sắc chi hoa. Bất xuất hộ đình, kim địa nhiễu thất trùng chi thụ. Xứ xứ Di Đà thuyết pháp, thời thời liên nhụy hóa sanh. Trân cầm dữ thứ điểu giai âm, quỳnh viện cộng mão đường tịnh thái.
二果證。
(序) 乃知匪離跬步,寶池涌四色之華。不出戶庭,金地遶七重之樹。處處彌陀說法,時時蓮蕊化生。珍禽與庶鳥偕音,瓊院共茆堂並彩。
(Hai, chứng quả.
Tựa: Bèn biết: Chẳng lìa nửa bước, hoa bốn màu trổ nơi ao báu. Chẳng ra khỏi cửa, khỏi sân, bảy hàng cây vây quanh đất vàng. Chốn chốn Di Đà thuyết pháp, thời thời hóa sanh trong hoa sen. Chim quý cùng chim thường hòa tiếng hót nhịp nhàng, viện quỳnh cùng lều tranh cùng nhau khoe sắc).
Trong đoạn văn này có bốn tiểu đoạn. Hai câu đầu trong đoạn thứ nhất đã được giới thiệu trong phần trước. Hôm nay chúng ta xem tiểu đoạn thứ hai, tức là “bất xuất hộ đình, kim địa nhiễu thất trùng chi thụ”. Đối với phần lời Tựa, phải đọc kỹ Sớ Sao và Diễn Nghĩa rồi mới hiểu được những nghĩa lý huyền diệu, có thể nói là từng câu từng chữ đều ban cho chúng ta những khơi gợi rất lớn. Những điều này hoàn toàn thuộc về cảnh giới Lý nhất tâm bất loạn, mà cũng là những điều được nói trong kinh Hoa Nghiêm, tức “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”, chúng ta thường gọi [cảnh giới ấy] là Nhất Chân pháp giới. Trong bộ Sớ Sao Diễn Nghĩa đều giải thích những điều ấy.
(Diễn) Hộ đình nhiễu thụ giả.
(演) 戶庭繞樹者。
(Diễn: “Cửa, sân, hàng cây vây quanh” là…)
“Hộ đình” là chỗ rất gần. Hộ (戶) là cánh cửa, phía bên ngoài cửa là sân (đình viện). Đây là kiến trúc của Trung Quốc thuở trước, đương nhiên khác với chung cư hiện thời. Hiện thời chúng ta có cửa, nhưng không phải nhà nào cũng có sân.
(Diễn) Vị giác lâm tăng trưởng, đạo thụ tư vinh. Trưởng dưỡng chúng thiện chi Thể, tùy xứ phát hiện dã.
(演)謂覺林增長,道樹滋榮,長養眾善之體,隨處發現也。
(Diễn: Ý nói: Rừng giác tăng trưởng, cây đạo tốt tươi. Nuôi dưỡng lớn cái Thể của các điều thiện, nó sẽ hiển lộ ở mọi nơi).
Đây là giảng giải ý nghĩa. Trong thế giới Tây Phương, đất bằng vàng ròng, do vậy, gọi là “kim địa”. Trên mặt đất, kinh đã nói rất cặn kẽ, có bảy tầng hàng cây, bảy tầng lưới chăng, đây là nói về sự trang nghiêm trên mặt đất. Chữ “thất” trong “thất trùng” (bảy tầng) tượng trưng cho ý nghĩa viên mãn, hoàn toàn chẳng phải là con số. Nếu quý vị nghĩ nó là con số thì lầm mất rồi! Nếu chúng ta nhìn vào một chỗ nào mà tất cả nhà cửa đều giống nhau, quý vị nghĩ xem nó có dễ coi hay không? Không có gì dễ coi cả! Thế nào là viên mãn? Trong tâm chúng ta vui thích như thế nào, nó bèn xuất hiện đúng như thế ấy, đó gọi là viên mãn. Nói cách khác, trong thế giới Tây Phương chẳng có chuyện gì không vừa lòng, không có một sự vật nào chẳng xứng ý. Hoàn cảnh ấy quả thật trang nghiêm đến cùng cực. Nhìn ngược lại hoàn cảnh của chúng ta hiện thời, hoàn cảnh lý tưởng mà tâm chúng ta thường mong mỏi chẳng dễ gì đạt được, không có được! Hoàn cảnh chẳng vừa ý, chẳng xứng lòng mà chúng ta muốn rời khỏi cũng chẳng dễ gì bỏ được. Đấy chính là: “Hảo nan cầu, ác nan khiển” (Điều tốt khó cầu, điều xấu khó gạt bỏ), đâu có thứ gì cũng xứng lòng thỏa ý như trong thế giới Tây Phương! Chữ “thất” biểu thị xứng tâm như ý, tượng trưng cho sự viên mãn, có cùng một ý nghĩa với chữ “thập” trong kinh Hoa Nghiêm, đều nhằm biểu thị ý nghĩa viên mãn.
“Giác lâm”, “đạo thụ” đều nhằm tỷ dụ thân tâm của chính mình; hai câu này ý nói trí huệ tăng trưởng, công đức dồi dào, vô lượng vô biên trí huệ, vô lượng vô biên đức năng. “Trưởng dưỡng chúng thiện chi Thể”: “Thể” là bổn tánh của chính mình. Chân tánh là Thể của muôn điều thiện. Từ chỗ này, chúng ta cũng có thể thấu hiểu chân tánh là cái Thể chí thiện. Nếu trong tâm chúng ta có mảy may bất thiện nào, chứng tỏ chân tánh của chúng ta đang bị mê, không ngộ! Nếu chân tánh là giác, nhất định sẽ thuần thiện, không có mảy may điều ác nào. Chân tánh là thanh tịnh, quyết chẳng có một tạp niệm nào!
Chúng ta gọi thế gian này là thế giới Sa Bà, thế giới này là thế giới ô nhiễm. Người tu đạo nếu khéo vận dụng hoàn cảnh thì nơi đây chính là chỗ tu hành tốt nhất. Nếu chẳng khéo vận dụng hoàn cảnh, thưa quý vị, không ai chẳng đọa lạc. Tuy nói là sáu đường, ba đường lành ví như “ngoi đầu ra”, ba đường ác ví như “chìm lỉm”, nhưng nói thật ra, thời gian chúng sanh ở trong ba đường lành hết sức ngắn ngủi, tạm bợ, thời gian trong ba đường ác cực dài. Đây đều là chân tướng sự thật trong thế giới Sa Bà. Khéo vận dụng hoàn cảnh này để làm đạo tràng tu hành cho chính mình thì xưa nay đã có khá nhiều tấm gương. Những vị ấy ở trong thế giới ngũ dục lục trần phồn hoa mà có thể bỏ, có thể buông xuống được. Hôm qua chúng ta đã đọc câu “hưu chi hựu hưu”, tức là đã tinh tấn lại càng tinh tấn hơn, đã buông xuống lại càng buông xuống hơn.
Trong Phật môn, bất luận là bậc đại đức xuất gia hay tại gia, hễ thật sự là một người tinh tấn tu hành, người ấy chắc chắn chẳng tham luyến ngũ dục, lục trần, hạ mức sống đến mức thấp nhất. Thuở đức Phật tại thế, ba y một bát, đấy là hạ mức sống xuống mức thấp nhất. Ngoài ba y một bát, không còn vật nào khác, hoàn cảnh này là nơi tu học tốt đẹp. Liên Trì đại sư dạy chúng ta: Người tu hành thật sự chắc chắn không tham luyến tiếng tăm, lợi dưỡng, bỏ sạch những thứ ấy. Nếu có thể cam lòng sống đạm bạc, đạo nghiệp mới có thể thành công. Thứ hai, nhất định chẳng nắm níu, trừ những cuộc thù tiếp bất đắc dĩ, không có cách nào [tránh né được], mọi thứ đều phải giảm bớt. Chính tôi thấy có hai vị pháp sư hiện đang ở nước Mỹ, một vị là pháp sư Nhân Tuấn, vị kia là pháp sư Nhật Thường. Ở ngoại quốc, hai vị này bị gọi là “quái nhân”, chẳng giao tiếp, thù tạc, không trả lời điện thoại, tu hành rất sốt sắng, đâu có lúc rảnh rỗi để thù tiếp. Chúng tôi nhìn thấy, hết sức kính trọng, đấy là tấm gương trước mắt.
Cổ đại đức nêu gương rất nhiều, như bậc cao tăng thời cận đại là lão hòa thượng Hư Vân, lão pháp sư Ấn Quang, quý vị đều biết. Một bộ quần áo mặc ba, bốn chục năm, rách rồi lại vá! Quý vị thấy lão hòa thượng mặc quần áo vá víu, chằm khíu bao nhiêu mảnh? Tín đồ của các Ngài đầy khắp thiên hạ, đại tài chủ rất đông, cúng dường chẳng thể tính được số, ngay cả một bộ quần áo mới mà lão hòa thượng may không nổi hay sao? Lão hòa thượng không may! Tín đồ thường tặng cho Ngài quần áo mới. Vừa được tặng quần áo mới, Ngài coi xem ai không có quần áo để mặc bèn tặng cho người ấy, còn Ngài vẫn mặc những quần áo rách nát. Suốt đời không thay đổi, chẳng tham luyến hưởng thụ, chẳng ve vãn kẻ quyền quý. Bất luận chuyện gì có thể giảm được thì giảm, người tu hành coi giảm bớt việc là bậc nhất thì mới có thể trưởng dưỡng “cái Thể của các điều lành”. Muôn vàn phần chớ nên đa sự, người xuất gia là như vậy, mà bậc cao nhân tại gia cũng nên như thế.
Bàng cư sĩ là một vị tài chủ, đã học Phật bèn hạ quyết tâm liễu sanh tử, thoát tam giới. Ngài chất hết tài sản, vàng bạc trong nhà lên một chiếc thuyền to, lái thuyền ra giữa dòng Trường Giang, đục một lỗ, vùi chìm toàn bộ, chẳng cần gì hết. Sau đấy sống bằng cách nào? Bện giày cỏ. Mỗi ngày bện giày cỏ bán được mấy đồng, sống hết sức thanh bần. Có người hỏi Ngài: “Ông có nhiều tiền như vậy, nếu không cần tới, sao không đem làm chuyện tốt có phải là hay hơn không?” Ngài bảo người ấy: “Hảo sự chẳng bằng vô sự”. Quý vị hãy suy nghĩ ý nghĩa thú vị trong lời nói ấy. Vô sự là hảo sự bậc nhất! Vô sự là nghiệp vô lậu, hảo sự vẫn là nghiệp hữu lậu, khác nhau! Quý vị thấy cả nhà Ngài, ai nấy đều thành đạo. Lúc Ngài sắp mất, bảo vợ con rằng: “Ta sắp ra đi, hãy thay ta lo liệu hậu sự”. Con gái Ngài còn cao minh hơn cha, cô ta nói: “Cha ơi! Cha hãy đợi một lát. Con ra ngoài một chút”. Khi cô ta ra ngoài, bèn vãng sanh giữa đồng. Sanh tử tự tại, đến đi theo ý mình, cả nhà đều chứng quả. Do vậy, nếu chúng ta tu hành thật sự, đã buông xuống lại càng buông xuống hơn nữa, đạo tâm của chúng ta mới có thể kiến lập.
Hiện thời, trước hết đừng nói tới tăng trưởng là vì lẽ nào? Hiện tại chúng ta không có đạo tâm, cổ nhân bảo đạo tâm của chúng ta là “lộ thủy đạo tâm” (đạo tâm ít ỏi như nước trong một hạt sương). Nay ngồi nghe kinh ở đây, ban ngày niệm Phật ở nơi đây, dường như có chút đạo tâm, bước ra đường là chuyển biến ngay, đạo tâm chẳng còn nữa, làm sao thành công cho được? Do vậy, niệm Phật, niệm cả mấy chục năm, ngay cả tin tức cũng chẳng có, do nguyên nhân gì? Không buông xuống, đó là đại chướng ngại. Những điều kinh luận đã giảng đều nhằm dạy chúng ta hãy buông xuống. Tu hành là gì? Buông xuống là tu hành, buông xuống là công phu. Trong thế gian này, quyết định phải tuân thủ “ư nhân vô tranh, ư thế vô cầu” (chẳng tranh với người, chẳng cầu nơi đời). Thân tâm thanh tịnh, chẳng vướng mắc mảy may, niệm Phật như vậy không có ai chẳng thành công, đúng như Vĩnh Minh đại sư đã nói: “Vạn người tu, vạn người về”. Thánh Cam Địa (Gandhi) của Ấn Độ không phải là tín đồ Phật giáo, nhưng được người thế gian tôn trọng, kính ngưỡng như thế, là vì Ngài đã sống theo lối sống của một tín đồ Phật giáo. Thuở ấy, sau khi từ Anh Quốc trở về, Ngài đã mua một khoảnh đất nhỏ, lập một cộng đồng nhỏ, sống đời nguyên thủy trong cộng đồng ấy. Mấy người thân thích, bạn bè chí đồng đạo hợp ở với nhau, tự mình cất nhà, tự mình cày cấy, cuộc sống giảm thiểu đến mức độ thấp nhất. Những dụng cụ trong nhà đều là những thứ bắt buộc phải có, không có gì nhiều hơn. Ba người là ba cái ghế nhỏ, bốn người là bốn cái ghế nhỏ, gần như người xuất gia ba y một bát vậy. Vì sao Ngài làm như vậy? Bớt việc! không có mảy may ưu lự, vướng mắc nào, thân tâm tự tại, trí huệ tăng trưởng. Đấy là bậc thánh nhân thế gian.
Đạo nghiệp của chúng ta chẳng thể thành tựu vì bị ngũ dục, lục trần và những tình cảm, sự việc thế gian lôi kéo, buộc ràng, đó là ma, quyết chẳng phải là Phật. Cứ tưởng là có phước báo, phước báo gì vậy? Ma báo! Người nọ tín đồ đông đảo, đó là ma đông đảo, ma theo kẻ ấy đông lắm. Tín đồ của người xuất gia là pháp quyến thuộc, nhưng pháp quyến thuộc là ma, chẳng phải là chuyện tốt! Tín đồ quá đông, sẽ chẳng thể vãng sanh, vẫn phải luân hồi trong sanh tử, vẫn phải đọa lạc. Nếu ai mà một tín đồ cũng chẳng có, nhất định sẽ kêu: “Tôi rất khổ não, tôi phải nhanh chóng niệm Phật cầu vãng sanh”, người ấy thật sự thành công. Không có ai cúng dường, người ấy một lòng hướng về đạo, hằng ngày niệm Phật, cầu liễu sanh tử. Cúng dường quá nhiều, khá quá! Nơi đây còn có phước báo để hưởng, quên tuốt Tây Phương Cực Lạc thế giới, có hỏng bét hay là không? Phải dùng trí huệ để quan sát những chỗ này.
Trong phần trước, Sớ Sao nói đến tu nhân, tu nhân đã thành, ở đây nói tới quả báo, tức quả báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Quả báo ấy là tự nhiên, chẳng phải do chúng ta khởi tâm động niệm cầu được, mà là tự nhiên. Phước báo là chân thật, chẳng hư vọng, chẳng do con người làm ra. Tây Phương Cực Lạc thế giới là như vậy. Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy thế giới Hoa Tạng cũng giống như vậy, đều là do thiện căn phát hiện, đâu đâu cũng hiển lộ, giống như kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Đương xứ xuất sanh, đương xứ diệt tận” (Phát sanh ngay tại đây, diệt hết ngay tại đây), “tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận lòng chúng sanh, ứng với khả năng hiểu biết của họ). Tùy theo tâm lượng của họ mà phát hiện.
(Diễn) Hựu pháp giới duy tâm.
(演) 又法界唯心。
(Diễn: Lại nữa, pháp giới duy tâm).
Chữ “pháp giới” chỉ Nhất Chân pháp giới, thường nói là bao gồm mười pháp giới. Ngộ rồi thì gọi là Nhất Chân pháp giới, hễ mê thì gọi là mười pháp giới. Thật ra, pháp giới không có mê hay ngộ; mê hay ngộ là do lòng người.
(Diễn) Ký diệu ngộ nhất tâm, tức vạn ức sát ngoại chi hàng thụ, diệc bất xuất hộ đình dã.
(演)既妙悟一心,即萬億剎外之行樹,亦不出戶庭也。
(Diễn: Đã diệu ngộ nhất tâm thì ngay cả hàng cây ở ngoài mười vạn ức cõi cũng chẳng ra khỏi cửa, khỏi sân vậy).
Đây là cảnh giới giải thoát bất khả tư nghị! Câu trọng yếu nhất trong đoạn này là “diệu ngộ nhất tâm”, trong đoạn trên có bốn chữ này, ở đây lại có bốn chữ này, bốn chữ này quan trọng lắm! Sự tu học trong Phật pháp là trong một câu này. Tu nhất tâm bất loạn, trì danh niệm Phật là đơn giản, trọng yếu nhất, ổn thỏa, thích đáng nhất, dễ dàng nhất. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, mỗi một pháp môn đều nhằm tu nhất tâm, tuy danh xưng khác nhau, vẫn là cùng một chuyện, thảy đều nhằm tu tâm bất loạn! Trong phần trên đã nói rất rõ ràng, công phu là khuất phục phiền não, đoạn phiền não, khai trí huệ, kinh thường nói tới những điều này. Nói cách khác, công phu là buông xuống, lại buông xuống, tiếp tục buông xuống, vì sao? Chẳng buông xuống, sẽ chẳng thể đắc nhất tâm. Trước hết phải buông Kiến Tư phiền não xuống, rồi lại buông Trần Sa, buông Vô Minh xuống, buông hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng xuống, nhất tâm hiện tiền, đó là công phu chân thật.
Có mảy may nào không buông xuống được, chắc chắn nhất tâm chẳng thể hiện tiền, vì sao? Trong tâm còn có một vật. Lục Tổ nói: “Vốn chẳng có một vật”. Quý vị có một vật, sẽ chẳng nhất tâm. Chẳng những hết thảy pháp thế gian chẳng nên có, mà có Phật pháp cũng chẳng được! Trong Chân Như bổn tánh, ngay cả Phật pháp cũng không có! Do vậy, trong kinh Bát Nhã có nói: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp còn nên bỏ, huống hồ phi pháp). Khi ấy mới gọi là “diệu ngộ nhất tâm”. Bất đắc dĩ phải kiến lập giả danh này, ngàn vạn phần đừng chấp trước cái giả danh này, đến khi ấy, nếu ta còn có diệu ngộ nhất tâm thì sai mất rồi! Trong chân tánh mà còn có diệu ngộ nhất tâm ư? Bất đắc dĩ, không có cách nào khác, phải lập ra cái danh tướng như vậy. Đạt đến cảnh giới ấy, tận hư không, trọn pháp giới là chính mình mà thôi! Viên mãn Báo Thân, thanh tịnh Pháp Thân đều hiện tiền, không gian lẫn thời gian đều tiêu mất, trở thành một khối, đó gọi là Nhất Chân. Đả phá không gian và thời gian, hàng cây ngoài mười vạn ức cõi nước cũng ở ngay trước mắt. Đấy là ý nghĩa của đoạn thứ hai. Lại xem đoạn thứ ba, “xứ xứ Di Đà thuyết pháp, thời thời liên nhụy hóa sanh”. Hai câu này được sách Diễn Nghĩa chú giải như sau:
(Diễn) Di Đà thuyết pháp giả, thước táo, nha minh, tận thị thâm đàm Bát Nhã, khê quang, sơn sắc, vô phi toàn lộ Giá Na dã. Xứ xứ giả, tức cổ nhân sở vị xí nhiên thuyết, vô gián hiết dã.
(演) 彌陀說法者,鵲噪鴉鳴盡是深談般若,溪光山色無非全露遮那也。處處者,即古人所謂熾然說無間歇也。
(Diễn: Di Đà thuyết pháp: Chim khách hót, quạ kêu đều là đàm luận Bát Nhã sâu xa; ánh khe, sắc núi không gì chẳng hiển lộ trọn vẹn Giá Na. “Xứ xứ” là như cổ nhân đã bảo “nói cuồn cuộn, không gián đoạn” vậy).
Các đồng học phải đặc biệt chú ý đoạn này, vì có không ít đồng học thường đến hỏi: “Chúng ta niệm Phật phải không gián đoạn, nhưng khi chúng con có việc phải làm, Phật hiệu bị gián đoạn, như vậy thì có thể thành công hay không?” Ở đây, lời Diễn Nghĩa đã giải đáp tường tận câu hỏi này. “Thuyết pháp”: “Thuyết” (說) là thuyết minh (nói rõ). Lời nói thì quý vị vừa nghe liền hiểu rõ, đó gọi là “thuyết pháp”. Nếu mắt quý vị vừa thấy, thấy rõ ràng, thì cũng gọi là “thuyết pháp”. Ta đã không dùng tai nghe, mà cũng chẳng dùng mắt thấy, lưỡi ta vừa nếm liền hiểu rõ thì cũng gọi là “thuyết pháp”. Tay ta sờ, chạm đến liền hiểu rõ, đã hiểu rõ thì cũng gọi là “thuyết pháp”. Hai chữ “thuyết pháp” có ý nghĩa vừa sâu lại vừa rộng. Do vậy, chấp vào tướng ngôn thuyết, chấp vào tướng danh tự, quý vị sẽ chẳng thể hiểu được ý nghĩa chân thật của Như Lai. “Di Đà” là A Di Đà Phật, ở đây nói gọn. A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Giác. Nói cách khác, trong hết thảy sự vật, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, phải giác chứ không mê. Đối với cảnh giới bên ngoài mà nói thì Ngài thuyết pháp, nhưng đối với sự cảm nhận của chính quý vị mà nói thì là niệm Phật, chúng ta phải hiểu được đạo lý này.
Khi chúng ta thân tâm vô sự, câu Phật hiệu này niệm niệm tiếp nối, chẳng gián đoạn giữa chừng. Khi chúng ta làm chuyện gì đó, tuy Phật hiệu không niệm, nhưng tập trung toàn bộ tinh thần làm thật tốt đẹp công việc của chính mình thì cũng gọi là “niệm Phật”. Niệm Phật gì vậy? Chính là niệm niệm nhắc nhở chính mình giác chứ không mê. Bất luận trong cảnh giới nào cũng giác chứ không mê, đó gọi là “niệm Phật”. Chánh chứ không tà, đó gọi là “niệm Phật”. Tịnh chứ không nhiễm, đó gọi là “niệm Phật”. Nếu suốt ngày từ sáng đến tối “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, nhưng chuyện gì cũng mê hoặc, điên đảo thì câu Phật hiệu ấy đã uổng công niệm suông, chẳng thể gọi là “niệm Phật”, mà gọi là “miệng có, tâm không”, đúng như cổ nhân nói “hét toạc cổ họng cũng uổng công”, vô dụng! Sáu căn của quý vị tiếp xúc cảnh giới sáu trần, quý vị mê hoặc, tà kiến, ô nhiễm, câu Phật hiệu đã uổng công niệm rồi! Phải hiểu rằng: Từng câu Phật hiệu đánh thức Giác – Chánh – Tịnh của chính mình, Giác – Chánh – Tịnh thì khi sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, Phật hiệu ấy mới thật sự là niệm có tác dụng, có chỗ dùng được!
Ở chỗ này, sách nêu tỷ dụ, “thước táo” là chim khách (hỷ thước) kêu, mọi người chúng ta vui mừng, chim khách báo điềm vui. Trông thấy chim khách kêu, trong lòng hoan hỷ, vậy là sao? Quý vị mê rồi, tâm động rồi, bị cảnh giới chuyển rồi! “Nha minh” là quạ đen (ô nha) kêu, ai nấy đều chán ghét. Khi quạ kêu là điềm chẳng tốt lành. Vừa nghe quạ kêu, quý vị chau mày, hôm nay xúi quẩy rồi! Nhất định phải đuổi nó đi gấp, vậy là quý vị cũng mê hoặc, cũng bị cảnh giới chuyển. Chim khách kêu, nghe rất rõ ràng, trong tâm như như bất động, đó là Bát Nhã, là trí huệ. Quạ kêu, cũng nghe rất rõ ràng, trong tâm cũng như như bất động. Ở đây, [dùng chim khách và quạ để] tượng trưng hai cảnh giới khác nhau, một đằng là thuận cảnh, đằng kia là nghịch cảnh. Thuận cảnh, quý vị sanh tâm hoan hỷ; nghịch cảnh, quý vị khởi tâm nóng giận, tức là quý vị bị cảnh giới chuyển, tâm bị cảnh chuyển. Người học Phật thật sự giữ được “chẳng chấp lấy tướng, như như bất động”, nhìn thấy tướng cảnh giới bên ngoài rõ ràng, rành rẽ, nghe rõ ràng, rành rẽ, ngoài chẳng chấp tướng, trong chẳng động tâm; đó là Kim Cang Bát Nhã. Kim Cang Bát Nhã hiện diện trong cảnh giới, đó là A Di Đà Phật giảng kinh Kim Cang cho quý vị, là Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Kim Cang cho quý vị. Cứ nhất định phải cầm cuốn kinh Kim Cang để niệm thì mới là kinh Kim Cang ư? Thưa cùng quý vị, sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần, rõ ràng, minh bạch, chẳng chấp vào tướng, như như bất động, đó là kinh Kim Cang, đó là kinh Kim Cang sống, là kinh Kim Cang thật sự. Sống động, chân thật mà quý vị chẳng nhận biết, quý vị chỉ nhận biết cuốn kinh chết cứng bằng giấy trắng mực đen! Do vậy, niệm kinh Kim Cang là niệm kinh chết cứng, chữ chết cứng trong từng dòng, niệm đến cuối cùng biến thành kẻ si ngốc trong nhà Phật, đâu có ích gì? Chỉ có thể nói: Có chút điểm tốt, tức là tốt hơn so với suốt ngày từ sáng đến tối chửi bới người khác mà thôi! Trừ điều này ra, quý vị hãy nghĩ xem, quý vị còn đạt được lợi ích nào nữa hay không? Nếu quý vị hiểu rõ đạo lý này, chư Phật, Bồ Tát giảng kinh, thuyết pháp có khi nào gián đoạn giữa chừng đâu? Câu này tượng trưng cho hữu tình thuyết pháp.
Xem tiếp câu kế đó thì sẽ thấy vô tình cũng thuyết pháp. “Khê quang, sơn sắc”, “khê” (溪) là khe nước, con suối nhỏ. Ý nghĩa của câu này là từ thuở cư sĩ Tô Đông Pha lên chơi Lô Sơn làm thơ, thơ như sau: “Khê thanh tận thị quảng trường thiệt, sơn sắc vô phi thanh tịnh thân” (Tiếng suối đều là lưỡi rộng dài, màu núi không gì chẳng phải là thân thanh tịnh). Đấy là nói về vô tình cũng có thể thuyết pháp, “vô phi toàn lộ Giá Na” (không gì chẳng hiển lộ hoàn toàn Tỳ Lô Giá Na). “Giá Na” là Tỳ Lô Giá Na (Vairocana), tức Pháp Thân, thanh tịnh Pháp Thân. [Ánh sáng phản chiếu trên khe suối, sắc núi] có phải là thanh tịnh Pháp Thân của Tỳ Lô Giá Na Phật hay chăng? Tỳ Lô Giá Na Phật là ai? Là chính mình, chứ không phải ai khác. Thiền gia nói “Phụ mẫu vị sanh tiền bổn lai diện mục” (Mặt mày vốn có trước khi được cha mẹ sanh ra), bổn lai diện mục là Tỳ Lô Giá Na, tiếng Phạn gọi là Tỳ Lô Giá Na, tức là Pháp Thân của chính mình. Hai câu này ngụ ý: Hữu tình và vô tình thuyết pháp chưa hề gián đoạn. Nếu quý vị hiểu rõ, thật sự hiểu được, quý vị lãnh hội, công phu niệm Phật của quý vị cũng chưa hề gián đoạn, niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm. Chư Phật, Bồ Tát thuyết pháp không gián đoạn, chẳng ngưng nghỉ. Quý vị nghe pháp cũng chưa hề gián đoạn, ngưng nghỉ. Nếu quý vị thấu hiểu đạo lý này, lãnh hội phương pháp này, làm sao quý vị chẳng thành Phật trong đời này? Làm sao quý vị chẳng vãng sanh ngay trong đời này? Chẳng những vãng sanh, mà Thượng Phẩm Thượng Sanh chắc chắn có phần. Mọi người nghe những lời này, nếu trong tâm hâm mộ, kính ngưỡng thì phải buông xuống, phải xả, xả sạch sành sanh thì quý vị mới thực hiện viên mãn được!
(Diễn) Liên hoa hóa sanh giả.
(演) 蓮花化生者。
(Diễn: Hóa sanh trong hoa sen là…)
“Liên hoa hóa sanh” nghĩa là gì? Trước hết phải hiểu rõ ý nghĩa được biểu thị bởi chữ Liên. Trong Phật pháp, thường dùng hoa sen để biểu thị pháp. Hoa sen mọc trong bùn nhơ, hoa nở vươn khỏi mặt nước, Phật pháp dùng nó để biểu thị pháp, ví bùn nhơ như lục đạo phàm phu thế gian, lớp nước trong ở phía trên ví như tứ thánh pháp giới. Hoa sen nở trên mặt nước như tứ thánh lẫn lục phàm đều buông xuống, đều bỏ hết, đó là thanh tịnh thật sự. Nếu quý vị buông hết tứ thánh lục phàm xuống thì quý vị là “liên hoa hóa sanh”.
(Diễn) Tùng ngộ nhi mê, thị vi thai tạng thọ sanh.
(演) 從悟而迷,是為胎藏受生。
(Diễn: Từ ngộ thành mê, bèn thọ sanh trong bào thai).
Phàm là thai sanh, noãn sanh, hay thấp sanh, và một phần trong hóa sanh[78], quyết định là mê, chẳng ngộ. Do vậy, trong cảnh giới lục phàm, phương cách sanh thành có bốn loại lớn: Thai, noãn, thấp, hóa. Sau khi giác ngộ, ngộ ấy là đại triệt đại ngộ, là giác ngộ thật sự. Thật sự giác ngộ thì tối thiểu là phải buông Kiến Tư phiền não xuống, quả thật bỏ được nó. Thông thường, Kiến Tư phiền não được quy nạp thành hai loại lớn: Một là Kiến Hoặc, hai là Tư Hoặc. Trong Kiến Hoặc, thật sự buông xuống được, quả thật chẳng có Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến. Trong Tư Hoặc, quả thật chẳng có keo tham, nóng giận, ngu si, ngạo mạn, hoài nghi thánh giáo, hoài nghi những lý luận và phương pháp trong Phật pháp. Những thứ ấy cũng đều buông xuống hết. Kiến Tư phiền não thảy đều buông xuống hết, khi ấy mới gọi là Chánh Giác, giác ngộ rồi. Vì vậy, tiêu chuẩn ngộ trong Phật pháp là đây.
Nói người nào đó khai ngộ, nhưng người ấy đã khai ngộ mà vẫn còn có tâm tham, vẫn còn tâm nóng giận, chắc chắn người ấy chưa khai ngộ! Người đã ngộ chắc chắn không có tham, sân, si. Người đã ngộ tâm nhất định thanh tịnh, bình đẳng, từ bi. Do vậy, từ thanh tịnh, bình đẳng, từ bi, có thể kiểm tra xem chính mình có thật sự khai ngộ hay chăng. Nếu còn có giới hạn ta – người là chưa khai ngộ. Vì sao? Ngã Chấp vẫn còn, chưa đoạn được. Nếu còn phân biệt cao – thấp thì chưa khai ngộ, chắc chắn là đang mê, chẳng ngộ! Người đã ngộ thì cái tâm thanh tịnh, bình đẳng, đại từ, đại bi. Lừa người là tạo tội nghiệp, lừa chính mình là kẻ ngu si nhất. Nếu lừa mình, dối người, người như vậy có quả báo trong tam đồ, làm sao có thể thành Phật, thành Tổ cho được? Có vị Phật, Bồ Tát nào dối mình, lừa người hay chăng? Chẳng thể có chuyện ấy! Người khác làm như thế nào, đừng bận tâm! Chuyện khẩn yếu là chính mình nên tu theo cách nào? Do vậy, Phật pháp, kinh điển nhằm giáo huấn mỗi người chúng ta, cũng chẳng liên can gì đến người khác. Giới luật nhằm dạy mỗi người chúng ta tuân thủ, chẳng liên can gì đến người khác thì tâm chúng ta mới được thanh tịnh. Do vậy, trải qua sự việc để luyện tâm trong cảnh giới, luyện cái tâm gì?
Chính là dùng kinh luận giới luật để ràng buộc chính mình, tiêu chuẩn ấy do chính mình tuân thủ, chẳng phải để dành cho người khác, luyện điều ấy. Nếu chúng ta học giới luật, bất cứ nơi đâu cũng đem những tiêu chuẩn giới luật ấy ra để cân đong người khác, “người này phá giới, kẻ nọ chẳng giữ quy củ”, chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ lung tung, suốt ngày từ sáng đến tối phân biệt, chấp trước, kết quả ra sao? Hủy hoại chính mình. Đấy là đối với Phật pháp, quý vị có biết sử dụng hay không? Biết dùng sẽ thành tựu chính mình. Chẳng biết dùng, chắc chắn hủy diệt chính mình, khiến cho chính mình tạo vô lượng vô biên tội nghiệp. Mê là gì? Ngộ là gì? Hình dạng của mê như thế nào? Hình dạng của ngộ là gì? Nói chung, chính mình phải hiểu rõ. Người giác ngộ, thân tâm thanh tịnh, đó gọi là “liên hoa hóa sanh”. Do vậy, trong bốn cách sanh thành, người giác ngộ chỉ có một cách hóa sanh, quyết định chẳng có thai, noãn, thấp, trừ phi cố ý dùng cung cách ấy để thị hiện. Đó là phương tiện nhằm lợi ích chúng sanh, chẳng phải là chân thật.
(Diễn) Thời thời giả, tức kinh trung sở vị, thường tại ư kỳ trung, kinh hành cập tọa ngọa dã.
(演) 時時者,即經中所謂,常在於其中,經行及坐臥也。
(Diễn: “Thời thời” là như trong kinh nói: “Thường kinh hành và ngồi, nằm ở trong ấy”).
Đây là giảng chữ “thời thời”. Bất luận lúc nào, bất luận nơi chốn nào, bất luận trong cảnh giới nào, dù là thuận cảnh hay nghịch cảnh, thân tâm luôn thanh tịnh, quyết chẳng bị ngoại cảnh khuấy nhiễu, đấy chính là “thời thời liên nhụy hóa sanh” (luôn luôn hóa sanh trong hoa sen). Nếu chúng ta rèn luyện như vậy trong cuộc sống thường ngày thì gọi là “tu hành thật sự”. Trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, chúng ta cầu điều gì? Thân tâm thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần. Vậy thì chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, làm sao chẳng phải là liên hoa hóa sanh? Đương nhiên là liên hoa hóa sanh, chẳng có mảy may nghi vấn nào! Do vậy, nhìn vào Quả sẽ biết chúng ta đang tu Nhân như thế nào.
(Diễn) Cầm điểu chỉ hữu tình, đường viện chỉ vô tình, cử thử nhị chủng, kiến tình dữ vô tình, đồng thành Chánh Giác dã. Giai âm, tịnh thái, chánh thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ xứ.
(演) 禽鳥指有情,堂院指無情,舉此二種,見情與無情,同成正覺也。偕音並彩,正是法平等,無有高下處。
(Diễn: Chim chóc chỉ hữu tình, nhà viện chỉ vô tình, nêu lên hai thứ này để thấy hữu tình và vô tình cùng thành Chánh Giác. “Hòa tiếng hót nhịp nhàng, cùng nhau khoe sắc” nhằm chỉ rõ pháp bình đẳng, không có chỗ nào cao hay thấp).
Hiển thị ý nghĩa này, “trân cầm” (chim quý) là những loài chim trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, như kinh Di Đà liệt kê các loài Khổng Tước, Anh Vũ, Ca Lăng Tần Già, Cộng Mạng… Những loài chim ấy do A Di Đà Phật biến hóa ra. “Thứ điểu” (chim tầm thường) là những loài chim chóc trong thế giới Sa Bà, thuộc vào súc sanh đạo. “Quỳnh viện” là cung điện bảy báu thù thắng trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Mão đường” là lều tranh, là nơi ở đơn giản, hèn tệ nhất. Trước kia, người xuất gia ở trong rừng núi, tự mình đẵn gỗ dựng một túp lều tranh nhỏ, [mọi thứ] đều do chính tay mình làm. Vách che bốn mặt quá nửa đều là dùng những thân gỗ, hoặc dùng trúc xếp san sát ghép thành vách, đủ để tránh gió che mưa như thế mà thôi, đấy chính là lều tranh danh hợp với sự thật. Hai thứ này (viện quỳnh và lều tranh) đều nói về loài vô tình.
“Đồng thành Chánh Giác”: Đây là cảnh giới Hoa Nghiêm, “tình dữ vô tình, đồng viên Chủng Trí” (Tình và vô tình, đều viên mãn Chủng Trí). Kinh Đại Thừa cũng thường nói: Chư Phật Như Lai lúc mới thành đạo, cảnh giới khi ấy là hết thảy thế gian “tình và vô tình đều thành Chánh Giác”. Chánh Giác là gì? Chánh Giác là Bổn Giác như Đại Thừa Khởi Tín Luận đã nói. Mã Minh Bồ Tát nói rất khéo: “Bổn Giác vốn có, bất giác vốn không”. Bổn Giác là đức dụng sẵn có trong tự tánh. Vì sao thấy hữu tình và vô tình cùng thành Chánh Giác? Là vì người ấy kiến tánh, đã kiến tánh thì đúng là “chuyện gì cũng là đạo, đâu đâu cũng gặp nguồn”. Hết thảy hữu tình chúng sanh do tự tánh biến hiện, là Tướng Phần của tự tánh. Hết thảy vô tình chúng sanh vẫn là Tướng Phần của tự tánh, Tánh và Tướng như một, Tánh và Tướng không hai! Giống như vàng và đồ vật vậy! Dùng vàng chế đồ vật, món nào cũng đều là vàng. Thử hỏi có một thứ nào chẳng phải là tự tánh hay chăng? Có thứ nào chẳng phải là Chủng Trí? Có thứ nào chẳng phải là Chánh Giác? Do vậy, khi ấy mới thật sự hiển thị pháp nào cũng bình đẳng, không có cao – thấp, cũng đúng như kinh Pháp Hoa đã nói “bách giới thiên như”. Đây là chân tướng trong Nhất Chân pháp giới, mà cũng là tướng chân thật của Tây Phương Thật Báo Độ.
Nếu quý vị niệm Phật, niệm đến Lý nhất tâm bất loạn, cảnh giới này sẽ hiện tiền. Tây Phương Cực Lạc thế giới là như thế, mà thế giới trước mắt chúng ta cũng trọn chẳng phải ngoại lệ, cũng giống như vậy. Hiện tại, cảnh giới chân thật chẳng thể hiện tiền là do chúng ta nghiệp chướng quá nặng, mê hoặc, điên đảo. Do vậy, chúng ta chẳng thấy được tướng chân thật của toàn bộ cảnh giới. Chúng ta thấy tướng hư vọng, trong tướng hư vọng chẳng có bình đẳng, mà có cao – thấp. Tướng chân thật không có cao – thấp, quyết định bình đẳng; phải dùng tâm chân thật mới có thể thấy được tướng chân thật. Cái tâm hư vọng của chúng ta mà muốn thấy được tướng chân thật sẽ chẳng thấy được, nhất định phải dùng chân tâm mới thấy được chân tướng. Do vậy, nếu quý vị đắc nhất tâm, sẽ thấy được Nhất Chân pháp giới. Nhất tâm là năng chứng, Nhất Chân pháp giới là sở chứng; nhất tâm là năng nhập, Nhất Chân pháp giới là sở nhập. Do vậy, kinh Di Đà và kinh Hoa Nghiêm là một, không hai. Trong kinh Hoa Nghiêm nói Nhất Chân pháp giới, còn kinh này nói nhất tâm bất loạn; đắc nhất tâm sẽ đắc Nhất Chân.
Chúng ta muốn chứng đắc Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, quý vị hãy niệm một câu Di Đà cho tốt đẹp thì sẽ đạt được, thật sự đạt được! Chẳng những quý vị thấu hiểu Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, mà còn nhập cảnh giới ấy. Do đây biết rằng: Về giá trị của Tiểu Bổn Di Đà Kinh trong hết thảy các kinh thì như trong các buổi giảng tôi đã bảo quý vị, kinh này là kinh bậc nhất trong hết thảy các kinh. Quý vị phải tin tưởng! Tôi quyết chẳng cố ý đề cao thân phận của kinh này, chẳng phải vậy, mà sự thật là như thế đó. Chẳng đọc Hoa Nghiêm, quý vị sẽ chẳng thấu hiểu [điều này]; sau khi đọc Hoa Nghiêm, mới phát hiện kinh Di Đà này là kinh bậc nhất, nó là chỗ quy túc của kinh Hoa Nghiêm, là kết luận của kinh Hoa Nghiêm. Nếu nhìn cặn kẽ, Thiện Tài đồng tử vốn tu tập pháp môn này, một môn thâm nhập, một đời thành Phật. Chúng ta thấy tu những pháp môn khác, chưa hề thấy nói là thành Phật ngay trong một đời, còn tu pháp môn này, một đời thành tựu vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc.
Hôm nay, có một người ở Đài Trung gọi điện thoại cho tôi, hỏi: “Cách bế quan tu hành như thế nào? Con muốn niệm chú Lăng Nghiêm, niệm nhiều kinh luận có được không?” Tôi bảo ông ta: “Ông hãy bỏ hết rồi mới bế quan, phải lấy liễu sanh tử làm bậc nhất”. Khóa tụng như thế nào ư? Tôi bảo ông ta: “[Trong thời gian cháy hết] một cây hương, [tụng] một quyển A Di Đà Kinh, bảy biến Vãng Sanh Chú, một ngàn câu Phật hiệu, lễ A Di Đà Phật một trăm lạy, cách làm là như thế. Ông bế quan, trong quan phòng chẳng có việc gì, tùy thuộc thể lực của ông, mỗi ngày niệm càng nhiều càng hay”. Tôi bảo ông ta: “Mỗi ngày [thời gian tụng niệm] không thể ít hơn bốn cây hương, tốt nhất là ông có thể niệm đạt tiêu chuẩn từ sáu cây hương đến bảy cây hương”. Nói cách khác, mỗi ngày tụng bảy biến kinh A Di Đà, bảy ngàn câu Phật hiệu, lễ Phật bảy trăm lạy, đó là tiêu chuẩn bế quan thấp nhất. Tôi nói: “Ông cứ làm như thế, những kinh luận, chú ngữ khác đều buông xuống, hoàn toàn chẳng cần phải quan tâm đến thì mới có thể thành tựu. Nghe nói chú Lăng Nghiêm có thể hàng phục ma chướng, A Di Đà Phật chẳng thể hàng ma ư? Tôi thấy chú Lăng Nghiêm không chỉ chẳng thể hàng ma, mà sợ rằng còn chiêu cảm khá nhiều yêu ma quỷ quái, sợ ông đối phó không nổi! Một câu A Di Đà Phật niệm cho tốt đẹp là được rồi, sẽ có thể thành công. Nếu ông thật sự nghe lời tôi, hết thảy vạn duyên đều buông xuống hết, chiếu theo phương pháp này để tu hành, trong ba năm, không dám chắc ông đắc nhất tâm bất loạn, nhưng công phu thành phiến quyết định có thể đạt được, quyết định có thể vãng sanh Tây Phương, điều này chúng tôi chẳng hoài nghi mảy may! Trừ phi ông chẳng chịu làm như vậy, ông vẫn suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ, thân ở trong quan phòng mà tâm ở bên ngoài, vậy là hỏng rồi, không có cách nào hết. Có bế quan ba đại A-tăng-kỳ kiếp cũng vô dụng!”
(Sớ) Ký đắc nhất tâm bất loạn, thỉ tri liên hoa, hàng thụ, chủng chủng trang nghiêm, tịnh phi tâm ngoại.
(疏) 既得一心不亂,始知蓮華行樹,種種莊嚴,並非心外。
(Sớ: Đã đắc nhất tâm bất loạn mới biết hoa sen, hàng cây, các thứ trang nghiêm, trọn chẳng ở ngoài tâm).
Đoạn văn ở phía trên là do Liên Trì đại sư viết, sau khi viết đoạn ấy, Ngài lại sợ người đời sau đọc không hiểu, nên đại từ đại bi chú giải thêm, giải thích thêm cho chúng ta.
“Ký đắc nhất tâm bất loạn” ý nói: Đoạn trước là nói khi công phu đã thành tựu, quý vị mới biết “hoa sen, hàng cây, các thứ trang nghiêm, trọn chẳng ở ngoài tâm”.
Sau khi ngộ nhất tâm mới thật sự biết “ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm”, đúng như là trong phần trước đã có nói: Thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ” (pháp này bình đẳng, không có cao – thấp).
(Sớ) Hà tất nhĩ thính kim ngôn, phương thị Di Đà thuyết pháp, Sa Bà ấn hoại, thỉ danh Tịnh Độ văn thành giả tai? Nhiên tắc trân cầm, thứ điểu, quỳnh viện, mão đường, hà liệt, hà ưu, hà tịnh, hà uế? Cố viết: Tây Phương tại mục tiền dã.
(疏) 何必耳聽金言,方是彌陀說法,娑婆印壞,始名淨土文成者哉。然則珍禽庶鳥,瓊院茆堂,何劣何優,何淨何穢,故曰西方在目前也。
(Sớ: Cần gì phải tai nghe lời vàng mới là Phật Di Đà thuyết pháp? [Há phải] cái ấn cõi Sa Bà đã nát thì mới gọi là “nét khắc nơi Tịnh Độ” được thành ư? Vậy thì chim quý, chim thường, viện quỳnh, lều tranh, gì là kém, gì là hơn, gì là tịnh, gì là uế? Cho nên nói: Tây Phương ở ngay trước mắt).
Đối với bốn hàng chú giải này, sách Diễn Nghĩa lại chú giải thêm, đúng là từ bi đến tột bậc. Chúng ta đọc Diễn Nghĩa, đoạn trước là nói chung, nói rõ đại ý của đoạn chú giải này.
(Diễn) Ký đắc tứ cú.
(演) 既得四句。
(Diễn: Bốn câu kể từ chữ “đã đắc” trở đi).
Bốn câu tiếp theo câu “ký đắc nhất tâm bất loạn” (đã đắc nhất tâm bất loạn).
(Diễn) Minh, tức thử nhất tâm, tức thị Tịnh Độ.
(演) 明,即此一心,即是淨土。
(Diễn: Nói rõ chính cái nhất tâm này là Tịnh Độ).
Nói rõ sự thật này.
(Diễn) Hà tất tứ cú.
(演) 何必四句。
(Diễn: Bốn câu bắt đầu bằng chữ “cần gì”).
Bốn câu kể từ “hà tất nhĩ thính kim ngôn” (cần gì phải tai nghe lời vàng) trở đi, nhằm nói rõ:
(Diễn) Bất tất vãng sanh, phương thành Tịnh Độ.
(演) 不必往生,方成淨土。
(Diễn: Cần gì phải vãng sanh mới thành Tịnh Độ).
Chỉ cần đắc nhất tâm bất loạn thì chỗ nào chẳng phải là Tịnh Độ? Đâu đâu cũng là Tịnh Độ. Nói như vậy thì Tây Phương Cực Lạc thế giới có Tịnh Độ hay không? Thưa quý vị, có chứ, quả thật có Tịnh Độ!
(Diễn) Nhiên tắc tứ cú, hiển duy tâm cảnh giới, vô sai biệt tướng, đẳng đồng nhất vị dã, cố viết cú tổng kết.
(演) 然則四句,顯唯心境界,無差別相,等同一味也。故曰句總結。
(Diễn: Bốn câu từ chữ “vậy thì” trở đi, hiển thị cảnh giới duy tâm, không có tướng sai biệt, bình đẳng có cùng một vị. Câu “cho nên nói” là tổng kết).
Câu cuối cùng “cố viết Tây Phương tại mục tiền dã” (cho nên nói Tây Phương ở ngay trước mắt) là tổng kết. Đoạn văn gồm ba dòng rưỡi này có tất cả bốn đoạn. Trong Phật pháp thường gọi cách phân đoạn này là Khoa Phán, các đồng học muốn học giảng kinh phải đặc biệt chú ý. Nếu quý vị có khả năng thấy được kết cấu chương pháp phân đoạn thì quý vị mới có thể thật sự hiểu rõ thứ lớp ý nghĩa.
(Diễn) Ấn hoại văn thành giả, Niết Bàn nhị thập thất vân: “Thí như lạp ấn ấn nê, ấn dữ nê hợp, ấn diệt văn thành”.
(演) 印壞文成者,涅槃二十七云:譬如蠟印印泥,印與泥合,印滅文成。
(Diễn: “Ấn nát, nét khắc thành hình” là như kinh Niết Bàn quyển thứ hai mươi bảy đã chép: “Ví như ấn sáp đem đóng xuống bùn, ấn áp vào bùn, ấn nát, mà nét khắc trên ấn đã thành hình”).
Chuyện này được nói trong kinh Đại Bát Niết Bàn, quyển hai mươi bảy. Cổ nhân đúc ấn, ấn ấy không đắc mà là đúc. Trước tiên, họ chế tạo một cái khuôn ấn, khuôn ấn ấy làm bằng sáp, sau đấy dùng cái khuôn ấn ấy để chế ra cái ấn bằng chất bùn (kim nê). Ở Trung Quốc vào thời xưa, người ta in tượng Phật, hình người hoặc văn tự trên ngói sành đều sử dụng phương pháp này. Họ chế khuôn xong, đem chất bùn đổ vào khuôn ấy, xong rồi đem nung. Hễ thiêu thì đương nhiên chất sáp không còn nữa. Chất bùn được nung khô xong, đất đã trở thành gốm, đó gọi là “ấn hoại văn thành”. Trước kia, người ta đúc ấn dùng phương pháp này, chất gốm ấy được bỏ vào lò gốm để nung. Nung xong, chất sáp đã tan chảy hết, nét khắc đã thành hình, mô hình đã thành tựu. Chuyện này tỷ dụ điều gì? Dưới đây lại giảng rõ.
(Diễn) Dĩ dụ phàm phu hiện tại ấm diệt.
(演) 以喻凡夫現在陰滅。
(Diễn: Nhằm tỷ dụ thân ngũ ấm hiện tại của phàm phu đã diệt).
“Ấm” là thân Trung Ấm, nói theo cách thông tục thì hiện thời người đã chết đi, “Ấm” ấy chính là linh hồn.
(Diễn) Trung hữu ấm sanh.
(演) 中有陰生。
(Diễn: Thân Trung Ấm đã sanh).
Linh hồn đã lìa khỏi thân thể.
(Diễn) Kim tá thử văn, dĩ dụ vãng sanh hành nhân, thử độ Ấm diệt, bỉ quốc Ấm sanh.
(演) 今借此文,以喻往生行人,此土陰滅,彼國陰生。
(Diễn: Nay nhờ vào đoạn văn này để tỷ dụ hành nhân vãng sanh, ngũ ấm trong cõi này diệt, ngũ ấm trong cõi kia được sanh ra).
Dùng ý nghĩa này, chúng ta là người cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng phải là thân thể ra đi, mà là thần thức ra đi. Thân thể trong cõi này hoại, thì thần thức của chúng ta hóa sanh trong hoa sen bên Tây Phương. Ý nghĩa như vậy đó, dùng chuyện này (tức chuyện ấn nát, nét khắc hình thành) để tỷ dụ.
(Diễn) Tu tri: Thùy chung tự kiến tọa kim liên thân, dĩ thị bỉ quốc sanh Ấm cố dã.
(演) 須知垂終自見坐金蓮身,已是彼國生陰故也。
(Diễn: Cần biết rằng: Người lâm chung tự thấy thân mình ngồi trên hoa sen vàng tức là Ngũ Ấm của chính mình đã sanh trong cõi kia).
Quý vị cần biết: Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là đi trong lúc sống, chẳng phải chết rồi mới đi. Chúng ta nói “lâm chung”, nhưng thật ra người ấy chẳng hề mạng chung. Người ấy thấy Phật đến tiếp dẫn, theo Phật ra đi. Phàm phu mắt thịt chúng ta trong thế giới này thấy người ấy chết, thật ra, người ấy chẳng có sanh tử, mà là theo Phật sang Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do vậy, phàm là vãng sanh, chắc chắn là vãng sanh trong lúc sống, chẳng phải là chết rồi mới vãng sanh. Chết rồi thì người ấy phải đầu thai, phải luân hồi, chuyện này phiền phức lớn lắm. Do vậy, chúng tôi thấy rất nhiều người vãng sanh, biết trước lúc mất, thấy Phật đến tiếp dẫn, có các thứ tướng lành, những tướng lành ấy hiển hiện trước khi người ấy tắt hơi, đó gọi là “thùy chung”. “Thùy chung” là vẫn còn chưa kết thúc, chính mình sáng suốt, tỉnh táo, thấy Phật đến tiếp dẫn, thấy chính mình hóa sanh trong hoa sen, khi ấy chính mình đã đến thế giới Cực Lạc, tới Tây Phương Tịnh Độ.
(Diễn) Thành luận minh cực thiện cực ác, câu bất kinh Trung Ấm.
(演) 成論明極善極惡,俱不經中陰。
(Diễn: Thành Duy Thức Luận nói kẻ cực thiện hay cực ác đều không trải qua giai đoạn Trung Ấm).
“Thành luận” là Thành Duy Thức Luận[79], Thành Duy Thức Luận cũng nói như thế này: Người cực thiện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới không có thân Trung Ấm, kẻ “cực ác” đọa địa ngục A Tỳ cũng không có thân Trung Ấm, “câu bất kinh Trung Ấm” (đều không trải qua giai đoạn Trung Ấm). Nói cách khác, ngoài người cực thiện và cực ác ra, tất cả đều có thân Trung Ấm. Trung Ấm thường tồn tại trong thời gian bốn mươi chín ngày. Trong Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh đã giảng rất rõ ràng. Do vậy, thường làm thất cho người chết, đều là căn cứ theo kinh Địa Tạng đã nói mà làm. Người cực thiện hay kẻ cực ác tuy không có Trung Ấm, chúng ta làm thất cho họ vẫn tốt, vun bồi phước cho họ. Tốt đẹp ở chỗ nào? Vì sao có điều tốt? Kinh Địa Tạng đã nói rõ ràng, minh bạch. Hôm nay đã hết giờ, chúng tôi giảng đến chỗ này!
— o0o —
Tập 29
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba mươi bảy:
(Tự) Cái diêu niệm không chân niệm, sanh nhập vô sanh, niệm Phật tức thị niệm tâm, sanh bỉ bất ly sanh thử. Tâm, Phật, chúng sanh nhất thể, trung lưu lưỡng ngạn bất cư. Cố vị tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ.
(序) 蓋繇念空真念。生入無生。念佛即是念心。生彼不離生此。心佛眾生一體。中流兩岸不居。故謂自性彌陀。唯心淨土。
(Tựa: Ấy là do niệm tới mức mọi đối đãi rỗng không, sẽ là chân niệm. Từ sanh tử nhập Vô Sanh Nhẫn, niệm Phật chính là niệm tâm. Sanh về cõi kia, nhưng chẳng lìa sanh trong cõi này. Tâm, Phật, và chúng sanh có cùng một Thể, giữa dòng và hai bên bờ đều chẳng ở. Do vậy nói: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”).
Trong đoạn lời Tựa này, đại sư đã tán thán bộ kinh A Di Đà đến mức không còn gì có thể nói thêm được nữa. Chúng ta đọc tới đoạn văn này, có thể nói là không ai chẳng cảm động. Lời tổng kết ở đây tiếp nối ý “tu nhân chứng quả” trong phần trước, đặc biệt quy kết tự tánh và duy tâm, ý nghĩa này chẳng hai, chẳng khác với các bộ kinh lớn trong Nhất Thừa Viên Giáo. Do vậy, chúng tôi thường nói: Kinh này là pháp môn bậc nhất trong hết thảy các pháp môn, là kinh bậc nhất trong hết thảy các kinh. Từ đoạn lời Tựa này, chúng ta có thể cảm nhận hết sức thân thiết [những ý nghĩa ấy]. Câu thứ nhất trong đoạn lời Tựa này là “cái diêu niệm không chân niệm” (do bởi niệm đến rỗng không mọi đối đãi thì sẽ là chân niệm), chữ “niệm” chỉ niệm Phật, sách Diễn Nghĩa đã chú giải như sau:
(Diễn) Niệm không chân niệm giả.
(演) 念空真念者。
(Diễn: Niệm tới mức mọi đối đãi rỗng không thì sẽ là chân niệm).
Đây đều là do “niệm tới mức mọi đối đãi rỗng không, sẽ là chân niệm”, niệm Phật có chân niệm. Đã có chân niệm thì đương nhiên có bất chân niệm. Do vậy, chúng ta niệm câu Phật hiệu này, dùng ngay tiêu chuẩn này để đối chiếu, hòng xét xem câu Phật hiệu của chính mình có phải là chân niệm hay không?
(Diễn) Niệm tức niệm Phật chi niệm. Chân niệm tức Chân Như Thể. Niệm đáo cực xứ, hòa niệm thoát lạc, đốn ly niệm tướng, vị chi “niệm Không”. Ly niệm tướng giả, đẳng hư không giới. Pháp giới nhất tướng, tức thị bình đẳng Pháp Thân, cố vân “chân niệm”.
(演) 念即念佛之念,真念即真如體,念到極處,和念脫落,頓離念相,謂之念空。離念相者,等虛空界,法界一相,即是平等法身,故云真念。
(Diễn: Chữ “niệm” [trong câu “niệm tới mức mọi đối đãi rỗng không, sẽ là chân niệm”] chính là chữ niệm trong niệm Phật. “Chân niệm” chính là bản thể của Chân Như. Niệm đến mức tột cùng, năng niệm lẫn sở niệm đều mất, nhanh chóng lìa khỏi tướng niệm, nên gọi là “niệm Không”. Lìa khỏi tướng niệm sẽ bằng với hư không giới. Pháp giới nhất tướng, tức là Pháp Thân bình đẳng, nên gọi là “chân niệm”).
Trong phần trước, từ sự chứng quả mà nói tới cảnh giới Nhất Chân pháp giới, đấy cũng là cảnh giới Lý nhất tâm bất loạn. Phật pháp, nói đơn giản, chính là pháp “phá mê, khai ngộ”. Hết thảy kinh luận đều giảng đạo lý này, vô lượng pháp môn đều nhằm dạy chúng ta phương pháp phá mê khai ngộ. Cảnh giới giữa mê và ngộ khác nhau. Do vậy, trong kinh luận, đức Phật thường giảng về cảnh giới của các giai đoạn khác nhau. Vì thế, người thường đọc tụng kinh điển Đại Thừa, nếu đối với cảnh giới của chính mình mà mười phần hiểu rõ, chắc chắn chẳng mê hoặc. Không mê là giác, càng khẩn yếu hơn nữa là phải không ngừng nâng cao sự giác ngộ; đó gọi là học Phật.
Trong hết thảy pháp môn tu học, không gì hơn được pháp môn Niệm Phật. Chúng tôi đang giảng bộ kinh này đến chỗ này, tôi nghĩ mỗi vị đồng tu ít nhiều cũng đều thông hiểu, biết được sự thù thắng của pháp môn này; bởi lẽ, do một câu A Di Đà Phật có thể chứng được Pháp Thân bình đẳng, hoặc như trong các kinh, [thân ấy] thường được gọi là “thanh tịnh Pháp Thân”. Đấy chính là như Ngẫu Ích đại sư đã nói trong sách Yếu Giải: Pháp môn này thẳng chóng nhất, ổn thỏa và thích đáng nhất, đơn giản và dễ dàng nhất. Không còn có pháp môn nào khác, vừa dễ dàng, vừa ổn thỏa, thích đáng bằng pháp môn này. Đấy cũng chính là như kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai” (Chẳng cần nhờ đến phương tiện nào khác, tâm tự được khai ngộ). “Tâm khai” là khai ngộ, ngộ nhập thanh tịnh Pháp Thân, ngộ nhập pháp giới nhất tướng. “Pháp giới nhất tướng” chính là Nhất Chân pháp giới, là cảnh giới được chư Phật và các vị đại Bồ Tát đích thân chứng đắc. Kinh Hoa Nghiêm gọi cảnh giới ấy là Nhất Chân pháp giới. Tuy chúng ta còn chưa chứng đắc, nhưng chỗ này có ích rất lớn cho chúng ta, vì chúng ta có thể dùng tiêu chuẩn ấy để thường xuyên kiểm nghiệm cảnh giới của chính mình.
Nay trong cảnh giới này, chúng ta có thấy nhất tướng hay không? “Nhất tướng” là gì? Là tướng bình đẳng. Nếu đối với cảnh giới, chúng ta vẫn còn phân biệt tốt – xấu thì chẳng phải là nhất tướng! Có xấu và tốt sẽ là hai tướng, hai tướng là cảnh giới của phàm phu. Nhất tướng là cảnh giới của Phật, Bồ Tát. Đây là một phương pháp đơn giản nhất để kiểm nghiệm công phu của chính mình, xem công phu của bản thân chúng ta có tiến triển hay không. Nói cách khác, đối với cảnh giới, tâm chúng ta có bình đẳng hay không? Có bốn tướng bình đẳng hay không? Nếu nhận thấy chưa đạt đến cảnh giới ấy, trong cảnh giới, chúng ta vẫn sử dụng cái tâm giống như kinh Kim Cang đã nói “ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng” và “ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến”, chưa phải là Bồ Tát! Chẳng phải là Bồ Tát thì là gì? Là phàm phu! Tri kiến phàm phu, tri kiến luân hồi. Nói phàm phu thì mọi người cảm thấy chẳng có gì đặc biệt hết, nên tôi lại đặc biệt nhấn mạnh lời này bằng từ ngữ “tri kiến luân hồi”! Nếu quý vị có tri kiến ấy, sẽ chẳng thể nào thoát khỏi sanh tử luân hồi. So với phàm phu, luân hồi quả thật đáng sợ hơn nhiều! Chúng ta từ vô thỉ kiếp mãi cho đến ngày nay, có thể nói là luôn xoay chuyển [trong lục đạo] bởi tri kiến sanh tử luân hồi.
“Niệm Không”, “Không” là gì? Chính là niệm cho hết sạch tri kiến sanh tử. Khi niệm hết rồi, chân niệm sẽ hiện tiền. “Chân niệm” là chân tâm, là bản thể, Thiền gia gọi nó là “phụ mẫu vị sanh tiền bổn lai diện mục” (diện mạo vốn có trước khi được cha mẹ sanh ra), là con người thật sự của ta. Trong Phật pháp, thường nói đến khai ngộ, hoặc nói tới chứng quả, ngộ gì vậy? Chứng gì vậy? [Chứng và ngộ] thứ này! Tại núi Hoàng Mai, do đã ngộ đạo, đã chứng đắc, Lục Tổ đại sư đã nói mấy câu: “Nào ngờ tự tánh, vốn sẵn thanh tịnh; nào ngờ tự tánh, vốn sẵn đầy đủ; nào ngờ tự tánh, có thể sanh ra vạn pháp”. Tự tánh là Chân Như bổn thể, là con người thật sự của chính mình. Nay chúng ta đang mê, mê là gì? Mê là mê mất điều này, mà ngộ cũng là ngộ chính điều này. Lại nói rõ cùng quý vị: Trong Chân Như tự tánh, chẳng có mê hay ngộ. Trong tự tánh Lý thể, mê lẫn ngộ đều chẳng thể được. Vì vậy, khi thành Phật, người ấy ắt thấy đại địa chúng sanh cùng thành Chánh Giác, đấy đạo lý nhất định. Nói mê là hư vọng, thì ngộ còn có thể nói là chân thật được sao? Ngộ là giả danh, do đối lập với mê mà lập ra. Nếu mê đã phá rồi, mà còn tồn tại ngộ, thì ngộ ấy là căn bản vô minh, hoàn toàn chẳng phải là khai ngộ thật sự, ngay cả ngộ cũng chẳng thể được! Do vậy, ở đây nói: “Niệm đáo cực xứ, hòa niệm thoát lạc”, tức là nói công phu niệm Phật đến tột bậc thì năng niệm lẫn sở niệm đều chẳng thể được!
“Đốn ly niệm tướng, vị chi niệm Không” (nhanh chóng lìa khỏi tướng niệm, gọi là niệm Không): Đến cảnh giới này, nếu chúng ta hỏi người ấy còn có niệm hay không? Ngàn vạn phần đừng hiểu lầm là đến khi đó, người ấy chẳng niệm Phật! Không niệm sẽ đọa vào Không, lầm lẫn lớn lắm! Tới khi ấy, sáu chữ hồng danh vẫn cứ tiếp tục không gián đoạn như vậy, đúng như câu nói: “Niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”, chẳng phải là không có niệm! Đại Thế Chí Bồ Tát là Đẳng Giác Bồ Tát, mà Ngài vẫn “đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế” (nhiếp trọn sáu năm, tịnh niệm tiếp nối), chẳng gián đoạn! Đấy mới là người niệm Phật chân chánh. Câu Phật hiệu của Ngài giống hệt chúng ta, suốt ngày từ sáng đến tối chúng ta cầm xâu chuỗi, có lẽ Ngài cũng cầm xâu chuỗi, một câu Nam-mô A Di Đà Phật từ trước đến nay chưa hề gián đoạn, nhưng cảnh giới chắc chắn khác nhau, vì sao? Chúng ta niệm Phật chấp tướng, còn Ngài vô tướng niệm Phật. Chúng ta là hữu niệm niệm Phật, còn Ngài là ly niệm niệm Phật. Chúng ta sống trong mười pháp giới, Ngài sống trong Nhất Chân pháp giới. Chúng ta chỗ nào cũng bị chướng ngại, còn Ngài chỗ nào cũng vô chướng ngại, giống như “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại” trong kinh Hoa Nghiêm, làm sao [chúng ta và Ngài] giống nhau cho được? Trong cảnh giới, chúng ta thấy có các thứ sai biệt, bất bình đẳng, còn tâm địa của Ngài thanh tịnh, bình đẳng, thụ dụng khác hẳn nhau!
Quý vị nghe những lời này xong, nhất định sẽ suy tưởng: Chúng ta phải làm sao để cũng có thể niệm đạt tới cảnh giới ấy? Đấy là Lý nhất tâm bất loạn. Nếu quý vị muốn đạt tới cảnh giới ấy, ắt phải “đã tinh tấn, lại càng tinh tấn hơn”. Tinh tấn nơi điều gì? Lão Tử đã nói: “Vị học nhật ích, vị đạo nhật tổn” (Vì sự học mà ngày càng tăng, vì đạo mà ngày càng ít đi). Cầu học thuật thế gian bèn muốn nó hằng ngày tăng trưởng, đó là tiến bộ. Nếu cầu đạo, đạo là tâm thanh tịnh, phải nên làm như thế nào? Phải nên ngày càng buông xuống, “tổn” (損) là chẳng nhiễm mảy trần. Trong phần trước, đại sư có nói: “Phóng hạ, hựu phóng hạ” (đã buông xuống, lại càng buông xuống nhiều hơn). Học đạo là như vậy đó! Tinh tấn trong Phật pháp nghĩa là gì? Tinh tấn là buông xuống. Chẳng những ngũ dục, lục trần trong thế gian phải buông xuống, mà ngay cả Phật pháp cũng phải buông xuống. Ngũ dục, lục trần trong thế gian là bệnh, Phật pháp là thuốc; lấy thuốc trị bệnh, bệnh lành rồi, chẳng cần đến thuốc nữa. Đúng như câu nói: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp” (pháp còn nên bỏ, huống hồ phi pháp).
Do đây có thể biết: Từ xưa đến nay, những người thành tựu, quý vị đọc kinh cẩn thận sẽ nhận ra hiện tượng này: Đức Phật nói các bộ kinh, các đệ tử tham dự, nghe xong thường đại triệt đại ngộ, đều có thể nhập cảnh giới ấy. Chẳng phải là mỗi bộ kinh họ đều nghe, chẳng phải vậy! Khai ngộ từ đâu? Khai ngộ bởi một bộ kinh. Chúng ta đọc kinh Lăng Nghiêm, thấy cô Ma Đăng Già (Mātanga) là phàm phu sát đất, kinh giảng được một nửa, cô ta liền chứng Tam Quả và A La Hán. Cô ta không nghe rất nhiều kinh, học rất nhiều pháp môn rồi mới khai ngộ. Quý vị phải hiểu: Học nhiều, nghe nhiều, biến thành Sở Tri Chướng, chắc chắn chẳng thể khai ngộ. Trong Phật pháp, bất luận là Giải hay Hành, đều phải thâm nhập một môn! Đã là phải thâm nhập một môn, vì sao đức Phật nói nhiều kinh như vậy? Đức Phật nói kinh nhiều ngần ấy, nói thật ra, chẳng phải là vì riêng ta mà nói! Mỗi bộ kinh đều có một loại đương cơ (căn cơ có thể tiếp nhận và tu tập pháp môn ấy), đức Phật vì những người ấy nói, họ nghe liền ngộ nhập. Đủ thấy: Nói thật ra, ngộ nhập là trong một hội, trong một bộ kinh! Chúng ta thấy nhiều tình hình như vậy rồi mới nhận biết: Nếu quý vị nghe quá nhiều, chắc chắn bị chướng ngại. Giống như chúng ta bị bệnh, mỗi người mắc bệnh khác nhau, chúng ta đi khám bác sĩ, bác sĩ kê toa cho mỗi người khác nhau. Chúng ta cầm toa thuốc ấy, chiếu theo toa để uống thuốc. Uống rồi sẽ lành bệnh; thuốc vào, bệnh dứt, khôi phục sức khỏe. Nếu thuốc của quý vị đúng căn bệnh, quý vị uống vào lành bệnh, [thấy] thuốc của người khác cũng khá lắm, à! Vậy thì trao toa thuốc cho tôi, tôi mua hết những thuốc ấy về uống, uống vào mà không đổ bệnh thì cũng chết ngắc!
Hết thảy các kinh là những toa thuốc mà đức Phật kê cho khá nhiều chúng sanh thuở ấy, chẳng thể tùy tiện uống loạn xạ được! Nếu quý vị tùy tiện uống thuốc loạn xạ, chắc chắn có hại, chứ chẳng có ích gì! Nếu có ích thì hiện thời quý vị đọc kinh nhiều dường ấy, nghe kinh nhiều ngần ấy, vì sao vẫn chưa khai ngộ? Quý vị niệm Phật đã nhiều năm dường ấy, vì sao ngay cả tin tức vãng sanh cũng chẳng có chi hết? Căn bệnh là đâu? Tạp loạn ấy mà! Từ Vãng Sanh Truyện, chúng ta thấy cổ nhân cũng là phàm phu sát đất, trước nay chưa hề nghe Phật pháp, có pháp sư dạy họ niệm A Di Đà Phật, họ niệm ba năm, công phu thành phiến, đắc nhất tâm, biết trước lúc mất, tự tại vãng sanh. Chúng ta công phu nhiều hơn họ, vì sao chẳng bằng họ? Người ta uống một loại thuốc, uống vào bèn khỏi bệnh. Nay chúng ta uống cả đống thứ, chỉ sợ toa thuốc quá ít, không có bệnh cũng đổ bệnh! Làm sao có thể khôi phục sức khỏe cho được? Do vậy, “vì đạo” hay “vì học” tuyệt đối chẳng giống nhau!
Sau khi chúng ta đã hiểu rõ đạo lý này, mới biết trong các pháp môn nhiều ngần ấy, chúng ta hãy nên chọn lựa pháp môn nào? Nếu chúng ta là học trò ngoan của Thích Ca Mâu Ni Phật, là học sinh rất biết nghe lời, hãy nên chọn pháp môn Niệm Phật. Vì sao? Vì trong kinh, đức Phật đã dạy: “Thời Chánh Pháp, Giới Luật thành tựu; thời Tượng Pháp, Thiền Định thành tựu; thời Mạt Pháp, Tịnh Độ thành tựu”. Nay chúng ta đang sống trong thời Mạt Pháp, chúng ta tu pháp môn Tịnh Độ, niệm một câu A Di Đà Phật, chính là học sinh ngoan biết nghe lời nhất. Đấy cũng là lý do vì sao chúng ta chọn lựa pháp môn Tịnh Độ.
Pháp môn này có tốt đẹp hay không? Quá tốt đẹp! Nếu chẳng tốt, sao đại pháp Nhất Thừa Viên Giáo lại đề xướng? Chúng ta biết kinh Hoa Nghiêm là Nhất Thừa Viên Giáo, Thiện Tài đồng tử đại diện cho người tu học, là một tấm gương, là điển hình tu hành, Ngài tu pháp môn gì? Tu pháp môn Niệm Phật. Niệm vị Phật nào? Niệm A Di Đà Phật. Vì sao biết? [Trong kinh Hoa Nghiêm] đến cuối cùng, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc. Ngài đi tham học, vị thiện tri thức thứ nhất là tỳ-kheo Đức Vân dạy Ngài pháp môn Niệm Phật. Tuy không nói rõ là A Di Đà Phật, nhưng chỗ quy túc cuối cùng là A Di Đà Phật, nên chúng ta biết pháp môn Niệm Phật của tỳ-kheo Đức Vân tu nhất định là niệm A Di Đà Phật. Do đây biết rằng: Pháp môn này được bắt đầu đề xướng từ hội Hoa Nghiêm. Chúng ta không đọc Hoa Nghiêm, sẽ chẳng nhận biết pháp môn này. Đọc Hoa Nghiêm xong, mới biết pháp môn này thù thắng, mới biết pháp môn này là pháp môn Đại Tổng Trì của hết thảy pháp môn, hãy nên tu như thế nào? Một câu Phật hiệu niệm đến rốt ráo là thành công rồi. Hết thảy vọng tưởng, tạp niệm thế gian lẫn xuất thế gian đều phải buông xuống; khi quý vị chưa buông xuống được, hãy dùng một câu Phật hiệu để thay thế.
Có rất nhiều đồng tu niệm Phật đến nói với tôi: “Trong khi niệm Phật, vọng niệm rất nhiều”. Đấy là hiện tượng tất nhiên! Không cần phải sợ! Vọng niệm dấy lên, quý vị cũng đồng thời dấy lên Phật hiệu. Điều khẩn yếu là toàn bộ tinh thần chuyên chú nơi Phật hiệu, mặc kệ vọng niệm, mặc cho nó có bao nhiêu, mặc cho nó dấy lên, căn bản là không quan tâm tới nó, chuyên môn quan tâm một câu Phật hiệu, tự nhiên vọng niệm sẽ chẳng còn nữa! Quý vị càng quan tâm tới vọng niệm, vọng niệm càng nhiều, sẽ quên mất Phật hiệu. Do vậy nói “đừng quan tâm đến vọng niệm”. Phật hiệu và vọng niệm đồng thời dấy lên, chúng ta là người biết dụng công sẽ quan tâm Phật hiệu, mặc kệ vọng niệm. Vọng niệm chẳng trở ngại quý vị niệm Phật, niệm Phật cũng chẳng trở ngại vọng niệm, chúng có thể tồn tại đồng thời. Quý vị chỉ chú ý tới Phật hiệu, vọng niệm nhất định giảm ít, ít đến mức vọng niệm chẳng sanh, căn bản là chẳng dấy lên. Một ngày trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, vọng niệm cũng chẳng dấy lên, khi ấy là Sự nhất tâm bất loạn. Vọng niệm vừa mới dấy lên, một câu Phật hiệu đè nó xuống, đó là công phu thành phiến, coi như là thành tựu, chắc chắn nắm chắc đới nghiệp vãng sanh.
Đoạn này nói tới cảnh giới tối cao, giảng về Lý nhất tâm bất loạn, khi ấy, tâm là chân tâm hiện tiền. Kinh luận thường nói về chân tâm như sau: “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới” (Tâm bao trùm hư không, lượng trọn khắp các cõi với số lượng nhiều như cát). Ở đây nói là “đẳng hư không giới, pháp giới nhất tướng” (bằng với hư không giới, pháp giới một tướng). Tâm đã nhất, cảnh giới bên ngoài cũng nhất. Người học Phật phải nhớ lời Phật giáo huấn: “Nhược năng chuyển cảnh, tắc đồng Như Lai” (Nếu có thể chuyển cảnh, sẽ giống với Như Lai). Nói cách khác, người học Phật phải chuyển được cảnh giới, đừng bị cảnh giới chuyển. Bị cảnh giới chuyển là phàm phu! Chúng ta là người học Phật, người niệm Phật, niệm niệm vẫn bị cảnh giới chuyển, quý vị nghĩ xem: Làm sao đắc nhất tâm? Làm sao đắc công phu thành phiến? Chúng ta nhất định phải hiểu điều này.
Vì sao phải chuyển cảnh? Vì cảnh giới là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Cảnh giới chẳng chân thật. Kinh Kim Cang nói rất hay: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ, diệc như điển, ưng tác như thị quán” (Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, cũng như chớp, hãy nên quán như thế). Sương và ánh chớp đều vô thường, thời gian tồn tại hết sức ngắn ngủi, tạm bợ. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: Mạng sống của mỗi một người chúng ta tồn tại trong thế gian này, kể như quý vị sống rất thọ, sống đến một trăm tuổi, người thọ trăm tuổi được mấy ai? So trong toàn thể vũ trụ, thời gian một trăm năm là một sát-na, quá sức ngắn ngủi! Nếu xét theo cái nhìn của [chư thiên trong cõi] trời Đao Lợi, một ngày trong trời Đao Lợi bằng một trăm năm trong thế gian, trời Đao Lợi thấy nhân gian đáng thương quá! Sáng sanh, chiều chết, ngày sanh, đêm chết. Nếu chúng ta thường nghĩ tới điều này, nghĩ tới sự thật này, quý vị sẽ giác ngộ, sẽ tự nhiên bỏ được hết thảy vô thường, hư vọng, giữ lấy chân thường.
Chân thường là gì? Chân thường là Chân Như tự tánh. Ở đây gọi là “Chân Như Thể”, Thể là tự tánh. Kinh Lăng Nghiêm nói “lục căn căn tánh” (căn tánh của sáu căn). Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đại từ đại bi, đối với Nhãn Căn trong sáu căn, Ngài đặc biệt giảng rõ tường tận trong phần “thập phiên hiển Kiến” (mười phen chỉ cái Thấy) [của kinh Lăng Nghiêm]. Đây có nghĩa là nói rõ: Căn tánh của sáu căn là chân thường, chẳng sanh, chẳng diệt, thật đấy! Chúng ta phải giữ lấy thứ này, trong pháp môn Niệm Phật sẽ là Lý nhất tâm bất loạn. Chúng ta cũng có thể nói như thế này: Chỗ khác nhau giữa Phật, Bồ Tát và phàm phu là dụng tâm khác nhau! Phật, Bồ Tát dùng chân tâm, căn tánh của sáu căn là chân tâm. Các Ngài thấy sắc, chẳng dùng Nhãn Thức để thấy, chẳng dùng Ý Thức để thấy, mà dùng tánh Thấy để thấy. Tai nghe âm thanh, chẳng dùng Nhĩ Thức để nghe, chẳng dùng Ý Thức là thức thứ sáu để nghe, mà dùng tánh Nghe để nghe. Vì vậy, người biết dùng căn tánh của sáu căn gọi là Phật, Bồ Tát. Người không biết dùng căn tánh của sáu căn mà dùng sáu thức thì gọi là phàm phu. Trừ chỗ này ra, Phật, Bồ Tát và phàm phu còn có sai biệt nào khác hay chăng? Chẳng có sai biệt!
“Niệm đáo cực xứ, hòa niệm thoát lạc” (Niệm đến cùng tột, năng niệm và sở niệm đều mất): Nay chúng ta bắt đầu niệm Phật, dùng cái tâm ý thức, chẳng biết dùng căn tánh của sáu căn. Niệm Phật đến cùng cực, năng niệm và sở niệm hai bên đều bỏ sạch, Thiền gia gọi đó là “ly tâm ý thức”. Sau khi lìa tâm ý thức, ở đây, cảnh giới ấy được gọi là “niệm Không”. Chữ “Không” ở đây đừng hiểu là “Vô” (không có), chữ “Không” này phải như trong Tâm Kinh đã nói: “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc”. Chữ Không ở đây có ý nghĩa như vậy đó, đấy là Thật Tướng Bát Nhã.
Phía trước có nói “đốn ly niệm tướng” (nhanh chóng lìa tướng niệm), “niệm tướng” là gì? Tướng ngôn thuyết, tướng văn tự, tướng tâm duyên, tướng năng niệm, tướng sở niệm, toàn bộ [những tướng ấy] đều không có, chẳng khác gì Giao Quang đại sư đã nói trong sách Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch: “Bỏ Thức dùng Căn”. Cảnh giới được nói trong sách Chánh Mạch chính là cảnh giới của bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên. Từ Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên, chính là Lý nhất tâm bất loạn trong pháp môn Niệm Phật. Khi ấy, tâm tách rời phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, chân tâm hiển lộ. Chân tâm có hình dạng ra sao? Thứ nhất là tướng rộng lớn, tức là “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”, tâm lượng rộng lớn mà! Tướng thanh tịnh, tướng bình đẳng, tướng từ bi (tức là vô duyên đại từ, đồng thể đại bi) hiện tiền; khi ấy, Thanh Tịnh Pháp Thân, Viên Mãn Báo Thân, Thiên Bách Ức Hóa Thân đều hiện tiền, đó gọi là “chân niệm”.
Nếu quý vị hỏi niệm Phật có chỗ nào hay ư? Những chỗ hay có nói trọn hết được không? Nói chẳng trọn hết được những chỗ hay! Nói tới đây, chúng tôi quy nạp lại, “chân niệm” là dùng chân tâm niệm Phật; đó là cách nói đơn giản nhất! Chớ nên dùng vọng tâm niệm Phật, phải dùng chân tâm niệm Phật. Lần trước đã nói ra cảnh giới, đoạn văn ấy hết sức trọng yếu, tôi cũng đặc biệt nhắc nhở các đồng tu: Chúng ta niệm Phật, sử dụng chân tâm, còn đãi người tiếp vật thì sao? Khi niệm Phật là giác, khi đãi người tiếp vật lại mê, không được rồi! Như vậy sẽ vô ích. Khi niệm Phật, niệm cho ra chân tâm, niệm ra để làm gì? Niệm cho ra để dùng trong cuộc sống, khiến cho toàn bộ cuộc sống thường nhật của chúng ta đều sử dụng chân tâm. Đấy mới là “chỗ nào cũng đều thấy Phật, lúc nào cũng đều thấy Phật, hữu tình và vô tình cùng viên mãn Chủng Trí”. Do vậy, niệm một câu A Di Đà Phật là một phương pháp. Điều khẩn yếu nhất trong phương pháp này là nhằm lay tỉnh quý vị, nhằm đánh thức giác tâm của quý vị, niệm cho ra giác tâm. Giác tâm là chân tâm, niệm cho hết vọng tâm, niệm cho chân tâm dấy lên, chuyện là như vậy đó. Xử sự bằng chân tâm. Chân tâm cai quản, chân tâm làm chủ; đó gọi là thành Phật, là Chánh Đẳng Chánh Giác.
Do đây có thể biết rằng: Niệm Phật chẳng phải là vô ích, niệm Phật hoàn toàn chẳng phải là trật khớp với cuộc sống chúng ta, mà niệm Phật là cuộc sống thực tế của chúng ta. Ngày nay, chánh phủ đề xướng phải nâng cao phẩm chất cuộc sống, nâng cao từ chỗ nào? Niệm Phật mới là phương cách duy nhất để thật sự nâng cao phẩm chất cuộc sống, khiến cho quý vị thật sự đạt đến cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn. Thế nhưng quý vị phải nhớ: Nếu quý vị dùng giả tâm, tạp tâm, vọng tâm, dẫu quý vị niệm như thế nào đi nữa, cũng chẳng đạt được những thứ lợi ích tốt đẹp ấy! Xét đến hết mức, chỉ là gieo một ít chủng tử niệm Phật vào A Lại Da thức, chứ chẳng thể hưởng dùng trong đời này được! Nếu do một câu Phật hiệu ấy mà niệm khiến cho chân tâm tỏ lộ, sự thụ dụng ấy sẽ thật sự chẳng thể nghĩ bàn, thật sự đại tự tại! Người thế gian thường nói “khoái lạc khôn sánh”, đấy là hô khẩu hiệu, trên thực tế, họ rất khổ, nói ngoài miệng mà thôi! Chỉ có người chân tâm niệm Phật mới thật sự sung sướng, thật sự tự tại. Do vậy, chỉ có người chân tâm niệm Phật mới có đủ chân – thiện – mỹ – huệ!
Đại sư nói: “Cái diêu niệm không chân niệm” (ấy là do niệm đến mức mọi thứ đối đãi rỗng rang, sẽ là chân niệm). Câu này nói rõ niệm Phật là công phu chân thật, công phu thành tựu, là Lý nhất tâm, là công phu thượng thừa. Tiếp theo đó, sách Diễn Nghĩa giảng câu “sanh nhập vô sanh”, sanh nhập vô sanh là quả báo, nhân viên quả mãn.
(Diễn) Sanh nhập vô sanh giả, sanh tức sanh tử chi sanh, vô sanh tức Vô Sanh Nhẫn.
(演) 生入無生者,生即生死之生,無生即無生忍。
(Diễn: “Sanh nhập vô sanh”: Chữ “Sanh” [đầu tiên trong câu này] là chữ Sanh trong sanh tử, “vô sanh” là Vô Sanh Nhẫn).
Nói cách khác, quý vị niệm đến cảnh giới này, thấy chân tướng sự thật như thế nào? Chân tướng sự thật là bất sanh bất diệt. Nói là “liễu sanh tử, thoát tam giới” nhưng vẫn chưa phải là đã xong xuôi! Đối với “liễu sanh tử, thoát tam giới”, chúng ta thường nói tới Tiểu Thừa A La Hán, nhưng [“liễu sanh tử, thoát tam giới” ở đây] cao hơn cảnh giới của A La Hán rất nhiều. Đạt đến cảnh giới ấy, mới thật sự thấy được hết thảy pháp vốn bất sanh, lẽ đâu có diệt? Đó là thấy được tướng chân thật của vạn pháp trong vũ trụ, Thật Tướng của các pháp. Vì sao nói vạn pháp bất sanh? Lý này rất sâu, một câu nói của đức Phật có thể nói toạc chuyện này, nhưng chúng ta rất khó khế nhập, chẳng dễ gì thấu hiểu được. Chẳng những không dễ gì thấu hiểu, mà còn sợ rằng chưa dễ gì tiếp nhận được. Vì sao chẳng dễ gì tiếp nhận? Vì về căn bản, không có cách nào lý giải cảnh giới này; cho nên chẳng thể tiếp nhận!
(Diễn) Sanh bổn vô Thể, dĩ niệm vi Thể.
(演) 生本無體,以念為體。
(Diễn: Sanh vốn không có Thể, lấy niệm làm Thể).
“Sanh” là hiện tượng sanh khởi của hết thảy vạn pháp, chúng ta thường nói là “duyên sanh”. “Nhân duyên sở sanh pháp, đương thể tức thị không” (Các pháp được sanh bởi nhân duyên, bản thể của chúng chính là Không). Nó không có tự tánh; không có tự tánh thì từ đâu mà sanh khởi? “Dĩ niệm vi Thể” (Lấy niệm làm Thể), từ niệm mà sanh. Sự – Lý này quả thật khó thể hiểu được, chúng ta chỉ đành lãnh hội bằng tỷ dụ. Quý vị vẫn chưa chứng thánh quả, tâm vẫn chưa thanh tịnh. Chưa thanh tịnh thì nói cách khác là tâm khởi niệm, khởi phân biệt chưa hề gián đoạn. Quý vị nằm trên giường, ngủ thật say, thân bất động, nhưng tâm vẫn còn khởi niệm, vẫn phân biệt. Do khởi niệm nên biến thành mộng cảnh. Mộng do đâu mà có? Khi quý vị ngủ, trong tâm có ý niệm, mộng do niệm mà sanh. Nếu quý vị không có niệm, sẽ chẳng có mộng. Quý vị có thiện niệm bèn có hảo mộng, có ác niệm bèn có ác mộng. Do đây có thể chứng minh rằng: Mộng quả thật từ niệm mà sanh khởi.
Mộng cảnh ngắn ngủi, tạm bợ, nhưng trong mộng cảnh, quý vị chẳng cảm nhận nó ngắn ngủi, tạm bợ. Trong bút ký, tiểu thuyết của cổ nhân Trung Quốc, có chuyện Hoàng Lương Mộng (giấc mộng kê vàng), chuyện này mọi người đều rất quen thuộc. Chuyện kể một chàng Tú Tài nghèo khổ hằng ngày suy nghĩ lung tung, có một hôm ở trong một đạo quán (miếu của đạo sĩ), đạo sĩ ngồi tịnh tọa nơi ấy, bên cạnh có một cái lò đang nấu cháo hạt kê (foxtail millet). Hoàng Lương (黃粱) là hạt kê, nấu rất mau chín! Anh ta ngủ gục cạnh lò, nằm mộng. Mộng thấy mình đi thi, kết quả đỗ Trạng Nguyên. Sau đó, được hoàng đế bổ làm Tri Huyện, làm quan, thăng chức dần dần. Làm quan bao nhiêu đó năm, lên đến Tể Tướng. Phàm những ai trước kia đã có ân huệ với anh ta, đều báo đáp từng người một. Những kẻ nào phạm lỗi với anh ta trong quá khứ, anh ta đều báo thù từng người một, ân oán phân minh! Đến cuối cùng, chính mình cũng phạm tội, bị hoàng đế cách chức, cuộc sống tồi tệ, khổ chẳng thể nói được! Khi ấy, tỉnh giấc, kê còn nấu chưa chín. Vị đạo sĩ ấy rất lợi hại, hỏi anh ta: “Hai mươi năm làm vị Tể Tướng trong thuở thái bình có đắc ý hay chăng?” Trong giấc mộng, anh ta làm vị Tể Tướng thuở thái bình suốt hai mươi năm, hạt kê vàng nấu vẫn chưa chín! Trong cảnh mộng, anh ta quả thật cảm thấy đã trải qua mấy chục năm, đời người như giấc mộng!
Người trẻ tuổi chẳng lãnh hội sâu sắc chuyện này, người lớn tuổi cảm nhận chuyện này hết sức thân thiết. Năm hai mươi ba tuổi, tôi đến Đài Loan, hiện thời chớp mắt đã sáu mươi tuổi rồi, nghĩ tới quang cảnh Đài Loan ngày ấy giống như vừa mới hôm qua. Sau này còn có ba mươi năm nữa hay chăng? Không có! Hơn ba mươi năm trôi qua như một khảy ngón tay. Đời người là giấc mộng, không có thứ gì để có thể đạt được cả! Quý vị ngỡ là có thể đạt được, đó là giả, chắc chắn là hư vọng, không gì chẳng phải là một giấc mộng lớn mà thôi! Do vậy, đức Phật dạy chúng ta phải bỏ hết thảy, phải buông xuống hết thảy, đó là chánh lý, tức là đạo lý tuyệt đối chính xác. Vì sao? Thứ gì cũng chẳng thể đạt được, quý vị cứ khư khư muốn cầu lấy, chẳng phải là tự mình chuốc khổ ư? Do vậy, buông xuống sẽ tự tại, buông xuống là giải thoát.
Hết thảy các pháp do vọng tưởng, phân biệt biến thành; tông Duy Thức bảo là “duy thức sở biến”. Thức là ý niệm, là tâm phân biệt. Do vậy, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới thảy đều lấy niệm làm Thể. Nếu ý niệm không có, sẽ như Vĩnh Gia đại sư đã nói: “Giác hậu không không vô đại thiên” (giác rồi ba cõi rỗng toang hoang). “Giác hậu” giống như tỉnh giấc, mộng cảnh chẳng còn nữa, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới trước mắt chúng ta là giấc mộng lớn. Hiện thời, cái tâm phân biệt của quý vị không có giác, chẳng đoạn dứt, suốt ngày từ sáng đến tối phân biệt không ngừng. Do vậy, tướng cảnh giới bên ngoài giống như có tướng tiếp nối, liên tục, thật ra, nó chẳng liên tục, mà là sanh diệt trong từng sát-na, như kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Đương xứ xuất sanh, đương xứ diệt tận” (sanh ra từ ngay chỗ này, diệt mất cũng ngay tại đó), “tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận theo lòng chúng sanh mà ứng hiện phù hợp với khả năng nhận biết của họ). Pháp vốn là như vậy, đừng nghĩ cảnh giới là chân thật. Nếu nghĩ là thật sự có chuyện ấy, quý vị đã nhìn lầm mất rồi, chẳng có chuyện ấy đâu! Nếu quý vị thấy thấu suốt chân tướng, lẽ nào chẳng tự tại! Thấy thấu suốt chân tướng, trong hết thảy cảnh giới, sẽ chẳng có ý niệm được – mất. Chúng sanh khổ sở là do lo được, lo mất. Trong cảnh giới, chúng ta không có được – mất, sẽ tự tại nhiều lắm! Hết thảy thụ dụng không gì chẳng tự tại. Tiếp theo đây, đại sư trích dẫn một đoạn Khởi Tín Luận để giảng.
(Diễn) Khởi Tín vân: “Nhất thiết chư pháp, duy y vọng niệm nhi đắc trụ trì”.
(演) 起信云:一切諸法,唯依妄念而得住持。
(Diễn: Khởi Tín Luận viết: “Hết thảy các pháp chỉ do nương vào vọng niệm mà được tồn tại liên tục”).
Khởi Tín Luận là “tông kinh luận” (bộ luận chuyên chú trọng giải thích cương lãnh, ý nghĩa chánh yếu của một bộ kinh, chứ không giải thích tỉ mỉ từng câu văn, từng từ ngữ), chuyên căn cứ trên sự chỉ dạy của đức Phật để giảng rõ cho chúng ta [tông chỉ Đại Thừa]. “Nhất thiết chư pháp” bao gồm các pháp thế gian và xuất thế gian, lục phàm pháp giới trong thế gian, tứ thánh pháp giới xuất thế gian, không chỉ bao gồm tứ thánh lục phàm, mà còn bao gồm Nhất Chân pháp giới, thảy đều “y vọng niệm nhi đắc trụ trì” (nương vào vọng niệm mà tồn tại liên tục). “Trụ” (住) có nghĩa là tồn tại, “trì” (持) có nghĩa là gìn giữ, cũng có nghĩa là liên tục. Hiện ra tướng tồn tại liên tục là do nương vào vọng niệm.
Nói tới chỗ này, chắc cũng có những vị muốn hỏi: “Trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư của Tây Phương Cực Lạc thế giới có vọng niệm, chúng con tin được, vì sao? Những người ở đó còn chưa đắc nhất tâm. Trong cõi Phương Tiện Hữu Dư cũng có vọng niệm, chúng con cũng tin tưởng, vì tuy họ đắc Niệm Phật tam-muội, nhưng chưa kiến tánh. Vấn đề nẩy sanh là từ cõi Thật Báo trở lên, há còn có vọng niệm ư?” Quý vị hãy nghĩ xem: Có [vọng niệm] hay là không? Sống trong cõi Thật Báo là hàng Bồ Tát đã kiến tánh, là Pháp Thân đại sĩ. Sơ Trụ Bồ Tát có vọng niệm hay không? Bốn mươi mốt phẩm vô minh mới phá được một phẩm, còn bốn mươi phẩm chưa phá, làm sao không có vọng niệm? Đẳng Giác Bồ Tát còn có một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, vẫn còn có vọng niệm! Viên mãn thành Phật sẽ chẳng có vọng niệm. Chẳng có vọng niệm lẽ ra không có tướng! Vì vậy, trong cảnh giới này, chúng ta mới thấy lòng từ bi của Phật đúng là vô duyên đại từ, đồng thể đại bi, vì sao? Ngài có năng lực phá trừ một phẩm sanh tướng vô minh cuối cùng, nhưng không phá. Vì sao không phá? Muốn ở trong mộng để làm Phật sự lớn lao, giúp người khác giác ngộ. Nếu Ngài phá thì “giác rồi ba cõi rỗng toang hoang”, Ngài còn giúp đỡ hết thảy chúng sanh mê hoặc điên đảo được nữa hay chăng? Chẳng giúp đỡ được!
Do vậy, Phật đạt đến cảnh giới thành Phật, Ngài tuyệt đối chẳng phá một phẩm vô minh, giữ lại, gọi là “lưu Hoặc”, giữ lại một phần, đó gọi là “thả chiếc bè Từ”. Giữ lại một phần thì mới có thể thị hiện thân tướng trong mười pháp giới, nên dùng thân nào để độ được, bèn thị hiện thân ấy. Trong khi ấy, có gọi là vọng tưởng hay chăng? Có thể nói là vọng tưởng, mà cũng có thể nói “chẳng phải là vọng tưởng”. Vì Ngài tự biết những vọng tưởng ấy, muốn giữ chúng lại. Ngài đã giác ngộ, những vọng tưởng ấy chẳng phải là vọng tưởng. Giống như quý vị nằm mộng, trong mộng hiện ra chẳng ít chuyện tốt lành, biết mình đang nằm mộng, chẳng bằng lòng thức giấc, giấc mộng ấy vẫn tiếp tục diễn ra, nhưng quý vị đã giác ngộ rồi, biết đang ở trong mộng, đấy là đã thật sự lìa khỏi mộng cảnh. Đấy là như trong kinh Đại Thừa thường nói: “Tức thế gian, nhi xuất thế gian” (ở ngay trong thế gian mà thoát khỏi thế gian), ở và lìa đồng thời, ở và lìa chẳng hai. Đấy là mặt tích cực nhất của Phật pháp, là cống hiến khôn sánh của Phật pháp dành cho hết thảy chúng sanh, chúng ta phải nhận thức. Đoạn tiếp theo là dựa trên lý luận để giảng:
(Diễn) Kim ký niệm không, sở vị: Bì ký bất tồn, mao tương an phụ, tự nhiên độc lâu phấn toái, Ngũ Ấm tiêu vong, tùng hữu sanh ngộ nhập Vô Sanh hĩ.
(演) 今既念空,所謂皮既不存,毛將安附,自然髑髏粉碎,五陰消亡,從有生悟入無生矣。
(Diễn: Nay niệm đã rỗng không, tức là nói: “Da đã chẳng còn, lông dính vào đâu?” Tự nhiên đầu lâu nát vụn, Ngũ Ấm mất tiêu. Từ có sanh bèn ngộ nhập Vô Sanh vậy).
Đây là Vô Sanh Pháp Nhẫn, chúng ta thường gọi nó là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Giảng theo nghĩa hẹp thì như kinh Nhân Vương đã nói, Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa, ba địa vị này là Vô Sanh Nhẫn Bồ Tát. Nếu giảng theo nghĩa rộng, tiêu chuẩn sẽ thấp hơn một chút: Từ Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên đã chứng được ít phần lý Vô Sanh, ngộ nhập Vô Sanh. Trong cảnh giới Tịnh Độ, chúng ta thường đọc bài Kệ Hồi Hướng có câu “hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh”, đấy là cảnh giới của Sơ Trụ trong Viên Giáo, là cảnh giới quý vị vừa mới chứng đắc Lý nhất tâm bất loạn. Nói cách khác, chưa chứng đắc Lý nhất tâm, hoa sen của quý vị chưa nở. Quý vị vãng sanh thế giới Cực Lạc vẫn ở trong hoa sen, hoa chưa nở mà! Ở trong ấy, lại tiếp tục dụng công không ngừng, chứng đắc Lý nhất tâm, hoa sẽ nở.
Trong ao bảy báu nơi cõi Tây Phương Cực Lạc thế giới, quả thật có hoa sen ấy, nó cũng chẳng phải là giả, trên mặt Sự thì nó có thật, nhưng quý vị phải hiểu Lý, Lý là gì? Hoa ấy là tâm hoa. Vì sao chẳng tỷ dụ hoa nào khác, mà cứ nhất định phải ví với hoa sen? Hoa sen là thanh tịnh, tâm quý vị vốn là thanh tịnh. Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn sẵn thanh tịnh”. [Hoa sen] nở là gì? Khai ngộ! Đại triệt đại ngộ, khi nào quý vị đại triệt đại ngộ cái tâm thanh tịnh, hoa sen bèn nở, chuyện là như vậy đó.
Nếu quý vị hỏi:Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, là cần phải bao lâu hoa sen ấy mới nở? Không nhất định! Đâu có nhất định! Quý vị đến đó một ngày bèn khai ngộ, hoa sẽ nở ngay trong hôm thứ nhất. Hai ngày mới khai ngộ thì hai ngày hoa sen mới nở. Quý vị vĩnh viễn chẳng khai ngộ, hoa sẽ vĩnh viễn chẳng nở, không nhất định! Nếu hiện thời chúng ta tâm khai ý giải, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là Thượng Phẩm Thượng Sanh, vì sao? Vừa sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới hoa liền nở, đó là Thượng Phẩm Thượng Sanh. Quý vị phải suy nghĩ: Vì sao cái tâm của chúng ta chẳng khai? Chẳng khai là vì quý vị có chướng ngại, chướng ngại là do quý vị không buông xuống được! Trong lòng vướng mắc quá nhiều chuyện, cho nên quý vị chẳng thể tâm khai ý giải. Quý vị chẳng biết tướng chân thật và hình dạng chân thật của hết thảy muôn hình vạn tượng là hư vọng, chẳng chân thật. Quý vị thấy thấu suốt đến mức độ ấy, sự gì, vật gì cũng chẳng thể vướng mắc quý vị được. Không bị vướng mắc chuyện gì, sẽ gọi là “buông xuống toàn thể”. Khi ấy mới là tâm khai ý giải, tâm quý vị thanh tịnh tự tại, vãng sanh thế giới Tây Phương bèn là Thượng Phẩm Thượng Sanh.
(Diễn) Hựu sanh tức niệm Phật chi tâm, vô sanh vị Vô Sanh chi lý.
(演) 又生即念佛之心,無生謂無生之理。
(Diễn: Lại nữa, sanh chính là cái tâm niệm Phật, vô sanh là lý Vô Sanh).
Đây là nói theo mặt Lý.
(Diễn) Tuy niệm tánh nguyên sanh diệt, ký do hữu niệm đắc nhập vô niệm, thị tùng sanh diệt đốn nhập Vô Sanh hĩ.
(演) 雖念性元生滅,既由有念得入無念,是從生滅頓入無生矣。
(Diễn: Tuy tánh của niệm vốn là sanh diệt, nhưng do hữu niệm mà nhập vô niệm, tức là từ sanh diệt mà nhanh chóng nhập Vô Sanh vậy).
Trong phần trên đã nói tới “đốn nhập”; ở đây cũng lại nói “đốn nhập”, hoàn toàn giống với cách nói của Khuy Cơ đại sư trong Thông Tán Sớ, đây là pháp môn cực viên, cực đốn. Nói thật ra, chúng ta muốn chứng được Pháp Thân đại sĩ trong một đời, quả thật chẳng dễ dàng; nhưng dùng pháp môn này, tôi chẳng dám nói chắc chắn là có thể đạt được, nhưng thưa quý vị, có khả năng thực hiện được, tùy thuộc vào dụng tâm, tinh tấn và công phu của mỗi người có đúng pháp, có đắc lực hay không? Bất cứ pháp môn nào khác cũng không có cách nào sánh bằng được!
Hiện thời, chúng ta niệm Phật là hữu niệm, dùng cái tâm sanh diệt để niệm Phật, niệm đến hoàn toàn thuần thục, sẽ nhập lý Vô Sanh. Hữu Sanh là gì? Vô Sanh là gì? Hữu Sanh là cái tâm năng niệm, cái thức năng niệm. “Thức tâm” là tâm phân biệt. Do nó là pháp hữu vi, nên có sanh, có diệt. Niệm đến mức kiến tánh thì tánh Niệm bất sanh bất diệt; đấy chính là như trong phần “thập phiên hiển Kiến” (mười phen chỉ cái Thấy) của kinh Lăng Nghiêm [đã chỉ rõ], tánh Niệm và tánh Thấy là một tánh, chứ không phải hai. Làm thế nào để từ hữu niệm đạt đến vô niệm? Đây là nói từ thức niệm (niệm bằng cái tâm ý thức) mà niệm cho tới kiến tánh. Hãy nhớ câu nói này trong phần trước: “Niệm không chân niệm” (niệm tới khi mọi đối đãi rỗng không, sẽ là chân niệm); do vậy mới có thể từ sanh mà nhập Vô Sanh. Dùng ý nghĩa của đoạn này để giải thích câu “sanh nhập Vô Sanh”, thì sẽ là từ cái tâm sanh diệt, niệm đến kiến tánh. Vô Sanh là kiến tánh, là bất sanh, bất diệt, phải “niệm không chân niệm” (niệm rỗng không mọi đối đãi, sẽ là chân niệm). Nói đơn giản, “niệm không” có nghĩa là thứ gì cũng buông xuống, thân tâm thế giới hết thảy đều buông xuống, đó là “niệm không”. Dùng chân tâm để niệm, sẽ tự nhiên từ sanh diệt mà niệm đến bất sanh bất diệt. Đạt đến bất sanh bất diệt là kiến tánh.
(Diễn) Niệm Phật niệm tâm giả.
(演) 念佛念心者。
(Diễn: Niệm Phật là niệm tâm).
Niệm Phật là niệm tâm. Gần đây nhất, có mấy vị đồng tu đến hỏi tôi: “Không có cách nào để giữ cho Phật hiệu liên tục không gián đoạn. Vì mỗi ngày phải làm việc, hễ làm việc sẽ chẳng thể niệm Phật hiệu được. Nếu vừa niệm Phật vừa làm việc, tâm sẽ có hai công dụng, chẳng làm trọn vẹn chuyện gì được, mà Phật hiệu cũng niệm chẳng tốt đẹp, chính mình gặp tầng tầng chướng ngại”. Đấy là do không hiểu rõ nghĩa kinh, nên mới xuất hiện rối loạn như vậy. Quý vị phải nhớ, niệm Phật thì “niệm” (念) là “kim tâm” (今心), tức cái tâm hiện tiền, Phật là giác. Cái tâm hiện tại của ta giác chứ không mê, đó là niệm Phật. Dùng giác tâm để làm việc, chuyện gì cũng làm viên mãn, chuyện gì cũng đều làm chu đáo, vì sao? Tâm của quý vị giác chứ không mê. Hễ tâm mê, mới điên đảo sự việc, khiến cho sự việc bị sai sót, tâm giác sẽ chẳng bị. Vì thế, niệm Phật là giác tâm, cái tâm hiện tiền là giác chứ không mê. Một câu Nam-mô A Di Đà Phật nhằm niệm cho tâm hết mê, vốn nhằm niệm sao cho giác tâm của quý vị khởi lên. Niệm cho [giác tâm] khởi lên để làm gì? Niệm cho [giác tâm] khởi lên để làm các việc trong cuộc sống thường ngày, để đãi người, tiếp vật, đó gọi là Phật pháp, là thật sự niệm Phật.
Đủ thấy niệm Phật là hữu dụng, chứ không phải là niệm vô ích. Nam-mô A Di Đà Phật, Nam-mô nghĩa là “quy y”, A Di Đà Phật là Vô Lượng Giác. Dịch hoàn toàn sáu chữ này sang nghĩa tiếng Hán, sẽ là “quy y Vô Lượng Giác”. “Quy” (皈) là trở về, từ đâu trở về? Từ mê hoặc, điên đảo mà trở về, từ hết thảy lầm lẫn mà quay đầu trở lại, nương tựa (y:依) vào đâu? Nương vào giác chứ không mê, nương vào chánh chứ không tà, nương vào tịnh chứ chẳng nhiễm, đó gọi là niệm Phật. Nếu không, suốt ngày từ sáng đến tối lần chuỗi, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, nhưng đãi người, tiếp vật, chuyện gì cũng mê hoặc, điên đảo, quý vị niệm Phật đã uổng công rồi. Đó là như cổ nhân đã nói “rách toạc cuống họng cũng uổng công”, phí công niệm rồi, chẳng niệm ra được giác tâm, không chuyển biến cảnh giới mê hoặc, điên đảo được, chuyển không được! Do vậy, phải nhận thức hai chữ “niệm Phật” chính là niệm cái tâm, Phật là cái tâm giác ngộ. Vì thế, niệm Phật là niệm tâm.
(Diễn) Ký đáo chân niệm điền địa, tắc kỳ niệm Phật dĩ vô năng sở.
(演) 既到真念田地,則其念佛已無能所。
(Diễn: Đã đạt đến cảnh giới chân niệm thì sự niệm Phật ấy không có Năng và Sở).
“Năng” là cái tâm có khả năng niệm. “Sở” là đức Phật được niệm. Nếu có Năng và Sở, thưa cùng quý vị, chính là có nhị tâm, nhị tâm là mê. Giác tâm là nhất tâm, nhất tâm là chân tâm. Xử sự, đãi người, tiếp vật, bất luận thuận cảnh hay nghịch cảnh, đều dùng chân tâm, đó là Giác. Vừa mới dấy lên phân biệt, vừa mới chấp trước một chút, tâm ấy đã mê, chẳng phải là giác. Mê bèn có khổ, giác sẽ được tự tại.
Khi đạt tới chân niệm, người ấy (hành giả) nhất định là nhất tâm hiện tiền, chân tâm hiện tiền. Trong chân tâm không có năng niệm hay sở niệm.
(Diễn) Năng niệm tâm ngoại, vô hữu Phật vi ngã sở niệm. Sở niệm Phật ngoại, vô hữu tâm năng niệm ư Phật. Trí ngoại vô Như, Như ngoại vô trí. Như, Trí bất nhị, danh niệm Phật tức thị niệm tâm dã.
(演) 能念心外,無有佛為我所念。所念佛外,無有心能念於佛。智外無如,如外無智,如智不二,名念佛即是念心也。
(Diễn: Ngoài cái tâm niệm Phật, không có đức Phật để ta niệm. Ngoài đức Phật được niệm, không có cái tâm niệm Phật. Ngoài trí không có Như, ngoài Như không có trí. Trí và Như chẳng hai, thì gọi là “niệm Phật chính là niệm tâm”).
Mấy câu này nói hết sức hay! Văn chương đơn giản, ý nghĩa hết sức rõ ràng! Do đây có thể biết người niệm Phật chúng ta tu những gì? Sở cầu của người niệm Phật là cầu chân tâm khởi tác dụng, cầu điều ấy. Trong kinh điển, danh xưng [của điều mong cầu này] là “nhất tâm bất loạn”. Tôi thay đổi danh từ thì mọi người sẽ dễ hiểu: Chân tâm khởi tác dụng chính là nhất tâm bất loạn. Nếu chân tâm chẳng khởi tác dụng, dẫu có đắc nhất tâm cũng uổng phí, chẳng có ích gì! Đã đắc nhất tâm, sẽ có Tự Thụ Dụng và Tha Thụ Dụng. Tự Thụ Dụng là thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần. Tha Thụ Dụng là đại từ đại bi. Tự Thụ Dụng và Tha Thụ Dụng chẳng trở ngại lẫn nhau.
Giống như Thích Ca Mâu Ni thuở còn tại thế, bốn mươi chín năm giảng kinh, thuyết pháp, đó là Tha Thụ Dụng, đại từ, đại bi, bản thân Ngài hết sức thanh tịnh. Từ tâm thanh tịnh mà nói thì trước nay Ngài chưa hề nói một chữ, chẳng thuyết pháp một câu, nói mà không nói. Nói là từ bi, là Tha Thụ Dụng; không nói là tự mình thanh tịnh, là Tự Thụ Dụng. Tự – Tha bất nhị. Đủ thấy rằng: Phật dùng nhất tâm, chẳng dùng nhị tâm. “Bản thân ta thanh tịnh. Ta giảng kinh, thuyết pháp cho người khác thì ta dùng nhị tâm”, vậy là sai rồi! Dùng nhị tâm sẽ bị chướng ngại, quý vị thuyết pháp nhất định chướng ngại sự thanh tu của chính mình, tự mình thanh tu nhất định sẽ chướng ngại hoằng pháp. Chỉ có nhất tâm, không nhị tâm, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Chúng ta phải hiểu đạo lý này, phải thấu hiểu tỉ mỉ sự thật này, càng nên nỗ lực học tập, khiến cho chính mình cũng có thể đạt đến cảnh giới ấy, sẽ đắc đại tự tại, quý vị mới thật sự thấu hiểu sự hưởng thụ, ý nghĩa của đời người, và giá trị của sanh mạng. Nếu không, tương lai là một bầu mờ mịt, tối tăm, thật
sự đáng thương!
Qua bộ kinh này, chúng ta thật sự có được chỗ chỉ quy, có được phương hướng. Trong phần trước, tôi đã có lần nhắc nhở quý vị: Một bộ kinh này là đủ rồi, chắc chắn có thể trị lành hết thảy bệnh tật, tập khí của chúng ta từ vô thỉ đến nay, chắc chắn có thể giúp cho chúng ta thành tựu Vô Thượng Đạo.
Quý vị dụng công, nhất tâm xưng niệm A Di Đà Phật, trọn đừng gián đoạn, trọn chẳng hoài nghi, sẽ thành công! Phương pháp đơn giản như vậy đó!
Hôm nay đã hết giờ rồi!
— o0o —
Tập 30
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang ba mươi bảy:
(Tự) Cái diêu niệm không chân niệm, sanh nhập vô sanh, niệm Phật tức thị niệm tâm.
(序) 蓋繇念空真念。生入無生。念佛即是念心。
(Tựa: Ấy là vì niệm rỗng rang mọi đối đãi sẽ là chân niệm, từ sanh tử nhập Vô Sanh, niệm Phật chính là niệm tâm).
Hôm qua chúng tôi đã giảng ba câu này, hôm nay lại tiếp tục đọc đoạn văn kế tiếp.
(Tự) Sanh bỉ bất ly sanh thử, tâm, Phật, chúng sanh nhất thể, trung lưu lưỡng ngạn bất cư, cố vị: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”.
(序) 生彼不離生此。心佛眾生一體。中流兩岸不居。故謂自性彌陀。唯心淨土。
(Tựa: Sanh về cõi kia chẳng lìa sanh trong cõi này. Tâm, Phật và chúng sanh cùng một Thể, chẳng ở giữa dòng và hai bên, nên nói: “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”).
Ý nghĩa được bao hàm trong đoạn tổng kết này hết sức sâu rộng, chúng ta nên đặc biệt chú ý, bất luận là đối với Giải hay Hạnh đều có ích rất lớn.
(Diễn) Sanh bỉ sanh thử giả, ký đáo vô sanh điền địa, tắc kỳ Tịnh Độ dĩ vô bỉ thử.
(演) 生彼生此者,既到無生田地,則其淨土已無彼此。
(Diễn: “Sanh cõi kia, sanh trong cõi này”: Đã đến địa vị Vô Sanh thì Tịnh Độ chẳng có đây hay kia).
Hai câu này là nói theo Lý, xác thực là như thế. Như trong phần trên đã nói, phải nhất tâm mới có thể chứng đắc Vô Sanh Nhẫn. Trong nhất tâm, không có phân biệt, không có chấp trước, không có vọng tưởng. Đã tách lìa hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, đâu còn có đây hay kia? Nếu có đây hay kia, sẽ là có phân biệt, có chấp trước, chẳng phải là nhất tâm, cũng chẳng phải là Tịnh Độ.
Chúng ta nhất định phải hiểu đạo lý này. Nói cách khác, công phu niệm Phật của chính mình có tiến bộ hay không, niệm Phật đắc lực hay không đều phải kiểm nghiệm từ chỗ này. Trong hết thảy cảnh duyên, tâm phân biệt của chúng ta có nhạt được mấy phần hay không, tâm chấp trước có nhẹ hơn so với quá khứ hay không. Từ chỗ này, mới có thể thấy được công phu.
Thế nhưng về mặt Sự, có Sa Bà hay không? Có Cực Lạc hay không? Có! Lý chẳng ngại Sự, Sự chẳng ngại Lý, Lý – Sự vô ngại. Niệm đến nhất tâm, Tây Phương là Tịnh Độ, cõi này cũng là Tịnh Độ, vì trong hết thảy cảnh giới, quý vị đều chẳng nhiễm trước, cho nên chẳng có một nơi nào chẳng phải là Tịnh Độ. Cũng có đồng tu hỏi: “Đã toàn là Tịnh Độ, ta cần gì phải về Tây Phương Cực Lạc thế giới?” Nếu quý vị khởi lên ý niệm ấy, chứng tỏ quý vị chưa chứng đắc Tịnh Độ. Vì sao? Quý vị vẫn còn phân biệt đây – kia, quý vị vẫn hoàn toàn chưa bỏ được vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.
(Diễn) Du thần ức sát, thật sanh hồ tự kỷ tâm trung.
(演) 遊神億剎,實生乎自己心中。
(Diễn: Thần thức ngao du ức cõi nước, nhưng thật sự sanh trong tâm của chính mình).
“Sát” (kṣetra) là sát-độ (cõi nước) của chư Phật, trên mặt Sự, quả thật là có. Chỉ cần quý vị chứng đắc nhất tâm sẽ có vô lượng vô biên thần thông, có thể trong khoảng khảy ngón tay, phân thân trong vô lượng vô biên cõi nước, vì vô lượng vô biên cõi nước chẳng tách rời cái tâm của chính mình, “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”.
(Diễn) Dựng chất cửu liên, phỉ đào hồ sát-na tế nội.
(演) 孕質九蓮,匪逃乎剎那際內。
(Diễn: Hoài thai trong sen chín phẩm, chưa đầy trong khoảng sát-na).
Sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là liên hoa hóa sanh. “Cửu liên” là hoa sen chia thành chín phẩm. Tùy thuộc mức độ công phu của mỗi người mà hiện ra sai khác. Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là chuyện trong khoảng một sát-na. Do vậy mới nói:
(Diễn) Bỉ tức thị thử, thử tức thị bỉ, bỉ thử vô phân, vân sanh bỉ bất ly sanh thử.
(演) 彼即是此,此即是彼,彼此無分,云生彼不離生此。
(Diễn: Kia chính là đây, đây chính là kia, đây – kia không chia cách, nên nói: “Sanh về kia, chẳng rời sanh nơi đây”).
Câu này có ý nghĩa rất sâu, mười phương thế giới quả thật chẳng hai, chẳng khác, một mực thanh tịnh, người vừa đắc Lý nhất tâm sẽ thấy cảnh giới này. Nó cũng là cảnh giới của Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Thế nhưng từ Sơ Trụ tiến đến quả địa (Phật quả), còn một khoảng cách khá dài. Trong tình hình ấy, tu học trong thế giới Tây Phương đặc biệt thuận tiện, thành tựu dễ dàng. Do vậy, hàng Bồ Tát trong mười phương thế giới, không vị nào chẳng chọn lựa thế giới Cực Lạc, đạo lý là ở chỗ này! Đây chính là nói: Trong hết thảy cảnh giới, tâm quý vị cố nhiên một mực bình đẳng, nhưng Tăng Thượng Duyên khác nhau. Thế giới Tây Phương có Tăng Thượng Duyên đặc biệt thù thắng, có thể giúp cho quý vị thành tựu vừa nhanh chóng, vừa ổn thỏa, thích đáng. Trong cảnh giới ấy, quyết định chẳng phân chia cõi này, cõi kia. Nếu vẫn còn có ý niệm ấy, sẽ chẳng phải là Lý nhất tâm bất loạn, chẳng phải là cõi Thật Báo Trang Nghiêm.
(Diễn) Tâm, Phật, chúng sanh nhất Thể giả.
(演) 心佛眾生一體者。
(Diễn: Tâm, Phật, chúng sanh là một Thể).
“Tâm, Phật, chúng sanh” ba thứ này hợp lại là toàn thể pháp giới, là tận hư không, khắp pháp giới. Tận hư không, khắp pháp giới là chính mình, là một, chẳng phải hai. “Tâm” là nói Lý Thể có thể biến (năng biến), Phật và chúng sanh đều do tâm biến.
(Diễn) Phật giả quả đức chi xưng, chúng sanh uế ác chi hiệu, tâm giả linh minh chi Thể.
(演) 佛者果德之稱,眾生穢惡之號,心者靈明之體。
(Diễn: Phật là danh xưng của quả đức, chúng sanh là tên gọi của uế ác, tâm là cái Thể linh minh).
“Linh minh chi Thể”: Khi giác ngộ sẽ gọi là Phật; lúc mê hoặc, điên đảo sẽ gọi là “chúng sanh”. “Phật” là nói đến tâm, tức giác tâm. “Chúng sanh” là nói về mê tâm, mê hay ngộ đều bởi nó. Chúng ta nay đang mê, chẳng ngộ.
Điều khẩn yếu nhất trước mắt là làm thế nào để phá mê khai ngộ, bỏ vọng, trở về với Chân.
(Diễn) Niệm Phật vị chí nhất tâm, tâm bất thị Phật, Phật bất thị sanh, phán nhiên bất nhất.
(演) 念佛未至一心,心不是佛,佛不是生,判然不一。
(Diễn: Niệm Phật chưa đạt đến nhất tâm thì tâm chẳng phải là Phật, Phật chẳng phải là chúng sanh, rành rành chẳng phải là một).
Nay chúng ta nói tới mười pháp giới, tứ thánh chẳng phải là lục phàm, lục phàm chẳng phải là tứ thánh, đây là cảnh giới của chúng ta trong hiện tại. Nếu chúng ta niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, sẽ tiến nhập cảnh giới chân thật.
(Diễn) Kim ký niệm Phật tức thị niệm tâm.
(演) 今既念佛即是念心。
(Diễn: Nay đã là “niệm Phật chính là niệm tâm”).
Đây mới là nhất tâm.
(Diễn) Tắc phản bổn hoàn nguyên.
(演) 則返本還源。
(Diễn: Thì là trở về cội nguồn).
“Bổn” là bổn tâm, bổn tánh. “Nguyên” là Bổn Giác. Khi “phản bổn hoàn nguyên”, tâm người ấy là nhất tâm. Trong nhất tâm chẳng có nhị niệm!
(Diễn) Bất kiến sanh, Phật giả danh.
(演) 不見生佛假名。
(Diễn: Chẳng thấy các giả danh “chúng sanh” và “Phật” nữa).
“Chúng sanh” và “Phật” là hai pháp, hai pháp chẳng phải là Phật pháp. Vì sao chẳng phải là Phật pháp? Phật pháp là giác pháp, hai chẳng phải là giác, mà là mê! Do vậy, nói “hai pháp chẳng phải là Phật pháp”. Giác nhất định là một, vì trong giác không có phân biệt, chấp trước; lìa hết thảy phân biệt, chấp trước mới là giác. Chấp trước hết thảy phân biệt là mê. “Chẳng thấy” là chẳng chấp trước, không còn có những kiến giải sai lầm nữa!
(Diễn) Duy nhất diệu minh, châu biến pháp giới.
(演) 惟一妙明,周遍法界。
(Diễn: Diệu minh duy nhất trọn khắp pháp giới).
Diệu minh chân tâm là nhất tâm; tâm ấy hết sức rộng lớn, tận hư không, trọn pháp giới đều là vật được hiện bởi diệu minh chân tâm. Do vậy nói “châu biến pháp giới” (trọn khắp pháp giới).
(Diễn) Dĩ tức Phật chi sanh, niệm tức tâm chi Phật, vô nhị tướng dã.
(演) 以即佛之生,念即心之佛,無二相也。
(Diễn: Dùng “chúng sanh vốn sẵn là Phật” ấy để niệm vị Phật ở ngay trong tâm thì không có hai tướng).
Đấy chính là như đã nói “niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”, niệm hay không niệm? Niệm chứ! Hằng ngày niệm Phật, trong mười hai
thời một câu Phật hiệu chưa hề gián đoạn; vì sao nói là vô niệm? “Vô nhị tướng” (không có hai tướng). Chẳng chấp vào cái tâm niệm Phật, mà cũng chẳng chấp nơi đức Phật được niệm. Chẳng những không chấp trước, mà ngay cả cái tâm phân biệt cũng chẳng có, khi ấy mới gọi là “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. Nhiếp trọn sáu căn là sáu quy về một, một tức là sáu, sáu tức là một, kinh Hoa Nghiêm nói là “nhất đa bất nhị” (một và nhiều chẳng hai), đấy là Thật Tướng chân chánh, là chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Tiếp đó, đại sư dạy chúng ta nguyên tắc trọng yếu trong dụng công:
(Diễn) Trung lưu lưỡng ngạn bất cư.
(演) 中流兩岸不居。
(Diễn: Chẳng ở giữa dòng hay hai bên bờ).
Hai bên đều không chấp trước, đấy mới là cảnh giới nhất tâm.
(Diễn) Khổ vực thị thử ngạn, lạc bang thị bỉ ngạn.
(演) 苦域是此岸,樂邦是彼岸。
(Diễn: Cõi khổ là bờ này, nước vui là bờ kia).
Chữ “thử” chỉ thế giới Sa Bà, chữ “bỉ” chỉ thế giới Cực Lạc. Nếu phàm phu chúng ta nhìn vào hai nơi này, quả thật là sướng – khổ thật khác biệt, hoàn toàn khác hẳn nhau; nhưng đối với người đã nhất tâm bất loạn, tức là nói người đã chứng Lý nhất tâm, họ thấy chúng đương nhiên chẳng khác gì nhau, hai bờ đều bình đẳng. Đấy chẳng phải là cảnh giới của chúng ta.
(Diễn) Phi khổ phi lạc thị trung lưu.
(演) 非苦非樂是中流。
(Diễn: Chẳng khổ chẳng sướng là giữa dòng).
Hai bờ đều phải buông xuống, mà giữa dòng cũng phải buông xuống luôn! “Trung lưu” tượng trưng cho Trung Đạo, chính là như câu nói: “Lưỡng biên bất lập, Trung Đạo bất tồn” (Hai bên đã chẳng lập thì Trung Đạo chẳng tồn tại). Vì quý vị rớt trong Trung Đạo, nên vẫn còn có trụ, tâm quý vị vẫn có chấp trước. Trong tâm còn có thứ gì đó thì vẫn chưa thanh tịnh. Trong kinh Bát Nhã có nói: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” (hãy nên chẳng trụ vào đâu mà sanh tâm). Quý vị vẫn trụ giữa dòng thì làm sao được? Quý vị vẫn trụ vào Trung Đạo, vẫn trụ trong Đệ Nhất Nghĩa Đế, vẫn chưa đúng, hãy nên không trụ vào đâu. Cảnh giới này tuy cao minh hơn phàm phu, cao minh hơn Nhị Thừa, nhưng người ấy chưa kiến tánh, chưa thể khai ngộ, vẫn còn có chướng ngại.
(Diễn) Niệm Phật vị chí nhất tâm.
(演) 念佛未至一心。
(Diễn: Niệm Phật chưa đạt đến nhất tâm).
Công phu chưa đạt được nhất tâm.
(Diễn) Trung lưu lưỡng ngạn, tiệt nhiên bất đồng.
(演) 中流兩岸,截然不同。
(Diễn: Giữa dòng và hai bờ khác nhau rành rành).
Giới hạn rõ ràng, rành mạch, nó có giới hạn. Giới hạn do đâu mà có? Từ phân biệt, chấp trước sanh ra. Cảnh giới ấy từ đâu mà hiện tiền? Từ ý niệm mà hiện tiền.
Khởi Tín Luận có nói: “Hết thảy các pháp đều lấy niệm làm Thể”, từ trong tâm niệm của chúng ta sanh ra.
(Diễn) Kim ký sanh bỉ bất ly sanh thử.
(演) 今既生彼不離生此。
(Diễn: Nay đã sanh về cõi kia, chẳng lìa sanh trong cõi này).
Tri kiến viên dung; nói “viên dung” chính là trong ấy không có giới hạn, lìa hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, đó mới là “tri kiến viên mãn, tri kiến viên dung”. Khi ấy…
(Diễn) Tắc bất kiến bỉ ngạn, bất kiến thử ngạn, tịnh bất kiến phi bỉ, phi thử chi trung lưu.
(演) 則不見彼岸,不見此岸,并不見非彼非此之中流。
(Diễn: Sẽ chẳng thấy bờ này hay bờ kia, trọn chẳng thấy là giữa dòng chẳng phải bờ này hay bờ kia).
“Bờ này, bờ kia, giữa dòng” nếu xét về sự tướng chắc chắn là có, chẳng thể nói không có những sự tướng này, nhưng trong tâm quý vị đừng vạch ra giới hạn. Nói cách khác, đối với thế giới Cực Lạc, quý vị không có Lạc Thọ, tâm quý vị thanh tịnh. Dẫu ở trong địa ngục A Tỳ, quý vị không có Khổ Thọ. Nếu chúng ta hỏi: Có địa ngục và thiên đường hay không? Có chứ! Cảnh giới ấy thật sự có, nhưng sự cảm nhận cảnh giới của quý vị như nhau, sự cảm nhận của quý vị [đối với Cực Lạc và địa ngục] giống hệt nhau, cũng tức là khổ, lạc, ưu, hỷ, xả quý vị đều chẳng nhận thấy, tâm thanh tịnh lắm! Chẳng phải là không có cảnh giới, cảnh giới là có, Sa Bà và Cực Lạc là có, nhưng trong thế giới Sa Bà, quý vị không có Khổ Thọ, trong thế giới Cực Lạc cũng chẳng có Lạc Thọ; thậm chí cảm nhận “chẳng khổ, chẳng vui” cũng chẳng có. Thật sự tự tại, đó gọi là Chánh Thọ, là Niệm Phật tam-muội, là nhất tâm bất loạn.
Đại sư trích dẫn một bài thơ của cổ đức, trong bài thơ này ẩn chứa Thiền cơ rất vi diệu, có thể dùng làm cước chú cho câu này.
(Diễn) Cổ vân: “Hải tạng đa la nhất diệp châu”.
(演) 古云:海藏多羅一葉舟。
(Diễn: Cổ nhân nói: “Biển cả Đa La một lá thuyền”).
Đây là tỷ dụ, trong biển cả có một chiếc thuyền nhỏ. “Đa La” chính là cây Bối-đa-la, chữ “nhất diệp” hình dung sự vật không lớn, là một chiếc thuyền nhỏ.
(Diễn) Bất cư lưỡng ngạn, bất trung lưu.
(演) 不居兩岸不中流。
(Diễn: Giữa dòng đôi bến đều không trụ).
Thuyền ấy ở đâu? Chẳng nương tựa vào hai bờ, mà cũng chẳng ở giữa dòng. Trước kia, điều này thật là chẳng thể nghĩ bàn, nhưng hiện thời chẳng hiếm lạ gì hết, phi thuyền đấy. Phi thuyền trong vũ trụ chẳng ở hai bờ, mà cũng chẳng ở giữa dòng.
(Diễn) Nhất cao xanh xuất hư không ngoại, nhạ đắc xuân phong tiếu điểm đầu.
(演) 一篙撐出虛空外,惹得春風笑點頭。
(Diễn: Một sào chống vượt ngoài trời thẳm, cười đón gió Xuân khẽ gật đầu).
Cảnh giới so ra còn cao hơn điều chúng ta vừa mới nói. Là vì trong hiện thời, phi thuyền của chúng ta vẫn còn ở trong hư không, vẫn chưa vượt thoát hư không. chiếc thuyền này có thể vượt khỏi hư không, chẳng thể nghĩ bàn! Bài thơ này hình dung cảnh giới Lý nhất tâm bất loạn, tâm địa thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, không chỉ chẳng nhiễm lục phàm, mà ngay cả cảnh giới tứ thánh cũng chẳng nhiễm, vượt thoát cảnh giới ấy. Vượt thoát tứ thánh lục phàm, đấy là [vượt thoát] mười pháp giới, vậy thì nó ở đâu? Bất đắc dĩ phải đặt ra một giả danh là Nhất Chân pháp giới. Trong pháp môn Tịnh Độ, nó được gọi bằng danh xưng Thường Tịch Quang Tịnh Độ, và cõi Thật Báo Trang Nghiêm thuộc vào cảnh giới này.
Nói cách khác, tuyệt đối chẳng phải là cõi Đồng Cư hay cõi Hữu Dư. Thế nhưng thế giới Cực Lạc kỳ diệu, kỳ diệu ở chỗ chúng sanh trong cõi Đồng Cư nghiễm nhiên cũng được thụ dụng [như trong các cõi Tịnh Độ phía trên], thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, pháp khó tin là ở chỗ này. Đoạn này đã nêu lên đại ý của lời tựa, xin xem tiếp đoạn Sớ kế đó:
(Sớ) Thừa thượng thù nhân diệu quả, chánh diêu niệm Phật chí ư nhất tâm.
(疏) 承上殊因妙果,正繇念佛至於一心。
(Sớ: Nhân thù thắng, quả mầu nhiệm như được nói trên đây chính là do niệm Phật đạt đến nhất tâm).
Hy vọng mọi người nhớ kỹ câu này, “nhân” là tu nhân, quý vị tu cái nhân hết sức thù thắng, “quả” là quả báo, tức là hai đoạn văn của lời Tựa trong phần trước. “Thù nhân diệu quả” đều do niệm Phật đến mức nhất tâm bất loạn [mà có].
(Sớ) Tắc niệm cực nhi không, vô niệm chi niệm, vị chi chân niệm.
(疏) 則念極而空,無念之念,謂之真念。
(Sớ: Tức là niệm đến cùng cực thì rỗng không, vô niệm mà niệm nên gọi là “chân niệm”).
Ý nghĩa trong câu này khá sâu xa.
(Diễn) Niệm cực nhi không, ước tu biên thuyết.
(演) 念極而空,約修邊說。
(Diễn: Niệm đến cùng cực thì rỗng không là nói theo phương diện tu tập).
“Ước tu biên thuyết” là nói theo phương diện tu hành. Niệm đến cùng cực, sẽ rỗng không. Rỗng không điều gì vậy? Năng niệm (chủ thể niệm Phật, tức cái tâm niệm Phật) và sở niệm (đức Phật được niệm) đều buông xuống. Nói cách khác, niệm cho mất tâm ý thức. “Không”, không điều gì? Rỗng không tâm ý thức. Tâm ý thức chẳng còn nữa, nhất tâm hiện tiền, đúng như trong Lăng Nghiêm Chánh Mạch, Giao Quang đại sư đã nói “dùng Căn bỏ Thức”, trong Duy Thức Học nói là “chuyển Thức thành Trí”. Một câu Phật hiệu thật sự có tác dụng lớn như vậy sao? Thưa quý vị, chẳng giả một tí nào! Vấn đề là quý vị có biết dùng hay không? Biết dùng, chắc chắn sẽ thành tựu. Sự thành tựu ấy giống như trong kinh đã nói, là sự thành tựu tuyệt vời, tức là một đời thành Phật.
Chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối khởi tâm động niệm, quý vị nghĩ xem những ý niệm ấy có phải là tâm phân biệt, tâm chấp trước hay chăng? Tâm phân biệt là thức thứ sáu, tức Ý Thức. Tâm chấp trước là thức thứ bảy, tức Mạt Na Thức. Khi phân biệt, chấp trước vừa mới hiện tiền, ngay lập tức đổi chúng thành A Di Đà Phật, quyết định chẳng để cho phân biệt, chấp trước tiếp nối, đó gọi là công phu, là “chuyển Thức thành Trí”. Chẳng dùng cái tâm phân biệt, thì cái tâm được quý vị sử dụng đúng là thứ gì cũng đều hiểu rõ, quyết định chẳng phải là nói: “Ta không dùng cái tâm phân biệt, mắt ta sẽ thấy ngoại cảnh mờ mịt”, không có hiện tượng ấy! Quý vị dùng cái tâm phân biệt, thấy hết thảy sắc tướng bên ngoài là thấy bằng Ý Thức, tức thức thứ sáu, là dùng Nhãn Thức để thấy. Quý vị không dùng cái tâm phân biệt, sẽ thấy sắc tánh ở bên ngoài, đó gọi là Diệu Quán Sát Trí. Chúng ta không có năng lực chuyển Thức thành Trí thì dùng một câu Phật hiệu A Di Đà Phật này để giúp chúng ta chuyển Thức thành Trí, đấy đúng là mầu nhiệm đến tột cùng vậy! Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, chẳng tìm được pháp nào khác mầu nhiệm như thế!
Trong hết thảy cảnh giới, vừa mới khởi chấp trước, phải biết chấp trước là Mạt Na Thức, ý niệm ấy vừa khởi lên, lập tức chuyển nó thành A Di Đà Phật, chẳng để cho vọng niệm tiếp nối. Vì có chấp trước thì hết thảy pháp đều chẳng bình đẳng. Tách lìa hết thảy chấp trước, có pháp nào chẳng bình đẳng? Tôi vừa mới nói, Tây Phương và Sa Bà bình đẳng. Vì sao? Trong thế giới Tây Phương, quý vị không có Lạc Thọ, trong cõi này không có Khổ Thọ, sự cảm nhận của quý vị là bình đẳng, Bình Đẳng Trí hiện tiền. Sự bình đẳng ấy là bình đẳng thật sự, vì sao? Trong thế giới Cực Lạc, lầu gác bảy báu, vàng ròng làm đất là do thức tâm của chính mình biến thành. Cảnh giới hiện tiền của chúng ta, bùn, cát, ngói, sạn, cũng do thức tâm của chính mình biến ra. Nói cách khác, Năng Biến (chủ thể biến hiện) chẳng khác gì nhau. Năng Biến giống nhau thì cảnh giới được biến khác nhau ở chỗ nào? Năng – Sở không hai! Hiện thời, các nhà khoa học cũng dần dần hiểu rõ đạo lý này, khoa học xương minh sự lý giải trong Phật pháp, quả thật đã giúp ích rất lớn, chúng ta mới thật sự hiểu rõ vạn pháp quả thật là nhất như (giống hệt như một), là không hai. Vì vậy, trong hết thảy cảnh giới, chớ nên khởi lên phân biệt, chấp trước. Đấy là niệm đến chỗ cùng cực thì phân biệt, chấp trước, vọng tưởng đều rỗng không, đoạn sạch toàn bộ.
(Sớ) Hựu niệm Thể bổn không.
(Diễn) Niệm Thể bổn không, ước tánh biên thuyết.
(疏) 又念體本空。
(演) 念體本空,約性邊說。
(Sớ: Lại nữa, Thể của niệm vốn là không.
Diễn: Thể của niệm vốn là không là ước theo phương diện Tánh để nói).
Câu này nói theo phương diện thể tánh. Thể của “niệm” là chân tâm, trong chân tâm chẳng có một vật, Lục Tổ nói “vốn chẳng có một vật”, do vậy nói là “bổn không”. Chữ Không này với chữ Không trong câu “niệm cực nhi không” (do niệm đến cùng cực bèn rỗng không) có ý nghĩa khác nhau. Chữ Không trong phần trước nên hiểu là Vô (không có), còn Không ở đây là Hữu, chứ không phải là Vô. Tâm Kinh đã dạy: “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc, Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc”, [chữ Không trong đoạn Sớ “niệm Thể bổn không” này] giống như chữ Không trong Tâm Kinh, chẳng thể hiểu là Vô, mà là Hữu. Vì sao lại nói Có là Không? Vì nó không có dấu vết, hình tướng. Nó là Chân Hữu, không có dấu vết, hình tướng, lục căn của chúng ta không có cách nào tiếp xúc được, mắt nhìn chẳng thấy, tai nghe chẳng thấu, ngay cả tâm nghĩ cũng chẳng thể nghĩ được.
Do nó không có tưởng, nên không có ý niệm, vậy thì nó có hay là không? Có chứ! Tận hư không, trọn pháp giới đều do nó biến hiện ra. Do vậy, Không này là Chân Không.
(Sớ) Niệm thật vô niệm, danh chân niệm dã.
(疏) 念實無念,名真念也。
(Sớ: Niệm thật sự là vô niệm, nên gọi là “chân niệm”).
Ở chỗ này thuyết minh, giải thích “chân niệm” theo hai phương diện (Tánh và Tu), hy vọng chúng ta thật sự hiểu rõ niệm Phật như thế nào mới là chân niệm.
(Diễn) Vô niệm chi niệm, thị chung nhật vô niệm, chung nhật niệm Phật dã.
(演) 無念之念,是終日無念,終日念佛也。
(Diễn: Niệm trong vô niệm là suốt ngày vô niệm mà suốt ngày niệm Phật).
“Chung nhật vô niệm” (suốt ngày vô niệm) là không có vọng niệm, chứ chẳng phải là không niệm Phật. Suốt ngày vô niệm. À! Phật cũng không niệm! Suốt ngày từ sáng đến tối khởi vọng tưởng, quý vị nghĩ xem có đúng hay chăng? “Vô niệm” là không có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, không có những ý niệm ấy, chỉ có những ý niệm gì? Chỉ có Phật niệm (ý niệm nghĩ đến Phật), suốt ngày từ sáng đến tối là A Di Đà Phật. “Chung nhật niệm Phật” (suốt ngày niệm Phật), một câu Phật hiệu quyết định chẳng gián đoạn giữa chừng. Người mới học quả thật chẳng dễ gì đạt đến cảnh giới này, điều này cần phải có hằng tâm, phải có nghị lực. Lũ chúng ta công phu chưa thể thành tựu, nói thật ra là giải đãi, phóng dật, đấy là nghiệp chướng, đấy là tội chướng, khiến cho công phu của chúng ta chẳng thể thành tựu, thường xuyên quên mất Phật hiệu. Hiện thời, công cụ khoa học phát triển, chúng ta hãy nên tận hết sức lợi dụng, thuận tiện nhất là máy thâu âm, quý vị thường xuyên mở máy niệm Phật nhằm nhắc nhở chính mình. Hiện thời, máy thâu âm rất thuận tiện, có thể giúp nhắc nhở chúng ta. Phật hiệu chỉ cần liên tục không gián đoạn, vọng niệm tự nhiên chẳng thể dấy lên; trong tâm không có Phật hiệu, vọng niệm nhất định khởi lên. Ví như dùng TV, quý vị vẫn phải xem, vẫn phải ngồi ở chỗ ấy, còn máy thâu âm cỡ nhỏ đem theo mình, đi, đứng, nằm, ngồi đều chẳng trở ngại, đúng là thuận tiện tột bậc! Do vậy, đối với những công cụ khoa học ấy, có rất nhiều thứ chúng ta có thể lợi dụng nhằm giúp chúng ta niệm Phật. Chúng ta phải biết điều này: Thế nào là vô niệm? Thế nào là niệm Phật? Nhất định phải hiểu rõ ý nghĩa!
(Diễn) Niệm thật vô niệm, thị chung nhật niệm Phật, chung nhật vô niệm dã.
(演) 念實無念,是終日念佛,終日無念也。
(Diễn: Niệm mà thật sự vô niệm là suốt ngày niệm Phật, mà suốt ngày vô niệm).
Suốt ngày từ sáng đến tối chẳng có vọng niệm, công phu đạt đến cùng cực thì tuy suốt ngày từ sáng đến tối miệng niệm một câu Phật hiệu, sáu chữ hồng danh rõ ràng, rành mạch, phân minh, nhưng có phân biệt, chấp trước hay chăng? Chẳng có! Ngay cả phân biệt, chấp trước đối với câu Phật hiệu cũng chẳng có, đó là đạt đến nhất tâm bất loạn. Nếu một câu Phật hiệu vẫn có phân biệt, chấp trước, nhưng hết thảy những vọng niệm khác chẳng còn, thì gọi là “công phu thành phiến”, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, quyết định vãng sanh. Chúng ta niệm Phật, trước hết là phải cầu thành tựu giai đoạn này, đây là thành tựu thuộc giai đoạn thứ nhất. Chúng ta chấp trì danh hiệu, phân biệt, chấp trước danh hiệu ấy, buông hết phân biệt, chấp trước nơi những chuyện thế gian và xuất thế gian khác xuống. Đó là công phu thành phiến. Tuy xét theo Tịnh Độ để luận thì công phu này chẳng phải là cao minh gì, nhưng đã có thể đạt được “biết trước lúc mất, sanh tử tự tại”. Sau khi đã đạt đến giai đoạn này, thọ mạng và cái thân nghiệp báo của chúng ta còn chưa hết thì có thể dốc sức lợi dụng thời gian còn lại để nâng công phu của chính mình lên cao hơn nữa, nâng đến mức nhất tâm bất loạn, đừng ngưng lại trong cảnh giới [công phu thành phiến] này, như vậy mới là tốt!
(Diễn) Hựu thử nhị nghĩa, diệc nãi tương tu.
(演) 又此二義,亦乃相須。
(Diễn: Lại nữa, hai nghĩa này cũng bổ trợ lẫn nhau).
“Tương tu” là phụ trợ lẫn nhau, thành tựu lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau.
(Diễn) Do niệm cực nhi không, phương tri niệm Thể bổn không, công phu bất đáo, bất ngộ bổn thể dã.
(演) 由念極而空,方知念體本空,工夫不到,不悟本體也。
(Diễn: Do niệm đến tột cùng bèn rỗng không [mọi ý niệm đối đãi], mới biết Thể của niệm là Không, do công phu chưa đạt nên chẳng ngộ bổn thể).
Thiền gia gọi “ngộ bổn thể” là “minh tâm kiến tánh, đại triệt, đại ngộ”, Tịnh Độ gọi là “Lý nhất tâm bất loạn”. Chẳng phải là cậy vào suy nghĩ loạn xạ mà hòng đạt được điều này! Nhất định phải là công phu đến tuyệt mức mới đạt được. Công phu đã đến tuyệt mức thì như trong phần trước tôi đã thưa cùng quý vị, phải buông xuống, phải xả! Hễ có một chuyện nào chưa buông xuống được, sẽ đều là chướng ngại nghiêm trọng, chúng ta nhất định phải nhận thức rõ ràng điều này. Bản thân chúng ta tu hành chẳng thể thành tựu, đừng nói là nhất tâm bất loạn, ngay cả công phu thành phiến cũng chưa đạt được, nguyên nhân là vì đâu? Không buông xuống được! Đây là căn bệnh lớn của chúng ta. “Không buông xuống” là căn bản của sanh tử luân hồi. Nếu muốn vượt thoát sanh tử luân hồi, phải buông xuống, quyết định chẳng tham ái hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian.
Kinh đã nói rất hay: “Ái bất trọng, bất sanh Sa Bà” (Ái chẳng nặng, chẳng sanh trong Sa Bà). Sa Bà là lục đạo luân hồi. Vì sao có lục đạo luân hồi? Tham ái quá nặng, “niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” (niệm chẳng nhất chẳng sanh Tịnh Độ), “nhất” là nhất tâm. Tuy công phu thành phiến chưa đạt đến nhất tâm, chẳng phải là nhất tâm thật sự, nhưng đã gần với nhất tâm, đó là tương tự nhất tâm; do vậy, người ấy cũng có thể sanh về Tịnh Độ. Vì thế, chẳng xả, chẳng buông xuống thì chúng ta lại bỏ uổng một đời này!
Học Phật, nghe kinh, niệm Phật, nếu chẳng thể thật sự buông hết thảy thân tâm thế giới xuống thì cũng giống như đợi đến đời sau để tiếp tục làm [những chuyện nghe kinh, niệm Phật này], vì sao? Không có cách nào vượt thoát luân hồi, không có cách nào vãng sanh Tịnh Độ. Cũng có vị hỏi: “Đời sau có phải là tiến bộ hơn đời này hay chăng?” Chưa chắc! Cũng có trường hợp mê hoặc hơn đời này, vì sao biết? Là vì quý vị hiện đang ở nơi đây, quý vị ngồi nghe kinh một tiếng rưỡi ở nơi đây, chẳng phải là đời này quý vị mới học Phật. Nhiều đời nhiều kiếp trước, đời đời kiếp kiếp quý vị đều học Phật, trong vô lượng kiếp, thân cận chư Phật Như Lai, chẳng biết đã thân cận bao nhiêu! Thân cận chư Phật Như Lai nhiều ngần ấy, mà ngày nay vẫn tệ như thế này, vì sao? Vì quý vị không buông xuống được! Thân cận Phật có ích gì? Không buông xuống được thì có ích gì? Trong lòng vướng mắc quá nhiều chuyện, ta chẳng nỡ lòng buông xuống. Nói cách khác, lục đạo sanh tử khổ dường ấy, ta chẳng nỡ lòng lìa khỏi, còn có cách nào nữa đây? Thế giới Cực Lạc dẫu tốt đẹp, mong đến đó, nhưng chẳng nỡ lòng bỏ nơi đây. Tâm trạng chẳng nỡ lòng ấy khiến cho quý vị đời đời kiếp kiếp sanh tử luân hồi, vĩnh viễn không lúc nào xong, đó là vô minh, là ngu si, là nghiệp chướng, là tình thức!
Phật pháp là phải chuyển biến tình thành trí huệ. Nói tới trí huệ thì nó là cảm tình được vận dụng bằng lý trí. Tình là trí huệ ngu si, trí huệ đã bị mê muội! Nay quý vị không buông xuống được, chẳng nỡ lòng, thương xót người khác, mong giúp đỡ người khác, nhưng bản thân quý vị không có năng lực. Nay tạm thời rời khỏi họ, học lấy bản lãnh thành Phật, thành Tổ; sau khi đã học thành một thân bản lãnh, sẽ thả chiếc bè Từ giúp đỡ họ, như vậy thì mới thật sự đạt được hiệu quả. Do vậy, chúng ta chẳng cầu giải thoát ngay trong đời này, muốn chờ đến bao giờ? Đời này chẳng vãng sanh, quý vị còn đợi đến đời nào? Huống chi, đời đời kiếp kiếp chưa chắc có nhân duyên gặp được Phật pháp, càng khó gặp chánh pháp hơn nữa, thật sự chẳng dễ dàng đâu nhé!
Có nhiều đồng tu học Phật, có những vị tôi gặp mặt lần đầu, tôi hỏi họ: “Quý vị đã học Phật đã bao lâu rồi?” Họ nói: “Tôi học đã mấy năm rồi!” “Có nghe kinh hay chưa?” Có! Nghe kinh ở đâu? Tại Hành Thiên Cung, tại miếu Ma Tổ[80], đủ thấy chánh pháp chẳng dễ gì gặp được! Họ cũng ngỡ đó là học Phật. Nhất Quán Đạo[81] cũng giảng kinh Kim Cang, cũng giảng Tâm Kinh. Lần trước tôi có kể với quý vị rồi đó, có một đồng tu gởi cho tôi xem một cuốn chú giải kinh Kim Cang và chú giải Tâm Kinh. Những bản chú giải ấy đúng là “nói nhăng, nói cuội”! Kinh văn thì không sai, nhưng những lời giảng của họ hoàn toàn chẳng phải là nói về những chuyện ấy, còn làm sao được nữa! Tạo tội nghiệp quá nặng, đoạn tuyệt Pháp Thân huệ mạng của hết thảy chúng sanh. Do đây có thể biết: Chánh pháp chẳng dễ gì gặp được! Sau khi đã gặp, muốn công phu đạt mức, nhất định phải buông xuống hết thảy. Do vậy, trong pháp tu hành của Bồ Tát, điều thứ nhất là Bố Thí, ý nghĩa của Bố Thí là xả, là buông xuống. Trong tâm đối với bất cứ chuyện gì cũng đều không vướng mắc, Bố Thí Ba La Mật bèn viên mãn. Buông xuống viên mãn sẽ khai ngộ, tức là đạt đến nhất tâm bất loạn. Đấy là nói công phu đến mức, quý vị sẽ có thể khai ngộ.
(Diễn) Hựu do niệm Thể bổn không, phương đắc niệm cực nhi không.
(演) 又由念體本空,方得念極而空。
(Diễn: Lại do Thể của niệm vốn là Không, nên mới niệm tới mức cùng cực sẽ rỗng không các ý niệm đối đãi).
Đây là nói tới sự bổ trợ lẫn nhau, thành tựu lẫn nhau. Nay chúng ta hiểu rõ đạo lý này, biết trong chân tâm chẳng có một vật gì, Lục Tổ nói “vốn chẳng có một vật”, như vậy thì chúng ta mới chịu buông xuống. Chẳng hiểu rõ đạo lý này, muốn tôi buông xuống thì vì sao phải buông xuống? “Vì sao tôi phải bỏ? Tôi bỏ thì anh sẽ được!” Người ấy chẳng tin tưởng! Thật sự hiểu rõ lý rồi, mới biết buông xuống có nhiều điều tốt đẹp dường ấy, có lợi ích nhiều ngần ấy, nên mới chịu buông xuống, cũng đúng như cổ đức đã nói: “Hảo sự chẳng bằng vô sự”. Làm chuyện tốt cũng phải buông xuống, không buông xuống sạch sành sanh, [sẽ cảm thấy] ta còn có bao nhiêu chuyện tốt chưa làm, còn có vướng mắc, dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng, chẳng thật sự đoạn được chuyện gì hết! Vô sự là thật sự đoạn!
Vì thế, một chiêu của Bàng cư sĩ quả thật đã giáng một gậy vào đầu chúng ta. Ông ta là một vị đại phú trưởng giả, vàng bạc, của cải nhiều ngần ấy không dùng làm chuyện tốt, mà đem vứt hết xuống nước, thảy đều chẳng cần tới nữa. Đó gọi là “nhổ cỏ nhổ sạch cả rễ”, chẳng vướng mắc tí ti nào! Nếu phát tâm làm chuyện tốt, đến khắp nơi bố thí, quý vị hãy nghĩ xem: Há chẳng phải là ngó gãy mà tơ còn vương, chẳng phải là hết sạch sành sanh! Xả thì phải xả sạch sành sanh, phải xả thật thống khoái, đấy mới thật sự là tấm gương tốt nhất cho người tu hành. Cách hành trì của Ngài là hiện thân thuyết pháp, Ngài làm cho chúng ta xem, khiến cho chúng ta giác ngộ: Làm như vậy mới là buông xuống, mới là bố thí, mới thật sự là “một điều xong, trăm điều đều xong”, khó trách người ta thành đạo! Chúng ta hiểu được đạo lý này, chúng ta thật sự chịu làm. Do vậy, Lý có thể giúp cho công phu, lý giải có thể giúp cho quý vị tu hành. Công phu tu hành lại có thể giúp cho quý vị lý giải. Bổ trợ lẫn nhau, thành tựu lẫn nhau!
(Diễn) Bổn thể bất không, túng niệm bất không dã.
(演) 本體不空,縱念不空也。
(Diễn: Bổn thể chẳng không, dẫu niệm vẫn chẳng không).
Nói hai câu này vì sợ quý vị lại chấp Không. Phần trên nói: “Hựu do niệm Thể bổn không, phương đắc niệm cực nhi không” (Lại do Thể của niệm vốn là Không nên mới có thể niệm đến cùng cực bèn rỗng không). Không và Bất Không là một, chẳng phải hai. Nếu có một cái Không, sẽ lại có một cái Bất Không. Quý vị lại nghĩ chúng là hai pháp, hai pháp là trật mất rồi! Hai pháp: Do phân biệt mới có hai, chẳng phân biệt đâu còn có hai? Tách rời hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, Không và Bất Không đều cũng chẳng thể được, đó mới gọi là “chân niệm”.
Nói tới chỗ này, tôi lại tổng kết mấy câu này. Chân thật niệm Phật là dùng cái tâm thanh tịnh để niệm Phật. Nếu trong tâm quý vị còn có tơ hào vướng mắc, chẳng gọi là chân thật niệm Phật, tiêu chuẩn này quá cao! Hiện thời chúng ta đả Phật thất, suốt ngày niệm từ sáng đến tối vẫn chưa phải là niệm Phật chân thật, vì luôn có vướng mắc. Ở chỗ này, tổ sư dạy chúng ta tiêu chuẩn niệm Phật chân thật. Ai là người chân thật niệm Phật? Người đắc Lý nhất tâm bất loạn là chân thật niệm Phật. Khi nào chúng ta có công phu niệm Phật đạt mức, niệm đến chỗ thấy được bản thể, thì niệm Phật từ đó trở đi mới gọi là “chân thật niệm”. Nói cách khác, từ Sơ Trụ trong Viên Giáo cho đến Đẳng Giác Bồ Tát gồm bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, mỗi vị ấy đều là người chân thật niệm Phật, vì họ phù hợp với tiêu chuẩn này.
Câu tiếp theo giảng về Vô Sanh Nhẫn, “sanh bỉ bất ly sanh thử” (sanh về cõi kia, chẳng rời sanh trong cõi này), giảng cho chúng ta vấn đề này.
(Sớ) Sanh vô sanh giả, đạt sanh Thể bất khả đắc, tắc sanh nhi bất sanh, bất sanh nhi sanh, thị danh “dĩ niệm Phật tâm nhập Vô Sanh Nhẫn”, như hậu Giáo Khởi trung biện.
(疏) 生無生者,達生體不可得,則生而不生,不生而生,是名以念佛心入無生忍,如後教起中辯。
(Sớ: “Sanh mà vô sanh”: Thông đạt Thể của sanh là “chẳng thể được” thì sanh mà chẳng sanh, chẳng sanh mà sanh. Đó gọi là dùng cái tâm niệm Phật để nhập Vô Sanh Nhẫn, như trong phần Giáo Khởi Nhân Duyên thuộc đoạn sau sẽ luận định).
Tương lai, trong tiểu đoạn “giáo khởi nhân duyên” (nhân duyên phát khởi giáo pháp này) thuộc phần Huyền Nghĩa sẽ thảo luận cặn kẽ hơn, ở đây chỉ nói đại lược. Trong sách Diễn Nghĩa cũng có một đoạn chú giải [câu này].
(Diễn) Đạt sanh thể bất khả đắc giả.
(演) 達生體不可得者。
(Diễn: “Thông đạt Thể của sanh chẳng thể được” là…)
“Đạt” (達) là thông đạt. Thật sự thông đạt bản thể của Sanh là chẳng thể được. Điều này có nghĩa là gì? Ở đây giải thích đơn giản [như sau].
(Diễn) Do tâm không cố.
(演) 由心空故。
(Diễn: Do tâm rỗng không).
Vốn chẳng có một vật.
(Diễn) Đại địa bình trầm, hư không phấn toái, thôi cầu Ngũ Ấm, sắc, tâm, liễu bất khả đắc dã.
(演) 大地平沉,虛空粉碎 ,推求五陰色心,了不可得也。
(Diễn: Đại địa chìm lỉm, hư không nát vụn như bột, suy lường, tìm cầu Ngũ Ấm, sắc, tâm, trọn chẳng thể được).
Thoạt nhìn bề ngoài, mấy câu này rất đơn giản, rõ ràng, nhưng ý nghĩa quá sức sâu xa. Trong kinh Kim Cang cũng có ý nghĩa này; tuy có cùng một ý nghĩa, nhưng cách nói khác nhau. Kinh Kim Cang nói: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc” (Tâm quá khứ chẳng thể được, tâm hiện tại chẳng thể được, tâm vị lai chẳng thể được). Nếu quý vị biết ba tâm đều chẳng thể được, sẽ ngộ nhập lý Chân Không. Nói theo cách bây giờ, hết thảy động vật, thực vật, khoáng vật đều do “Ngũ Ấm, sắc, tâm” biến hiện.
Do vậy, A La Hán chứng đắc Cửu Thứ Đệ Định, ngộ nhập Nhân Ngã Không. Nói cách khác, Ngài thật sự triệt để hiểu rõ hết thảy các pháp vô ngã. Tuy vô ngã, nhưng Ngài vẫn cho rằng còn có pháp, pháp là Ngũ Ấm. Ngã không có, nhưng Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức vẫn có. Do vậy, A La Hán không có Ngã Chấp, nhưng Pháp Chấp vẫn còn, Ngài chưa thể khai ngộ. Vì thế, tâm Ngài chưa Không. Tâm A La Hán chưa không. Kinh Lăng Nghiêm có lời chứng minh, nói về cảnh giới A La Hán, đức Phật bảo: “Nội thủ du nhàn” (trong tâm giữ lấy sự an nhàn), tâm A La Hán chưa Không! Trong tâm Ngài vẫn giữ “du nhàn”, “do vi pháp trần phân biệt ảnh sự” (vẫn còn bóng dáng phân biệt đối với Pháp Trần). Câu cuối cùng nói rất hay! A La Hán giữ điều gì? Giữ lấy khái niệm trừu tượng hư vọng! Về căn bản, không có chuyện ấy, [tức là không có] bóng dáng của sự phân biệt đối với Pháp Trần, quả thật rất oan uổng! Vì vậy, tâm Ngài bất không, nói cách khác, Ngã Chấp buông xuống được rồi, nhưng Pháp Chấp chưa buông xuống.
Nếu nói tới chân tướng thì chân tướng là “thôi cầu Ngũ Ấm, sắc, tâm, liễu bất khả đắc” (suy lường, tìm cầu Ngũ Ấm, sắc, tâm, trọn chẳng thể được). Động vật, thực vật, khoáng vật là những vật do Ngũ Ấm, sắc, tâm biến hiện; động vật, thực vật, khoáng vật là giả, đều là pháp được sanh bởi nhân duyên. Duyên sanh không có tự tánh, không có tự thể. Do vậy, nói “bản thể của chúng là Không”. Ngũ Ấm cũng là pháp sanh bởi nhân duyên, cũng chẳng thật. Cùng một đạo lý, bản thể của chúng (Ngũ Ấm, sắc, tâm) là Không, trọn chẳng thể được! Do vậy, trong kinh luận, Phật, Bồ Tát bảo chúng ta: “Duyên sanh tánh Không”. Tánh là thể tánh, do Thể là “chẳng thể được”, nên gọi là Không. Cảnh giới ấy là gì? Giống như cảnh trong mộng, hoàn toàn giống như cảnh trong mộng. Khi chúng ta nằm mộng, trong mộng là có, như đã nói: “Mộng lý minh minh hữu lục thú, giác hậu không không vô đại thiên” (Trong mộng rành rành có sáu nẻo, giác rồi ba cõi rỗng toang hoang). Sau khi quý vị tỉnh giấc, những thứ quý vị đã có trong mộng có đem ra được hay không? Quý vị có đem theo một món nào hay không? Khi nào chúng ta có thể thấy cảnh giới hiện tiền là cảnh trong mộng, quý vị sẽ tự tại, đúng là đạt được đại tự tại. Vì sao? Cái tâm được – mất không còn nữa, bỏ rồi. Tâm được – mất đã không còn, tức là tâm được – mất rỗng không. Tất cả phiền não đều do lo được, lo mất mà có! Quý vị không có cái tâm được – mất, sẽ chẳng có phiền não, nên được đại tự tại.
Hiểu hết thảy pháp như mộng, huyễn, bọt, bóng; chúng quả thật là như mộng, huyễn, bọt, bóng, quý vị sẽ tùy duyên sống qua ngày, giống như Phổ Hiền Bồ Tát đã nói “hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”, không vướng mắc, không chướng ngại, không có pháp nào chẳng thể tùy hỷ. Công đức là gì? Thành tựu sự giác ngộ của chính mình, thành tựu vô lượng giác cho chính mình. Trong hết thảy các pháp, chẳng dùng tâm phân biệt, mà dùng quán chiếu, giống như Tâm Kinh nói là Quán Tự Tại. Ngài chiếu kiến tướng chân thật của hết thảy pháp; do vậy “chiếu kiến Ngũ Uẩn đều không”. Đấy là “cầu Ngũ Ấm, sắc, tâm đều trọn chẳng thể được”; Tâm Kinh cũng nói như thế. Tâm khai, ý giải, thật sự lìa khổ, được vui, “độ nhất thiết khổ ách”: Hết thảy khổ ách cũng đều chẳng còn, đều rỗng không. Đấy là trí huệ. “Đạt” là trí huệ thông đạt; dùng trí huệ để quán chiếu, chiếu kiến chân tướng sự thật, rồi mới “tắc sanh nhi bất sanh, bất sanh nhi sanh” (nên sanh mà chẳng sanh, chẳng sanh mà sanh). Lời chú giải [trong sách Diễn Nghĩa] giảng rõ:
(Diễn) Bất sanh nhi sanh giả, như dĩ bất sanh vi bất sanh, phi chân bất sanh dã.
(演) 不生而生者,如以不生為不生,非真不生也。
(Diễn: “Chẳng sanh mà sanh”: Nếu hiểu “chẳng sanh” là “không hề sanh” thì chẳng phải là “chẳng sanh” thật sự).
Vì sao? Rớt vào khái niệm tương đối. Có một cái “sanh” và một cái “bất sanh”; lại là hai pháp! Phải hiểu “sanh” và “bất sanh” là một, chẳng phải hai thì mới là “bất sanh” thật sự. Do vậy, ở đây nói “sanh tức bất sanh”, bất sanh là sanh, sanh là bất sanh, đấy mới là “chân bất sanh”.
Tiếp đó, lão nhân gia dẫn một câu trong Chứng Đạo Ca của Vĩnh Gia đại sư để chứng minh.
(Diễn) Cố Vĩnh Gia vị: Thùy vô niệm, thùy vô sanh, nhược thật vô sanh vô bất sanh đẳng.
(演) 故永嘉謂:誰無念,誰無生,若實無生無不生等。
(Diễn: Vì thế, ngài Vĩnh Gia nói: “Ai vô niệm, ai vô sanh?” Nếu nói thật sự thì không có sanh mà cũng chẳng có bất sanh v.v…)
Hai câu đầu [trong đoạn Diễn Nghĩa vừa dẫn trên đây] là câu hỏi mang tính cách giả thiết, có ai mà chẳng niệm? Có gì chẳng sanh? Nếu nói chân thật, quả thật sanh lẫn bất sanh đều chẳng có. “Vô sanh, vô bất sanh”: Hai bên sanh và bất sanh đều tách lìa. Tách rời hai bên, hai bên đều là, đấy mới là chân tướng sự thật. Đó gọi là “song giá, song chiếu” (ngăn dứt cả hai bên, soi rõ cả hai bên). Vĩnh Gia đại sư dùng lối Song Giá, tách rời cả hai bên, không có sanh mà cũng chẳng có bất sanh, sanh lẫn vô sanh thảy đều chẳng có, thật sự thanh tịnh. Nói “sanh chính là bất sanh, bất sanh là sanh” là nói theo lối Song Chiếu. Thật ra, chúng có tồn tại hay không? Tồn tại, tướng hai bên tồn tại. Tuy tồn tại, nhưng theo Lý thì chẳng có hai bên. Xét theo Lý, chúng quyết định không có! Đã là Tướng thì có, Lý thì không; tướng ấy là huyễn tướng, chẳng phải chân tướng. Do vậy, tướng là hư vọng. Kinh nói rất hay: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng” (Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng). Chúng ta phải nhớ kỹ điều này!
Do vậy, trong hết thảy tướng, đừng sốt sắng, đừng chấp trước, phải quán chiếu bằng trí huệ, quyết chớ nên mê hoặc. Nếu cư xử với chư Phật, Bồ Tát, chuyện này sẽ được thực hiện tốt đẹp: Không chấp tướng, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại; đó là cảnh giới Hoa Nghiêm. Tại Tây Phương Cực Lạc thế giới là cảnh giới Thật Báo Trang Nghiêm Độ, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại. Nếu cư xử với lục đạo phàm phu thì chẳng được, chỉ có thể Lý Sự vô ngại, chứ Sự Sự vô ngại còn bị chướng ngại. Quý vị đạt đến vô ngại, nhưng đối phương có chướng ngại, phải thuận theo họ! Bồ Tát phải hằng thuận chúng sanh. Quý vị hãy tra duyệt kinh điển, có kinh nào nói chúng sanh hằng thuận Bồ Tát hay không? Không có! Có nói chúng sanh hằng thuận Phật hay chăng? Không có! Chỉ có Phật, Bồ Tát hằng thuận chúng sanh. Nếu chúng sanh hằng thuận Phật, Bồ Tát, chúng sanh đã thành Phật, thành Bồ Tát rồi, chẳng gọi là chúng sanh!
Do vậy, quý vị nhất định phải hiểu: Bồ Tát phải hằng thuận chúng sanh. Sự cư xử giữa Bồ Tát và chúng sanh là Sự Sự có chướng ngại, nhưng Lý Sự vô ngại. Vì sao Sự Sự có chướng ngại? Chúng sanh có phân biệt, có chấp trước, chẳng thể không thuận theo họ. Ví như chúng sanh nói hai tai rủ xuống vai là tướng hảo, Phật, Bồ Tát hằng thuận họ, biến ra tướng ấy. Thật ra, trong cảnh giới của Phật, Bồ Tát, hết thảy tâm thanh tịnh, hết thảy pháp bình đẳng, có những thứ như ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo hay không? Không có! Có thể thấy ba mươi hai tướng, tám mươi thứ hảo nhằm hằng thuận chúng sanh. Quý vị cảm thấy tướng ấy là đẹp đẽ, các Ngài bèn thị hiện tướng ấy. Thật ra, xấu hay tốt chẳng có tiêu chuẩn.
Xưa, nay, trong nước, ngoài nước nêu ra tiêu chuẩn tốt – xấu khác nhau. Đại chúng chúng ta ngồi cùng một chỗ, nhìn cách xếp đặt trong giảng đường này, mỗi người đều có quan điểm khác nhau. Có người cảm thấy cách xếp đặt này rất khá, có người chẳng vừa ý, tiêu chuẩn khác nhau. Thật ra, về căn bản là không có tiêu chuẩn, tiêu chuẩn là gì? Tiêu chuẩn ấy được kiến lập bởi phân biệt, chấp trước, vọng tưởng của chính quý vị. Trong pháp chân thật, chẳng hề có những thứ ấy, hết thảy đều không có, đều là Sự Sự vô ngại. Chỉ cần quý vị lập ra, Bồ Tát bèn hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Trừ biện pháp này ra, không có biện pháp thứ hai! Do vậy, mới nói: “Phật pháp trong thế gian, chẳng lìa thế gian giác”. Tuy hằng thuận, tùy hỷ, nhưng phải giác, chớ nên mê, đó gọi là Phật pháp. Đạo lý này rất trọng yếu, nhất định chớ nên hiểu lầm Phật pháp, chớ nên sử dụng Phật pháp sai lầm. Hôm nay, chúng tôi giảng đến đây!