A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA
QUYỂN 2 – Tập 49-55
Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong
— o0o —
Tập 49
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang sáu mươi hai.
Đoạn này nói về Giáo Khởi Sở Nhân, trong khoa này, đại sư đã giảng rõ rất nhiều điều, nói hết sức chu đáo, cặn kẽ. Đoạn trước nói về Tổng Nhân Duyên, từ đây trở đi là Biệt Nhân Duyên. Nói Tổng là nói đến nhân duyên hưng khởi của giáo pháp trong suốt một đời Thích Ca Mâu Ni Phật; Biệt là chuyên môn nói về bộ kinh này, tức là nhân duyên hưng khởi của pháp môn Niệm Phật. Nói cách khác, đối với chúng ta, điều này đặc biệt quan trọng.
Nhị biệt. Biệt tắc chuyên tựu thử kinh.
二別 別則專就此經。
(Hai là biệt nhân duyên. Biệt tức là chuyên nói về kinh này).
Câu này nói rất rõ ràng, chuyên môn nói về bộ kinh này.
Phục hữu thập nghĩa.
復有十義。
(Lại có mười nghĩa).
Trong phần trước, tôi đã từng thưa với quý vị: Liên Trì đại sư đã chọn dùng phương thức Thập Môn Khai Khải của tông Hoa Nghiêm để chú giải bộ kinh này. Do vậy, Ngài cũng mô phỏng cách thức Thanh Lương đại sư chú giải kinh Hoa Nghiêm, luôn dùng “mười” để biểu thị pháp.
Ở đây, Ngài cũng dùng “mười”, dưới đây sẽ có mười ý nghĩa. “Thập nghĩa” : Trong đoạn này nêu ra tên gọi của chúng, mỗi ý nghĩa đều được giảng rõ và giải thích tường tận trong phần sau.
Nhất, đại bi mẫn niệm Mạt Pháp, vị tác tân lương cố.
一、大悲憫念末法,為作津梁故。
(Một là do đại bi nghĩ thương đời Mạt Pháp nên làm cầu bến).
Trong ý nghĩa thứ nhất, chúng ta phải chú ý từ ngữ “mẫn niệm Mạt Pháp” vì thời đại chúng ta đang sống chính là thời kỳ Mạt Pháp của Phật giáo. Nói cách khác, bộ kinh này nhắm thẳng vào chúng sanh thời Mạt Pháp mà nói. “Tân lương” là cầu bắc ở bến đò, tỷ dụ kinh này giống như một chiếc cầu để thoát lìa sanh tử, viên chứng Bồ Đề cho chúng sanh trong thời Mạt Pháp, đủ thấy tính chất trọng yếu của kinh này.
(Diễn) Mẫn niệm Mạt Pháp giả, Mạt Pháp, tắc khứ thánh thời dao.
(演) 憫念末法者,末法,則去聖時遙。
(Diễn: “Nghĩ thương Mạt Pháp”: Mạt Pháp là xa cách thánh đã lâu).
“Dao” (遙) là xa xôi. Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ cho đến này, theo cách tính toán của cổ nhân Trung Quốc thì đến nay đã là ba ngàn lẻ mười hai (3.012) năm sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ. Dẫu theo cách tính toán của người ngoại quốc thì cũng là hơn hai ngàn năm trăm năm rồi! Thời gian cách xa chúng ta hết sức lâu xa.
(Diễn) Thánh hiền ẩn phục.
(演) 聖賢隱伏。
(Diễn: Thánh hiền ẩn khuất).
Chữ “thánh” chỉ kiến tánh Bồ Tát. Chúng ta thường nói Tam Hiền Thập Thánh, tức là Đăng Địa Bồ Tát, đấy là thánh nhân. Nói theo Tiểu Thừa thì Tứ Quả A La Hán mới được kể là “thánh nhân”, từ Tam Quả trở xuống đều gọi là “hiền nhân”. Những vị Bồ Tát và các đại Bồ Tát đều ẩn mất, không xuất hiện. Vì sao nhằm lúc chúng sanh đáng thương nhất, chư Phật, Bồ Tát đều chẳng xuất hiện độ chúng sanh, do đạo lý nào vậy? Quý vị phải biết: Phật, Bồ Tát chẳng có lòng riêng tư! Phật, Bồ Tát độ chúng sanh cũng chẳng biết mệt nhọc, mà cũng chẳng chán ngán, vì sao các Ngài không xuất hiện? Quý vị phải hiểu vì sao các Ngài xuất hiện, vì sao các Ngài không xuất hiện, phải hiểu đạo lý này. Khi chúng sanh ưa thích chánh pháp, Phật, Bồ Tát liền đến. Khi quý vị ưa thích tà pháp, các Ngài chẳng đến. Quả thật, trong thế gian hiện thời, quý vị giảng chánh pháp cho chúng sanh, họ rất khó tiếp nhận. Nếu quý vị bày vẽ màu mè đôi chút để gạt gẫm họ, họ sẽ hào hứng chịu bị lừa! Không có cách chi hết!
(Diễn) Tà pháp xí thịnh chi thời.
(演) 邪法熾盛之時。
(Diễn: Lúc tà pháp lừng lẫy).
Trong quá khứ, quả thật tà pháp chẳng lừng lẫy bằng hiện thời. Hiện tại, đúng là tà pháp thịnh hành quá mức. Đây chính là lúc chúng sanh đáng thương nhất, chúng ta đang sống trong thời đại này, làm thế nào để phân biệt tà và chánh? Đây là chuyện hết sức khó khăn! Kinh Lăng Nghiêm dạy chúng ta, đặc biệt là trong thời kỳ Mạt Pháp, kinh nói có năm mươi mốt loại ma, số lượng trong mỗi một loại đúng là nhiều như cát sông Hằng, quý vị làm thế nào để phân biệt được? Những loài ma bậc thượng và trung gần như chẳng khác gì Phật, rất khó phân biệt! Nếu quý vị không thể phân biệt, nhất định đi vào ma đạo, suốt một đời tu hành, đến cuối cùng chẳng đạt kết quả gì, quả thật rất đáng tiếc! Do vậy, nhất định phải phân biệt Phật và ma thì chúng ta mới có thể thật sự hộ trì chánh pháp của chính mình.
Nói đến chuyện “hộ pháp” trong nhà Phật, điều thứ nhất là phải hộ trì chính mình. Chẳng thể hộ trì chính mình, lẽ nào có thể hộ trì Phật pháp? Chắc chắn chẳng thể hộ trì Phật pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật được! Đầu tiên là phải hộ trì chính mình! Trong thời đại này, rất nhiều pháp môn và kinh luận bị lũ ma lợi dụng, chúng nó treo chiêu bài Phật pháp để phá hoại Phật pháp. Chuyện này không có cách gì nói cặn kẽ được. Nếu nói cặn kẽ, đúng là nói mãi chẳng hết! Chính chúng ta phải có năng lực phân biệt. Không thể phân biệt thì làm thế nào đây? Quý vị phải vâng giữ pháp môn Tịnh Độ. Trong phần trước, tôi đã thưa cùng quý vị: Nhất tâm trì danh là được rồi, tuyệt đối là chánh pháp, chú trọng nơi nhất tâm, tuyệt đối chẳng bị những thứ tri kiến khác lay động. Trong một đời này, ta giữ vững chủ ý, nhất tâm chấp trì danh hiệu cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, quý vị nhất định sẽ thành công trong một đời này.
Pháp sư Quảng Khâm niệm Phật ra đi, Ngài nhất tâm trì danh. Tôi nghe người ta nói: Khi lâm chung, lão nhân gia lớn tiếng bảo đại chúng niệm Phật. Ngài nói: “A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí, Di Lặc Bồ Tát đều đã đến”, bảo mọi người mau chóng quỳ xuống đất đảnh lễ nghênh tiếp, lớn tiếng niệm Phật. Tướng lành ấy chẳng thể nghĩ bàn; đúng như kinh đã dạy: “Ức Phật, niệm Phật, hiện tiền, đương lai, tất định kiến Phật” (Nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai, nhất định thấy Phật). Ngài đích thân thấy Tây Phương Tam Thánh và các vị thượng thiện nhân đến nghênh tiếp Ngài ra đi, điều này chẳng giả. Ngài cũng làm gương, nêu điển hình cho chúng ta. Chúng ta muốn thành tựu thì một bộ kinh này là đủ rồi!
Nhị, đặc ư vô lượng pháp môn, xuất thắng phương tiện cố.
二、特於無量法門,出勝方便故。
(Hai, đây là phương tiện đặc biệt thù thắng nổi trội trong vô lượng pháp môn).
Pháp môn vô lượng vô biên; từ vô lượng vô biên pháp môn, chọn lấy một pháp môn thù thắng thuận tiện nhất, [đức Phật] luôn luôn nghĩ thay cho chúng ta. Do vậy, quý vị phải biết: Pháp môn này là pháp môn thù thắng nhất và thuận tiện nhất trong hết thảy pháp môn.
(Diễn) Xuất thắng phương tiện giả, chúng sanh hữu Hằng sa phiền não.
(演) 出勝方便者,眾生有恆沙煩惱。
(Diễn: “Phương tiện xuất thắng”: Chúng sanh có phiền não nhiều như cát sông Hằng).
Những pháp môn ấy do đâu mà có? Vì sao có nhiều như thế? Vì chúng sanh có quá nhiều phiền não. Những pháp môn của Phật đều nhằm đối trị phiền não của chúng sanh.
(Diễn) Phật thuyết Hằng hà pháp môn, giai phương tiện dã.
(演) 佛說恆河法門,皆方便也。
(Diễn: Đức Phật nói Hằng hà pháp môn, đều là phương tiện).
Bất luận pháp môn nào, quý vị nhất định phải nhớ pháp môn ấy là [do đức Phật] nói phương tiện, ngay cả Thiền lẫn Mật đều là nói phương tiện. Không nói ra pháp môn chân thật được vì nó chẳng thể nghĩ bàn! Lão hòa thượng Quảng Khâm lúc lâm chung nói một câu: “Không đến, không đi, không có chuyện gì!” Lục Tổ nói: “Vốn chẳng có một vật”, đó là pháp môn chân thật. Kinh Duy Ma có nói pháp môn Bất Nhị, Bất Khả Tư Nghị, đó là pháp môn chân thật. Ngôn ngữ không có cách gì diễn tả pháp môn chân thật; phàm những gì có ngôn thuyết đều là pháp phương tiện, nhưng thù thắng nhất trong các pháp phương tiện là pháp môn Niệm Phật. Vì sao nói nó là thù thắng nhất? Vì nó gần với pháp chân thật nhất. Quý vị hãy suy nghĩ: Có pháp môn nào gần với “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh xứ diệt, chẳng thể nghĩ bàn” nhất hay chăng? [Pháp môn Tịnh Độ] còn sót lại một câu A Di Đà Phật, nhưng nếu bỏ nốt câu này, [pháp môn ấy] sẽ là pháp chân thật, đủ thấy nó là pháp gần với pháp chân thật nhất, nên được gọi là pháp môn thù thắng nhất.
(Diễn) Duy thử pháp môn, phương tiện trung chi phương tiện, cố viết “thắng phương tiện”.
(演) 唯此法門,方便中之方便,故曰勝方便。
(Diễn: Chỉ có pháp môn này là phương tiện nhất trong các phương tiện, nên gọi là phương tiện thù thắng).
Pháp phương tiện thù thắng nhất!
Tam, khích dương sanh tử phàm phu, linh khởi hân yếm cố.
三、激揚生死凡夫,令起欣厭故。
(Ba là vì dấy động, cổ vũ sanh tử phàm phu, khiến họ khởi lòng ưa [Cực Lạc] chán [sanh tử]).
“Khích” (激) là dấy động chúng ta, “dương” (揚) là cổ vũ, khích lệ chúng ta, hy vọng chúng ta có thể đề cao cảnh giác trong lục đạo sanh tử luân hồi, phải phát tâm vượt thoát luân hồi.
(Diễn) Khích dương sanh tử phàm phu giả, phàm phu xuất sanh nhập tử, khoáng kiếp trầm luân, bất tri sanh tử khả yếm, Niết Bàn khả hân.
(演) 激揚生死凡夫者 , 凡夫出生入死 , 曠劫沉淪,不知生死可厭,涅槃可欣。
(Diễn: “Dấy động, cổ vũ phàm phu sanh tử”: Phàm phu ra sanh vào tử, trầm luân bao kiếp dài lâu, chẳng biết sanh tử đáng chán, Niết Bàn đáng ưa).
Sanh tử luân chuyển vĩnh viễn không ngừng nghỉ, quả thật là chuyện rất phiền phức! Chẳng biết chân tướng của sự thật thì gọi là “tùy nghiệp lưu chuyển” (chuyển vần theo nghiệp), thật sự đáng thương! Người giác ngộ đôi chút, biết hiện tượng này, cũng biết nó đáng sợ, nhưng có cách gì để liễu sanh tử, thoát tam giới hay chăng? Lại cũng chẳng có cách gì. Quý vị hãy suy nghĩ: Từ cổ đến nay, bao nhiêu nhà đại học vấn, khoa học gia, triết gia, nhà tôn giáo đều muốn giải quyết vấn đề này, nhưng không có ai làm được! Đây cũng chính là lý do vì sao đức Phật phải xuất hiện trong thế gian. Đức Phật xuất hiện trong thế gian là vì những chúng sanh ấy mà đến. Quý vị muốn liễu sanh tử, ra khỏi tam giới, nhưng không có cách nào; đức Phật biết phương pháp, Ngài đến dạy quý vị. Chúng ta nhất định phải biết sanh tử đáng sợ, đáng chán. Con người ta chết đi, theo như kinh Địa Tạng đã nói, tuyệt đại đa số chưa đầy bốn mươi chín ngày lại luân hồi, lại đi đầu thai. Sống chẳng được bao lâu lại chết, chết rồi lại sanh ra, sanh rồi lại chết, sanh sanh tử tử, vĩnh viễn chẳng xong! Nếu quý vị suy nghĩ cặn kẽ sẽ thấy chuyện này rất kinh hoảng, rất đáng sợ, nhưng bản thân không có cách nào! Đó là chân tướng sự thật, chúng ta nhất định phải giác ngộ [chuyện này].
Niết Bàn là gì? Niết Bàn là bất sanh bất diệt. Vượt thoát sanh tử luân hồi, từ đây về sau, vĩnh viễn không còn sanh tử, không còn sanh tử thì gọi là Niết Bàn. Lão hòa thượng Quảng Khâm nói “không đến, không đi”, đấy là Niết Bàn. Thế nhưng Ngài thật sự chứng đắc Niết Bàn, chứng Niết Bàn là chứng trong khi còn sống, chứ không phải chết rồi mới chứng. Vì sao Ngài ra đi? Ngài đã từng nói Ngài sẽ bế quan một năm, đệ tử liền hỏi Ngài: “Thầy nói sẽ bế quan một năm, nhưng sao bây giờ lại ra đi?” Ngài bảo các đồng tu: “Thân thể này quá già, quá cũ rồi, chẳng thể dùng được nữa! Tự mình hãy nên đổi lấy một căn nhà mới, thay một công cụ mới, chứ cái này quá cũ rồi, chỗ nào cũng gây chướng ngại!” Giống như quý vị sống trong một căn nhà quá xưa, quá cũ, chẳng đập đi, xây cái mới chẳng được, không có cách gì ở nữa! Thân thể là cái nhà, quá xưa, quá cũ, ắt cần phải thay đổi, trọn chẳng có chết, thay một căn nhà khác mà thôi! Quý vị thấy Ngài tự tại lắm, thay thân thể rất tự tại, quả thật bất sanh mà cũng bất diệt.
Bọn chúng ta không có năng lực thay đổi tự tại. Thay đổi tự tại [như lão pháp sư Quảng Khâm] thì càng thay đổi, càng tốt đẹp, càng thay đổi, càng thù thắng! Phàm phu rất tệ hại, càng thay đổi, càng kém cỏi, đổi căn nhà thân người thành súc sanh, từ súc sanh đổi thành ngạ quỷ, từ ngạ quỷ lại đổi thành địa ngục. Người ta đổi thành thân Bồ Tát, đổi thành thân Phật, khác hẳn chúng ta! Niết Bàn đáng ưa là điều chúng ta ngưỡng vọng, tin ưa.
(Diễn) Như Pháp Hoa Kinh vân: “Bất thức khổ tận đạo, bất tri cầu giải thoát” cố.
(演) 如法華經云:不識苦盡道,不知求解脫故。
(Diễn: Như kinh Pháp Hoa chép: “Chẳng biết đạo hết khổ, chẳng biết cầu giải thoát”).
“Thức” (識) là nhận thức, hiểu rõ. Quý vị chẳng nhận biết, không hiểu rõ. “Khổ tận đạo” là phương pháp diệt hết khổ, “đạo” là phương pháp. Nếu quý vị không có biện pháp dứt sạch khổ, làm sao giải thoát được? Do vậy, nhất định phải biết diệt khổ như thế nào. Khổ là quả báo, quả báo do đâu mà có? Quả đương nhiên có nhân, không có nhân sẽ chẳng thể kết quả. Nhân là tạo nghiệp, quý vị tạo thiện nghiệp sẽ thọ báo trong ba thiện đạo, tạo ác nghiệp sẽ thọ báo trong ba ác đạo. Nói tóm gọn một câu, quý vị tạo nghiệp gì sẽ chẳng trốn khỏi quả báo đó, không có cách nào trốn được!
Ở đây, đức Phật dạy chúng ta: Trong quá khứ, chúng ta đã tạo bao nhiêu nghiệp, không chỉ trong một đời, mà còn là đời đời kiếp kiếp trong quá khứ đã tạo rất nhiều nghiệp, có cách vượt thoát hay chăng? Có biện pháp, nhưng chỉ có một biện pháp! Cố nhiên, đức Phật đã nói vô lượng pháp môn, tám vạn bốn ngàn pháp môn đều là phương pháp, nhưng với những phương pháp ấy, quý vị chẳng thể thành tựu trong một đời, cần phải tu học trong một thời gian dài. Thời gian càng dài, càng lắm vấn đề. Vì sao? Sợ đi lầm đường! Tục ngữ thường nói: “Đêm dài lắm mộng!” Chuyện này phiền lắm! Tốt nhất là có thể thành tựu trong một thời gian ngắn, “thời gian ngắn” là chúng ta có thể thành tựu trong một đời. Ví như đức Phật giảng các pháp môn khác từ sơ phát tâm cho đến khi thành Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp, thời gian quá dài! Tuy nhiên, chứng đắc quả Tu Đà Hoàn là đã được bảo đảm; [có nghĩa là] chứng đắc Tu Đà Hoàn thì trong Viên Giáo gọi địa vị này là Sơ Tín Vị Bồ Tát, đã được bảo đảm chắc chắn không đọa trong tam ác đạo. Đấy là điều đảm bảo thứ nhất. Bảy lần qua lại trong cõi trời và nhân gian, nhất định chứng A La Hán, vượt thoát tam giới; đó là điều bảo đảm thứ hai. Phải trải qua bảy lần sanh tử trong cõi trời và nhân gian, thọ mạng trong nhân gian không dài, nhưng cõi trời thọ mạng dài lâu. Vì thế, vẫn là “đêm dài lắm mộng”, vẫn là chuyện phiền phức!
Nhanh chóng nhất, thời gian ngắn lẹ nhất, chỉ có pháp môn Niệm Phật: Thành tựu trong một đời! Vì thế, nó là phương tiện thù thắng. Chúng ta muốn cầu giải thoát, phải thật sự thấy rõ sanh tử luân hồi đáng sợ, hy vọng sẽ thành tựu trong một đời này thì chúng ta phải dứt khoát chọn lựa pháp môn này. Sau khi đã chọn lựa dứt khoát, cả đời này chẳng thay đổi. Quý vị nhất định phải nhớ kỹ câu này: “Suốt đời chẳng thay đổi!” Tôi đọc kinh là đọc bộ kinh này. Bộ kinh này có chú giải, đọc nhiều lần chắc chắn sẽ có lợi. Lợi gì vậy? Đọc nhiều sẽ có thể khai ngộ. Dựa theo một bộ sách, tu học một pháp môn, tốt nhất là đừng nghe những kinh khác. Đối với những pháp môn khác, tốt nhất cũng đừng xem, chẳng nghe, chẳng hỏi tới, vì sao? [Có như vậy thì] chúng ta mới có thể thật sự nhất tâm trì danh. Sau khi quý vị đã tiếp xúc [nhiều pháp môn, kinh điển khác nhau], quý vị sẽ bị phân tâm!
Vì thế, chuyên tu Tịnh Độ, trong quá khứ có những vị pháp sư như Ấn Quang đại sư là vị tổ sư gần đây nhất, lão nhân gia chuyên tu Tịnh Độ. Đối với đồ đệ của Ngài, những người được Ngài truyền quy y, quý vị đọc Văn Sao sẽ nhận thấy: Lão hòa thượng chẳng giống những pháp sư khác! Các pháp sư khác thì sao? Mong mỏi đồ đệ thường xuyên đến gặp mình. Nếu mấy ngày không gặp, bèn: “Sao đã lâu ngần ấy mà ngươi không tới?” Lão hòa thượng khác hẳn mọi người, nếu quý vị đến gặp Ngài nhiều lần, [Ngài sẽ quở]: “Vì sao ngươi đến đây?” “Con đến thăm sư phụ”. “Sư phụ có gì hay đâu mà gặp? Ngươi đã gặp mặt đôi ba lần rồi!” Ngài quở trách, đuổi về: “Sao ngươi chẳng ở nhà thật thà niệm Phật? Uổng phí thời gian, lãng phí tiền bạc chạy tới đây để làm cái quái gì?” Ngài quở người, do vậy, Ấn Quang đại sư chẳng chủ trương [chèo kéo] tín đồ đến chùa; đấy là một vị thiện tri thức chân chánh!
Cụ Quảng Khâm đã vãng sanh, gần đây nhất có nhiều người muốn đến gặp Ngài, đến thưa chuyện với tôi, tôi cũng quở họ, tôi nói: “Ông đến đó để làm gì? Góp phần náo nhiệt! Đi xa xôi dường ấy, ngồi xe mười mấy tiếng đồng hồ, mệt mỏi rã rời. Nếu ông định tâm, chính mình ở nhà niệm một quyển kinh, niệm mấy ngàn câu Phật hiệu hồi hướng cho Ngài; đấy là công đức thật sự, mình lẫn người đôi đằng cùng có lợi, chẳng cần phải góp phần náo nhiệt!”
Tứ, hóa đạo Nhị Thừa chấp Không, bất tu Tịnh Độ cố.
四、化導二乘執空,不修淨土故。
(Bốn là nhằm giáo hóa, hướng dẫn hàng Nhị Thừa chấp Không chẳng tu Tịnh Độ).
Không chỉ tiếp dẫn phàm phu, mà còn tiếp dẫn bậc A La Hán, Bích Chi Phật.
(Diễn) Hóa đạo Nhị Thừa giả, Nhị Thừa đản chứng Thiên Không, bất ngộ Pháp Tánh.
(演) 化導二乘者,二乘,但證偏空,不悟法性。
(Diễn: “Hóa đạo Nhị Thừa”: Nhị Thừa chỉ chứng Thiên không, chẳng ngộ Pháp Tánh).
Ở đây nói về Tiểu Thừa A La Hán và Bích Chi Phật, chứ Tam Quả vẫn chưa đủ tư cách. Tứ Quả A La Hán chứng Thiên Không. Thiên Không là Niết Bàn, tức Thiên Chân Niết Bàn. [Các vị ấy] đã vượt thoát sanh tử luân hồi trong lục đạo. Tuy đã vượt thoát, nhưng họ trụ trong Niết Bàn. Đó là sai lầm. Niết Bàn của hàng Tiểu Thừa là Định, khác với Niết Bàn của Đại Thừa. Đại Thừa Niết Bàn là Định Huệ viên dung: Trong Định có Huệ, trong Huệ có Định.
Tiểu Thừa thiên chân (thiên lệch về phía Chân Đế), lệch sang một bên, chỉ có Định, thiếu Huệ. Niết Bàn mà các vị ấy đã chứng chẳng phải là Niết Bàn rốt ráo viên mãn. Họ chẳng ngộ Pháp Tánh, chẳng ngộ tức là thiếu trí huệ.
(Diễn) Trầm không trệ tịch.
(演) 沈空滯寂。
(Diễn: Đắm chìm nơi Không, vướng mắc nơi Tịch).
Người Tiểu Thừa vẫn còn chấp trước, không có Ngã Chấp, nhưng có Pháp Chấp, chấp trước Không. Phàm phu chấp Có, người Tiểu Thừa chấp Không. Chính họ an trụ trong cảnh giới tịch tĩnh. “Tịch” là thanh tịnh tịch diệt. Họ thật sự chẳng sanh phiền não, căn bản phiền não đã đoạn rồi.
(Diễn) Trung chỉ hóa thành.
(演) 中止化城。
(Diễn: Dừng nơi hóa thành ở giữa đường).
“Hóa thành” (cái thành được biến hóa ra) là tỷ dụ. Thích Ca Mâu Ni Phật dạy họ đại pháp rốt ráo liễu nghĩa, nhưng họ không chịu tiếp nhận. Do vậy, dùng phương tiện để giáo hóa họ, giống như nói có cái trạm ở giữa đường, tức trạm vận chuyển, trước hết làm cho họ đạt đến cảnh giới ấy (cảnh giới Niết Bàn của Tiểu Thừa). Đã đạt đến cảnh giới ấy, họ ở lại, không muốn đi nữa. Đó là chuyện phiền phức, căn bệnh của người Tiểu Thừa là ở chỗ này: Ngừng nghỉ nơi hóa thành ở giữa đường!
(Diễn) Bất tín hữu tha phương Tịnh Độ cố.
(演) 不信有他方淨土故。
(Diễn: Vì chẳng tin có Tịnh Độ ở phương khác).
Nếu hiện thời quý vị sang thăm Thái Lan, quý vị sẽ biết: Thái Lan là nước Tiểu Thừa. Người Thái chẳng tin rằng có một vị Phật nào khác, họ chỉ tin mình Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng tin có mười phương hết thảy chư Phật. Họ cho rằng tu hành cao lắm chỉ có thể chứng quả A La Hán, chẳng thể thành Phật! Thành Phật chỉ có một mình Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng tin có những vị Phật ở phương khác. Họ cũng chẳng tin pháp Đại Thừa, họ rất chấp trước. Do vậy, chẳng tin vào các cõi Tịnh Độ ở phương khác. Đức Phật vì các thánh giả Nhị Thừa mà giảng kinh này, giảng pháp môn này, khuyên họ hồi Tiểu hướng Đại, lìa bỏ hóa thành, vãng sanh Phật quốc. Vì thế, pháp môn này có vô lượng vô biên công đức.
Ngũ, miễn tấn sơ tâm Bồ Tát, thân cận Như Lai cố.
五、勉進初心菩薩,親近如來故。
(Năm là vì khuyến khích, sách tấn hàng sơ tâm Bồ Tát thân cận Như Lai).
Đối với Đại Thừa Bồ Tát cũng dùng pháp môn này để giáo hóa họ. Tâm Bồ Tát khác với tâm Tiểu Thừa. Từ bản thân chúng ta hiện thời sẽ có thể thấy được chính mình là căn tánh Đại Thừa hay là căn tánh Tiểu Thừa? Đừng hỏi ai khác! Chính mình phản tỉnh sẽ biết ngay. Nếu là căn tánh Tiểu Thừa, sẽ chỉ cầu tự lợi, chẳng nghĩ giúp đỡ người khác. Nếu giúp đỡ người khác thì cũng rất hữu hạn, chẳng thật sự phát tâm chủ động giúp đỡ người khác. Tâm như vậy là tâm Tiểu Thừa. Tâm Bồ Tát là chủ động giúp hết thảy chúng sanh, vui vẻ giúp đỡ người khác, ưa thích giúp đỡ người khác, có thể bỏ mình vì người, đó là tâm Bồ Tát. Nếu quý vị học Phật mà là chủng tánh Bồ Tát thì là Sơ Phát Tâm Bồ Tát. [Đức Phật giảng kinh này nhằm] khuyến khích, cổ vũ hàng Sơ Tâm.
(Diễn) Miễn tấn sơ tâm giả, Sơ Phát tâm Bồ Tát, dục ư Sa Bà thế giới cứu độ chúng sanh, nhẫn lực vị sung, tự tha câu nịch, hữu hà lợi ích?
(演) 勉進初心者 , 初發心菩薩 , 欲於娑婆世界救度眾生,忍力未充,自他俱溺,有何利益。
(Diễn: “Khuyến khích kẻ sơ tâm”: Hàng Sơ Phát Tâm Bồ Tát muốn cứu độ chúng sanh trong cõi Sa Bà, nhưng sức nhẫn nại chưa đầy đủ, mình lẫn người đều chết đuối, có lợi ích gì đâu?)
Quý vị học hạnh Bồ Tát, tu pháp Lục Độ, rất tốt! Nhưng Định lực chưa đủ, trí huệ chẳng đủ, tuy tu pháp môn Lục Độ, khó tránh khỏi rất nhiều lầm lỗi, chúng ta nhất định phải biết điều này. Chúng sanh trong thế giới Sa Bà ương ngạnh, khó giáo hóa, nghiệp chướng sâu nặng. Cứu độ chúng sanh: “Cứu độ” nói đơn giản thì chính là phục vụ chúng sanh, muốn giúp đỡ chúng sanh. Quý vị tận tâm tận lực giúp đỡ họ, mà họ vẫn chửi mắng quý vị, còn nói quý vị là kẻ bất hảo. Quý vị nghe vậy cũng cảm thấy khó chịu, muốn ngã lòng thì quý vị chưa phải là Bồ Tát. Bồ Tát đạo khó hành lắm! Do vậy, tu hạnh Tiểu Thừa dễ dàng, tu hạnh Đại Thừa khó khăn!
Nếu định lực không đủ, “nhẫn lực” chính là Định lực, trong ấy cũng bao gồm trí huệ. Định và Huệ chẳng đủ thì ta cùng người đều chẳng được lợi ích. Tôi nêu lên một thí dụ để nói với quý vị. Chúng ta chẳng bàn chuyện gì khác, bàn tới chánh pháp thì trong chánh pháp cũng phải có nhẫn lực đầy đủ mới được. Chúng ta hãy xem vì sao trong thời cổ người xuất gia lẫn tại gia tu hành chứng quả nhiều dường ấy? Trong mỗi một triều đại, quý vị đọc Cao Tăng Truyện và Cư Sĩ Truyện thấy có nhiều người thành tựu dường ấy. Vì sao hiện thời chúng ta chẳng thể thành tựu? Nói thật thà thì trước kia những thứ dụ dỗ, mê hoặc bên ngoài ít, nên họ có thể chuyên tâm, đương nhiên cũng là do mọi sự chẳng thuận tiện. Hiện thời quá thuận tiện, do quá thuận tiện nên sức dụ dỗ mê hoặc quá lớn, những thứ dụ dỗ mê hoặc quá nhiều!
Chúng ta không nói đến những thứ dụ dỗ, mê hoặc bởi tiếng tăm, lợi dưỡng, không nói tới những thứ ấy, chỉ bàn tới Phật pháp. Trước kia, người ta muốn có được một bộ kinh điển chẳng hề đơn giản, phải đến đâu tìm kiếm? Ngoài chợ không bán. Dẫu có bán, nhưng giá tiền cao quá, người ta chết khiếp, vì sao? Vì sách do thợ làm ra. Quý vị thấy đó: Chữ trên khuôn in phải khắc từng chữ một trên ván gỗ. Mỗi tấm ván tối thiểu phải dầy chừng đó, nói chung, bản khắc ván của một cuốn sách phải chất đầy một hai gian nhà. Còn cách in sách thì như thế nào? Lấy ván khắc của từng trang, trước kia dùng mực chế bằng muội (bồ hóng) gỗ tùng[70], dùng bàn chải lông ngựa phết mực lên ván in, giấy Mao Biên[71] trải ra, áp từng tấm lên khuôn in. In một bộ sách theo kiểu này sợ rằng phải mất thời gian đến ba ngày. Quý vị hãy nghĩ xem: Mua bộ sách này phải tốn bao nhiêu tiền? Trước kia, trong phòng khách của nhà phú quý bày mấy bộ sách vì người bình thường chẳng thể mua sách nổi!
Vì vậy, sách do đâu mà có? Sao chép. Muốn đọc một bộ kinh, lão hòa thượng truyền cho quý vị, bảo quý vị học bộ kinh nào, quý vị phải vào lầu Tàng Kinh của nhà chùa để sao chép. Người ấy tự mình sao chép một bộ, tốn công rất nhiều, nên cũng rất trân quý, rất quý trọng, suốt đời đọc bộ kinh ấy. Vì thế, hầu như ai nấy đều chuyên tu, nên có thể thành công. Hiện thời quá dễ dàng, cả bộ Đại Tạng Kinh cũng chẳng bao nhiêu tiền, người có thâu nhập trung bình thì nhà nào cũng đều có thể bày một bộ. Hôm nay mở ra cuốn này, ngày mai lật coi cuốn khác, đọc mấy chục năm mà vẫn chẳng thông suốt tí xíu nào! Kinh điển quá nhiều sẽ sanh ra sức dụ dỗ, mê hoặc, bộ này khá lắm, bộ kia cũng hay tuyệt, bộ nào cũng phải đọc qua! Có thể nói là khi đọc bộ sách này, chẳng biết đến thứ khác, đợi đến khi đã đọc xong, những thứ trước đó đều quên sạch, chẳng đạt được lợi ích!
Căn bệnh của chúng ta là chẳng thể nhất tâm, chẳng thể chuyên. Đừng bàn tới pháp thế gian, sức dụ dỗ mê hoặc của Phật pháp cũng ghê gớm lắm! Phật pháp cũng dụ dỗ mê hoặc con người rất mạnh. Huống hồ hiện thời chùa cũng lắm, pháp sư cũng đông. Không chỉ pháp sư đông đảo, mà còn có những cư sĩ tại gia, cư sĩ tại gia làm gì vậy? Chẳng thể cao hơn pháp sư thì gắn vô một chút Mật, ta tự phong là Thượng Sư, còn cao hơn pháp sư nữa! Chỗ nào cũng đều dụ dỗ, mê hoặc con người, khiến quý vị không biết đường nào mà lần, đạo tâm của quý vị bị phá hoại! Cổ nhân nói: “Ninh động thiên giang thủy, bất hoại đạo nhân tâm” (Thà khuấy động nước ngàn con sông, chẳng phá hoại tâm của người tu đạo). Hiện thời nơi nào ta cũng thấy phá hoại tấm lòng người tu đạo, quý vị không có cách gì tu hành! Bởi lẽ, tu hành là tu nhất tâm, là tu Định. Quý vị không có cách nào tu Định thì những thứ dụ dỗ, mê hoặc trong Phật môn như tôi đã nói sẽ khiến cho quý vị không biết đường nào mà theo. Do vậy, sự tự hành lẫn hóa tha của quý vị đều bị đọa lạc.
Vì sao cổ nhân có thành tựu? Họ chuyên nhất! Do thời kỳ ấy giao thông chẳng thuận tiện, luôn phải đi bộ. Quý vị đến đạo tràng thì nhiều nhất là một đạo tràng, nếu nhiều hơn nữa thì là hai đạo tràng, chẳng thể tới rất nhiều. Hiện thời, tuy giao thông phát triển, nhưng lòng người chẳng định, phước báo chẳng bằng cổ nhân; hưởng thụ vật chất vượt trỗi cổ nhân, nhưng công phu định lực thật sự thua kém cổ nhân quá xa. Giả sử ngày nay chúng ta vẫn có thể chuyên nhất, giữ vững một bộ kinh, một pháp môn, một đạo tràng, quý vị sẽ vượt trội cổ nhân, vì sao? Nếu kéo cổ nhân sang hiện tại, sợ rằng đại đa số chẳng thể thành tựu, xác thực là như thế! Một người có thể chống lại dụ dỗ, mê hoặc chẳng dễ dàng! Trước mọi thứ dụ dỗ, mê hoặc mà vẫn như như bất động, người ấy thật sự cao minh! Vì thế, quý vị thành tựu trong hiện thời thì ngay cả cổ đức trông thấy quý vị cũng chẳng thể không cúi đầu, chẳng thể không bội phục. Do vậy, nhất định phải chuyên nhất, nhất là phải chuyên tâm tu Tịnh Độ; bởi lẽ, pháp môn này là pháp môn thành Phật trong một đời.
(Diễn) Tất tu cầu sanh Tịnh Độ, thân kiến Di Đà, đắc nhẫn phương khả hoàn lai cố.
(演) 必須求生淨土,親見彌陀,得忍方可還來故。
(Diễn: Ắt cần phải cầu sanh Tịnh Độ, đích thân gặp Phật Di Đà, đắc [Vô Sanh] Nhẫn rồi mới có thể trở lại).
Đây là Bồ Tát, chúng ta gấp rút niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ vì lẽ gì? Vì thỏa mãn đại nguyện độ chúng sanh của ta, từ thế giới Tây Phương quay về, thả chiếc bè Từ quay trở lại, trở về độ chúng sanh. Quý vị mang thân phận Bồ Tát, có Định lực, mà cũng có Huệ lực, Định – Huệ đầy đủ. Trong bất cứ cảnh giới nào quý vị đều có thể chẳng lay động, đều có thể chuyên nhất. Chính quý vị có thể chuyên nhất, mà cũng tạo ảnh hưởng khiến người khác chuyên nhất. Đấy chính là vô lượng vô biên công đức.
Lục, tận nhiếp lợi độn chư căn, tất giai độ thoát cố.
六、盡攝利鈍諸根,悉皆度脫故。
(Sáu vì có thể nhiếp trọn các căn lợi độn, đều làm cho họ được giải thoát).
Những đoạn trên là nói về phàm phu, Nhị Thừa, Bồ Tát, câu này có phạm vi càng rộng hơn nữa: Hết thảy căn tánh đều cùng được bao gồm toàn bộ!
(Diễn) Tận nhiếp lợi độn giả.
(演) 盡攝利鈍者。
(Diễn: Nhiếp trọn các căn lợi độn…)
Đây là nói về căn tánh của chúng sanh. Căn tánh của chúng sanh khá phức tạp. Trong Phật pháp, căn tánh được chia thành hai loại lớn là lợi căn và độn căn.
(Diễn) Giáo tiểu, tắc bất bị đại căn.
(演) 教小,則不被大根。
(Diễn: Dạy pháp Tiểu Thừa sẽ chẳng hợp với căn tánh đại căn).
Chữ “đại căn” chỉ người lợi căn. Nếu quý vị dạy pháp Tiểu Thừa, người căn tánh Đại Thừa sẽ chẳng muốn tiếp nhận, chẳng thích tu tập. Nếu quý vị giảng pháp Đại Thừa, kẻ căn tánh Tiểu Thừa chẳng tiếp nhận.
(Diễn) Giáo đại, tắc hạ căn tuyệt phần.
(演) 教大,則下根絕分。
(Diễn: Dạy pháp Đại Thừa, kẻ hạ căn trọn chẳng có phần).
Không có phần! Giống như lúc đức Thế Tôn thị hiện thành Phật thuở ấy, giảng kinh Hoa Nghiêm suốt mười bốn ngày dưới cội Bồ Đề, đó là “giáo đại”. Phàm phu, Nhị Thừa, Quyền Giáo Bồ Tát đều chẳng có phần! Vì thế nghe kinh Hoa Nghiêm là những ai? Từ kinh văn, chúng ta thấy: Bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ. “Bốn mươi mốt địa vị” chính là Thập Trụ Bồ Tát, Thập Hạnh Bồ Tát, Thập Hồi Hướng Bồ Tát, Thập Địa Bồ Tát trong Viên Giáo, kèm thêm Đẳng Giác Bồ Tát trong Viên Giáo. Những vị này đều là hàng đại Bồ Tát minh tâm kiến tánh, các Ngài nghe giảng, cảm thấy ý vị tràn trề. Những thánh giả Nhị Thừa và phàm phu khác chẳng thấy, chẳng nghe! Pháp hội của đức Phật trang nghiêm như thế, chúng ta chẳng thấy, mà cũng chẳng nghe. Phàm phu chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi lặng lẽ dưới cội Bồ Đề, ai biết Ngài đang giảng kinh Hoa Nghiêm? Ai biết có nhiều vị Bồ Tát ngần ấy đang nghe? Kẻ căn tánh nhỏ nhoi chẳng có phần trong Đại giáo! Bộ kinh này thật sự chẳng thể nghĩ bàn!
(Diễn) Kim tắc thượng tự Bồ Tát, hạ cập du du phàm phu, vô cơ bất tiếp cố.
(演) 今則上自菩薩,下及悠悠凡夫,無機不接故。
(Diễn: Nay thì trên từ hàng Bồ Tát, dưới đến kẻ phàm phu lơ mơ, không căn cơ nào chẳng tiếp độ).
Đây chính là “thích hợp khắp ba căn, thâu trọn lợi căn lẫn độn căn”. Có thể thấy được tầm rộng lớn, thù thắng của pháp môn này. Trong các buổi giảng, tôi thường nhắc nhở quý vị, bản thân tôi chấp thuận, tiếp nhận, tin tưởng, chiếu theo pháp môn này tu học là nhờ công sức của kinh Hoa Nghiêm. Tôi giảng kinh Hoa Nghiêm mười mấy năm, bắt đầu giảng từ năm Dân Quốc 60 (1971), giảng mãi cho đến hiện tại chưa ngừng. Đây cũng là nhân duyên không đủ, giảng kinh Hoa Nghiêm một lượt mà vẫn chưa giảng viên mãn. Đại khái chỉ giảng được nửa bộ. Thầy Lý ở Đài Trung mỗi tuần giảng một lần, lão nhân gia bắt đầu giảng từ năm Dân Quốc 53 (1964), đã giảng hơn hai mươi năm mà mới giảng được một phần ba. Vì thế, trong quá khứ, thầy Lý đã hướng về thính chúng tuyên bố: “Tôi muốn giảng kinh Hoa Nghiêm viên mãn, rồi giảng một bộ A Di Đà Kinh lần nữa xong mới vãng sanh”. Các đồng tu ở Đài Trung đặc biệt lên Đài Bắc kiếm tôi, hỏi tôi: “Ước chừng thầy còn trụ thế bao lâu?” Tôi căn cứ vào tốc độ giảng kinh trước kia, tính toán tỉ mỉ, tôi nói thầy có thể sống tối thiểu một trăm ba mươi tuổi. Nếu không, sẽ chẳng giảng xong kinh Hoa Nghiêm. Vì mỗi tuần thầy chỉ giảng một lần, còn có người phiên dịch, chỉ giảng một tiếng, nhưng bộ kinh này bản thân tôi đã giảng gần hai ngàn giờ. Bộ kinh này giảng xong phải từ hai ngàn năm trăm giờ cho đến ba ngàn giờ, phải mất thời gian dài như vậy.
Thế nhưng năm ngoái, lão nhân gia lại thay đổi chủ ý, Ngài nói Ngài chẳng cần giảng xong kinh. Vì thế, các đồng tu kiếm Ngài: “Thưa thầy! Thầy nói kinh phải giảng xong!” Thầy nói: “Nếu tôi giảng chín mươi năm, quý vị có thể nghe chín mươi năm hay không?” Mọi người không có năng lực đến nghe giảng suốt chín mươi năm! Vì vậy, đồng tu ở Đài Trung bảo tôi: “Năm ngoái, thầy đã bảo mọi người: Ngài giảng kinh hai năm nữa rồi không giảng”. Quý vị phải biết: Ngài không giảng sẽ vãng sanh. Lúc đó, chúng tôi rất sợ thầy sẽ nhanh chóng vãng sanh, nên tìm một bộ kinh lớn để giữ thầy lại. Kinh Hoa Nghiêm cũng là do tôi góp phần khải thỉnh, tám người chúng tôi khải thỉnh, thương lượng cách giữ chân thầy như thế nào, chẳng để thầy ra đi. Mọi người suy tưởng: Chỉ có cách thỉnh thầy giảng một bộ kinh lớn! Kinh chưa giảng xong, thầy sẽ chẳng tiện ra đi! Năm nay thầy đã chín mươi tám tuổi, vẫn đang giảng kinh.
Điều này cho thấy qua kinh Hoa Nghiêm, tôi cảm nhận sâu xa pháp môn này là pháp môn duy nhất để mười phương ba đời hết thảy chư Phật tiếp dẫn và thành tựu chúng sanh. Tốc độ giảng kinh Hoa Nghiêm của tôi nhanh hơn tốc độ của thầy Lý, vì tôi dành thời gian giảng nhiều, lúc giảng nhiều nhất là giảng suốt sáu ngày một tuần, tôi dùng thời gian nhiều hơn Ngài. Vì sao biết [pháp môn Tịnh Độ là pháp môn duy nhất để mười phương ba đời hết thảy chư Phật tiếp dẫn và thành tựu chúng sanh]? Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng, phẩm cuối cùng là Nhập Pháp Giới Phẩm. Thanh Lương đại sư chia kinh này thành bốn phần “Tín, Giải, Hành, Chứng”. Phần cuối cùng chính là Tứ Thập Hoa Nghiêm. Tứ Thập Hoa Nghiêm là một bộ kinh hết sức hoàn chỉnh, lấy Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát làm đại biểu, Thiện Tài đồng tử nêu gương cho người tu hành. Thiện Tài là ai? Thiện Tài là người tu hành, là người tu học Phật pháp Đại Thừa. “Thiện” (善) là nói người ấy có thiện căn, “Tài” (財) là nói người ấy có phước đức. Tu học Đại Thừa mà không có thiện căn, thiếu phước đức sẽ không xong! Do vậy, thiện căn và phước đức phải đầy đủ, gặp một vị thầy giỏi, một vị thiện tri thức tốt đẹp, nhân duyên đầy đủ, thật đúng như trong kinh này đã nói: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên đắc sanh bỉ quốc” (Chẳng thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cõi ấy). Vì vậy, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới phải trọn đủ ba điều kiện, nhất định phải có thiện căn, có phước đức, lại phải có nhân duyên gặp gỡ một vị thiện tri thức chân chánh.
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh là thiện tri thức chân chánh, từ chỗ này chúng ta nhận biết, thấu hiểu, lãnh ngộ: Thầy của ngài Thiện Tài là Văn Thù Bồ Tát. Văn Thù Bồ Tát tu pháp môn gì? Thưa quý vị, tu pháp môn Niệm Phật, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong kinh Hoa Nghiêm đã nói điều này rất rõ ràng! Thiện Tài là học trò đắc ý nhất của Văn Thù, đương nhiên Ngài nhất định truyền dạy pháp môn Niệm Phật. Chúng ta hãy mở phẩm Nhập Pháp Giới đọc kỹ, quý vị sẽ biết, quả nhiên không sai, xác thực là Ngài học pháp môn Niệm Phật. Niệm vị Phật nào? Niệm A Di Đà Phật, tức là pháp môn này của chúng ta. Thiện Tài đồng tử tu pháp này. Sở dĩ đến cuối cùng Ngài tham học năm mươi ba lần, quý vị phải hiểu vì sao thầy Ngài bảo Ngài đi tham học năm mươi ba lần? Quý vị phải hiểu ý nghĩa sau đây: Năm mươi ba lần tượng trưng cho các pháp môn và tri kiến khác nhau. Nói cách khác là các thứ dụ dỗ, mê hoặc thế gian và xuất thế gian, tượng trưng cho những thứ ấy. Năm mươi ba vị thiện tri thức có vị học Phật, cũng có vị là ngoại đạo, nam, nữ, già, trẻ, các ngành nghề đều có. Trong ấy chỉ có năm vị tỳ-kheo xuất gia, cư sĩ tại gia chiếm đại đa số, ngoại đạo cũng không ít. Các thứ dụ dỗ mê hoặc như vậy, quý vị đều trông thấy, nghe thấy, nhưng tâm quý vị chẳng động; đó gọi là “năm mươi ba lần tham học”. Quý vị thấy rõ ràng, nghe rõ ràng, nhưng một câu A Di Đà Phật vẫn niệm đến tột cùng, quyết định chẳng bị lay động. Đó gọi là “năm mươi ba lần tham học”.
Do vậy, đến cuối cùng, Phổ Hiền Bồ Tát làm một màn biểu diễn: Mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc. Không chỉ dẫn Thiện Tài về Tây Phương Cực Lạc thế giới, mà còn dẫn trọn bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong thế giới Hoa Tạng đều cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ; quý vị hãy nghĩ xem điều này có ý nghĩa ra sao? Đấy là nhằm bảo quý vị: Quý vị tu hành muốn thành A La Hán, thành Bích Chi Phật, thành Bồ Tát thì có thể thực hiện được trong những thế giới phương khác. Quý vị muốn thành Phật, tức là thành Tạng Giáo Phật, thành Thông Giáo Phật, thành Biệt Giáo Phật thì đều có thể tu trong các thế giới nơi phương khác; nhưng muốn thành Viên Giáo Phật, tức Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì chỉ có một chỗ, tức là Tây Phương Cực Lạc thế giới. Qua kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy được chuyện thù thắng chẳng thể nghĩ bàn này, mới hiểu pháp môn Niệm Phật là pháp môn bậc nhất, là pháp môn phương tiện thù thắng bậc nhất để mười phương Như Lai giáo hóa chúng sanh trong vô lượng vô biên pháp môn.
Quý vị đọc Hoa Nghiêm rồi mới chết sạch so đo, khắng khít niệm A Di Đà Phật. Trước khi thông suốt kinh Hoa Nghiêm, tôi cũng chẳng khác gì quý vị cho mấy. Hôm nay tính đọc kinh này, ngày mai toan xem kinh khác! Tôi giảng kinh hai mươi bảy năm, trong quá khứ giảng nhiều thứ quá, vì sao? Do không chống đỡ nổi sự dụ dỗ, mê hoặc. Nếu tôi vừa học Phật bắt đầu giảng kinh, liền giảng một bộ kinh, giảng bộ Di Đà Kinh Sớ Sao này suốt hai mươi bảy năm, ngày nay quý vị trông thấy tôi, ngay cả pháp sư Quảng Khâm trông thấy tôi cũng phải kêu tôi là A Di Đà Phật. Thật đấy, chẳng giả đâu!
Sở dĩ pháp môn quý ở chỗ chuyên nhất là vì chuyên nhất bèn thành công. Quá nhiều quá tạp thì thứ gì cũng chẳng tinh, đã chẳng thể lợi người, mà cũng chẳng thể lợi mình, hết sức đáng tiếc! Chúng tôi đọc bản kinh này, thấy mấy câu của Liên Trì đại sư, cảm thấy rất hợp lý! Kinh Hoa Nghiêm tiếp độ chúng sanh căn tánh Đại Thừa, kinh Di Đà thích hợp khắp ba căn, bất luận căn cơ như thế nào cũng đều bao gồm toàn bộ, quả thật chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, phải hiểu: Chỗ quy túc cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm là kinh Di Đà. Văn Thù, Phổ Hiền đều cầu sanh thế giới Tây Phương, đều là Đẳng Giác Bồ Tát. Chúng ta ngàn vạn phần đừng coi thường pháp môn này, đừng coi rẻ pháp môn này. Hầu như tất cả những người thật sự thành tựu đều là niệm Phật cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ.
Thất, hộ trì đa chướng hành nhân, bất tao đọa lạc cố.
七、護持多障行人,不遭墮落故。
(Bảy là vì hộ trì hành nhân nhiều chướng ngại chẳng bị đọa lạc).
Đối với chúng ta mà nói, điều này quan trọng nhất, vì sao? Đối với chúng ta mà nói, chúng ta có lắm chướng ngại.
(Diễn) Hộ trì đa chướng giả, thử độ nghiệp phong hạo đại.
(演) 護持多障者,此土業風浩大。
(Diễn: Hộ trì kẻ nhiều nghiệp chướng: Cõi này gió nghiệp to lớn mênh mông).
“Nghiệp” là tạo nghiệp. Tạo nghiệp là gì? Thưa quý vị, khởi tâm động niệm là tạo nghiệp. Sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài bèn phân biệt, chấp trước, khởi vọng tưởng, đó gọi là “tạo nghiệp”. Tôi vừa mới nói: Hiện thời, khoa học kỹ thuật phát triển, những thứ dụ dỗ, mê hoặc quá nhiều, những sản phẩm mới khác lạ mỗi tháng, mỗi ngày. Chúng ta lợi dụng máy móc thâu phát hình ảnh để giảng kinh, chúng ta là người làm chuyện này đầu tiên ở nơi đây, bắt đầu từ sáu năm trước. Hiện thời, những máy móc ấy cứ mỗi ba tháng lại xuất hiện sản phẩm mới, những thứ trước kia đều trở thành lạc hậu. Sức dụ dỗ, mê hoặc rất lớn. Khác lạ mỗi ngày, mỗi tháng, khiến cho chúng ta nghe đến hay tiếp xúc, chẳng thể không động tâm. Hễ quý vị vừa động tâm, liền bị ma khống chế. Do vậy, quý vị phải hiểu: Yêu ma quỷ quái là gì? Yêu ma quỷ quái chướng ngại quý vị, khiến quý vị sanh phiền não, giày vò quý vị. Những kẻ hằng ngày vắt óc suy nghĩ, tìm những thứ mới mẻ hoa dạng, tìm những sản phẩm mới để giày vò quý vị, là vì lẽ gì? Quý vị vừa trông thấy, trong lòng bèn nghĩ đồ đạc trong nhà mình đã lỗi thời, hãy mau mua thứ mới. Mua thứ mới chưa được mấy ngày, lại có thứ mới mẻ hơn xuất hiện. Tiền quý vị kiếm được hoàn toàn bị họ lừa sạch. Không chỉ bị họ lừa gạt, mà quý vị còn hằng ngày khổ não, lo lắng, làm cách nào cũng chẳng đuổi kịp bọn họ. Bàn tay của họ gọi là “bàn tay ma” (ma chưởng), [mọi người] đều bị bàn tay ma nắm gọn. Quý vị chẳng thoát ra được, nhưng nếu quý vị giác ngộ, ma chẳng có một tí biện pháp nào cả!
Một bộ quần áo tôi mặc mười năm chẳng rách, mặc kệ quý vị thích hoa dạng như thế nào, tôi như như bất động, tôi vẫn mặc bộ quần áo này. Mặc bộ quần áo này ra ngoài, người ta cười cợt, dè bỉu, tôi bảo quý vị: “Cười đến chết cũng đáng, kẻ khác chết, tôi chẳng chết!” Nói chung, quý vị là kẻ được hàng Bồ Tát thương xót, chỉ sợ người khác cười chết luôn. Do vậy, quý vị vĩnh viễn bị ma khống chế, rất khổ sở! Một cái tủ lạnh mà khéo gìn giữ, tối thiểu dùng được mười năm. Quý vị thật sự hiểu rõ đạo lý này, chẳng bị lay động bởi cảnh giới bên ngoài, sẽ sống dễ dàng, sống tự tại, rất thoải mái!
Nếu quý vị hằng ngày truy cầu những thứ mới mẻ hoa dạng, sẽ khổ sở chẳng kham, khổ sở quá mức! Thế nhưng mọi người đều mê, mê man những thứ mới mẻ, kiểu cọ, những kẻ [chế ra những thứ ấy] là ma, là yêu ma quỷ quái. Nếu quý vị thật sự hiểu đạo lý này, đừng để chúng nắm giữ, đừng để chúng lừa gạt, tâm phải định. Tâm quý vị đã định, ma chẳng thể làm gì quý vị được, đạo nghiệp của quý vị mới có thể tăng trưởng, cuộc sống mới có thể dư giả, mới có thể sung sướng, chẳng bị ngoại cảnh lay động. Đấy chính là nói tới “nghiệp phong to lớn mênh mông”.
(Diễn) Trần cảnh thô cường, nan ư tu tấn.
(演) 塵境粗強,難於修進。
(Diễn: Trần cảnh thô tháp, mạnh mẽ, khó thể tu hành tăng tấn).
“Tu” là tu hành, “tấn” là tăng tấn. Quả thật, xã hội hiện thời là trở lực (sức ngăn trở) không gì lớn bằng. Chỗ nào cũng đều dụ dỗ, mê hoặc quý vị. Không chỉ hoàn cảnh bên ngoài dụ dỗ, mê hoặc, mà còn có thứ dụ dỗ mê hoặc nghiêm trọng hơn nơi mặt tình cảm con người. Các pháp sư trong đạo tràng này ta đều có tình thân thiết, quen biết, không đến sẽ ngại lắm! Có ý nghĩ “ngại lắm” ấy, đạo nghiệp của chính mình bị lầm lỡ, đúng như trong phần trước có nói: Sơ Phát Tâm Bồ Tát chẳng thể độ chúng sanh, mà cũng chẳng độ được chính mình. Do vậy, hễ suy nghĩ, sẽ thấy thái độ của lão pháp sư Ấn Quang vẫn là chính xác. Cổ nhân thường nói: “Vô sự bất đăng Tam Bảo điện” (không có chuyện gì, chẳng lên điện Tam Bảo). Quý vị đến đó để làm gì? Nghe kinh thì có thể tới, đả Phật Thất có thể tới; chứ pháp hội nhằm cầu phước, tu phước, có đến hay không chẳng sao cả! Nghe kinh hòng hiểu rõ Lý, cho nên phải tới. Niệm Phật là khảo thí công phu tu hành, cho nên cần tới. Những thứ khác đều chẳng tất yếu, quý vị đến để làm gì? Bởi lẽ, đạo nghiệp là khẩn yếu!
(Diễn) Kim tắc niệm Phật chúng sanh, Phật thường trụ đảnh, vĩnh vô ma sự cố.
(演) 今則念佛眾生,佛常住頂,永無魔事故。
(Diễn: Nay chúng sanh niệm Phật thì Phật thường ở trên đầu, vĩnh viễn không có ma sự).
Điều này là chân thật, nhưng quý vị phải nhớ kỹ: Quý vị phải thật sự niệm Phật thì mới được. Quý vị nhất tâm trì danh, A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí thường hộ niệm quý vị. Không chỉ Tây Phương Tam Thánh hộ niệm, mà kinh này giảng đến phần sau, quý vị mới biết: Mười phương hết thảy chư Phật, không một vị nào chẳng hộ niệm, vì sao? Vì bộ kinh này là kinh được hết thảy chư Phật hộ niệm. Quý vị nhất tâm thọ trì, nói cách khác, hết thảy chư Phật, không một vị nào chẳng hộ niệm quý vị, làm sao quý vị gặp chướng ngại cho được? Đương nhiên là chẳng thể! Nếu quý vị tam tâm, nhị ý là xong, Phật chẳng thể hộ trì quý vị, vì sao? Quý vị chưa thành thục, chưa thể thành tựu trong một đời này. Nhất tâm trong một đời này ta quyết định muốn vãng sanh Tịnh Độ, vậy thì chư Phật nhất định giúp đỡ, nhất định chiếu cố, nhất định thỏa nguyện cho quý vị. Quý vị tam tâm, nhị ý thì chính mình chẳng có quyết tâm. Do vậy, chẳng được chư Phật hộ niệm.
Chư vị phải hiểu rõ đạo lý này. Không phải là Phật đối xử bất bình đẳng với chúng sanh, mà do chúng sanh có ý niệm sai biệt. Đại đa số con người miệng nói muốn vãng sanh, nhưng trong tâm vẫn chẳng có ý nghĩ ấy! Vì thế, chư Phật hiểu rất rõ, các Ngài chẳng đến làm phiền quý vị. Quý vị thật sự có ý niệm ấy, thái độ sẽ hoàn toàn biến đổi, biến đổi bắt đầu từ chỗ nào? Điều thứ nhất, quý vị mỗi ngày chỉ đọc tụng bộ kinh này, tuyệt đối chẳng đọc bộ kinh thứ hai. Tôi nói với quý vị: Thờ tượng một vị Phật, hằng ngày nhìn vào tượng vị Phật ấy. Dù có tượng Phật tốt đẹp hơn nữa, cũng chẳng ngó tới, thật sự chuyên tâm, thật sự nhất tâm xưng danh. Vẫn còn nghĩ phải đọc cái này, xem cái nọ; cái này khá quá, cái kia cũng rất hay, quý vị chẳng chuyên tâm. Nói cách khác, quý vị chẳng được chư Phật, Bồ Tát gia trì! Quý vị phải đặc biệt ghi nhớ điểm này!
Vì thế, chúng ta thờ một bức tượng Phật, suốt đời đừng nên thay đổi, đừng nên cải biến, đến khi quý vị lâm chung, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn quý vị, A Di Đà Phật sẽ hiện thân giống hệt bức tượng quý vị đang thờ, chẳng thể hiện thân khác, vì sao? Quý vị hằng ngày nhìn Ngài, ấn tượng rất thân thiết. Phật, Bồ Tát tùy loại hóa thân, sẽ hiện thân tướng thân thiết nhất đến tiếp dẫn quý vị. Quý vị thờ suốt đời, lễ bái suốt đời, đến lúc ấy, Ngài quả nhiên đến đón tiếp quý vị, sẽ hoan hỷ lắm! Vì thế, thờ một bức tượng Phật, niệm một bản kinh, điều gì cũng chuyên nhất, trong mười hai thời, niệm niệm chẳng lìa bốn chữ hồng danh. Niệm sáu chữ cũng được. Đó mới là “nhất tâm trì danh”. Hôm nay đã hết thời gian rồi!
— o0o —
Tập 50
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang sáu mươi bốn:
(Huyền Nghĩa) Thất, hộ trì đa chướng hành nhân, bất tao đọa lạc cố.
(玄義) 七、護持多障行人,不遭墮落故。
(Huyền Nghĩa: Bảy là vì hộ trì hành nhân lắm chướng ngại khiến cho họ chẳng bị đọa lạc).
“Chướng”: Chúng ta thường nói tới Nhị Chướng, Tam Chướng. “Đa chướng”: Nhất là trong thời Mạt Pháp, nói cách khác, trong thời đại hiện tại của chúng ta, không chỉ là ngũ dục lục trần đem lại rất nhiều chướng ngại cho chúng ta. Ví như những điều mắt chúng ta thấy, tai chúng ta nghe đều khiến chúng ta khởi tâm động niệm. Khởi tâm động niệm là chướng ngại. Vì sao nói khởi tâm động niệm là chướng ngại? Phật pháp bất luận Đại Thừa hay Tiểu Thừa đều lấy Thiền Định làm mấu chốt tu học. Nói cách khác, tám vạn bốn ngàn pháp môn chẳng qua là những phương pháp hay phương cách khác nhau, tức là có tám vạn bốn ngàn loại phương tiện hay phương pháp khác nhau, nhưng đều tu điều gì? Tu Thiền Định mà thôi! Trong kinh đã nói rõ ràng pháp môn này là “nhất tâm bất loạn, tâm không điên đảo”. Đây là Thiền Định, nhất tâm bất loạn là Thượng Thượng Thiền. Vì thế, chúng ta phải hiểu rõ: Chỉ cần gây chướng ngại cho nhất tâm bất loạn, khiến cho tâm chúng ta điên đảo, vọng tưởng, thì đều gọi là “chướng ngại”.
Trong thế gian hiện thời, chướng ngại quá nhiều, không thể kể xiết! Không chỉ pháp thế gian gây chướng ngại, mà lại thưa cùng quý vị, trong Phật pháp cũng chướng ngại trùng trùng! Người thế gian bị ngũ dục, lục trần chướng lấp, đọa lạc trong sanh tử luân hồi; người xuất gia học đạo bị kiến giải gây chướng: Giới Thủ Kiến và Kiến Thủ Kiến, hai thứ kiến giải này gây chướng ngại, khiến họ chẳng đắc Thiền Định, chẳng thể đắc nhất tâm. Quả thật lắm chướng ngại! Vì thế, tôi thường khuyên các đồng tu: Chúng ta học thứ gì thì học một thứ, học hai thứ sẽ phân tâm, học ba thứ càng hỏng bét! Đúng như Thanh Lương đại sư khi giải thích đề mục kinh Hoa Nghiêm đã nói: Quý vị học nhiều thứ sẽ tăng trưởng tà kiến, đúng là chẳng giả chút nào! Tà kiến là gì? Chỉ cần là tri kiến thì đều gọi là tà kiến. Vì sao? Trong tâm thanh tịnh không có tri kiến, quý vị đọc kinh Lăng Nghiêm sẽ hiểu rõ. Tôn giả Phú Lâu Na thỉnh giáo Thích Ca Mâu Ni Phật: “Vô minh do đâu mà có?” Đức Phật bảo rõ ràng: “Tri kiến lập tri, thị vô minh bổn” (Từ trên tri kiến lại lập thêm một cái biết nữa, đó là cội gốc của vô minh). Quý vị có tri kiến, đấy chính là cội gốc của vô minh. Trong kinh Bát Nhã có câu: “Bát Nhã vô tri”. Vô tri là Phật tri Phật kiến, là tri kiến của Phật, là bản thể của cái tâm thanh tịnh, khi nó khởi tác dụng sẽ là “không gì chẳng biết”.
Tâm Phật thanh tịnh chẳng sanh một niệm. Khi Ngài đối trước đại chúng đông đảo dường ấy, chúng ta có rất nhiều phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, khổ não, đức Phật bèn giải đáp cho chúng ta từng điều một, phá trừ cho chúng ta. Đấy chính là Ngài “không gì chẳng biết”, từ cái tâm thanh tịnh lưu lộ Bát Nhã trí chiếu. Do vậy, đó mới gọi là trí huệ chân chánh. Trí huệ chân chánh từ nhất tâm bất loạn mà có. Nói cách khác, nó vốn sẵn trọn đủ trong nhất tâm, chẳng phải do học được từ bên ngoài. Vì thế, chúng ta đã muốn tu nhất tâm bất loạn thì quý vị chỉ có thể đi theo một con đường mới hòng đạt được nhất tâm bất loạn. Quý vị đi theo hai con đường, sẽ chẳng thể nào không loạn! Quý vị đi ba con đường hay bốn con đường, mong chẳng bị loạn là chuyện không thể nào được! Vì thế, kinh chỉ cần học một thứ, thâm nhập một môn, đọc tụng cũng như thế. Đọc kinh là tu hành, là tu nhất tâm bất loạn, là Tam Học Giới – Định – Huệ hoàn thành cùng một lượt.
(Diễn) Hộ trì đa chướng giả, thử độ nghiệp phong hạo đại.
(演) 護持多障者,此土業風浩大。
(Diễn: Hộ trì kẻ lắm chướng ngại: Cõi này gió nghiệp to lớn, mênh mông).
“Nghiệp” là nghiệp lực, “phong” (gió) là tỷ dụ. Gió là động, do nghiệp lực thúc đẩy quý vị.
(Diễn) Trần cảnh thô cường.
(演) 塵境粗強。
(Diễn: Trần cảnh thô tháp, mạnh mẽ).
Các thứ cảnh giới ngũ dục lục trần dụ dỗ, mê hoặc quý vị. Hiện thời, ngay cả Phật pháp cũng dụ dỗ, mê hoặc quý vị. Chúng ta là người nhất tâm niệm Phật, thấy đạo tràng nọ đả Thiền Thất, bên đạo tràng kia lại đang giảng kinh thuyết pháp. Ngoài ra, còn có Mật Tông đang học trì chú ở nơi kia, khiến tâm hoa của quý vị nhiễu loạn, chẳng biết noi theo đường nào! Những chuyện ấy phá hoại nhất tâm, phá hoại đạo nghiệp của quý vị. Tục ngữ có câu: “Ninh động thiên giang thủy, bất động đạo nhân tâm” (Thà khuấy động nước của ngàn con sông, chẳng khuấy động tâm người tu đạo). Ngũ dục lục trần khiến tâm quý vị dao động, vô lượng pháp môn trong Phật pháp cũng khiến cho quý vị dao động. Do vậy, nguyên nhân khiến cho học Phật chẳng dễ gì thành tựu là ở chỗ này. Nếu có thể giữ vững một pháp, người ấy quyết định thành công.
Từ xưa đến nay, những bậc đại thiện tri thức vãng sanh không có bí mật nào khác, chỉ là suốt đời giữ vững một câu A Di Đà Phật, niệm đến tột cùng, họ bèn thành công. Chẳng những họ không tiêm nhiễm ngũ dục, lục trần, mà đối với vô lượng pháp môn cũng chẳng động tâm. Trong vô lượng pháp môn, ta chỉ vâng giữ một pháp môn là đủ rồi. Nếu quý vị đối với Phật pháp và thế gian pháp thứ gì cũng đều muốn học, sẽ đúng như Ấn Quang đại sư thường quở trách những kẻ sơ học: “Muốn trở thành bậc đại thông gia, thứ gì cũng đều học, thứ gì cũng đều thông, kết quả, thứ gì cũng chẳng thể thành tựu”. Đấy chính là “tham đa, tước bất lạn” (tham nhiều, nhai chẳng nát). Mỗi thứ đều hiểu lớt phớt bề ngoài, thứ gì cũng chẳng đắc lực!
(Diễn) Nan ư tu tấn.
(演) 難於修進。
(Diễn: Khó thể tu hành tăng tấn).
Học nhiều, chẳng những không có tiến bộ, mà tu hành cũng sanh ra lắm chướng ngại to nặng, chẳng biết tu cái gì cho tốt đẹp. Do vậy, từ xưa đến nay, trong đạo tràng nhất định có tông chỉ, có đạo phong và học phong độc đáo đặc biệt, người ở nơi ấy nhất định có thành tựu. “Đạo phong” là pháp môn tu hành, là pháp môn tiêu biểu, là pháp môn được mọi người cùng nhau tu học. Đó là đạo phong. Ví như thư viện của chúng ta đề cao pháp môn Tịnh Độ. Mỗi Chủ Nhật kết hội niệm Phật, đó là đạo phong của chúng ta. Thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu chỉ giảng một bộ A Di Đà Kinh, đó là học phong của chúng ta. Kinh của chúng ta là một bộ, giảng xong bèn giảng lại từ đầu, giảng từng biến, từng biến vĩnh viễn không ngưng nghỉ, thâm nhập một môn! [Đó gọi là học phong].
Các vị đồng tu ở nơi đây cũng nghe rất lâu, mỗi một biến đều khác nhau, mỗi biến chẳng giống nhau. Có đồng tu nói với tôi: “Gần đây, kinh này giảng quá sâu, có những người mới học nghe không hiểu!” Không sai! Quả thật có sâu một chút. Nếu vẫn dùng phương pháp cũ như trước đây, giảng nông cạn như vậy, mọi người cũng chẳng muốn nghe, đều bỏ đi hết! Rốt cuộc, người mới đến thì ít, các đồng tu lâu năm thì nhiều, mỗi biến [giảng] khác nhau thì quý vị mới biết mỗi chữ, mỗi câu trong bộ kinh này quả thật chứa đựng vô lượng nghĩa.
(Diễn) Kim tắc niệm Phật chúng sanh, Phật thường trụ đảnh vĩnh vô ma sự cố.
(演) 今則念佛眾生,佛常住頂永無魔事故。
(Diễn: Nay chúng sanh niệm Phật thì Phật thường ở trên đỉnh đầu, vĩnh viễn không có ma sự).
Đây là sự thật, vì sao? Vì bộ kinh này là kinh được hết thảy chư Phật hộ niệm. Mười phương ba đời không có một vị Phật nào chẳng hộ niệm bộ kinh này, không có vị Phật nào chẳng hoằng dương bộ kinh này, không có vị Phật nào chẳng khuyên người vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ. Nếu quý vị niệm kinh Di Đà, tu hành pháp môn này, trong mười hai thời chẳng quên một câu A Di Đà Phật, chẳng phải là một hai vị Phật bảo vệ, che chở quý vị, mà mười phương ba đời hết thảy chư Phật đều phải chiếu cố quý vị, đều phải hộ niệm quý vị, làm sao quý vị gặp ma sự cho được? Quý vị chẳng gặp! Quý vị phải cẩn thận: Người tham Thiền, người trì chú học Mật dễ gặp ma chướng. Người niệm Phật mà thật sự niệm Phật, tuyệt đối chẳng có ma chướng. Đấy là chỗ đặc biệt thù thắng của pháp môn này. Vì thế, đức Phật phải nói bộ kinh này, nhất là vì trong thời Mạt Pháp lắm chướng ngại, kinh này có thể hộ trì người tu hành, [khiến cho người ấy] chẳng đến nỗi gặp phải ma chướng, chẳng đến nỗi đọa lạc!
(Huyền Nghĩa) Bát, đích chỉ tức hữu niệm tâm, đắc nhập vô niệm cố.
(玄義) 八、的指即有念心,得入無念故。
(Huyền Nghĩa: Tám là nhằm chỉ đích xác: Dùng ngay cái tâm hữu niệm để niệm Phật hòng nhập vô niệm).
Điều này hết sức trọng yếu. Có rất nhiều người thường đến hỏi: “Chúng tôi nay đang dùng cái tâm phân biệt, tâm chấp trước để niệm Phật. Chúng tôi niệm bằng hữu tâm thì có thể thành công hay chăng?” Thưa quý vị, có thể thành công! Hữu tâm niệm là Sự niệm. Trì danh niệm Phật có hai phương thức: Một là Sự Trì, hai là Lý Trì. Nhất tâm bất loạn có hai thứ: Có Sự nhất tâm và có Lý nhất tâm. Hữu tâm niệm là Sự Trì, khi đạt đến vô tâm niệm bèn là Lý Trì; nhưng hiện thời chúng ta chưa thể học Lý Trì được, vì sao? Công phu chẳng đủ! Nhất định là trước hết phải từ Sự Trì, sau đấy mới tiến nhập Lý Trì. Chúng ta đừng coi thường Sự Trì, vì sao? Quyết định vãng sanh! Thế giới Tây Phương có bốn cõi, ba bậc, chín phẩm. Cõi Phàm Thánh Đồng Cư và cõi Phương Tiện Hữu Dư đều do Sự Trì thành công mà vãng sanh; còn cõi Thật Báo Trang Nghiêm thì phải do Lý Trì mới có thể vãng sanh.
Nói đến công phu niệm Phật, có thể chia thành ba tầng cấp: Thứ nhất là công phu thành phiến. Quý vị phải biết, công phu thành phiến thật sự thì quý vị thành tựu vãng sanh, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng có ba bậc chín phẩm, ba phẩm bậc Thượng, ba phẩm bậc Trung và ba phẩm bậc Hạ. Đại khái từ Trung Thượng trở lên, tức là bốn tầng cấp Thượng Thượng, Thượng Trung, Thượng Hạ và Trung Thượng, có thể biết trước lúc mất, tự tại vãng sanh. Vì thế, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới muốn đi lúc nào bèn ra đi lúc đó, muốn trụ thêm mấy năm bèn trụ bấy nhiêu năm thì phải niệm đến công phu nào? Thưa quý vị, niệm đến mức công phu thành phiến là được rồi. Công phu thành phiến bậc Thượng là đủ rồi, hoàn toàn chưa đạt đến nhất tâm bất loạn, chứ đã đạt đến nhất tâm bất loạn thì chẳng cần phải nói nữa.
Khi đạt tới Sự nhất tâm bất loạn, sẽ sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư. Công phu này nếu dùng Tiểu Thừa để giảng thì tương đương với A La Hán và Bích Chi Phật, là công phu khá cao. Vì thế, A La Hán và Bích Chi Phật vẫn dùng hữu tâm, vẫn chưa đạt đến vô tâm. Nói theo Viên Giáo, vô tâm phải từ Sơ Trụ trở lên, còn trong Biệt Giáo là từ Sơ Địa trở lên. Đấy là hạng đại Bồ Tát, họ được kinh Hoa Nghiêm gọi là Pháp Thân đại sĩ, mới đạt đến vô tâm. Do vậy, chúng ta niệm Phật, nhất định phải hiểu cảnh giới này. Công phu hiện thời của chúng ta thuộc tầng cấp nào, phải hiểu rõ ràng, minh bạch, chính mình hằng ngày phải nâng cao cảnh giới, giống như lão hòa thượng Quảng Khâm biết trước lúc mất, đến đi tự tại. Tôi thưa cùng quý vị: Mỗi một người đều có thể làm được, chỉ cần quý vị chịu tin tưởng, thật sự y giáo phụng hành, chiếu theo những lý luận, phương pháp và cảnh giới đã giảng trong kinh này để tu hành, không ai chẳng thành công.
Lại thưa cùng quý vị: Đấy là đại sự duy nhất của chúng ta trong một đời này, những chuyện khác đều là chuyện “lông gà, vỏ tỏi” chẳng liên can gì tới mình, là chuyện thuộc về sanh tử, thuộc luân hồi, chẳng phải là chuyện liên can tới ta. Nay chúng ta muốn liễu sanh tử, vượt thoát luân hồi thì phải thành Phật trong một đời này. Kinh này đã giảng rất khéo: Dẫu là Hạ Phẩm Hạ Sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái. Chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái bèn thành Phật. Nói cách khác, chẳng vãng sanh thì thôi, chỉ cần vãng sanh thì bất luận phẩm vị cao hay thấp sẽ đều thành Phật! Còn có pháp môn
nào khác có thể thù thắng hơn pháp môn này hay chăng?
(Diễn) Đích chỉ hữu niệm tâm giả, hữu niệm, tức niệm Phật chi tâm, vô niệm, tức Chân Như chi Thể.
(演) 的指有念心者 , 有念 , 即念佛之心,無念,即真如之體。
(Diễn: “Chỉ đích xác dùng cái tâm hữu niệm để niệm Phật”: Hữu niệm là cái tâm niệm Phật, vô niệm là Thể của Chân Như).
“Vô niệm” là nói tới bản thể, tức là “Chân Như chi Thể”, đó là bổn tánh của Chân Như, [hay nói gọn là] bổn tánh. Lục Tổ đại sư nói rất hay: “Nào ngờ tự tánh, vốn sẵn thanh tịnh”, đó gọi là “vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần?” Đấy là vô niệm, vô niệm là bản thể của tự tánh. Hữu niệm là tự tánh khởi tác dụng. Hữu niệm được nói ở đây chính là cái tâm ý thức.
(Diễn) Nhất thiết pháp môn, vô phi giáo nhân ly niệm, quy ư Chân Như.
(演) 一切法門,無非教人離念,歸於真如。
(Diễn: Hết thảy các pháp môn, không pháp môn nào chẳng dạy người ta lìa niệm, trở về Chân Như).
Câu này là tổng cương lãnh của toàn bộ Phật pháp. Hết thảy pháp môn, tám vạn bốn ngàn pháp môn, [kể cả] pháp môn Niệm Phật cũng không ra ngoài lệ ấy. Mục đích vãng sanh Tây Phương của pháp môn Niệm Phật là sanh vào Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Vì thế, chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn phải tiếp tục tu hành không ngừng. Nếu chúng ta sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, phải biết trên đó còn có cõi Phương Tiện Hữu Dư, cõi Thật Báo Trang Nghiêm, cõi Thường Tịch Quang. Giống như học hành trong nhà trường, quý vị đậu Đại Học mới là năm thứ nhất, phía trên còn có năm thứ hai, năm thứ ba, năm thứ tư thì mới tốt nghiệp. Pháp môn này cũng không nằm ngoài lệ ấy, cũng phải “quy ư Chân Như” (trở về Chân Như); nhưng trong các hạnh môn khác, để đạt đến cảnh giới này, phải trải qua một thời gian rất dài, thường nói là “ba đại A-tăng-kỳ kiếp”. Vô lượng kiếp tu hành mới có thể thành tựu, nhưng pháp môn Tịnh Độ thật sự thành tựu trong một đời. Chúng ta cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới trong một đời, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thành tựu viên mãn Bồ Đề cũng là một đời. Vì thế, pháp môn này được gọi là “Phật pháp thành tựu trong một đời”.
(Diễn) Kim thử pháp môn, bất tất xả niệm, đắc nhập vô niệm cố.
(演) 今此法門,不必捨念,得入無念故。
(Diễn: Nay pháp môn này không cần xả niệm mà nhập vô niệm).
Chúng ta chẳng khởi nghi hoặc, chẳng bận lòng, một câu Phật hiệu niệm đến tột cùng, cũng chẳng cần phải hỏi là hữu niệm hay vô niệm, cứ niệm là được rồi. Niệm đến khi tâm cảnh của quý vị thanh lương, tự tại, tự nhiên sẽ có cảm ứng. Đó là chỗ thù thắng của pháp môn này.
(Huyền Nghĩa) Cửu, xảo thị nhân ư vãng sanh, thật ngộ Vô Sanh cố.
(玄義) 九、巧示因於往生,實悟無生故。
(Huyền Nghĩa: Chín là khéo léo chỉ bày: Do vãng sanh mà thật sự ngộ Vô Sanh).
Ý nghĩa này giảng như thế nào? Chúng ta hãy xem sách Diễn Nghĩa.
(Diễn) Thật ngộ Vô Sanh giả, pháp bổn vô sanh.
(演) 實悟無生者,法本無生。
(Diễn: “Thật ngộ vô sanh”: Pháp vốn vô sanh).
Đây là sự thật. Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật đã nói: “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ” (Pháp này trụ pháp vị, tướng thế gian thường trụ). Hết thảy pháp thật sự bất sanh bất diệt, trong cảnh giới của Bồ Tát, [sự thấy biết ấy] gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Hàng Bồ Tát thuộc địa vị sâu thấy hết thảy pháp bất sanh, bất diệt. Vì thế, đức Phật nói “hết thảy pháp vô sanh”, Ngài đã thấy. “Nhẫn” có thể hiểu là “đồng ý”. Đức Phật nói hết thảy pháp bất sanh, con đồng ý, con chấp nhận, đó gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Thế nhưng đối với lũ phàm phu chúng ta thì chưa được, bọn phàm phu chúng ta thấy hữu tình chúng sanh có sanh, già, bệnh, chết, vô tình chúng sanh như thực vật có sanh, trụ, dị, diệt, khoáng vật cho đến tinh cầu có thành, trụ, hoại, không. Sanh diệt trong từng sát-na, vô thường! Chúng ta thấy như vậy! Đức Phật và các vị đại Bồ Tát thấy hoàn toàn khác hẳn chúng ta. Đức Phật và các vị đại Bồ Tát thấy hết thảy pháp bất sanh bất diệt, chúng ta không có cách nào tiếp nhận điều này, không có cách gì thấu hiểu được. Nhưng điều đức Phật nói chính là chân tướng, còn những gì chúng ta thấy là “vọng tướng” (tướng hư vọng). Khi nào chúng ta mới có thể thấy được chân tướng sự thật? Tôi lại thưa cùng quý vị: Thật ra, tướng đều là chân thật, trong tướng đâu có chân hay vọng? Chân hay vọng là do cái tâm của chính mình.
Cái tâm của chúng ta hiện thời là tâm sanh diệt, vọng tâm, khởi lên ý niệm, một ý niệm này vừa sanh, ý niệm kia bèn diệt, đó gọi là “sanh diệt tâm”. Dùng cái tâm sanh diệt thấy Thật Tướng của các pháp thì tướng bất sanh bất diệt cũng biến thành tướng sanh diệt, giống như dùng máy thu hình để quay phim, một giây chụp được hai mươi bốn tấm. Mỗi lần ống kính mở bèn chụp một tấm, ngay lập tức đóng lại, sau đó mở ra lại chụp tấm thứ hai. Trong một giây mở đóng hai mươi bốn lần, chụp được hai mươi bốn tấm. Đặt hai mươi bốn tấm phim ấy trong máy chiếu để chiếu liên tục, quý vị sẽ thấy hình ảnh giống như thật, điện ảnh mà! Thật ra là từng tấm phim một, chúng bất động, căn bản là không có sanh diệt. Trên màn bạc quý vị thấy những động tác, nhưng nếu mở cuộn phim ra xem, nó không có động tác, bất sanh, bất diệt! Tâm chúng ta giống như ống kính đóng mở trong máy thu hình. Do cái tâm sanh diệt mà thấy cảnh giới bên ngoài là tướng sanh diệt, chuyện là như vậy đó. Vì sao Phật, Bồ Tát thấy hết thảy pháp bất sanh bất diệt? Phật, Bồ Tát đã diệt cái tâm sanh diệt, đã đạt nhất tâm bất loạn. Sanh diệt là nhị tâm, chẳng phải là nhất tâm. Nhất tâm là bất sanh bất diệt. Do vậy, quý vị dùng cái tâm bất sanh bất diệt để nhìn cảnh giới bên ngoài thì nó cũng là bất sanh bất diệt. Quý vị dùng cái tâm sanh diệt, sẽ thấy cảnh giới bên ngoài là sanh diệt.
Những điều đức Phật đã dạy trong kinh là dựa trên Nhị Đế để thuyết pháp. Nhị Đế là gì? Một là Chân Đế, tức cảnh giới do chính Ngài đã chứng đắc, Ngài nói lời chân thật, bảo chúng ta hết thảy các pháp bất sanh bất diệt. Tục Đế là thuận theo tri kiến của mọi người, theo kiến thức thông thường, nói hết thảy pháp có sanh, có diệt, nói hết thảy pháp vô thường, tùy thuận chúng ta mà nói. Giữa Chân Đế và Tục Đế, quyết định không có mâu thuẫn, chúng ta phải thấu hiểu điều này. Pháp chân thật là “pháp vốn vô sanh”, đã là vô sanh, đương nhiên vô diệt. Trung Quán Luận giảng đạo lý này bằng “bát bất” như sau: “Bất sanh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất khứ” (chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng một, chẳng khác, chẳng đến, chẳng đi). Câu nào cũng đều là lời chân thật.
(Diễn) Chúng sanh mê muội, ư vô sanh trung, vọng kiến sanh diệt.
(演) 眾生迷昧,於無生中,妄見生滅。
(Diễn: Chúng sanh mê muội, từ trong vô sanh mà lầm lạc thấy có sanh diệt).
Đó gọi là phàm phu, gọi là chúng sanh. Mê hoặc, điên đảo, nhìn sai chân tướng sự thật, nhìn chẳng sanh diệt thành có sanh diệt. Do vậy bèn có khổ não, hễ sanh thì quý vị bèn hoan hỷ, hễ diệt bèn đau khổ. Những thứ “khổ, lạc, ưu, hỷ, xả” ấy nói thật ra cũng là giả, cũng chẳng thật, chúng là một loại cảm nhận không đúng mực, không bình thường. Cảm nhận đúng mực bình thường sẽ gọi là Tam-muội. Chữ Tam-muội như trong kinh Phật nói được dịch [sang tiếng Hán] là Chánh Thọ. Chánh Thọ tức là sự hưởng thụ đúng mực, bình thường. Sự hưởng thụ đúng mực bình thường là thanh tịnh, trong hết thảy cảnh giới tâm không có phân biệt, chấp trước. Vì thế, nói hết thảy khổ, lạc, ưu, hỷ, xả đều chẳng nhận lấy, đó gọi là Chánh Thọ. Cái tâm ấy gọi là Phật tâm. Chúng ta học Phật chủ yếu là học cái tâm này, tâm ấy là chân tâm, là bổn tánh. Học Phật không gì chẳng nhằm khôi phục cái bổn tánh ấy mà thôi!
(Diễn) Túng dục diệt sanh quy vô, kỳ sanh chuyển xí.
(演) 縱欲滅生歸無,其生轉熾。
(Diễn: Nếu muốn diệt “sanh diệt” để trở về vô sanh thì cái tâm sanh diệt ấy càng mạnh mẽ).
“Sanh” là sanh diệt. [“Diệt sanh”] là diệt trừ sự sanh diệt. “Quy vô” là vô sanh. [“Diệt sanh quy vô”] là diệt trừ sự có sanh diệt nhằm trở về vô sanh. Quý vị muốn làm như vậy sẽ bị rắc rối lớn, “kỳ sanh chuyển xí” (sự sanh diệt ấy càng thêm mạnh mẽ): “Sanh” ấy chính là tâm sanh diệt, [quý vị toan diệt trừ cái tâm sanh diệt] thì cái tâm sanh diệt ấy ngày càng lừng lẫy. Nếu quý vị không tin, có thể thử xem! Quý vị ngồi nơi đó: “Tâm tôi chuyện gì cũng không nghĩ đến, tôi niệm A Di Đà Phật”. Ngồi chưa được bao lâu, chẳng biết là bao nhiêu ý niệm từ nơi đâu khởi lên! Càng mong trấn áp những ý niệm ấy, ý niệm càng nhiều; trấn áp cách nào cũng không trấn áp được, đó là “kỳ sanh chuyển xí”. Chuyện này phiền phức lắm!
Nói thật ra, trọn chẳng phải là lúc bình thường quý vị không có vọng niệm nhiều như thế. Lúc bình thường vọng niệm cũng nhiều ngần ấy, nhưng quý vị không cảm nhận được. Một phen lắng lòng chú ý, mới phát hiện vọng niệm nhiều dường ấy. Làm như thế nào? Quý vị đừng sợ! Từ xưa đến nay, ngay cả lúc Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, tuyệt đại đa số các đồ đệ của Ngài giống hệt như chúng ta, chẳng có sai biệt gì; nhưng quý vị phải cảnh giác: Hãy mặc kệ vọng niệm, đừng quan tâm đến chúng. Quý vị càng quan tâm, vọng niệm càng nhiều; càng cố ngăn dứt, càng chẳng được! Biện pháp tốt nhất là xoay chuyển sức chú ý. Ví như chúng ta niệm Phật, toàn bộ tinh thần tập trung nơi Phật hiệu, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, ta chỉ chú ý sao cho Phật hiệu không gián đoạn, vọng niệm sẽ mất, [vọng niệm] nhiều cũng được, ít cũng được, thiện niệm cũng được, ác niệm cũng được, nhất loạt không quan tâm đến nó. Quý vị mặc kệ vọng niệm, nó sẽ tự nhiên ít đi!
Toàn bộ tinh thần chuyên chú nơi một câu Phật hiệu, câu Phật hiệu sẽ hữu lực. Có sức gì vậy? Có sức mạnh diệt vọng niệm. Có rất nhiều người chẳng biết phương pháp này; vọng niệm vừa khởi, kẻ ấy không dám niệm Phật nữa. Kẻ ấy nói: “Khi tôi không niệm Phật thì chẳng có vọng niệm. Khi vừa mới niệm Phật, vọng niệm càng nhiều”. Để cho vọng niệm diệt mất Phật hiệu, vậy là hỏng bét rồi! Chẳng thể được! Lầm lẫn to lớn! Do vậy, đồng tu gặp phải tình hình ấy đừng sợ hãi, nhất định phải dùng Phật hiệu để diệt vọng niệm, ngàn vạn phần đừng để vọng niệm diệt Phật hiệu, [nếu để vọng niệm diệt mất Phật hiệu thì] không có cách nào hết! Phương pháp này chính là dùng sức chú ý để dốc toàn bộ tinh thần nơi Phật hiệu, đó gọi là công phu. Vọng niệm của quý vị ngày một giảm thiểu, quý vị niệm Phật có tiến bộ, cảnh giới hết sức tốt đẹp. Khi nào niệm đến mức vọng niệm không còn nữa, đó chính là công phu thành phiến. Tuy chẳng có vọng niệm, nhưng hoàn toàn chưa đoạn phiền não, thì gọi là công phu thành phiến. Vọng niệm không có, mà phiền não cũng đoạn, quý vị đã đắc nhất tâm bất loạn.
Ở đây có một sự khảo nghiệm, phải thường tự khảo nghiệm chính mình trong cảnh giới. Ví như quý vị gặp thuận cảnh chẳng sanh tâm hoan hỷ, trong nghịch cảnh chẳng sanh tâm nóng giận, do công phu ấy, quý vị mới thật sự nắm vững sự vãng sanh. Nếu nói “hiện thời, tôi không có hết thảy vọng niệm” mà người ta chửi quý vị mấy câu, tuy chẳng nổi nóng đùng đùng, nhưng nói chung vẫn có một tí bực bội, công phu quý vị nếu tính hết mức chỉ là công phu thành phiến, chưa đạt đến nhất tâm bất loạn! Vì sao? Nếu đạt đến nhất tâm bất loạn thì Kiến Tư phiền não thảy đều đoạn hết, chẳng sanh nữa, lẽ nào quý vị vẫn còn sanh [lòng bực bội]? Vẫn còn có lúc [nóng giận] trồi lên đôi chút thì chứng tỏ quý vị chưa đoạn phiền não, chỉ là công phu sâu, đè nén phiền não, khiến cho phiền não chẳng thể dấy lên hiện hành. Thứ công phu này là công phu thành phiến, là đới nghiệp vãng sanh, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư.
Người thật sự đoạn phiền não, tâm chắc chắn thanh tịnh. Nay quý vị cầm dao giết người ấy, người ấy cũng chẳng có một niệm sân hận vì tâm sân hận đã đoạn, không còn tâm sân hận. Nay quý vị đem bảy báu trong khắp tam thiên đại thiên thế giới cúng dường người ấy, người ấy cũng chẳng sanh lòng hoan hỷ vì người ấy chẳng có tâm tham, đã thật sự đoạn rồi! Vì thế, hễ có mảy may ưa ghét nào, chứng tỏ quý vị chưa đoạn phiền não, công phu dù tốt đẹp đến mấy vẫn là “lấy đá đè cỏ”. Chỉ cần đá đè được cỏ, chắc chắn sẽ vãng sanh. Đó là ba bậc chín phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Dùng công phu này thì chẳng có cách nào thành tựu trong các pháp môn khác được! Trong các pháp môn khác, nhất định phải đoạn Kiến Tư phiền não rồi mới có thể liễu sanh tử, xuất tam giới. Chỉ riêng pháp môn Niệm Phật, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, chỉ có mình pháp môn này là đới nghiệp vãng sanh, chỉ cần quý vị chế ngự phiền não là được rồi, không cần đoạn! Quý vị phải hiểu, đoạn phiền não khó lắm, khuất phục phiền não thì chúng ta có thể làm được. Trong một đời, chúng ta có thể khuất phục phiền não, không thành vấn đề! Tôi có thể nói là ai nấy đều có thể làm được, nhưng đoạn phiền não thì chẳng thấy ai cũng đều có thể làm được! Trong ngàn vạn người, khó được một kẻ!
Trong thứ tự tu hành, nhất định là trước hết phải chế phục phiền não. Chế phục rồi tiến thêm bước nữa là mong đoạn phiền não. Đoạn phiền não rồi tiến thêm bước nữa là cầu khai trí huệ. Công phu có ba tầng cấp. Thật ra, điều này cũng chẳng khác gì những điều đã nói trong Thiền Tông. Trong tác phẩm chú giải kinh Kim Cang, cư sĩ Giang Vị Nông nói học Thiền có ba tầng cấp. Thật ra, ba tầng cấp như ông ta đã nói cũng là một thứ mang tánh nguyên tắc trong Phật pháp. Thiền chẳng tách rời, mà Giáo cũng chẳng tách rời nguyên tắc ấy. Công phu thứ nhất là quán chiếu, quán chiếu và công phu thành phiến tương đồng. Tầng thứ hai là chiếu trụ; chiếu trụ giống Sự nhất tâm bất loạn. Tầng công phu thứ ba là chiếu kiến, giống như Lý nhất tâm. Trong Tâm Kinh, “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến Ngũ Uẩn giai Không”, đấy là chiếu kiến, là tầng công phu cao nhất. Đối với người niệm Phật, [công phu này] là Lý nhất tâm bất loạn; nhưng thấp hơn công phu này thì nhất định phải có chiếu trụ hay quán chiếu. Vì vậy, yêu cầu thứ nhất của chúng ta trong hiện thời là mong sao một câu Phật hiệu có sức mạnh hàng phục phiền não.
Thật ra, phương pháp trong kinh Kim Cang không hay bằng pháp môn Niệm Phật. Trong kinh Kim Cang, tôn giả Tu Bồ Đề nêu ra hai câu hỏi: Nên trụ như thế nào và nên hàng phục cái tâm như thế nào. Đem hai câu này hỏi người niệm Phật thì đâu cần phải nói nhiều như thế? Tôi phải làm thế nào để hàng phục vọng niệm và cái tâm vọng tưởng ư? Niệm A Di Đà Phật là được rồi! Tâm của tôi phải trụ ở nơi đâu ư? Trụ nơi A Di Đà Phật là được rồi! Quý vị thấy đó: Kinh Kim Cang nói dài dòng dường ấy, đối với người niệm Phật, một câu A Di Đà Phật giải quyết hết sạch, đơn giản hơn nhiều! Pháp môn này đúng là đơn giản nhất, thẳng chóng nhất, ổn thỏa, thích đáng nhất, chí viên, chí đốn, chẳng phiền phức tí nào. Pháp môn này thù thắng, những điều tốt đẹp trong pháp môn này quá nhiều!
(Diễn) Kim nãi xảo thị vãng sanh, thật ngộ Vô Sanh cố.
(演) 今乃巧示往生,實悟無生故。
(Diễn: Nay bèn khéo chỉ bày vãng sanh để thật sự ngộ Vô Sanh vậy).
“Ngộ Vô Sanh” là ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn, [người ngộ Vô Sanh] là Pháp Thân đại sĩ, Lý nhất tâm bất loạn. Không cần tu Lý nhất tâm bất loạn ở nơi đây, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới rồi sẽ tu, chắc chắn thành công! Tu tại nơi này, thật là khó khăn. Ở nơi đây, trước hết, chúng ta chỉ tu giai đoạn thứ nhất để cầu vãng sanh. Sau khi đã vãng sanh, chúng ta lại tu Vô Sanh Pháp Nhẫn. Kinh Nhân Vương có nói Ngũ Nhẫn Bồ Tát, tức là chia Bồ Tát thành năm loại. Vô Sanh Pháp Nhẫn Bồ Tát thuộc loại thứ tư [trong Ngũ Nhẫn], thuộc tầng cấp thứ tư, địa vị này rất cao. Vô Sanh Pháp Nhẫn được chia thành ba phẩm: Thượng phẩm là Cửu Địa tức Thiện Huệ Địa Bồ Tát, trung phẩm là Bát Địa tức Bất Động Địa Bồ Tát, hạ phẩm Vô Sanh Pháp Nhẫn là Thất Địa tức Viễn Hành Địa Bồ Tát. Cao hơn [Vô Sanh Pháp Nhẫn] là Tịch Diệt Nhẫn cũng có ba phẩm: Hạ phẩm là Thập Địa tức Pháp Vân Địa Bồ Tát, trung phẩm là Đẳng Giác, thượng phẩm là Phật, địa vị này hết sức cao. Đức Phật dùng phương tiện thiện xảo chân thật chỉ dạy chúng ta một con đường, bảo chúng ta cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thật sự ngộ nhập “hết thảy các pháp vốn bất sanh”, ngộ nhập cảnh giới ấy. Nói cách khác, thấp nhất cũng là Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa Bồ Tát, hết sức gần với Phật.
(Huyền Nghĩa) Thập, phục minh kính lộ tu hành, kính trung chi kính cố.
(玄義) 十、復明徑路修行,徑中之徑故。
(Huyền Nghĩa: Mười, lại chỉ rõ đường tắt tu hành, là đường tắt nhất trong các đường tắt).
Chúng ta cũng hết sức vui thích mong cầu, “kính lộ” là đường gần. Ai muốn đi đường vòng? Ai muốn đi đường xa xôi? Bất luận chúng ta đến nơi nào, đều mong đi theo đường gần nhất, đỡ mất thời gian, đỡ tốn sức. Trong Phật pháp, Tiểu Thừa là đường xa, Đại Thừa là đường gần. Trong Đại Thừa, trong các con đường tắt lại có con đường tắt hơn. Thiền là đường tắt nhất trong những con đường tắt, nhưng trong Thiền lại có đường tắt hơn nữa là niệm Phật! Vì thế, niệm Phật được gọi là “kính trung kính hựu kính” (là con đường tắt hơn con đường tắt nhất trong những con đường tắt). Nói cách khác, nó là con đường gần nhất để thành Phật, quyết định có thể thành Phật trong một đời. Chúng ta thấy: Qua các đời, những vị đại đức vãng sanh bất luận xuất gia hay tại gia, chẳng biết bao nhiêu vị từ Thiền mà quay lại. Lão hòa thượng Quảng Khâm từ Thiền trở về Tịnh, Ngài vốn là người đi theo đường tắt, phát hiện nơi đường tắt còn có một con đường tắt hơn nữa, Ngài đi theo con đường gần nhất bèn thành tựu. Chúng ta phải thật sự giác ngộ điều này!
(Diễn) Niệm Phật, dĩ thị tu hành kính lộ, nhi trì danh niệm Phật, đản dĩ tứ tự hồng danh, trực đăng Bất Thoái, sự bất phiền nhi công cực đại, cố vi kính trung chi kính.
(演) 念佛 , 已是修行徑路 。 而持名念佛,但以四字洪名,直登不退,事不繁而功極大,故為徑中之徑。
(Diễn: Niệm Phật đã là đường tắt trong tu hành, mà trì danh niệm Phật chỉ dùng bốn chữ hồng danh để lên thẳng Bất Thoái, hành trì chẳng phiền phức mà thành công to lớn nhất, cho nên nó là đường tắt nhất trong các con đường tắt).
Đây là dựa theo Niệm Phật để nói. Có rất nhiều phương pháp niệm Phật: Có Quán Tưởng, Quán Tượng, Thật Tướng và Trì Danh, nhưng Trì Danh là thuận tiện nhất, là con đường tắt trong tu hành. Trong một đời này, chúng ta có thể gặp gỡ pháp môn này, quý vị phải biết đó là do thiện căn, phước đức, nhân duyên tu thành trong vô lượng kiếp. Ba điều kiện ấy quý vị đều có đủ, đúng như kinh Di Đà đã dạy: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc” (Chẳng thể dùng một chút thiện căn, phước đức, nhân duyên mà hòng sanh về cõi ấy). Nay chúng ta hội đủ cả ba điều kiện ấy, lẽ đâu chẳng vãng sanh? Nhất định vãng sanh! Nếu chẳng thể vãng sanh, hãy tự trách chính mình lười nhác, chính mình nghiệp chướng nặng nề, nghe [giảng giải pháp môn Tịnh Độ] xong mà đối với pháp môn này vẫn nửa tin nửa ngờ! Thế nào là nửa tin nửa ngờ? Quý vị chẳng chuyên tâm, vẫn muốn học pháp môn khác, vẫn muốn đọc kinh điển khác, chẳng thật sự tin tưởng pháp môn này, đó gọi là nghiệp chướng.
Điều gì khiến cho nghiệp chướng không còn? Trong một đời này, ta niệm bộ kinh này, niệm một câu A Di Đà Phật, nghiệp chướng gì cũng chẳng không còn! Quý vị hãy nghĩ xem, quý vị còn có chướng ngại nào nữa! Quý vị nghe ở nơi kia đang giảng kinh Pháp Hoa, tâm lại động: “Kinh Pháp Hoa tuyệt lắm!” Đó là nghiệp chướng! Chướng ngại ngay lập tức dấy lên, quý vị đã khởi nhị tâm. Lại nghe ngóng ở chỗ nọ: “Kinh Bát Nhã khá quá! Kinh Bát Nhã là mẹ của chư Phật”, tâm lại động, lại toan học Bát Nhã. [Trông thấy] vị pháp sư nọ trì giới, lại đắp y trì bát. Đúng là một gã hồ đồ, đó gọi là nghiệp chướng. Thứ gì cũng đều chẳng làm, [chỉ nên] làm một thứ thôi, nghiệp chướng bèn tiêu trừ, không còn nữa. Vì thế, tiêu trừ nghiệp chướng, có thể tiêu trừ sạch sẽ nghiệp chướng hay không là do chính mình nhận biết, là do một niệm của chính mình. Trong các buổi giảng, tôi thường nhắc nhở quý vị đồng tu: Tập khí của chúng ta quá nặng, tâm tham không buông xuống được, thứ gì cũng đều muốn học, thứ gì cũng đều muốn biết một chút! Biết nhiều, nghiệp chướng nhiều! Cổ nhân nói: “Tri sự đa thời, phiền não đa” (Khi càng biết nhiều, càng lắm phiền não). Quý vị biết kinh điển nhiều quá! Tri kiến của quý vị nhiều quá! Tri kiến là chướng ngại của người học Phật. Phiền não nhiều, nhất định đọa trong tam ác đạo. Tri kiến nhiều, đạo nghiệp chẳng thể thành tựu. Tri kiến chướng ngại pháp xuất thế gian, phiền não chướng ngại pháp thế gian. Do vậy, càng ít tri kiến càng tốt!
Nhưng người trẻ tuổi tập khí nặng nề, căn bệnh này to đùng. Tôi nói với quý vị, quý vị chẳng phục. Quý vị vẫn muốn học nhiều, học rộng, nghe nhiều, vẫn muốn thân cận nhiều vị thiện tri thức, đến các nơi quy y loạn xạ: Tôi quy y bảy tám vị thầy, người kia quy y mười mấy vị thầy, đúng là hết biết nói gì nữa! Thầy đông quá, quý vị nghĩ xem: Phải học theo vị nào mới nên? Vị sư phụ này bảo tôi học Thiền, vị sư phụ kia bảo tôi học Mật. Được rồi, tôi học hết, học một đống loạn cào cào, kết quả là thứ gì cũng học chẳng thành! Quý vị phải hiểu rõ chân tướng sự thật này:
Ngày hôm nay quý vị có thể ngồi tại giảng đường này trong một tiếng rưỡi là do trong đời đời kiếp kiếp về trước, quý vị đều là người tu hành đã thân cận chư Phật Như Lai. Vì sao ngày hôm nay lại đọa lạc đến mức này? Là vì quý vị muốn học rộng nghe nhiều, muốn thân cận nhiều vị thiện tri thức, muốn quy y nhiều vị pháp sư. Vì thế, hôm nay thành ra nông nỗi này, đã sai lầm rồi! Thật sự muốn giác ngộ thì phải nhanh chóng quay đầu, chỉ đi theo một con đường, đi hai con đường chắc chắn chẳng thông! Một bộ kinh, một pháp môn, nhất là pháp môn này thật sự đơn giản!
“Đản dĩ tứ tự hồng danh” (chỉ dùng bốn chữ hồng danh) A Di Đà Phật, “trực đăng Bất Thoái” (lên thẳng Bất Thoái), chúng ta chớ nên xem thường, đọc lướt qua câu này. Phải hiểu “trực đăng Bất Thoái” chẳng phải là chuyện tầm thường! Ba thứ Bất Thoái thì mức độ thấp nhất là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, có phần nơi hội Hoa Nghiêm, là Pháp Thân đại sĩ. Chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái chính là Đẳng Giác Bồ Tát, ngang bằng với Quán Âm, Thế Chí.
“Sự bất phiền nhi công cực đại”: Niệm một câu A Di Đà Phật đúng là đơn giản, dễ hiểu, chẳng phiền phức. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, không một pháp môn nào có công đức lợi ích sánh bằng được! Thế nhưng vấn đề mấu chốt là quý vị có thật sự tin hay không? Đối với hết thảy pháp thế gian lẫn xuất thế gian quyết chẳng động tâm, đó là “chân tín”. Quý vị còn đọc kinh khác, xem sách khác, còn đến các nơi nghe người ta giảng diễn, tức là quý vị không có chân tín, như vậy là vô ích! Chân tín là chết sạch so đo, khăng khăng nơi một môn này. Đối với những kinh sách xếp nơi giá sách bên cạnh, thấy mà như chẳng thấy, chẳng liên can gì với ta. Những thứ đó để cúng dường người khác, cúng dường những người chẳng tin, còn ta đã tin rồi, Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn
Nghĩa để cúng dường chúng ta. Những thứ khác thuộc Tam Tạng mười hai phần giáo để cúng dường những ai chưa tin.
Thật sự đầy đủ Tín – Nguyện – Hạnh thì người ấy chỉ có một bộ kinh này, những kinh khác đều buông xuống hết. Đấy mới là thật sự đầy đủ lòng tin thanh tịnh, tín tâm kiên định. Ngẫu Ích đại sư nói rất hay, điều kiện để vãng sanh thế giới Tây Phương là tín nguyện, điều kiện khiến cho phẩm vị cao hay thấp là “trì danh sâu hay cạn”. Quý vị càng niệm nhiều, phẩm vị sẽ cao, niệm ít thì phẩm vị thấp. Có thể vãng sanh hay không là do tín nguyện quyết định. Nếu quý vị tam tâm nhị ý, đấy chẳng phải là chân tín. Vì thế, có tín tâm kiên định, tín tâm thanh tịnh thì trong một đời này, chúng ta nhất định thành tựu, quyết định chẳng bị lỡ làng. Vì thế, pháp môn này chẳng khó!
Tôi giảng kinh tới nay là hai mươi bảy năm rồi, mọi người hỏi tôi về tâm đắc, A Di Đà Phật là tâm đắc của tôi. Nếu tôi chẳng giảng suốt hai mươi bảy năm, tôi cũng chẳng tin tưởng! Tôi học Phật hơn ba mươi năm, giảng kinh hai mươi bảy năm, bản thân tôi thể nghiệm được. Vì thế, hiện thời tôi chẳng giảng những thứ khác. Có những đồng tu trong số quý vị nghe tôi giảng kinh Hoa Nghiêm, quý vị thấy tôi giảng kinh Hoa Nghiêm là giảng về gì vậy? Toàn là giảng A Di Đà Kinh. Cầm cuốn kinh Hoa Nghiêm để giảng kinh A Di Đà, câu nào cũng đều là giảng kinh A Di Đà, bản thân tôi thật sự đạt được điều tốt đẹp này, thật sự đạt được lợi ích này.
Tôi thưa cùng quý vị: Tôi quyết định vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, tôi nắm chắc điều ấy, quyết định vãng sanh! Khuyên mọi người đều nên vãng sanh, tốt đẹp lắm! Có nhiều người muốn di dân sang Mỹ, không nên! Nước Mỹ vẫn nằm trong lục đạo luân hồi! Nhất định phải di dân sang Tây Phương Cực Lạc thế giới mới là ổn thỏa, thích đáng. Chúng ta tiếp tục đọc phần Sớ, đó là lời chú giải cho đoạn văn Huyền Nghĩa.
(Sớ) Thích kiến hạ văn.
(演) 釋見下文。
(Sớ: Lời giải thích xin xem trong kinh văn ở phần sau)
“Thích” (釋) là giải thích. Trong phần sau, Liên Trì đại sư sẽ giải thích tường tận từng điều. Ở đây, chúng ta nói đại lược, chẳng qua nhằm giảng diễn đề mục mà thôi, nội dung đều nằm trong những phần sau.
(Sớ) Nhi sanh khởi hữu tự, dụ như câu tỏa.
(演) 而生起有序,喻如鉤鎖。
(Sớ: Nhưng sanh khởi có thứ tự, ví như các mắt xích).
Đây là nói rõ: Mười ý nghĩa này mỗi điều đều có quan hệ liên đới, trước tiên nói điều thứ nhất, từ điều thứ nhất sanh ra điều thứ hai, từ điều thứ hai lại sanh ra điều thứ ba. Mười ý nghĩa liên kết với nhau. Vì sao biết? Đoạn văn này do chính Liên Trì đại sư tự viết, Ngài chỉ sợ chúng ta không thấy rõ nên bảo cho chúng ta biết.
(Sớ) Sơ, dĩ chúng sanh mê nịch, vị tác tân lương.
(演) 初、以眾生迷溺,為作津梁。
(Sớ: Điều thứ nhất, do chúng sanh mê muội, chìm đắm nên làm cầu bến cho họ).
Đây là ý nghĩa thứ nhất trong phần nhân duyên. Chúng sanh quả thật đáng thương, mê hoặc, điên đảo, “mê” (迷) là ngu si, vô minh, “nịch” (溺) là chìm đắm trong ngũ dục lục trần, không có sức để tự mình vượt thoát. Vì thế, Phật, Bồ Tát đại từ đại bi làm “tân lương” cho chúng ta. “Tân” (津) là bến đò, “lương” (梁) là cái cầu. Chính quý vị không có năng lực vượt sông, hễ vượt sông sẽ chết đuối, các Ngài đại từ đại bi dựng cầu cho quý vị để quý vị bình an vượt qua. Đây là nói tỷ dụ.
Phật độ chúng sanh bằng chính pháp môn Niệm Phật này, đây gọi là “độ rốt ráo, độ chân thật”, những pháp môn khác đều là phương tiện độ, người thật sự thấu hiểu ý nghĩa này không nhiều. Bản thân tôi lãnh hội điều này, được đắc lực là nhờ mười lăm năm giảng kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng là mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, nên tôi mới hiểu niệm Phật cầu sanh thế giới Cực Lạc là độ rốt ráo, là độ chân thật. Bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong Hoa Tạng hải hội còn phải cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đủ thấy dẫu sanh về Hoa Tạng, sau đấy vẫn cần phải quay một vòng, vẫn phải vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng đi thẳng thừng, rốt ráo, thỏa đáng như chúng ta, tôi mới bèn thật sự thấu hiểu vì sao kinh này gọi là “kinh được hết thảy chư Phật hộ niệm”. Mười phương thế giới hết thảy chư Phật độ chúng sanh, chỉ có một pháp môn này. Người ta không tin tưởng pháp môn này, nên [đức Thế Tôn mới phải] quẹo đường vòng, nói ra các pháp môn khác, nói tới cuối cùng, vẫn phải quay về pháp môn này, đó là sự thật ngàn vạn phần xác đáng.
Nói cách khác, bất luận quý vị tu học một pháp môn nào, đến cuối cùng chẳng tu pháp môn này sẽ không được! Quý vị nói dù cao, dù hay đến đâu đi nữa, Thiền cũng thế, mà Mật cũng thế, bất luận người ấy học pháp nào, đến cuối cùng, chẳng tu pháp này sẽ chẳng viên mãn Bồ Đề! Vì thế, có thể tiếp nhận, tin tưởng pháp môn này, chiếu theo pháp môn này để tu học sẽ là đại thiện căn, đại phước đức! Chúng ta nhất định phải cảnh giác điều này, cũng phải do may mắn chúng ta mới có thể gặp gỡ pháp môn này; đó là nhờ thiện căn, phước đức, nhân duyên từ vô lượng kiếp đến nay, thật sự giống như trong bài kệ Khai Kinh đã nói: “Trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ”.
(Sớ) Nhị, sở dĩ năng vi tân lương giả, vị hữu tối thắng phương tiện cố.
(演) 二、所以能為津梁者,為有最勝方便故。
(Sớ: Thứ hai, sở dĩ có thể làm cầu bến là vì có phương tiện tối thắng).
Vì sao nói là có thể làm cầu bến cho chúng sanh? Là vì có phương tiện thù thắng nhất.
(Sớ) Tam, hà danh tối thắng phương tiện? Dĩ năng trực độ phàm phu cố.
(演) 三、何名最勝方便,以能直度凡夫故。
(Sớ: Ba, vì sao gọi là phương tiện tối thắng? Do có thể trực tiếp độ phàm phu).
Chẳng đi đường vòng, mà là thẳng chóng. Do thành tựu trong một đời, chẳng giống như các pháp môn khác phải chuyển qua bao nhiêu khúc quanh, quẹo bao nhiêu góc, đến cuối cùng vẫn phải trở về nơi đây. Pháp môn này thẳng chóng cho nên là phương tiện tối thắng.
(Sớ) Tứ, khởi độc phàm phu, diệc độ Nhị Thừa thánh nhân cố. Ngũ, khởi độc Nhị Thừa, diệc độ Bồ Tát cố. Lục, khởi độc nhân trung, diệc phổ độ nhất thiết chúng sanh cố.
(演) 四、豈獨凡夫 , 亦度二乘聖人故 。 五、豈獨二乘,亦度菩薩故。六、豈獨人中,亦普度一切眾生故。
(Sớ: Bốn, há chỉ độ phàm phu mà còn độ thánh nhân Nhị Thừa. Năm, há chỉ độ Nhị Thừa, mà còn độ Bồ Tát. Sáu, há chỉ độ con người mà còn độ khắp hết thảy chúng sanh).
Mấy câu này có thể nói gộp lại, tức là như thường nói “thích hợp khắp ba căn, gồm thâu lợi căn lẫn độn căn”, trên là từ bậc Đẳng Giác Bồ Tát, dưới đến chúng sanh trong địa ngục, không một ai chẳng độ, đủ thấy pháp môn này rộng lớn thù thắng. Nguyên tắc là một, chỉ cần quý vị tin tưởng, chỉ cần quý vị phát nguyện là được rồi, chỉ cần quý vị niệm một câu Phật hiệu đến tột cùng thì sẽ thành công. Quý vị phải hiểu: Tín nguyện thanh tịnh cũng có thể diệt tội, cũng có thể trừ chướng. Tôi vừa mới nói: Tôi thật sự tin tưởng môn này, những môn khác tôi không quan tâm đến, chướng ngại của tôi không còn nữa, tội chướng tiêu trừ rồi!
“Tôi tin tưởng pháp môn này, nhưng vẫn tu tập pháp khác”, vậy là chướng ngại của quý vị chưa tiêu trừ, lòng tin chưa thanh tịnh, giống như năm trước, khi tôi giảng kinh ở Mỹ, cũng đặc biệt nhấn mạnh pháp môn Niệm Phật. Ở Mỹ, phong khí học Thiền và Mật hết sức mạnh mẽ, tôi giảng xong, trong thính chúng có không ít người quay đầu; nhưng có người bèn hỏi các đồng tu của họ, trong số ấy có mấy người rất có địa vị, tiếng tăm, hỏi họ: “Nghe như thế nào?” Họ nói: “Rất hay! Tôi phát tâm tu Tịnh Độ”. Người ta hỏi: “Chuyện tu Mật của ông thì tính sao?” “Tạm thời chẳng buông bỏ, tôi còn thử xem có linh hay không?” Người ấy tạm thời [ngưng tu Mật], chẳng buông bỏ, đó là lòng tin chưa thanh tịnh! Nếu lòng tin thật sự thanh tịnh thì đã bỏ phía bên kia rồi. Lòng tin đã thanh tịnh, đích xác tiêu tai, thoát nạn, diệt tội, trừ chướng; vì thế, người ấy nhất định vãng sanh.
Quý vị hằng ngày muốn tiêu tai diệt tội, chẳng biết dùng phương pháp nào cho tốt đẹp. “Tôi lạy Lương Hoàng Sám, tôi bái Thủy Sám”, những thứ ấy đều gọi là xen tạp! Nếu tín tâm thanh tịnh, những thứ ấy đều buông xuống hết, chướng ngại không còn nữa. Tâm thanh tịnh, tội chẳng còn. Trong tâm có vọng niệm, bèn có nghiệp chướng, có tội nghiệp. Quý vị phải hiểu rõ đạo lý này, suy nghĩ kỹ càng đạo lý này. Suy nghĩ thông suốt đạo lý, quý vị sẽ chịu làm, mà cũng yên lòng, nhất định không có nghi hoặc! Sau đó, câu Phật hiệu của quý vị mới có thể đắc lực.
(Sớ) Thất, khởi độc bình xứ độ sanh, thiên độ chướng ngại cố.
(演) 七、豈獨平處度生,偏度障難故。
(Sớ: Bảy, nào phải chỉ độ những chúng sanh bình thường, mà còn riêng độ [những kẻ gặp] chướng ngại).
Ý nghĩa này càng thù thắng. Chẳng những chúng sanh bình thường có thể đắc độ, mà còn khăng khăng độ những chúng sanh mắc chướng nạn đặc biệt nặng nề. Đây là nói đến bản thân chúng ta vậy. Chúng ta nay quả thật là nghiệp chướng nặng nề, ngày nay chúng ta gặp nạn cũng nặng nề hơn cổ nhân, chướng nạn lớn nhất trong các chướng nạn. Pháp môn này thật sự độ chúng ta.
(Sớ) Bát, tuy vân độ sanh như thị quảng đại, thật bất ly chúng sanh nhất niệm đắc nhập vô niệm cố.
(演) 八 、 雖云度生如是廣大 , 實不離眾生一念得入無念故。
(Sớ: Tám, tuy nói độ sanh rộng lớn như thế, nhưng thật ra chúng sanh chẳng lìa nhất niệm mà được nhập vô niệm).
Câu này là nói theo Lý, nhằm đặc biệt củng cố tín tâm cho chúng ta, khiến cho chúng ta thấu hiểu pháp môn này quyết chẳng thua các pháp môn khác. Vì sao? Pháp môn này có căn cứ lý luận cao nhất, thù thắng nhất.
(Diễn) Niệm nhập vô niệm giả, niệm thể bổn Không, nhân vọng cố hữu.
(演) 念入無念者,念體本空,因妄故有。
(Diễn: “Từ hữu niệm nhập vô niệm”: Bản thể của niệm vốn là Không, do vọng mà thành Có).
Phàm là hữu niệm thì đều gọi là vọng niệm.
(Diễn) Kim dĩ vọng tức vọng, như dĩ độc công độc, bệnh dũ thể bình, vọng cùng chân lộ cố.
(演) 今以妄息妄 , 如以毒攻毒 , 病愈體平,妄窮真露故。
(Diễn: Nay dùng vọng để dứt vọng, như dùng độc trị độc, bệnh lành, thân thể bình phục, vọng hết, chân lộ).
Mấy câu này nêu ra lý luận. Trong tất cả vọng niệm, nay chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật có phải là vọng niệm hay chăng? Đương nhiên là vọng niệm, nhưng quý vị phải hiểu: Có những vọng niệm gần với chánh niệm. Có những vọng niệm hoàn toàn tương phản với chánh niệm một trăm tám mươi độ. Trong hết thảy vọng niệm, chỉ có duy nhất một niệm này (niệm A Di Đà Phật) là gần gũi với chánh niệm nhất. Một niệm này nhắc nhở quý vị trong từng niệm hãy lìa hết thảy vọng niệm. Nếu chúng ta thêm Nam-mô vào một niệm này thành Nam-mô A Di Đà Phật sẽ có nghĩa là “quy y Vô Lượng Giác”. Giác là chánh niệm, bất giác là vọng niệm. Do vậy, niệm niệm quy y Vô Lượng Giác. Do vọng niệm này gần với chánh niệm nhất, cho nên gọi là phương pháp “dĩ độc công độc, dĩ vọng tức vọng” (dùng độc để trị độc, dùng vọng để dứt vọng). Một câu A Di Đà Phật dứt hết thảy vọng niệm.
Tôi vừa mới thưa cùng quý vị: Khi niệm Phật, có vọng niệm dấy lên. Khi vọng niệm dấy lên, đừng quan tâm tới nó, hãy tập trung tinh thần vào câu Phật hiệu, căn bản là ta không quan tâm xem vọng niệm ấy dấy lên hay diệt mất. Đấy là dùng một niệm để đối phó hết thảy vọng niệm. Công phu sử dụng lâu ngày, dùng dăm ba năm, trong thời gian tàn một cây hương, tức là từ một tiếng đến một tiếng rưỡi, trong một câu Phật hiệu này chẳng dấy lên vọng niệm nào, hoặc là nếu trong [thời gian ấy, niệm] một câu Phật hiệu mà còn khởi lên dăm ba vọng niệm, công phu của quý vị khá tốt, chẳng giống như hiện thời: Niệm được một hai phút, không biết bao nhiêu là vọng niệm sanh khởi. Đây chính là kinh nghiệm của cổ nhân, dùng biện pháp “dùng vọng dứt vọng, dùng độc trị độc”.
“Bệnh dũ” (lành bệnh) chính là vọng niệm chẳng sanh, tâm khôi phục sự thanh tịnh. Vọng niệm chẳng sanh là công phu thành tựu. Công phu thành phiến đạt từ trung phẩm trở lên là vọng niệm chẳng sanh. Có đoạn vọng niệm hay chưa? Chưa đoạn! Vì công phu của quý vị rất đắc lực, cho nên vọng niệm chẳng sanh. Thưa cùng quý vị, đạt đến mức vọng niệm chẳng sanh thì quý vị đã cảm ứng đạo giao cùng chư Phật. Nói cách khác, quý vị đã nhận biết tin tức về Tây Phương Cực Lạc thế giới, tự mình pháp hỷ sung mãn.
Quý vị rất có tín tâm đối với chuyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đã đạt được tin tức rồi, tín tâm tăng trưởng. Vì thế, trong thế gian này, phải biết tiếng tăm, lợi dưỡng, phú quý, những thứ lộn xộn ấy đều là giả, đừng phí uổng thời gian tốt đẹp vào những chuyện ấy! Làm những chuyện ấy, nói chung là sanh tử luân hồi, tạo nghiệp tam ác đạo.
Vì thế, hiện thời tu đạo là tu đạo gì vậy? Tu ba ác đạo! Tu tham – sân – si chẳng phải là tu ba ác đạo đó sao? Đều là đạo! Người ta nói người ta tu đạo, không sai? Kẻ ấy tu, nhưng tu ba ác đạo! Hằng ngày tu cái tâm tham là tu ngạ quỷ đạo; thấy người khác bèn ghen ghét, sân hận là tu địa ngục đạo; tà chánh, thị phi không rõ ràng, hồ đồ, mờ mịt là tu súc sanh đạo. Kẻ ấy tu những đạo ấy!
(Diễn) Sanh đắc vô sanh giả, sanh vô hữu Thể, dĩ niệm vi Thể. (演) 生得無生者,生無有體,以念為體。
(Diễn: “Do sanh mà đắc vô sanh”: Sanh không có Thể, lấy niệm làm Thể).
“Niệm” là vọng niệm, hết thảy pháp sanh diệt đều từ tâm sanh diệt biến hiện ra. Đúng là “phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng” (phàm những gì có hình tướng, đều là hư vọng), “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh” (hết thảy các pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng). Kinh Kim Cang nói những lời chân thật như vậy.
(Diễn) Niệm bất không, tắc sanh bất không, niệm không, tắc sanh không cố.
(演) 念不空,則生不空,念空,則生空故。
(Diễn: Niệm chẳng không nên sanh chẳng phải là không, nếu niệm là không thì sanh cũng không).
Có niệm là có sanh diệt. Khi vô niệm thì sanh diệt chẳng còn, nên mới có thể thấy pháp tánh. Thiền gia nói “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật” thì mới có thể đạt được cảnh giới này.
(Sớ) Cửu, ký tức niệm đắc vô niệm, diệc tức sanh đắc vô sanh cố.
(演) 九、既即念得無念,亦即生得無生故。
(Sớ: Chín là đã do niệm mà đắc vô niệm, thì cũng do sanh mà đắc vô sanh).
Đây là nói về cảnh giới, công phu tu học của chúng ta đã đạt đến mục đích.
(Sớ) Thập, thông cai tiền cửu.
(演) 十、通該前九。
(Sớ: Điều thứ mười bao gồm cả chín điều trước).
Nói rõ pháp môn này là đường tắt hơn con đường tắt nhất trong các đường tắt.
(Sớ) Tri thử trì danh niệm Phật, kính trung chi kính cố, hựu diêu thị kính trung chi kính, nãi năng tân lương Mạt Pháp cố.
(演) 知此持名念佛 , 徑中之徑故 , 又繇是徑中之徑,乃能津梁末法故。
(Sớ: Biết pháp trì danh niệm Phật này là đường tắt nhất trong các con đường tắt, lại nữa, do là con đường tắt nhất trong các con đường tắt nên mới có thể làm cầu bến trong thời Mạt Pháp).
Đặc biệt chỉ ra: Trong thời đại hiện tại của chúng ta là “thời kỳ Mạt Pháp, đấu tranh kiên cố”, trong hoàn cảnh đại chướng đại nạn như vậy, muốn cầu liễu sanh tử xuất tam giới, trừ pháp môn này ra, tôi chí thành khẩn thiết thưa cùng quý vị, không có con đường thứ hai nào để đi cả!
Thiền và Mật tôi đều biết, tôi không phải là kẻ lơ mơ, tôi đã giảng không ít kinh điển, ngữ lục của Thiền Tông. Tôi giảng Lục Tổ Đàn Kinh rất nhiều lần, kinh Kim Cang tôi giảng cặn kẽ nhất. Do vậy, nói đến khẩu đầu Thiền, tôi mạnh hơn bọn họ, họ nói không lại tôi. Nói đến Mật thì tôi không học Mật, nhưng thầy tôi là đại sư Mật Tông, tôi là học trò của Chương Gia đại sư, tôi theo học với Ngài ba năm, những đường lối trong Mật Tông tôi đều biết, không có gì có thể lừa được tôi!
Chọn đi chọn lại, vẫn chỉ có pháp môn này là đáng nương tựa, quyết định có thể thành công. Những pháp môn khác tuy hay, nhưng tôi chẳng dám nói là tôi nắm chắc có thể thành tựu trong một đời này, chẳng dám nói như thế.
Đối với pháp môn này, bản thân tôi dám nói là tôi quyết định nắm chắc trong một đời này, tôi có thể thành công. Vì vậy, tôi cũng biết các vị đồng tu nếu thật sự chết sạch so đo, khăng khăng tu học pháp môn này, ai nấy đều thành tựu, ai nấy đều thành Phật trong một đời. Hôm nay tôi giảng đến chỗ này.
— o0o —
Tập 51
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang sáu mươi lăm:
(Huyền Nghĩa) Sơ, đại bi mẫn Mạt Pháp vị tác tân lương giả, Phật thành đạo thời, dĩ đương trược thế, huống kim Mạt Pháp, chánh nhập đấu tránh, chuyển triển lăng di, hậu chi hựu hậu, giai lại thử kinh thần lực, cứu bạt dư sanh, khởi phi chí cực bi tâm, dự thùy tế độ.
(玄義) 初大悲憫末法為作津梁者 , 佛成道時 , 已當濁世。況今末法,正入鬥爭,轉展陵夷,後之又後,皆賴此經神力,救拔餘生,豈非至極悲心,預垂濟度。
(Huyền Nghĩa: Thứ nhất, “đại bi thương xót đời Mạt Pháp mà làm cầu bến”: Khi đức Phật thành đạo đã nhằm đời trược, huống chi nay là đời Mạt Pháp, đúng vào lúc tranh đấu, hiếp đáp lẫn nhau, đời đã sau lại càng sau hơn nữa, đều nương vào thần lực của kinh này để cứu vớt các chúng sanh trong đời sau, há chẳng phải là bi tâm đến tột bậc rủ lòng ban sẵn cách tế độ ư?)
Bắt đầu từ chỗ này, từ đây trở đi có mười tiểu đoạn, đại sư giảng tỉ mỉ nhân duyên [vì sao] đức Phật nói kinh [A Di Đà]. Đây là tiểu đoạn thứ nhất. Đối với đoạn này, sách Diễn Nghĩa có lời chú giải như sau:
(Diễn) Vị tác tân lương giả, tân, tế độ xứ; lương, kiều dã. Dĩ nhất cú Di Đà, vận thử ngạn chúng sanh trí ư bỉ ngạn, thị vị tác tân lương dã.
(演) 為作津梁者 ,津,濟度處 ;梁 ,橋也 。以一句彌陀,運此岸眾生置於彼岸,是為作津梁也。
(Diễn: “Làm cầu bến”: Tân là chỗ tế độ, lương là cầu. Dùng một câu Di Đà đưa chúng sanh từ bờ này sang bờ kia, đấy là “làm cầu bến”).
Đây là tỷ dụ, tu học Phật pháp khác với pháp thế gian. Mục đích của sự tu học pháp thế gian chẳng ngoài học lấy một kỹ năng, hoặc là học một số kiến thức, chúng ta cũng có thể gọi đó là trí huệ, tức trí huệ thế gian, nhằm vào mục đích ấy. Tu học Phật pháp nhằm mục đích liễu sanh tử, xuất tam giới. Do vậy, hoàn toàn khác với pháp thế gian. Mục đích khác nhau, đương nhiên cách thức tu học cũng khác nhau. Có những chỗ nhìn vào thì tu Phật pháp dường như giống hệt pháp thế gian, nhưng thật ra đó là nhìn từ bề ngoài, chứ nội dung thực chất hoàn toàn khác nhau.
Xuất thế thật sự chẳng đơn giản. Từ kinh điển, chúng ta thường thấy, nếu chính mình lưu ý một chút, quý vị sẽ nhận thấy: Chiếu theo cách nói của đức Phật trong kinh điển, mỗi đồng tu chúng ta không phải là đời này mới học Phật. “Đời này mới học Phật” tức là trong đời quá khứ chưa hề tiếp xúc, quý vị sẽ không thể ngồi ở đây một tiếng rưỡi được, ngồi năm phút hay mười lăm phút đã muốn bỏ đi rồi. Quý vị có thể an tâm ngồi ở đây một tiếng rưỡi, lần sau vẫn lại tới, quý vị chẳng đơn giản lắm đâu: Nhiều đời nhiều kiếp đều học Phật, nhưng học Phật như thế nào? Chẳng thể vượt thoát tam giới, vẫn ở trong sanh tử luân hồi. Do đây, có thể biết: Liễu sanh tử, thoát luân hồi đích xác là chẳng dễ dàng, chuyện này khó khăn hơn hết thảy các pháp thế gian rất nhiều! Pháp thế gian cao nhất là sanh lên trời, trong kinh Phật đã nói rõ: Có hai mươi tám tầng trời, cao nhất là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên, [sanh lên trời] chẳng khó khăn cho lắm! Muốn vượt thoát tam giới, so ra khó khăn hơn nhiều!
Đức Phật dạy chúng ta rất nhiều pháp môn, đấy cũng là phương pháp. Những phương pháp ấy có những thứ ta có thể chọn lấy, có những thứ ta không có cách gì chọn được, vì những phương pháp ấy đích xác là mỗi người mỗi khác, chẳng hề thấy mỗi thứ phương pháp đều sử dụng thích hợp cho mọi người chúng ta. Nếu dùng sai phương pháp, chẳng những chúng ta không đạt được lợi ích, mà ngược lại còn bị hại. Do vậy, Phật pháp là do Phật, Bồ Tát dùng để cứu người, nhưng nếu dùng không thích hợp thì cũng có thể hại người. Giống như thuốc thang vậy, thuốc có thể trị bệnh, có thể cứu người, nhưng dùng không phù hợp, sẽ khiến bệnh nặng hơn, cũng khiến cho người ta mất mạng. Tác dụng của Phật pháp đích xác là giống hệt như tác dụng của thuốc thang. Vì thế, chúng ta nhất định phải chú tâm cẩn thận, nhất định phải có thiện tri thức hay người từng trải chỉ dạy. Trong đại kinh, đại luận, đức Phật bảo chúng ta: “Phật pháp vô nhân thuyết, tuy trí mạc năng giải” (Phật pháp không có người nói thì dù có trí cũng chẳng thể hiểu được). Người thông minh trí huệ bậc nhất trong thế gian cầm lấy kinh Phật [để đọc], cũng chẳng có cách nào [hiểu đúng ý Phật], họ lý giải theo kiểu dùng tri kiến thế gian để hiểu Phật pháp, đấy chẳng phải là chân thật nghĩa trong Phật pháp, giống như trong bài kệ Khai Kinh đã nói: “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, khá là khó khăn! Do vậy, khi đức Phật tại thế thì không có vấn đề gì, Bồ Tát thị hiện trong thế gian này, cũng chẳng đến nỗi khiến cho chúng ta mê hoặc, lệch lạc. Nay chúng ta sống nhằm thời kỳ Mạt Pháp, Phật chẳng còn ở nơi đời, Bồ Tát lẫn Thanh Văn đều chẳng trụ thế, phiền phức to lớn. Trong vô lượng pháp môn, chúng ta chọn lấy phương pháp nào thích hợp, chẳng đến nỗi sai lệch, chẳng đến nỗi lầm lẫn, chẳng đến nỗi mắc hại, mà lại còn có thể thành công? Nói đến chỗ này, quý vị bèn hiểu rõ: Đức Phật nói ra kinh này là vì ý nghĩa này.
“Đại bi mẫn niệm Mạt Pháp vị tác tân lương” (Đại bi thương xót đời Mạt Pháp, làm cầu bến). Trong kinh, đức Phật đã nói rất rõ ràng “thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh nghiệp thành tựu”, tu Tịnh Độ sẽ có thành tựu! Chúng ta sống trong thời Mạt Pháp, nếu không nghe lời Phật, vẫn tu học các pháp môn khác, đi theo ngã rẽ, trong tương lai chẳng có thành tựu, quý vị chẳng thể trách Phật. Đức Phật đã nói rõ ràng, nhưng chính quý vị không chịu nghe lời! Chính quý vị thật sự chịu nghe, chiếu theo lời Phật răn dạy để tu hành, chắc chắn có thành tựu. Thời kỳ Mạt Pháp, người tu pháp môn này thành tựu quá nhiều. Chúng ta thấy truyện ký ghi chép [cũng như thấy] trước mắt, người niệm Phật tự tại vãng sanh, biết trước lúc mất, không có bệnh khổ, chúng ta thấy không chỉ một hai người mà thấy rất nhiều người! Đấy mới thật sự là chở từ bờ này sanh tử sang bờ kia Tây Phương Cực Lạc thế giới, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi, bất sanh, bất tử. Bộ kinh này là công cụ để độ thoát chúng ta, “tân lương” là công cụ.
(Diễn) Phật thành đạo hạ, tuy văn hữu tam chuyển, thuyết đại bi hữu tam, nhi chánh ý trọng tại Mạt Pháp, quán đề trung Mạt Pháp nhị tự khả tri.
(Sớ) Dĩ đương trược thế giả.
(演) 佛成道下 , 雖文有三轉 , 說大悲有三,而正意重在末法,觀題中末法二字可知。
(演) 已當濁世者。
(Diễn: Từ chữ “Phật thành đạo” trở đi, tuy lời văn có ba lần chuyển ý, nói ra lòng đại bi có ba thứ, nhưng ý nghĩa chánh yếu là nói đến thời Mạt Pháp, nhìn vào hai chữ Mạt Pháp trong tựa đề, ta có thể biết được ý nghĩa ấy.
Sớ: “Đã thuộc đời trược” là…)
Trước hết, chúng ta phải hiểu thế nào là Trược? Có trược thì đương nhiên sẽ có lúc “thanh” (trong trẻo). Kinh Phật dạy chúng ta: Tuổi thọ cao nhất của con người là tám vạn năm, tuổi thọ ngắn nhất là mười năm. Cứ mỗi một trăm năm bèn tăng một tuổi, mãi cho đến khi [con người thọ] tám vạn bốn ngàn năm, bèn từ tám vạn bốn ngàn năm giảm dần, cứ mỗi một trăm năm giảm một tuổi, lại giảm đến mười tuổi. Một chu kỳ tăng giảm như vậy gọi là một kiếp. Con người trường thọ nhất định là phước báo lớn; tuổi thọ ngắn, phước sẽ mỏng. Từ tám vạn bốn ngàn năm giảm mãi xuống hai vạn năm, cõi nhân gian chẳng tốt đẹp, tình hình đó được gọi là “trược thế” (đời ô trược). Nói cách khác, khi con người tuổi thọ cao hơn hai vạn năm, lúc ấy chẳng gọi là “trược thế”. Từ hai vạn tuổi trở xuống bèn gọi là “trược thế”.
(Sớ) Nhân thọ nhị vạn tuế thời, tức nhập Kiếp Trược.
(演) 人壽二萬歲時,即入劫濁。
(Sớ: Khi con người thọ hai vạn năm, chính là lúc bước vào Kiếp Trược).
Đây là lúc bước vào đời Ngũ Trược.
(Sớ) Thích Ca xuất thời, nhân thọ bách tuế.
(演) 釋迦出時,人壽百歲。
(Sớ: Khi Phật Thích Ca ra đời, con người thọ một trăm tuổi).
Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian ba ngàn năm trước, thuở ấy, thọ mạng của con người là một trăm năm, đây là tuổi thọ trung bình. Cứ mỗi một trăm năm, [tuổi thọ của nhân loại] giảm một tuổi. Chiếu theo cách tính toán của Trung Quốc, Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ đến nay là ba ngàn lẻ mười hai (3.012) năm, cứ mỗi một trăm năm giảm một tuổi, từ một trăm tuổi đã bị giảm mất ba mươi năm. Do vậy, tuổi thọ trung bình của người trong thế gian hiện thời là bảy mươi tuổi. Tuy y dược phát triển, có những nơi tuổi thọ được kéo dài hơn, nhưng nạn đói tại Phi Châu khiến cho chẳng biết bao nhiêu người chết đói? Nếu tính trung bình, nói chung [tuổi thọ của con người hiện thời] sợ là chưa đến bảy mươi năm! Vì thế, trong hiện tại, không chỉ là đời ác Ngũ Trược, mà còn phải kể thêm sự xấu ác này. Đời ác Ngũ Trược là vậy đó!
(Diễn) Nhị vạn tuế thời tức nhập Kiếp Trược giả, dĩ nhị vạn tuế tiền phiền não khinh vi tà kiến bạc thiểu, nhân thiên chúng thịnh, tam ác đạo hy, thọ mạng cửu trường, thời do vị trược cố.
(演) 二萬歲時即入劫濁者 , 以二萬歲前煩惱輕微邪見薄少,人天眾盛,三惡道稀,壽命久長,時猶未濁故。
(Diễn: “Khi tuổi thọ còn hai vạn năm bèn bước vào Kiếp Trược”: Do trước khi tuổi thọ của con người chỉ còn hai vạn năm, phiền não nhẹ ít, tà kiến mỏng ít, chúng trời người đông đảo, tam ác đạo thưa thớt, thọ mạng lâu dài, nên thời kiếp chưa trược).
Khi con người thọ từ hai vạn năm trở lên, Kiến Tư phiền não rất nhẹ, tà kiến cũng ít. Đủ thấy con người thuở ấy hết sức thuần phác, khi ấy, số lượng trời người đông đảo, số lượng chúng sanh trong ba ác đạo ít ỏi. Thuở ấy là thuở tốt đẹp, chúng sanh có phước báo. Sau khi [tuổi thọ của con người chỉ là] hai vạn năm, phiền não dần dần dấy lên, tà kiến cũng tăng trưởng, số lượng trời người dần dần giảm thiểu, số lượng chúng sanh trong tam ác đạo ngày càng nhiều hơn. Khi đó bèn bước vào thời Kiếp Trược.
(Diễn) Thích Ca xuất thời nhân thọ bách tuế giả, ư Trụ Kiếp trung, kim đương đệ cửu lộc lô tiểu kiếp, hữu tứ Phật xuất.
(演) 釋迦出時人壽百歲者 , 於住劫中 , 今當第九轆轤小劫,有四佛出。
(Diễn: “Khi Phật Thích Ca ra đời, con người thọ một trăm tuổi”: Trong Trụ Kiếp, nay đang lần lượt chuyển đến tiểu kiếp thứ chín, có bốn vị Phật xuất hiện).
Theo như kinh Phật dạy, hiện tại có một ngàn vị Phật. Quá khứ có một ngàn vị Phật, hiện tại có một ngàn vị Phật, tương lai có một ngàn vị Phật. Chúng ta kể từ hiện tại để nói thì kiếp hiện tại được gọi là Hiền Kiếp, vì trong kiếp này có một ngàn vị Phật xuất hiện trong thế gian. Bậc thánh hiền rất nhiều nên gọi là Hiền Kiếp (Bhadrakalpa). Một đại kiếp có bốn trung kiếp là Thành, Trụ, Hoại, Không. Trong các trung kiếp Thành, Hoại, Không chẳng có Phật xuất thế, Trụ Kiếp mới có Phật xuất thế. Trong trung kiếp Trụ Kiếp có hai mươi tiểu kiếp, hiện thời chính là tiểu kiếp thứ chín của Trụ Kiếp. Trong một tiểu kiếp có một ngàn vị Phật xuất thế, vì thế gọi là Hiền Kiếp. Đây là một thịnh sự hiếm có. Trong
tiểu kiếp này, trong quá khứ đã có bốn vị Phật xuất thế.
(Diễn) Kiếp sơ bát vạn tuế, giảm chí lục vạn tuế.
(演) 劫初八萬歲,減至六萬歲。
(Diễn: Đầu tiểu kiếp này, [tuổi thọ của con người] là tám vạn năm, giảm tới sáu vạn năm).
Trong tiểu kiếp thứ chín, khi tuổi thọ con người là tám vạn năm, cứ mỗi một trăm năm bèn giảm một tuổi, khi tuổi thọ giảm xuống còn sáu vạn năm, khi ấy, có một vị Phật xuất thế.
(Diễn) Câu Lưu Tôn Phật xuất.
(演) 拘留孫佛出。
(Diễn: Câu Lưu Tôn ra đời).
Câu Lưu Tôn (Krakucchanda) là dịch âm tiếng Phạn của Ấn Độ, [danh hiệu này] có nghĩa là: Những gì nên đoạn Ngài đều đã đoạn. Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh phiền não là những thứ đáng nên đoạn, Ngài đều đã đoạn sạch. Còn có một ý nghĩa khác là “thành tựu đẹp đẽ, mầu nhiệm”, đương nhiên là thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
(Diễn) Giảm chí tứ vạn tuế, Câu Na Hàm Phật xuất.
(演) 減至四萬歲,拘那含佛出。
(Diễn: [Tuổi thọ] giảm đến bốn vạn năm, Câu Na Hàm Phật ra đời).
Khi tuổi thọ con người lại giảm đến bốn vạn năm. Câu Na Hàm (Konāgamana) cũng là dịch âm tiếng Phạn của Ấn Độ, có nghĩa là Kim Tịch. Kim (vàng) đứng đầu bảy món báu, đây là tỷ dụ. Ví như kinh Bát Nhã dùng kim cang để tỷ dụ, Kim Cang Bát Nhã! [Trong danh hiệu của] vị Phật này cũng mang ý nghĩa dùng kim cang làm tỷ dụ. “Tịch” (寂) là thanh tịnh tịch diệt. Câu Na Hàm có hai ý nghĩa: Một là ý nghĩa quý báu, hai là ý nghĩa tịch diệt.
(Diễn) Giảm chí nhị vạn tuế. Ca Diếp Phật xuất.
(演) 減至二萬歲,迦葉佛出。
(Diễn: Giảm đến hai vạn năm, Ca Diếp Phật ra đời).
Khi giảm đến hai vạn năm, đã bước vào thời Kiếp Trược. Vừa mới bước vào Kiếp Trược, vị Phật thứ ba là Ca Diếp Phật (Kāśyapa Buddha) xuất thế. Ca Diếp dịch sang nghĩa tiếng Hán là Ẩm Quang (nuốt mất ánh sáng). Quang minh của Ngài đặc biệt thù thắng, chỉ cần Ngài ở nơi đâu, những quang minh khác đều chẳng còn thấy nữa. Ví như buổi tối thắp đèn, cảm thấy rất sáng sủa, nhưng nếu ban ngày thắp một ngọn đèn điện hay thắp một ngọn nến dưới ánh nắng mặt trời, vì ánh sáng mặt trời quá mạnh, quang minh của chúng sẽ bị khuất lấp. Chữ Ca Diếp có ý nghĩa như thế này: Quang minh thanh tịnh thù thắng nhất.
(Diễn) Giảm chí bách tuế, Thích Ca Phật xuất.
(演) 減至百歲,釋迦佛出。
(Diễn: Giảm đến một trăm tuổi, Phật Thích Ca ra đời).
Tuổi thọ giảm còn một trăm năm, khi ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật ra đời. Thích Ca Mâu Ni dịch sang nghĩa tiếng Hán là Năng Nhân Tịch Mặc. Nhân (仁) là nhân từ, Ngài dùng lòng nhân từ đối đãi với con người, dùng lòng nhân từ bình đẳng để đối đãi hết thảy chúng sanh, nên gọi là Thích Ca. Mâu Ni là Tịch Mặc (寂默), cũng có nghĩa là nói tâm Ngài hết sức thanh tịnh, chẳng sanh một niệm. Nói đến chỗ này, chúng ta ắt phải hiểu, Phật không có danh hiệu, danh là giả danh. Người Trung Quốc cũng biết: “Danh khả danh, phi thường danh”. Danh là giả, chẳng thật! Danh hiệu của Phật, Bồ Tát thuận theo tâm của chúng sanh mà kiến lập. Ngày nay chúng ta lập ra danh hiệu nói chung là do chính mình ưa thích. Trước kia, cổ nhân có quan niệm khác với con người hiện thời. Đối với người thuở trước, cha mẹ đặt tên cho con cái nhằm nói lên lòng mong mỏi, mong con khôn lớn sẽ phải giống như thế. Người hiện thời đặt tên thì tên gọi phải tốt lành, kể ra cũng không sai! Nếu tên gọi ấy đem đi xem Bát Tự[72], xem nét bút thì sẽ trở thành mê tín. Vì sao? Hoàn toàn bị cảnh giới bên ngoài thao túng, chính mình chẳng thể làm chủ. Chính mình có thể làm chủ thì phiền não nhẹ nhàng; chính mình chẳng thể làm chủ, phiền não sẽ nặng nề!
Danh hiệu của Phật vì chúng sanh mà kiến lập, đức Phật xuất hiện trong thế gian lấy việc giáo hóa chúng sanh làm chức trách, danh hiệu là tông chỉ giáo học của Ngài. Ngài dùng điều gì để dạy chúng sanh, ắt Ngài phải nêu ra một tông chỉ. Tông chỉ ấy chính là danh hiệu của Ngài. Trong giai đoạn hiện tiền, giống như trong giai đoạn này của Thích Ca Mâu Ni Phật, bất luận vị nào đến đây để làm Phật, đến giáo hóa chúng sanh, vị ấy nhất định phải dùng danh hiệu này, nhất định phải dùng danh hiệu Thích Ca Mâu Ni. Ví như Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật đến đây giáo hóa, Ngài dùng danh hiệu nào? Ngài sẽ lấy tên là Thích Ca Mâu Ni, xưng là A Di Đà Phật có được hay không? Không! Chẳng thích hợp để sử dụng! Vì sao chẳng thích hợp để sử dụng? Trong giai đoạn hiện tiền, chúng sanh mắc bệnh: Thứ nhất là thiếu tâm từ bi, tự tư, tự lợi, cho nên Ngài đặc biệt nêu ra lòng nhân, mong mọi người có thể nhân từ. Đấy chính là như trong Phật môn thường nói: “Từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”.
Mục tiêu giáo học này nhằm thích hợp với thời đại của chúng ta, đem danh hiệu này qua Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ chẳng thích ứng. Vì sao? Người trong thế giới Tây Phương ai nấy đều nhân từ, nếu quý vị vẫn bảo họ “lấy từ bi làm gốc” thì không dùng được, đối với họ chẳng có ý nghĩa gì hết. Đối với chúng ta là những kẻ thiếu lòng từ bi, nói “từ bi làm gốc”, như vậy thì có ý nghĩa, cho nên nhất định phải dùng danh hiệu này. Kế đó, chúng sanh ở nơi đây lòng người tán loạn, chẳng thanh tịnh! Vì vậy nêu ra Mâu Ni, Mâu Ni là tâm thanh tịnh. Nói cách khác, mục tiêu giáo học trong giai đoạn hiện tại là “từ bi, thanh tịnh”. Đấy là những ý nghĩa bao hàm trong danh hiệu Thích Ca Mâu Ni Phật. Nhằm thích ứng khít khao với giai đoạn hiện tiền, đối ứng căn bệnh của chúng sanh mà nói. Vì thế, chúng ta niệm Phật hiệu, Nam-mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, nếu quý vị đối với người khác thiếu từ bi, tâm địa chẳng thanh tịnh, quý vị niệm danh hiệu Phật bao nhiêu đi nữa cũng uổng công, cũng vô ích. Vì thế, niệm một câu danh hiệu nhằm niệm cho ra lòng từ bi và cái tâm thanh tịnh của chính mình!
Thích Ca Mâu Ni Phật đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thành Phật, Ngài nhất định đổi danh hiệu, đổi thành A Di Đà Phật, vì sao? Là vì danh hiệu này đến nơi ấy chẳng thích hợp. Mỗi người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều từ bi, thanh tịnh, nên danh hiệu này qua bên đó chẳng khởi tác dụng; do vậy, nhất định phải đổi danh hiệu, tức là đổi mục tiêu và tông chỉ dạy học, phải là vô lượng giác, đối với hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian phải giác chứ không mê, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Giác. Thấy danh hiệu Phật này, bèn có thể nghĩ tới thời đại đức Phật xuất hiện, có thể biết chúng sanh có những căn bệnh gì. Giống như chúng ta hiểu dược tánh, trông thấy món thuốc ấy, liền biết người đó mắc bệnh gì!
(Diễn) Giảm chí tam thập tuế, tiểu tam tai tức khởi.
(演) 減至三十歲,小三災即起。
(Diễn: [Tuổi thọ] giảm đến ba mươi tuổi, tiểu tam tai bèn dấy lên).
Cứ mỗi một trăm năm bèn giảm một tuổi, giảm cho đến khi tuổi thọ trung bình [của con người] là ba mươi năm; nói cách khác, bốn ngàn năm sau, thế gian này bèn có tiểu tam tai dấy lên. Tiểu tam tai là đao binh kiếp (chiến tranh), đói kém, ôn dịch lưu hành rộng khắp cả thế giới. Trong quá khứ, khi tôi đọc kinh thấy nói tiểu tam tai, tôi rất nghi hoặc, khi tuổi thọ con người là ba mươi năm mới có đao binh kiếp. Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Trung Hoa và Nhật Bản đánh nhau suốt tám năm, chiến tranh trên cả thế giới chết chóc nhiều ngần ấy, sao chẳng gọi là đao binh kiếp? Nghĩ thế nào cũng chẳng thông, kết quả là khi đi một vòng quanh Nhật Bản, hoảng nhiên đại ngộ! Tôi đến Trường Kỳ (Nagasaki)[73] và Quảng Đảo (Hiroshima) mới hiểu đao binh kiếp là đại chiến hạch nhân (chiến tranh bom nguyên tử, nuclear war). Đức Phật đã sớm biết chiến tranh hạch nhân. Kinh nói đao binh kiếp chỉ có bảy ngày, tiếp theo là bảy tháng lẻ bảy ngày ôn dịch, đấy chính là những căn bệnh do bụi bức xạ nguyên tử. Sau khi ôn dịch, bảy năm bảy tháng lẻ bảy ngày là nạn đói, chết đói. Nơi bom nguyên tử nổ, trong vòng sáu bảy năm đầu, cỏ cây không mọc được. Trong kinh Phật nói đến tiểu tam tai, quả thật là nói về đại chiến hạch nhân. Cuộc chiến tranh ấy chỉ có bảy ngày, cả thế giới bị hủy diệt. Không chết trực tiếp thì cũng gián tiếp chẳng tránh khỏi kiếp nạn này. Phàm những ai nhiễm phải bụi bức xạ nguyên tử da dẻ thảy đều nứt toác, trạng huống thê thảm. Cây cỏ trên mặt đất chẳng mọc, đương nhiên chết đói. Chúng ta hiểu rõ chuyện này, đúng là phải khéo tu phước. Nếu như chúng sanh đều tạo mầm tội, tội nghiệp nặng nề, tai nạn ấy sẽ xảy ra nhanh hơn. Mọi người đều tu phước thì tai nạn ấy sẽ chậm trễ. Tiểu tam tai chính là nói về chuyện này, quả thật đáng sợ.
(Diễn) Chí ư thập tuế, giảm chi cực dã.
(演) 至於十歲,減之極也。
(Diễn: Cho đến [khi tuổi thọ chỉ còn] mười năm tức là đã giảm đến tột cùng).
Tuổi thọ của con người giảm đến mười tuổi, đấy là giảm đến tột cùng.
(Diễn) Hựu quá bách niên tăng nhất tuế, tăng chí bát vạn tứ thiên tuế.
(演) 又過百年增一歲,增至八萬四千歲。
(Diễn: Lại qua một trăm năm bèn tăng một tuổi, tăng cho đến [khi tuổi thọ của con người là] tám vạn bốn ngàn năm).
Vào thời ấy, phước báo của con người lại hiện tiền.
(Diễn) Kim Luân Vương xuất thế, tăng chi cực dã.
(演) 金輪王出世,增之極也。
(Diễn: Khi Kim Luân Vương ra đời [là lúc tuổi thọ con người] tăng đến tột cùng).
Một chu kỳ tăng giảm như vậy là một kiếp. Khi tuổi thọ con người dài nhất là tám vạn bốn ngàn năm, khi ngắn nhất là mười năm. “Kim Luân Vương xuất thế”: Vị quốc vương ấy có đại phước đức, cho nên gọi là Luân Vương (Cakravarti-raja). Phạm vi thống trị của một Luân Vương chẳng phải là quả địa cầu như nay ta thường nói, địa cầu chỉ là một phần lãnh thổ thống trị của Ngài. Nếu dựa theo kinh để nói thì [khu vực thống trị của Luân Vương] được gọi là một “tứ thiên hạ”. Một tứ thiên hạ gần giống như một Thái Dương Hệ ngày nay, hoặc một tinh hệ (galaxy). Vua có phước báo lớn dường ấy, có năng lực lớn ngần ấy, thống trị một khu vực to dường ấy.
Nói đến thống trị thì trước hết chánh lệnh của nhà vua phải thấu đạt; vì thế, công cụ giao thông của nhà vua là Luân Bảo (Cakra-ratna). Luân Bảo giống như đĩa bay, tốc độ hết sức nhanh, rất nhiều người tin tưởng có người ngoài không gian. Kim Luân Vương đại khái là người ngoài không gian. Địa cầu của chúng ta cũng nằm trong phạm vi hoạt động của vua, thuộc vào lãnh thổ của nhà vua. Đây là Kim Luân Vương, nhỏ hơn một chút là Ngân Luân Vương, Đồng Ngân Vương và Thiết Luân Vương. Thiết Luân Vương cai quản một châu.
(Diễn) Quá thị dĩ hậu, đệ thập tiểu kiếp, hựu quá bách niên giảm nhất tuế, giảm chí bát vạn tuế thời, Di Lặc hạ sanh.
(演) 過是以後 , 第十小劫 , 又過百年減一歲,減至八萬歲時,彌勒下生。
(Diễn: Sau thời gian ấy, trong tiểu kiếp thứ mười, [tuổi thọ của con người] sau một trăm năm giảm một tuổi, giảm đến khi tuổi thọ là tám vạn năm, Di Lặc Phật hạ sanh).
Con người thọ tám vạn bốn ngàn năm, cứ mỗi trăm năm giảm một tuổi, giảm đến khi còn tám vạn tuổi, khi ấy, Di Lặc Bồ Tát ra đời. Thích Ca Mâu Ni là vị thứ tư trong Hiền Kiếp, Di Lặc là vị Phật thứ năm. Khi ấy, Ngài mới xuất hiện trong thế gian, Ngài đến thành Phật. Nhất Quán Đạo nói ngài Di Lặc hiện thời đã thành Phật, đấy chính là ăn nói quàng xiên, chẳng hề có chuyện ấy! Di Lặc Bồ Tát thành Phật trong tiểu kiếp thứ mười, Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật trong tiểu kiếp thứ chín. Ngài Di Lặc hiện đang làm Bổ Xứ Bồ Tát, mang thân phận Đẳng Giác Bồ Tát.
(Diễn) Thử hậu phục hữu cửu bách cửu thập ngũ Phật tương kế nhi xuất, tận nhị thập tiểu kiếp mãn.
(演) 此後復有九百九十五佛相繼而出 , 盡二十小劫滿。
(Diễn: Sau đấy lại có chín trăm chín mươi lăm vị Phật kế tiếp nhau xuất thế, cho đến hết hai mươi tiểu kiếp mới xong).
Đây là nói trong trung kiếp Trụ Kiếp có nhiều vị Phật xuất hiện như vậy. Hết hai mươi tiểu kiếp xong, đại tam tai bèn dấy lên.
(Diễn) Đại tam tai khởi, hoại thế giới dã.
(演) 大三災起,壞世界也。
(Diễn: Đại tam tai dấy lên, thế giới bị hư hoại).
Sau Trụ Kiếp là Hoại Kiếp, thế giới này bị hư hoại. Đoạn này nhằm nói rõ ý nghĩa này, đặc biệt yêu cầu chúng ta hãy thấu hiểu: [Từ hiện tại cho tới khi] Di Lặc Phật xuất thế là một giai đoạn thời gian khá dài, chẳng phải trong hiện thời. Ngàn vạn phần đừng bị những lời đồn thổi mê hoặc! Trong thời gian này, chúng ta muốn thành tựu thì quý vị phải tuân thủ giáo huấn của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, chiếu theo bộ kinh Di Đà này để tu pháp môn Tịnh Độ, chắc chắn có thành tựu. Giống như gần đây nhất, lão pháp sư Quảng Khâm đã làm chứng cho chúng ta: Niệm Phật quả thật vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đó mới gọi là “hễ liễu thoát, sẽ vĩnh viễn liễu thoát”. Điều này là chân thật, chính là điều những người học Phật chúng ta mong cầu.
Trong đoạn văn này, đại sư nói rõ: Trong thời kỳ Mạt Pháp, phải nương cậy bộ kinh này để cứu độ hết thảy chúng sanh tội khổ. Đây là lòng từ bi của Thích Ca Mâu Ni Phật đã đạt đến mức cùng cực, vì chúng ta nói ra bộ kinh này, truyền dạy pháp môn này.
(Sớ) Chánh nhập đấu tránh giả, tiền ngũ bách niên.
(演) 正入鬥爭者,前五百年。
(Sớ: “Đúng là lúc bước vào thời tranh đấu”: Năm trăm năm trước…)
Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật diệt độ, pháp vận của Phật chia thành năm giai đoạn, giống như kinh Kim Cang đã nói “ngũ ngũ bách niên” (năm lần năm trăm năm). Năm lần năm trăm năm là cứ mỗi năm trăm năm lại có một lần biến hóa. “Biến hóa” chẳng phải là Phật pháp có biến hóa, mà quý vị phải biết: Lẽ nào Phật pháp bị biến hóa? Phật pháp thuần chân, chẳng vọng, chẳng bị biến hóa; nhưng phiền não của chúng sanh ngày càng nặng hơn. Do vậy, cách dạy học của Phật pháp qua mỗi một thời kỳ ắt phải điều chỉnh thích đáng thì chúng sanh mới có thể đạt được lợi ích. Giống như trị bệnh, phải căn cứ trên bệnh tình để điều chỉnh [cách chữa trị]. Trong năm trăm đầu tiên, tức là sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật đã diệt độ năm trăm năm, cách Phật vẫn chưa xa, trong năm trăm ấy…
(Sớ) Giải thoát kiên cố.
(演) 解脫堅固。
(Sớ: Giải thoát kiên cố).
“Giải thoát”: “Giải” là giải trừ, tức giải trừ phiền não. “Thoát” là thoát khỏi sanh tử luân hồi. Trong giai đoạn này, những người như vậy rất nhiều, chiếu theo Phật pháp tu hành, thật sự chứng quả. Chúng ta nói tới chứng quả, đoạn phiền não thì Giải là đoạn phiền não, thoát tam giới; Thoát là ra khỏi tam giới. Tiểu Thừa A La Hán làm được [điều này], nói theo Đại Thừa thì bậc Thất Tín Bồ Tát trong Viên Giáo cũng làm được; nhưng [sự chứng quả trong giai đoạn này như đã chép] trong kinh Phật đều là nói về Tiểu Thừa. Thật ra, Đại Thừa được phát dương quang đại tại Trung Quốc, chứ thuở ấy, tại Ấn Độ, Tiểu Thừa thịnh hành, Đại Thừa rất ít.
(Sớ) Tiệm thứ ngũ bách, Thiền Định đa văn nhi cập tháp tự.
(演) 漸次五百,禪定多聞而及塔寺。
(Sớ: Trong những giai đoạn năm trăm năm lần lượt kế tiếp là các thời Thiền Định, đa văn và chùa tháp [kiên cố]).
Đây là nói tới mấy giai đoạn sau đó. Trong năm trăm năm thứ hai là thời “Thiền Định kiên cố”, người giải thoát ít, tức là người có thể đoạn phiền não thoát tam giới rất ít, rất hiếm có, nhưng người đắc Thiền Định đông đảo. Đắc Thiền Định, nhưng chưa giải thoát, có gì tốt đẹp? Chắc chắn chẳng đọa trong tam ác đạo! Thiền Định tu thành tựu, quả báo là Tứ Thiền Thiên hay Tứ Không Thiên trên cõi trời, tuyệt đại đa số là ở trong Tứ Thiền Thiên, tức Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền. Sanh lên trời hưởng phước trời, chứ vượt thoát tam giới hiếm lắm. Đây là năm trăm năm thứ hai sau khi Phật diệt độ, tức là một ngàn năm sau.
Trong năm trăm năm thứ ba là thời “đa văn kiên cố”, tức là sau khi Phật diệt độ một ngàn năm trăm năm, người đắc Thiền Định chẳng nhiều, nhưng mọi người làm gì? Đa văn, giảng kinh, thuyết pháp, chú giải kinh điển, phong khí ấy rất thịnh hành. Đức Phật diệt độ một ngàn năm, Phật giáo truyền sang Trung Quốc, khi ấy là cuối thời kỳ Thiền Định kiên cố, bắt đầu thời kỳ đa văn. Do vậy, Thiền được truyền sang Trung Quốc như thế đó, vào các đời Ngụy, Tấn, Tùy, Đường, Đại Thừa Phật giáo thịnh hành, mỗi một đạo tràng giảng kinh, thuyết pháp, những kinh luận trọng yếu được rất nhiều người chú sớ. Đây là thời đa văn kiên cố. Nói theo pháp thế gian, “đa văn” chính là thời đại hoàng kim của Phật pháp, dường như đời sau hưng thịnh hơn đời trước, nhưng xét theo thành tựu để nói thì đời sau chẳng bằng đời trước!
Năm trăm năm thứ tư là thời “tháp tự kiên cố”, đa văn cũng chẳng được nữa, con người phiền não nặng nề, tà kiến ngày càng nhiều, chẳng có năng lực nghiên cứu Phật pháp, mà cũng chẳng có hứng thú, đi các nơi cất chùa, dựng tháp, làm chuyện ấy, nên gọi là “tháp tự kiên cố”, chuyên môn tu phước! Mỗi ngày làm pháp hội, làm pháp hội để tu phước. Ngày nay tổ chức Phật Thất hay Thiền Thất đều là pháp hội, đều nhằm tu phước, vì sao? Chẳng đúng pháp! Phật đường thật sự đả Phật Thất thì trong bảy ngày bảy đêm ấy chỉ có một câu Phật hiệu, chẳng thể khởi lên ý niệm thứ hai, trong miệng chỉ có một câu Nam-mô A Di Đà Phật, chẳng thể nói chuyện gì khác. Niệm vừa xong một cây hương bèn nhà họ Trương hay, nhà họ Lý dở, đó là pháp hội, chẳng phải là Phật Thất! Trong khi đả Phật Thất, nhất định chẳng cho nói năng, mà tiếng niệm Phật trong suốt bảy ngày bảy đêm chẳng thể gián đoạn.
Chúng ta không có tinh thần ấy, không có thể lực ấy, làm như thế nào đây? Luân lưu, thay phiên nhau đến niệm. Mỗi người niệm tám tiếng đồng hồ, đặt ra ba ban, luân phiên niệm như vậy. Trong Niệm Phật Đường tiếng Phật hiệu quyết định chẳng thể gián đoạn, làm như vậy đó! Trước kia tại núi Linh Nham của Ấn Quang đại sư, buổi tối có bốn người trực ban niệm Phật trong đại điện. Do vậy, tiếng Phật hiệu chẳng gián đoạn. Suốt năm từ đầu đến cuối không gián đoạn, đó gọi là đạo tràng niệm Phật. Một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày, hằng ngày trong Niệm Phật Đường tối thiểu có bốn người đang niệm Phật; do vậy, họ có thể giữ cho tiếng Phật từ đầu năm đến cuối năm nhất định không gián đoạn, đó gọi là Niệm Phật Đường. Do đây có thể biết Thiền Đường cũng phải như thế, bất cứ lúc nào nhìn vào, nói chung luôn có người đang tọa Thiền tại đó, cũng là luân phiên. Vì thế, dựng tháp, xây chùa, làm pháp hội là tu phước báo. Tu phước chẳng tu Huệ, tu phước báo rất lớn, hưởng hết phước ấy, nhất định đọa lạc, nhưng người ấy đến đời sau vẫn có thể hưởng phước, chứ đời sau nữa thì không đảm bảo.
Đến năm trăm năm thứ năm, càng tệ hơn, phước cũng chẳng tu, mà tu chuyện gì?
(Sớ) Kim đương đấu tránh kiên cố chi thời, cánh vi khả mẫn.
(演) 今當鬥爭堅固之時,更為可憫。
(Sớ: Nay đang là lúc tranh đấu kiên cố, càng đáng thương lắm!)
Liên Trì đại sư ra đời vào thời ấy, nhằm đúng lúc thời kỳ tranh đấu kiên cố bắt đầu. Tranh đấu bắt đầu từ đâu? Thưa quý vị, bắt đầu từ quy y. Do vậy, quý vị học Phật liền tham gia vào đường lối tranh đấu kiên cố. Đây là sư phụ, là môn phái của tôi, kia chẳng phải là sư phụ, chẳng phải là môn phái của tôi, hễ vạch giới hạn trong ấy, bèn có tranh đấu. Do vì Ngẫu Ích đại sư trông thấy hiện tượng ấy, Hoằng Nhất đại sư khi biên tập cuốn Ngũ Giới Tướng Kinh Thiển Yếu đã trích yếu ngữ lục của Ngẫu Ích đại sư ghép vào sách ấy, [đọc thiên pháp ngữ ấy], chúng ta thấy Ngẫu Ích đại sư hết sức cảm thán! Ngài cho rằng đấy là sự sai lầm to lớn nhất!
Người học Phật trước kia là giác chứ không mê, quy y Tam Bảo là quy y Giác – Chánh – Tịnh. Chương Truyền Hương Sám Hối trong Lục Tổ Đàn Kinh dạy về phương pháp tu hành, chia thành năm quá trình theo thứ tự, giảng hết sức rõ ràng. Khi truyền trao Tam Quy, Ngài nói: “Quy y Giác, quy y Chánh, quy y Tịnh”, hoàn toàn dịch sang nghĩa tiếng Hán, vì sợ nói “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, quý vị nghe xong sẽ mê hoặc, chẳng hiểu Phật, Pháp, Tăng, nghĩ Tăng là một người, quy y vị xuất gia ấy, đó là sai lầm! Quy y Phật, trông thấy tượng Phật bèn nghĩ là Phật, đó cũng là sai lầm! Phật là Giác, giác chứ không mê. Vì thế, Lục Tổ nói “quy y Giác, quy y Chánh”, Chánh là chánh tri chánh kiến, từ tà tri tà kiến quay về nương tựa chánh tri chánh kiến. Quy y Tăng, Tăng tượng trưng thanh tịnh, sáu căn thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, từ nhiễm ô mà quay trở lại, nương vào thanh tịnh. Tăng còn tượng trưng cho hòa hợp, Tăng đoàn Lục Hòa Kính. Từ chẳng hòa hợp quay về nương tựa hòa hợp. Nay chúng ta nói đến “đoàn kết” thì hòa hợp chính là ý nghĩa đoàn kết, đừng nên phân hóa một đoàn thể!
Vào đời Minh của Liên Trì đại sư, hiện tượng quái lạ ấy bắt đầu phát sanh, tức là phân chia xé lẻ, vấn đề này khá nghiêm trọng. Nếu chẳng nghiêm trọng, tổ sư chẳng nói lời này. Vì thế, Tăng đoàn bị phá hoại, đó là tranh đấu, tạo mầm tội to lớn. Vì thế, học Phật thọ Tam Quy nếu chẳng đúng pháp thì thọ Tam Quy bèn ghi danh trong sổ bộ của địa ngục A Tỳ, vì sao? Quý vị tham gia tranh đấu kiên cố, tham gia tiêu diệt Phật pháp. Diệt Phật pháp, phá hòa hợp Tăng là tội Ngũ Nghịch. Quả báo của tội Ngũ Nghịch là địa ngục A Tỳ. Vì thế, quý vị nhất định phải có tâm cảnh giác. Chúng ta học Phật, phát cái tâm tốt lành, tương lai học vào địa ngục, quả thật chẳng đáng tí nào! Vì sao lại vào địa ngục? Vẫn là không biết chi cả, cứ hồ đồ đi theo. Vì thế, nghiệp lực chẳng thể nghĩ bàn, thường là chính mình tạo nghiệp mà chính mình chẳng biết!
Khi Tam Quy, phải biết quý vị quy y Tam Bảo, nhất là trông thấy Trụ Trì Tam Bảo, ngay lập tức phải trở về Tự Tánh Tam Bảo thì công đức Tam Quy vô lượng vô biên. Quý vị thấy Trụ Trì Tam Bảo, tức là thấy hình tướng của Tam Bảo, lập tức hồi quang phản chiếu trở về Tự Tánh Tam Bảo, quý vị sẽ được ba mươi sáu vị thần hộ pháp bảo vệ, vì sao? Quý vị thật sự là đệ tử Phật. Nếu quý vị nói “vị pháp sư nọ, vị đại đức kia là sư phụ của tôi” thì thưa quý vị, chẳng có vị thần hộ pháp nào ngó tới quý vị! Ai đến tìm quý vị? Yêu ma quỷ quái, vì sao? Quý vị mạo nhận là đệ tử Phật, chẳng phải là đệ tử chân chánh của Phật. Vì thế, khi Tam Quy, người xuất gia đại diện Tăng đoàn, đại diện Tam Bảo chứng minh cho quý vị, tuyệt đối chẳng phải là quy y với người đó! Nhất định phải hiểu ý nghĩa này! Ngàn vạn phần chớ nên hiểu lầm! Vì thế, tranh đấu kiên cố bắt đầu từ Tam Quy. Truyền thọ Tam Quy Ngũ Giới chẳng đúng pháp, nên Phật pháp mới suy vi, bại hoại. Nếu trao truyền Tam Quy Ngũ Giới đúng pháp, Phật pháp quyết định hưng vượng.
“Kim đương đấu tránh kiên cố chi thời, cánh vi khả mẫn” (nay đang thời tranh đấu kiên cố, càng đáng thương): Chúng sanh càng đáng thương hơn, vì sao? Cơ hội đọa lạc ác đạo quá nhiều, hết sức khổ! Một người trong một đời, khởi tâm động niệm, nói năng mà chẳng đọa trong ác đạo gần như là chuyện không thể nào xảy ra. Quý vị bất tri bất giác hủy diệt Phật giáo, còn tưởng là chính mình đang làm chuyện tốt đẹp trong cửa Phật, quả thật đáng thương!
(Sớ) Hậu chi hựu hậu giả.
(演) 後之又後者。
(Sớ: “Đã sau lại còn sau hơn” là…)
Liên Trì đại sư nói tình huống này càng về sau càng tệ.
(Sớ) Nãi chí pháp diệt, bội cánh khả mẫn.
(演) 乃至法滅,倍更可憫。
(Sớ: Cho đến khi pháp diệt, càng đáng thương gấp nhiều lần).
Khi Phật pháp sắp diệt, nếu hiện thời chúng ta chẳng thật sự hiểu ý nghĩa của Phật pháp thì chẳng thể nào hộ trì tốt đẹp được, Phật pháp cũng bị hủy diệt với tốc độ nhanh hơn, chính chúng ta phải cảnh giác điều này. Chúng ta có thể nghe chánh pháp, nhất định phải ghé vai gánh vác sứ mạng hộ trì chánh pháp, trước hết phải gìn giữ Giác – Chánh – Tịnh của chính mình, đó là hộ trì pháp của chính mình, rồi mới giúp đỡ người khác, hộ trì Giác – Chánh – Tịnh của chính người đó. Đó gọi là hộ trì Phật pháp của đại chúng. Có thể hộ trì chính mình, hộ trì đại chúng chính là hộ trì chánh pháp của mười phương chư Phật. Chúng ta không làm sẽ chẳng có ai làm, công tác này phải bắt đầu từ bản thân chúng ta.
(Sớ) Cố Phật thuyết thử kinh, lược nhi kế chi, đại bi hữu tam.
(演) 故佛說此經,略而計之,大悲有三。
(Sớ: Vì thế, đức Phật nói kinh, nếu tính đại lược thì có ba thứ tâm đại bi).
Do vì duyên này, đức Phật mới vì chúng ta mà nói ra bộ kinh này, vì chúng ta tuyên dương pháp môn này nhằm cứu độ chúng sanh khổ nạn trong thời kỳ Mạt Pháp. Ở đây, đại sư nói ra ba thứ tâm đại bi của Phật.
(Sớ) Nhất giả, Phật tại thế thời, lân thử Ngũ Trược, thuyết nan tín pháp, thị vi đệ nhất trọng đại bi mẫn niệm chúng sanh.
(演) 一者佛在世時 , 憐此五濁 , 說難信法,是為第一重大悲憫念眾生。
(Sớ: Một là thuở Phật tại thế, do thương xót đời Ngũ Trược này mà nói pháp khó tin. Đây là lòng đại bi lớn lao nghĩ thương chúng sanh thứ nhất).
Kinh này chẳng nói trong thời hiện tại, mà được nói trong thuở đức Phật tại thế. Nói cách khác, kinh được nói ngay trong thời Chánh Pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật, chỉ vì khi Thích Ca Mâu Ni xuất hiện trong thế gian, cõi đời đã thuộc đời ác Ngũ Trược đã lâu, chúng sanh đã khá đáng thương. Từ lịch sử của Ấn Độ, chúng ta có thể thấy được điều này. Khi đức Phật giáng thế, nhằm đúng thời kỳ tư tưởng tại Ấn Độ hết sức hỗn loạn, có tới chín mươi sáu thứ ngoại đạo. Nếu dùng pháp thế gian để nói thì là “thời đại tư tưởng, học thuật bùng nổ”, giống như thời đại Bá Gia Chư Tử vào thuở Xuân Thu Chiến Quốc tại Trung Hoa. Nói theo Phật pháp, đó là thời đại tà tri tà kiến hết sức hỗn loạn! Phật pháp có cách nhìn khác với pháp thế gian. Vì thế, khi đức Phật xuất hiện, nêu ra chánh tri chánh kiến, nói ra pháp môn này. Người chiếu theo pháp môn này tu hành, đắc độ vãng sanh hết sức đông đảo. Từ kinh điển chúng ta có thể thấy được điều này!
(Sớ) Nhị giả, Phật diệt độ hậu, phước huệ nhật thiển, tội chướng ích thâm, cố thuyết thử kinh, hàm linh vị lai tuy bất kiến Phật, Phật diệt pháp tồn, đản hữu tín giả, tốc siêu sanh tử, thị vi đệ nhị trọng đại bi mẫn niệm chúng sanh.
(演) 二者佛滅度後 , 福慧日淺 , 罪障益深。故說此經,咸令未來雖不見佛,佛滅法存,但有信者,速超生死,是為第二重大悲憫念眾生。
(Sớ: Hai là sau khi đức Phật diệt độ, phước huệ [của chúng sanh] ngày càng nông cạn, tội chướng càng sâu, vì thế, nói kinh này để cho các chúng sanh trong đời mai sau tuy chẳng thấy Phật, đức Phật đã diệt, nhưng pháp vẫn còn, chỉ cần có lòng tin sẽ mau vượt thoát sanh tử. Đây là lòng đại bi to lớn nghĩ thương chúng sanh thứ hai vậy).
Đức Phật đã sớm nghĩ: Sau khi Ngài diệt độ, tuy đức Phật chẳng còn ở trên đời, nhưng kinh này lưu thông tới đời sau, chiếu theo phương pháp này tu hành sẽ chẳng khác gì Phật còn ở trên đời. Sau khi đức Phật diệt độ, quả thật chúng sanh phước huệ dần dần giảm thiểu. Quý vị phải biết: Thế giới hiện thời là thế giới nổi tiếng về khoa học kỹ thuật, chúng ta thấy chúng sanh hiện thời phước báo lớn hơn thời cổ, trí huệ cũng thông minh hơn cổ nhân, đó là Thế Trí Biện Thông, chứ không phải phước huệ như trong Phật pháp đã nói. Vì sao? Con người hiện thời thông minh, nhưng phiền não cũng nhiều, tăng trưởng đối đãi. Người thông minh nhất trong thế gian hiện thời sợ chiến tranh hạch nhân nhất, vì vũ khí hạch nhân do chính họ phát minh. Phát minh ra rồi suốt ngày từ sáng đến tối phập phồng, chẳng phải là chính mình tự chuốc lấy phiền muộn ư? Có khoa học gia nào chẳng lo lắng về đại chiến nguyên tử? Vẫn cứ miệt mài muốn phát minh, đó chẳng phải là phước, chẳng phải là trí huệ chân chánh. Người thật sự có trí huệ biết lý luận, nhưng không nói, đó là có trí huệ, vì sao? Chẳng bận lòng vì chiến tranh hạch nhân. Vì thế, người phương Tây không có trí huệ, người Trung Quốc có trí huệ!
Khoa học kỹ thuật của Trung Quốc theo lịch sử ghi chép thì vào thời Hán đã học kỹ thuật phi hành bằng tàu lượn (glider), Gia Cát Lượng chế tạo mộc ngưu lưu mã (trâu ngựa gỗ có thể cử động được), tức là những phương tiện chuyển vận được cơ giới hóa. Vì thế, có thể nói khoa học kỹ thuật của Trung Quốc sớm hơn người phương Tây rất nhiều, nhưng người Trung Quốc có trí huệ, hủy bỏ những thứ ấy, chẳng để cho chúng được lưu truyền. Nguyên nhân là vì sau khi những thứ khí cụ khoa học ấy bị những kẻ có dã tâm lợi dụng thì chúng sanh trên thế giới sẽ mắc không biết bao nhiêu hoạn nạn to lớn. Người Trung Quốc nghĩ xa, mong giữ bình an cho người đời sau. Nói cách khác, họ phải có trách nhiệm đối với lịch sử, có trách nhiệm với đời sau. Vì thế, họ biết những thứ ấy, nhưng không nói ra, chẳng làm, đó là đại từ đại bi, đó là trí huệ lưu lộ. Người phương Tây rốt cuộc theo tư tưởng công lợi (Utilitarianism), hễ biết bèn ngay lập tức bộc lộ ra, ngay lập tức chế tạo, hậu quả là hiện thời hối hận chẳng kịp, đấy là thiếu trí huệ, thiếu phước báo.
Nếu nói đến hứng thú về mặt tình cảm trong cuộc sống thì chúng ta ngày nay chẳng bằng cổ nhân. Tuy đèn điện sáng rực như thế rất tiện cho chúng ta, nhưng nó thiếu ý vị thơ mộng như nến. Phi cơ lẹ làng dường ấy, nhưng không có ý vị ngất ngây rất đặc biệt như dong thuyền. Tình thơ ý mộng trong cuộc sống của cổ nhân quả thật là chân thiện mỹ, có sự hưởng thụ như vậy! Hiện thời không còn nữa, hiện thời suốt ngày từ sáng đến tối là cuộc sống tất bật, khổ não vì đủ thứ áp lực. Đời sống của con người trong thế gian này thua xa những con vật cưng (pet). Tôi nhìn những con vật cưng, cảm thấy chúng nó rất vui sướng, con người chẳng bằng súc sanh! Nhất là quý vị thấy những con thú cưng ở ngoại quốc, người ngoại quốc nuôi chó, bất luận là chó hoang hay chó nuôi trong nhà, chúng có phước báo lớn hơn con người, vì sao? Con người phải hầu hạ chúng nó, chúng nó đâu phải hầu hạ con người! Người tu phước phải chú ý, đừng để đời sau biến thành súc sanh hưởng phước, [nếu bị như vậy thì] cũng chẳng tốt đẹp gì! Vì thế, đường lối giải thoát duy nhất vẫn là phải niệm Phật. Đây là lòng từ bi thứ hai. Kinh văn này càng đọc càng thấy hợp lý, đủ thấy cổ nhân đúng là thấy xa trông rộng.
(Sớ) Tam giả, như Đại Bổn ngôn: “Phật diệt cửu viễn, đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận, độc lưu thử kinh trụ thế độ sanh, tối hậu phương diệt, tắc tri thao thiên chi tế, thượng tác Từ hàng. Đại dạ phương trầm, do xứng pháp cự. Thị vi đệ tam trọng đại bi mẫn niệm chúng sanh dã.
(演) 三者如大本言 , 佛滅久遠 , 當來之世,經道滅盡,獨留此經住世度生,最後方滅,則知滔天之際,尚作慈航,大夜方沈,猶稱法炬,是為第三重大悲憫念眾生也。
(Sớ: Thứ ba là như kinh Đại Bổn nói: “Phật diệt độ đã lâu xa,
trong đời tương lai, kinh đạo diệt hết, riêng lưu lại kinh này trong cõi đời để độ chúng sanh, diệt mất sau cùng, nên biết là khi nước ngập tận trời, còn làm chiếc bè Từ, thuở đêm sâu tối mịt, vẫn xứng làm đuốc pháp. Đây là lòng đại bi nghĩ thương chúng sanh to lớn thứ ba vậy).
Đây là tầng ý nghĩa thứ ba, nói về lúc toàn bộ Phật pháp đã diệt sạch.
(Diễn) Kinh đạo diệt tận giả, thỉ tự Thủ Lăng Nghiêm Kinh, Ban Châu Tam Muội Kinh, chung chí thập nhị phần giáo, tất giai diệt tận, độc lưu A Di Đà Kinh trụ thế bách niên, tối hậu phương diệt dã.
(演) 經道滅盡者 , 始自首楞嚴經 , 般舟三昧經,終至十二分教,悉皆滅盡,獨留阿彌陀經住世百年,最後方滅也。
(Diễn: “Kinh đạo diệt hết”: Bắt đầu từ kinh Thủ Lăng Nghiêm và kinh Ban Châu Tam Muội, cuối cùng đến mười hai phần giáo thảy đều diệt sạch, riêng lưu lại kinh A Di Đà tồn tại trên đời một trăm năm, diệt mất cuối cùng).
Đây là nói về quá trình toàn bộ Phật pháp diệt mất trong tương lai. Diệt mất đầu tiên là kinh Lăng Nghiêm. Kinh Lăng Nghiêm chẳng diệt thì Phật pháp chẳng diệt. Vì sao? Nếu quý vị đọc kỹ kinh Lăng Nghiêm thì hiện thời bất cứ loài yêu ma quỷ quái nào mạo danh Phật pháp trong thế gian, quý vị vừa nhìn liền thấy thấu suốt, có thể phân biệt được! Vì thế, kinh này nhất định bị diệt trước. Trong quá khứ, tôi giảng kinh Lăng Nghiêm, đã nói kinh Lăng Nghiêm là kính chiếu yêu. Nếu kính chiếu yêu chẳng diệt, yêu ma quỷ quái chẳng dám xuất hiện. Vì thế, nếu kinh này bị phá hoại trước tiên thì mọi người chẳng thể phân biệt [đâu là ma, đâu là Phật] nên yêu ma quỷ quái mới có thể xuất hiện. Đặc biệt là nửa phần sau của quyển thứ sáu trong kinh Lăng Nghiêm, tức chương Tứ Chủng Thanh Tịnh Minh Hối (bốn loại giáo huấn thanh tịnh rõ ràng) dạy quý vị phân biệt Phật và ma như thế nào, phân biệt tà và chánh như thế nào. Cuối kinh Lăng Nghiêm từ nửa sau quyển chín cho đến quyển thứ mười, kinh văn gồm một quyển rưỡi giảng về năm mươi thứ Ấm Ma, giảng về những cảnh giới mà quý vị sẽ nhất định gặp phải trong quá trình tu hành. Năm mươi loại [Ấm Ma] chính là ma chướng! Số lượng trong mỗi một loại là vô lượng vô biên, quý vị nói tu hành chẳng gặp ma chướng ư? Không có chuyện ấy đâu nhé. Nếu quý vị có năng lực biện định, nếu quý vị nhận biết chúng nó, nhận biết chúng nó chẳng đáng sợ, chúng nó sẽ chẳng thể chướng ngại quý vị. Sợ rằng quý vị chưa nhận biết, sẽ bị mắc lừa!
Trong quá khứ, chúng tôi đã giảng kinh Lăng Nghiêm rất nhiều lần, hiện thời vẫn có người tìm tôi xin giảng, tôi không giảng nữa. Tôi nói hiện thời tôi giảng kinh Di Đà, nhất tâm cầu sanh Tịnh Độ. Do đây có thể biết: Kinh Di Đà công đức vô lượng vô biên. Khi hết thảy kinh pháp đã diệt sạch, kinh này vẫn còn lại trên đời suốt một trăm năm, diệt mất sau cùng. Do đây có thể biết rằng: Bộ kinh này công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn! Học Phật chỉ có nương theo bộ kinh này thì còn có hy vọng, còn có thể vãng sanh Tịnh Độ. Thật sự chẳng thể nghĩ bàn, đúng là từ bi đến mức cùng cực.
(Diễn) Pháp diệt thời, ca-sa tự nhiên biến bạch.
(演) 法滅時袈裟自然變白。
(Diễn: Khi pháp diệt, áo ca-sa tự nhiên đổi thành trắng).
Đây là nói theo hình tướng. Ca-sa (Kasāya) là “nhiễm sắc y” (y nhuộm màu xậm), đến khi pháp diệt, không ai mặc y nhiễm sắc nữa!
(Diễn) Tạng kinh tự nhiên vô tự, thập lục La Hán tận thâu thế gian nhất thiết kinh pháp trữ ư đồng tháp, nhiễu tháp kinh hành, thán ngôn: “Thích Ca pháp diệt”.
(演) 藏經自然無字 , 十六羅漢盡收世間一切經法貯於銅塔,遶塔經行。歎言:釋迦法滅。
(Diễn: Tạng kinh tự nhiên không còn chữ. Mười sáu vị La Hán gom sạch hết thảy các kinh pháp trong thế gian chứa trong tháp đồng, đi kinh hành quanh tháp, than thở: “Pháp của Phật Thích Ca đã diệt”).
“Thán” (歎) là khôn ngăn xúc cảm than thở; lúc ấy, mười sáu vị đại đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật, tức là mười sáu vị Đại A La Hán thâu cất các kinh điển, chứa trong cái tháp bằng đồng.
(Diễn) Nhiên hậu thử tháp trầm chí Kim Cang tế, tắc thế giới pháp diệt dã.
(演) 然後此塔沈至金剛際,則世界法滅也。
(Diễn: Sau đó, tháp ấy chìm xuống tận Kim Cang Tế[74], tức là pháp diệt mất trên toàn thế giới).
Giáo pháp của cả một đời Thích Ca Mâu Ni Phật cáo chung, ắt phải đợi đến năm mươi sáu ức vạn năm sau. Di Lặc Phật đến thế gian này thị hiện thành Phật, lại giảng kinh, thuyết pháp. Quý vị phải biết: Thời gian mà thế gian này có Phật pháp rất ngắn ngủi, tạm bợ; nói chung là một vạn hai ngàn năm. Thời gian không có Phật pháp hết sức dài, tức là cách một khoảng thời gian gồm năm mươi sáu ức vạn năm không có Phật pháp. Không có Phật pháp, chúng sanh chẳng có cơ hội vượt thoát tam giới, chẳng có cơ hội thoát sanh tử luân hồi. Vì thế thời gian luân hồi dài lâu!
Trong một đời này, chúng ta may mắn gặp gỡ pháp môn này, nói cách khác, có được cơ duyên này, chúng ta có thể đắc độ trong một đời này, có thể giải quyết vấn đề, nếu bỏ lỡ một đời này, phiền phức sẽ to lắm. Tuy đời sau quý vị có phước báo, nhưng có thể gặp Phật pháp hay không, đó là một vấn đề lớn! Thế giới ngày nay có bốn mươi mấy ức người, có bao nhiêu người được nghe kinh hay nghe một câu A Di Đà Phật trong một đời? Vì thế, có thể đọc bộ kinh này, nghe một câu A Di Đà Phật, chẳng dễ dàng đâu nhé! Lấy ngay Đài Bắc để nói thì gần tới hai trăm vạn người, nếu quý vị kiểm tra trọn khắp, trong hai trăm vạn người, trong đời này có mấy người nghe kinh này một lần? Có mấy người niệm một câu A Di Đà Phật? Tuyệt đại đa số, sợ rằng đến tám mươi phần trăm, trong một đời này chưa hề nghe kinh, chưa hề niệm một câu Phật hiệu. Nơi Phật giáo hưng thịnh nhất mà còn như thế, huống hồ những nơi khác? Vì thế, nhất định phải trân quý nhân duyên khó được này, quả thật là trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ, nhưng nay chúng ta có thể gặp gỡ thì phải trân quý điều này!
“Độc lưu thử kinh” (riêng lưu lại kinh này) là đến lúc cuối cùng trong pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật, đại sư nói “tắc tri thao thiên chi tế, thượng tác Từ hàng. Đại dạ phương trầm, do xứng pháp cự” (nên biết lúc nước ngập tận trời, còn làm chiếc bè Từ, thuở đêm sâu tối mịt, vẫn xứng làm đuốc pháp). Hai câu này là dùng tỷ dụ để nói.
(Diễn) Thao thiên chi tế, đại dạ phương trầm giả: Dụ chúng sanh phiền não nhật thâm, vô minh nhật hậu. Cổ vân: “Si vân ái đãi tánh thiên hôn, thức hỏa giao tiên tâm đỉnh phất” thị dã.
(演) 滔天之際 、 大夜方沈者 , 喻眾生煩惱日深,無明日厚,古云痴雲靉靆性天昏,識火交煎心鼎沸是也。
(Diễn: “Khi nước ngập tận trời, thuở đêm sâu tối mịt”: Sánh ví chúng sanh phiền não ngày một sâu, vô minh ngày càng dầy. Cổ nhân nói: “Mây si dồn phủ khiến bầu trời chân tánh tối om, lửa thức chen nhau nung cái vạc tâm sôi sùng sục” là nói về chuyện này).
“Ái đãi” (靉靆) là mây mù bốc lên, nay chúng ta đi trên xa lộ, có đoạn thường thấy có sương mù, đi lại trong sương mù khá nguy hiểm. Ở đây là nói ngu si phiền não khiến cho chúng ta mê mất chánh đạo, bất tri bất giác đi vào đường tà, ngỡ tà là chánh. Câu cuối cùng nhằm hình dung phiền não, Ngũ Ấm lừng lẫy. Đây là do ba tầng đại bi nghĩ thương chúng sanh mà đức Phật giảng kinh này.
(Sớ) Thí chi từ phụ, ưu niệm hậu côn.
(演) 譬之慈父,憂念後昆。
(Sớ: Ví như cha lành, nghĩ lo cho con cháu).
“Hậu côn” là hậu duệ.
(Sớ) Tâm vô tận cố.
(演) 心無盡故。
(Sớ: Do tâm vô tận vậy).
Đối với con cháu đời sau, Ngài nghĩ hết sức sâu xa, làm thế nào để con cháu đời đời kiếp kiếp đều có thể bảo toàn, đều đạt được hạnh phúc. Người Trung Quốc dụng tâm ở chỗ này nhiều hơn người ngoại quốc. Người ngoại quốc suy tính cho con cháu quả thật không nhiều lắm. Cổ thánh tiên hiền Trung Quốc nghĩ giùm con cháu quá nhiều, nếu nay chúng ta không khéo học sẽ chẳng xứng với tổ tiên. Điều đầu tiên là văn chương Văn Ngôn, mọi người chẳng học văn chương Văn Ngôn, làm sao có thể xứng với tổ tiên? Đấy là tổ tiên đã suy nghĩ thay cho chúng ta, đấy là một thứ công cụ để truyền trao trí huệ và kinh nghiệm. Hôm nay đã hết thời gian rồi.
— o0o —
Tập 52
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang sáu mươi bảy, đoạn thứ hai của phần Giáo Khởi Nhân Duyên.
(Huyền Nghĩa) Nhị, đặc ư vô lượng pháp môn xuất thắng phương tiện giả, nhập đạo đa môn, bổn vô giản trạch, hiểm di khúc trực, nan dị du phân, tắc vô lượng môn trung, Niệm Phật nhất môn, tối vi phương tiện. Lược trần hữu tứ: Nhất, bất trị Phật thế, đắc thường kiến Phật phương tiện. Nhị, bất đoạn Hoặc nghiệp, đắc xuất luân hồi phương tiện. Tam, bất tu dư hạnh, đắc Ba La Mật phương tiện. Tứ, bất kinh đa kiếp, đắc tật giải thoát phương tiện.
(玄義) 二 、 特於無量法門出勝方便者 , 入道多門,本無揀擇,險夷曲直,難易攸分,則無量門中,念佛一門,最為方便。略陳有四:一不值佛世,得常見佛方便;二不斷惑業,得出輪迴方便;三不修餘行,得波羅密方便;四不經多劫,得疾解脫方便。
(Huyền Nghĩa: Hai, “đặc biệt trong vô lượng pháp môn nêu ra phương tiện thù thắng”: Có nhiều môn để vào đạo, vốn không chọn lựa, nhưng chia ra thành [các đường lối] hiểm trở, thông suốt, cong, thẳng, khó, dễ rất khác nhau, nên trong vô lượng môn, một môn Niệm Phật là thuận tiện nhất. Nêu đại lược thì có bốn điều như sau: Một, [đây là] phương tiện [khiến cho hành giả] dù không gặp lúc Phật tại thế mà vẫn thường được thấy Phật. Hai, [đây là] phương tiện [khiến cho hành giả] chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà vẫn thoát luân hồi. Ba, [đây là] phương tiện [khiến cho hành giả] chẳng tu các hạnh khác, mà đắc Ba La Mật. Bốn, [đây là] phương tiện [khiến cho hành giả] chẳng trải nhiều kiếp, mau được giải thoát).
Đây là nhân duyên thứ hai khiến đức Phật nói kinh này. Tuy Phật pháp có rất nhiều pháp môn, có thể nói chúng đều là pháp phương tiện, nhưng trong các pháp phương tiện, phương pháp [Niệm Phật] này là pháp môn phương tiện thù thắng nhất. Pháp này rốt ráo thù thắng như thế nào? Tiếp đó, Ngài nêu ra bốn điều. Bốn điều này quả thật là bốn thứ chẳng thể nghĩ bàn. Vừa mở đầu, Ngài bèn nói theo Lý: “Nhập đạo đa môn, bổn vô giản trạch” (Có nhiều môn để vào đạo, vốn không chọn lựa). Tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn nào cũng đều bình đẳng, môn nào cũng đều có thể chứng Vô Thượng Đạo, cho nên nói: Pháp môn bình đẳng, không hai, không khác!
(Diễn) Nhập đạo đa môn giả, như Lăng Nghiêm, nhị thập ngũ nhân các thuyết Viên Thông phương tiện.
(演) 入道多門者,如楞嚴,二十五人各說圓通方便。
(Diễn: “Có nhiều môn để nhập đạo”: Như trong kinh Lăng Nghiêm, hai mươi lăm vị [thánh giả], mỗi vị đều nói phương tiện Viên Thông).
Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật hỏi các vị Bồ Tát rốt ráo dùng phương pháp nào tu hành để chứng quả, ngay khi ấy, hai mươi lăm vị Bồ Tát, mỗi vị đều nói ra phương pháp tu hành chứng quả của mình, nhưng mỗi một vị đều nói pháp môn của mình là bậc nhất. Vì thế, không có thứ hai, môn nào cũng là bậc nhất! Hai mươi lăm vị Bồ Tát này tượng trưng cho vô lượng pháp môn do đức Phật đã nói. Cớ sao vô lượng pháp môn chỉ có hai mươi lăm vị Bồ Tát đại diện? Quy nạp vô lượng pháp môn thành hai mươi lăm loại; hai mươi lăm loại ấy gồm sáu căn, sáu trần, sáu thức, bảy đại. Gộp chung tất cả các pháp môn, nói chung chẳng ngoài hai mươi lăm loại lớn này, tức là mười tám giới cộng thêm bảy đại. Vì thế, [hai mươi lăm pháp Viên Thông] đại diện cho tám vạn bốn ngàn pháp môn. Vô lượng pháp môn, môn nào cũng đều có thể nhập đạo, môn nào cũng là bậc nhất. Nói theo Lý, pháp môn thật sự bình đẳng, chẳng cần phải chọn lựa, chẳng cần chọn lọc. Nói theo Sự, do căn tánh của chúng ta khác nhau, cho nên phải chọn lựa. Vì thế, nói “hiểm di khúc trực, nan dị du phân” (chia ra hiểm trở, thông suốt, cong, thẳng, khó, dễ rất khác nhau), đạo lý ở chỗ này.
Có những pháp môn rất khó tu học, người bình thường chẳng thể tu học được. Có những pháp môn tu học dễ dàng hơn. Dẫu dễ dàng, nhưng nói thật ra, căn tánh của mỗi người vẫn khác nhau. Ví như có người thích niệm Phật, suốt ngày từ sáng đến tối Phật hiệu liên tục không gián đoạn, người ấy niệm rất hoan hỷ. Có kẻ chẳng thích niệm Phật, niệm một chút bèn gián đoạn. Quý vị bảo họ tụng niệm khóa tụng sáng tối, niệm một tiếng rưỡi đồng hồ thì họ niệm được! Quý vị bảo họ suốt ngày từ sáng đến tối niệm Phật, họ chẳng làm được! Đủ thấy căn tánh khác nhau. Có những người thích tụng kinh, càng tụng càng thấy thú vị. Tụng kinh thì được, cả ngày tụng suốt mười tiếng đồng hồ cũng chẳng mệt, chẳng chán; nhưng bảo họ niệm Phật, niệm một tiếng đồng hồ bèn ngủ gục. Căn tánh của mỗi người khác nhau, do vậy mà pháp môn này có khó, dễ! Đủ thấy khó hay dễ chẳng phải do chính pháp môn! Chính vì như thế, Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức bảo chúng ta: Nhất định phải chọn lựa [pháp môn] phù hợp căn tánh và sự ưa thích của chính mình. Thế nhưng chọn lựa thì chúng ta thường là chưa thâm nhập toàn bộ Phật pháp, chưa thể liễu giải, pháp môn nhiều ngần ấy, chọn pháp môn nào mới là tốt đẹp đây? Nếu mỗi pháp môn đều thử, thử xong rồi sẽ quay lại chọn lựa, sợ rằng dẫu chúng ta sống đến hai trăm năm vẫn thử chưa xong! Đấy cũng là một vấn đề khó khăn trong thực tế. Chúng ta không có thọ mạng dài lâu như vậy, không có thời gian dài như vậy, há chẳng lầm lỡ đại sự của chính mình ư? Vì thế, Phật, Bồ Tát phải chọn lựa thay cho chúng ta.
Tuy dạy chúng ta pháp môn này, nhưng trong pháp môn này còn có phương tiện, ví như vừa mới nói đến niệm Phật, niệm Phật có bốn loại: Trì Danh, Quán Tưởng, Quán Tượng, Thật Tướng. Có bốn loại lớn. Trong mỗi một loại, lại có rất nhiều phương tiện, thật sự là “đại khai phương tiện môn” (mở rộng cửa phương tiện)! Chỗ thù thắng của pháp môn này được nêu ra trong bốn điều kế tiếp, tức là bốn món chẳng thể nghĩ bàn. Món thứ nhất là “bất trị Phật thế, đắc thường kiến Phật phương tiện” (phương tiện chẳng gặp lúc đức Phật tại thế mà thường được thấy Phật). Học Phật mà nếu chẳng gặp Phật, rất khó thành tựu!
(Diễn) Bất trị Phật thế, vị Thích Ca dĩ quá.
(演) 不值佛世,謂釋迦已過。
(Diễn: “Chẳng gặp Phật tại thế”, ý nói: Phật Thích Ca đã diệt độ).
Thích Ca Mâu Ni Phật đã không còn ở trên đời, đã diệt độ.
(Diễn) Từ Thị vị lai.
(演) 慈氏未來。
(Diễn: Di Lặc Phật chưa giáng thế).
“Từ Thị” là Di Lặc Phật, Ngài còn chưa xuất thế. Trong Di Lặc Hạ Sanh Kinh, đức Phật bảo chúng ta: Năm mươi sáu ức vạn năm sau, Di Lặc Bồ Tát mới giáng sanh, thời gian ấy khá dài. Di Lặc Bồ Tát còn
chưa giáng sanh; do vậy, hiện thời chúng ta chẳng có cơ hội gặp Phật.
(Diễn) Đắc thường kiến Phật hữu tam nghĩa.
(演) 得常見佛有三義。
(Diễn: “Thường được thấy Phật” có ba ý nghĩa).
Thế nhưng tu pháp môn này có thể thấy Phật, trong ấy có ba ý nghĩa.
(Diễn) Nhất, lâm chung chi tế, Phật lai tiếp dẫn.
(演) 一、臨終之際,佛來接引。
(Diễn: Một, lúc lâm chung, Phật đến tiếp dẫn).
Quý vị thấy Phật, nhất định thấy Phật đến dẫn quý vị về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Gần đây nhất, khi lão pháp sư Quảng Khâm vãng sanh, thấy Tây Phương Tam Thánh dẫn các vị thượng thiện nhân trong thế giới Tây Phương đến tiếp dẫn Ngài vãng sanh, đó là “thấy Phật”.
(Diễn) Nhị, dĩ sanh chi hậu, thường kiến Di Đà.
(演) 二、已生之後,常見彌陀。
(Diễn: Hai, là sau khi đã vãng sanh, thường gặp Phật Di Đà).
Sau khi quý vị vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, hằng ngày gặp Phật. Không chỉ thấy A Di Đà Phật, mà chư Phật Như Lai trong mười phương thế giới đều thường gặp gỡ. Trong kinh nói rất rõ ràng, người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới có thói quen mỗi sáng sớm đều đi lễ Phật, lễ bao nhiêu vị Phật? Lễ mười vạn ức Phật! Lại thưa cùng quý vị: Mỗi ngày lễ mười vạn ức Phật khác nhau. Phật vô lượng vô biên, mỗi ngày lễ mười vạn ức, do vậy, họ có thể gặp vô lượng Phật. Duy nhất pháp môn này mới có phương tiện thù thắng ấy, học các pháp môn khác sẽ không có cách nào thấy Phật nhiều ngần ấy, rất khó thành tựu trong một đời!
(Diễn) Tam, Thiền Quán chi trung, đắc đổ thánh tướng.
(演) 三、禪觀之中,得睹聖相。
(Diễn: Ba, là trong lúc Thiền Quán, được thấy hình tướng của chư thánh).
Quý vị phải nhớ: Nói “Thiền Quán” chẳng phải là bảo quý vị tham Thiền! Thiền Quán là nhất tâm, khi trong tâm thanh tịnh, quý vị niệm Phật đến mức tâm thanh tịnh, niệm đến mức nhất tâm; khi ấy, quý vị cũng thấy Phật, thấy Bồ Tát. Rất nhiều vị đồng tu chúng ta có được cảnh giới như vậy, còn có rất nhiều vị đồng tu tự mình thật sự thấy Phật, thấy Bồ Tát, họ mới tin tưởng. Vì thế, tâm thanh tịnh mới có cảm ứng với Phật, nhất tâm bất loạn là Thiền Định vô thượng rất sâu, chúng ta cần phải hiểu điều này. Đây là điều chẳng thể nghĩ bàn thứ nhất.
Thứ hai là “bất đoạn Hoặc nghiệp, đắc xuất luân hồi phương tiện” (phương tiện chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà có thể thoát luân hồi).
(Diễn) Bất đoạn Hoặc phương tiện giả, như Tiểu Thừa tất đoạn tận Kiến Tư, phương xuất tam giới.
(演) 不斷惑方便者,如小乘必斷盡見思,方出三界。
(Diễn: “Phương tiện chẳng đoạn Hoặc”: Như Tiểu Thừa ắt phải đoạn hết Kiến Tư phiền não thì mới ra khỏi tam giới).
Đây là nói về thánh nhân Tiểu Thừa. Tứ Quả A La Hán nhất định phải đoạn sạch Kiến Tư phiền não rồi mới có thể vượt thoát tam giới, vượt thoát lục đạo. Nếu đoạn sạch Kiến Tư phiền não thì nói thật ra, chắc chắn là phàm phu chẳng thể thực hiện trong một đời được! Đừng nói Kiến Tư phiền não, bất cứ một điều nào trong Kiến Hoặc cũng đều chẳng dễ gì đoạn trừ trong một đời!
Đối với Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, Tà Kiến, quý vị có thể đoạn sạch sành sanh bất cứ một thứ nào trong một đời, quả thật chẳng dễ dàng! Nói cách khác, quý vị tu các pháp môn khác, tu những pháp Tiểu Thừa, có thể thoát tam giới, liễu sanh tử hay chăng? Chẳng thể nào!
(Diễn) Đại Thừa nhân trực chí mạng căn đoạn tận, nghiệp thức khô can, thỉ xuất sanh tử.
(演) 大乘人直至命根斷盡,業識枯乾,始出生死。
(Diễn: Người Đại Thừa thì mãi cho đến khi mạng căn đoạn sạch, nghiệp thức khô ran, mới ra khỏi sanh tử).
Điều kiện này chẳng khác người Tiểu Thừa. Lấy Viên Giáo để nói thì Bồ Tát thuộc địa vị Thất Tín đã đoạn sạch Kiến Tư phiền não, nghiệp thức khô khan, vượt thoát tam giới. Địa vị Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo có mức độ đoạn Hoặc tương đương với quả Tu Đà Hoàn bên Tiểu Thừa, tức là bằng với Sơ Quả. Sơ Tín Bồ Tát của Viên Giáo bằng với Sơ Quả trong Tiểu Thừa. Thất Tín Bồ Tát trong Viên Giáo bằng với Tứ Quả trong Tiểu Thừa. Quý vị biết [để đạt tới những quả vị ấy] thật sự khó khăn, chẳng dễ dàng! Sơ Quả thánh nhân có hai điều đảm bảo: Thứ nhất là đảm bảo không đọa trong tam ác đạo, đảm bảo thứ hai là sanh trong cõi trời cõi người bảy lần rồi sẽ nhất định chứng quả A La Hán. Thế nhưng con người trong thế gian thọ mạng ngắn ngủi, cõi trời thọ mạng lâu dài, thời gian ấy tính ra đều là những con số thiên văn. Vì thế, chúng ta cần phải hiểu rõ, phải thấu triệt, liễu sanh tử xuất tam giới chẳng hề dễ dàng!
(Diễn) Cố vân: “Hào ly hệ niệm, tam đồ nghiệp nhân, miết nhĩ tình sanh, vạn kiếp ky tỏa”.
(演) 故云毫釐繫念 , 三途業因 , 瞥爾情生,萬劫羈鎖。
(Diễn: Cho nên nói: “Mảy may hệ niệm là nghiệp nhân trong tam đồ, tình sanh trong chớp mắt, ràng buộc vạn kiếp”).
Chúng ta phải đọc bài kệ này nhiều lần, phải học thuộc. Mười sáu chữ này đơn giản, nhưng đã nói lên căn bản sanh tử luân hồi. Vì sao quý vị chẳng thể thành tựu? Phía trên đã nói “pháp môn bình đẳng, không có cao hay thấp”, chẳng sai! Cái gốc bệnh khiến cho quý vị chẳng thể thành tựu là ở chỗ này. Nói theo cách bây giờ, “hệ niệm” là trong tâm quý vị vướng mắc, quý vị chỉ có tơ hào vướng mắc, sẽ chẳng ra khỏi lục đạo. Chẳng ra khỏi lục đạo, sẽ phần nhiều ở trong tam đồ, ít khi sanh trong tam thiện đạo. Chuyện này rất phiền phức. Khi nào tâm quý vị mới chẳng có vướng mắc gì? Người học Phật chúng ta phải dè chừng sâu xa!
Chúng ta học Phật nhằm mục đích nào? Cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, nhằm mục tiêu ấy. Đã là cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, những chuyện chẳng liên can với Tây Phương Tịnh Độ đều buông xuống hết. Không chỉ buông xuống pháp thế gian, mà pháp Đại Thừa, pháp Tiểu Thừa, Hiển Giáo, Mật Giáo đều buông xuống hết. Đấy mới là thật sự tin tưởng. Kinh chỉ niệm một bộ. Nói thật ra, một bộ kinh là đủ rồi. Pháp môn là một câu A Di Đà Phật, niệm mệt rồi bèn đọc kinh, đọc mệt rồi bèn niệm Phật. Đấy là đại sự duy nhất của chúng ta trong một đời, như vậy thì mới có thể vãng sanh. Đấy mới gọi là “lòng tin chân thành, nguyện thiết tha”, nhất định vãng sanh. Chúng ta hãy suy nghĩ xem những chuyện vướng mắc trong bụng dạ có quét sạch được hay không?
“Miết nhĩ tình sanh, vạn kiếp ky tỏa” (Tình sanh trong chớp mắt, ràng buộc vạn kiếp): Tỏa (鎖: xiềng) là hình cụ (dụng cụ để tra tấn), là một loại gông cùm, còng tay, xiềng chân, đây là tỷ dụ. Ngay cả trong một thời gian cực ngắn, sáu căn của quý vị tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài bèn khởi lên vọng niệm. “Tình sanh” là khởi ý niệm, dấy vọng niệm. Câu trước là nói lúc sáu căn chưa tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, chính mình khởi vọng tưởng, tập khí phiền não, vướng mắc trong lòng chưa buông xuống được! Hai câu sau là nói khi quý vị đối cảnh nẩy sanh tình thức, cũng là đối trước cảnh dấy lên ý niệm. Trong kinh Kim Cang, đức Phật dạy chúng ta: “Bất thủ ư tướng, như như bất động” (chẳng giữ lấy tướng, như như bất động). Như như bất động là nói tới hai câu trên [trong bài kệ ở đây], chân tâm của chính mình thanh tịnh, vướng mắc gì cũng chẳng có, chẳng động tâm. Hai câu kệ sau là chẳng chấp tướng. Ngoài chẳng chấp tướng, trong chẳng động tâm, như vậy mới là đúng! Nếu nói “ngoài chấp tướng, bên trong động tâm”, đấy chính là căn bản của luân hồi trong tam đồ lục đạo, chúng ta không có cách nào thoát lìa được! Phương pháp Niệm Phật nói “đới nghiệp vãng sanh”, chính là nói “chẳng đoạn Hoặc nghiệp”, chưa đoạn được những thứ này! Tuy chưa đoạn nhưng phải thế nào? Phải chế phục nó!
(Diễn) Kim thử niệm Phật, đản năng phục vọng, tức đắc vãng sanh cố.
(演) 今此念佛,但能伏妄,即得往生故。
(Diễn: Nay pháp niệm Phật này, chỉ cần khuất phục vọng niệm, liền được vãng sanh).
Chế phục vọng niệm, chúng ta làm được điều này. Muốn đoạn trừ nó, quả thật chẳng dễ dàng! Chính mình thật sự nỗ lực một chút, sẽ có thể chế phục Hoặc nghiệp. Ngoài chẳng chấp tướng, trong chẳng động tâm, tạm thời chế ngự, tạm thời “chẳng chấp tướng, chẳng động tâm” thì làm được, như vậy là có thể đới nghiệp vãng sanh. Pháp môn này so với các pháp môn khác thật sự thuận tiện hơn ở chỗ này, hết sức khó có!
“Bất tu dư hạnh, đắc Ba La Mật phương tiện” (là phương tiện chẳng tu các hạnh khác mà đắc Ba La Mật). Ba La Mật (Pāramitā) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là “công đức viên mãn”.
(Diễn) Bất tu dư hạnh phương tiện giả, như Bố Thí, tất tu tam luân không tịch.
(演) 不修餘行方便者,如布施,必須三輪空寂。
(Diễn: “Phương tiện chẳng tu các hạnh khác”: Như Bố Thí ắt cần phải tam luân không tịch).
Đấy mới là Bố Thí Ba La Mật, tức là Bố Thí Độ viên mãn.
(Diễn) Trì Giới, tắc bất khuyết, bất phá.
(演) 持戒,則不缺不破。
(Diễn: Trì Giới thì chẳng thiếu sót, chẳng phá giới).
Trì Giới nhất định phải chẳng thiếu sót, chẳng phá giới thì Trì Giới mới là viên mãn.
(Diễn) Nãi chí tùy Định cụ túc, phương viết Ba La Mật.
(演) 乃至隨定具足,方曰波羅密。
(Diễn: Cho đến Định phải đầy đủ thì mới gọi là Ba La Mật).
Trong Lục Độ chỉ nêu lên hai điều, sau đó còn có Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định và Bát Nhã, muốn thực hiện viên mãn thứ nào cũng đều chẳng dễ dàng!
(Diễn) Thành phi dị tu dã.
(演) 誠非易修也。
(Diễn: Thật chẳng dễ tu vậy!)
Nay chúng ta nói tới tu Lục Độ, mỗi một điều chỉ có thể thực hiện được một hai phần trong ngàn vạn phần mà thôi, không có cách nào thực hiện viên mãn. Tu thành tựu rất khó khăn, nhưng đối với pháp môn này thì…
(Diễn) Kim tư niệm Phật, bất xuất nhất tâm, vạn hạnh cụ túc cố.
(演) 今茲念佛,不出一心,萬行具足故。
(Diễn: Nay pháp niệm Phật này chẳng ra ngoài nhất tâm, mà muôn hạnh đầy đủ).
Điều này chẳng thể nghĩ bàn! Dùng một câu A Di Đà Phật, nếu quý vị niệm đến mức nhất tâm bất loạn thì Lục Độ vạn hạnh thảy đều viên mãn, chẳng cần phải tu những hạnh khác. Tám vạn bốn ngàn pháp môn chẳng cần phải tu trọn, một môn này đầy đủ hết thảy các pháp môn; đây là điều chẳng thể nghĩ bàn thứ ba.
Điều thứ tư là “bất kinh đa kiếp, đắc tật giải thoát phương tiện” (là phương tiện chẳng cần trải nhiều kiếp, mà mau chóng đạt giải thoát). “Tật” (疾) là mau chóng, chúng ta xem lời chú giải của đoạn này.
(Diễn) Y dư pháp tu, thiên sanh luyện tánh, bách kiếp điều tâm, phương đắc giải thoát.
(演) 依餘法修,千生煉性,百劫調心,方得解脫。
(Diễn: Nương theo pháp khác để tu thì ngàn đời luyện tánh, trăm kiếp điều phục cái tâm, mới hòng giải thoát).
Đây là nói về các pháp môn thông thường. Quý vị tu các pháp môn khác, thời gian dài lắm! Thông thường, trong kinh Tiểu Thừa, đức Phật nói là ba đại A-tăng-kỳ kiếp, nhưng trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật nói là vô lượng kiếp. Luận theo phía phàm phu chúng ta, để tu thành Phật phải trải qua một thời gian rất dài. Dù đã thành Phật rồi, kinh còn nói: Bồ Tát tu thành Vô Thượng Đạo còn phải dùng một trăm kiếp để tu tướng hảo, tu phước, vì sao? Thiếu phước báo sẽ chẳng thể độ chúng sanh, vẫn phải đặc biệt dùng thời gian một trăm kiếp để tu phước như vậy mới hòng phổ độ chúng sanh.
(Diễn) Thiền môn tuy vân nhất sanh liễu đạo, diệc nãi đa kiếp huân tu.
(演) 禪門雖云一生了道,亦乃多劫熏修。
(Diễn: Thiền môn tuy nói liễu đạo trong một đời, vẫn là nhiều kiếp huân tu).
Thiền và Mật đều giống nhau, Mật Tông nói “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay nơi thân này), nhà Thiền nói “nhất sanh liễu đạo”, chẳng phải là trong một đời mà tu thành! Đời đời kiếp kiếp trong quá khứ người ấy đều tu, đời này thành thục nên mới có thể thành tựu! Đời quá khứ không có cơ sở thiện căn sâu dầy, chỉ dựa vào sự huân tu trong đời này, sẽ chẳng thể thành công. Trong lịch sử Thiền Tông Trung Quốc, người thành tựu cao nhất là Lục Tổ đại sư. Trong lịch sử Thiền Tông Trung Quốc, không có một vị tổ sư [Thiền Tông] nào có thể sánh bằng Ngài. Một đời Ngài độ người thành tựu có bốn mươi ba người minh tâm kiến tánh đại triệt đại ngộ, chẳng phải là ai cũng đều có thể thành tựu. Lục Tổ trụ tại chùa Nam Hoa[75] ba mươi bảy năm, khi ấy, chùa có tên là Bảo Lâm, suốt đời Ngài chẳng lìa khỏi đạo tràng ấy. Ba mươi bảy năm dạy học, chẳng biết có bao nhiều người tu theo, người thành tựu mới chỉ là bốn mươi ba vị. Há có phải là ai cũng có phần ư? Do vậy, phải hiểu rằng: Bốn mươi ba vị ấy đều đã nhiều kiếp huân tu, nhân duyên chín muồi trong hội của đại sư nên mới đắc độ. Chẳng phải là hạng phàm phu lè tè sát đất mà hòng thành tựu!
Nhưng pháp môn Niệm Phật này thật sự khác hẳn! Chúng ta thấy Huệ Viễn đại sư thời Tấn là người đầu tiên đề xướng pháp môn Niệm Phật. Ngài lập liên xã tại Lô Sơn tỉnh Giang Tây, trên thực tế là một cái am tranh, có một trăm hai mươi ba người cùng tu, ai nấy đều vãng sanh. Một trăm phần trăm thành tựu! Những người thành tựu nơi Lục Tổ đại sư có thể nói là thành tựu một phần vạn, trong một vạn người chỉ có một người [thành tựu], nhưng Lô Sơn Liên Xã của Viễn Công là một trăm phần trăm thành tựu, không ai chẳng thành tựu. Nhìn từ chỗ này, khó và dễ rành rành! Tu pháp môn này, chắc chắn có thể thành tựu; tu các pháp môn khác, chưa chắc đã có thể thành tựu, tùy thuộc vào thiện căn, phước đức, và nhân duyên của quý vị trong quá khứ. Tiếp đó, Ngài dẫn lời Vĩnh Gia đại sư:
(Diễn) Như Vĩnh Gia vân.
(演) 如永嘉云。
(Diễn: Như ngài Vĩnh Gia nói).
Trong Chứng Đạo Ca, Vĩnh Gia đại sư đã nói về chính mình.
(Diễn) “Ngô tảo tằng kinh đa kiếp tu, bất thị đẳng nhàn sanh cuống hoặc”, thị dã.
(演) 吾早曾經多劫修,不是等閒生誑惑是也。
(Diễn: “Tôi đã tu qua bao nhiêu kiếp từ lâu, chẳng phải là chuyện dễ dãi mà hòng dối gạt, mê hoặc [người đời][76]”, chính là nói về chuyện này).
Vĩnh Gia đại sư là một trong bốn mươi ba người [đắc độ] trong hội của Lục Tổ. Ngài tự nói: Ngài đã tu hành nhiều đời nhiều kiếp, chẳng phải là hạng người ơ hờ, chẳng phải là trong một đời này, mà là tu hành nhiều đời nhiều kiếp. Nói cách khác, bất cứ pháp môn nào khác đều là tu nhiều đời nhiều kiếp, chẳng hề nói “thành tựu trong một đời!” Thật sự nói “thành tựu trong một đời” chỉ có pháp môn này. Điều này thật sự chẳng thể nghĩ bàn, mà cũng là “pháp khó tin” được nhắc đến một lần nữa trong kinh này.
(Diễn) Kim tư niệm Phật, đản xưng niệm Di Đà, tật đăng bỉ ngạn cố.
(演) 今茲念佛,但稱念彌陀,疾登彼岸故。
(Diễn: Nay pháp Niệm Phật này chỉ xưng niệm Di Đà bèn mau chóng lên bờ kia).
Đây là pháp môn phương tiện cầu được giải thoát nhanh chóng nhất. Nói thật ra, bất cứ một pháp môn nào cũng đều chẳng nhanh hơn pháp môn này, bất cứ một pháp môn nào cũng đều chẳng thể ổn thỏa, thích đáng hơn pháp môn này. Pháp môn này ổn thỏa, thích đáng, viên đốn, thẳng chóng, nhanh lẹ. Đối với chúng ta mà nói, quả thật là pháp môn bậc nhất!
(Sớ) Pháp môn giả, đạo thể u huyền, tùng môn thỉ nhập, vị môn bất đồng, cố vân vô lượng.
(演) 法門者 , 道體幽玄 , 從門始入,為門不同,故云無量。
(Sớ: “Pháp môn”: Đạo thể sâu xa, huyền diệu, từ cửa mà bắt đầu tiến vào. Do cửa vào khác nhau, nên nói là “vô lượng”).
Trước hết giải thích chữ “pháp môn”, rồi nói số lượng của pháp môn quả thật quá nhiều. Pháp là gì? Môn là gì? Xin hãy xem chú giải.
(Diễn) Pháp môn giả, quỹ sanh vật giải viết “pháp”, thánh trí thông du viết “môn”.
(演) 法門者,軌生物解曰法,聖智通游曰門。
(Diễn: “Pháp môn”: Tuân theo sẽ khiến cho hữu tình chúng sanh nẩy sanh sự hiểu biết thì gọi là “pháp”; nhờ đó mà thông đạt trí của chư thánh thì gọi là “môn”).
Đây là định nghĩa của hai chữ “pháp môn”. Quý vị phải nhớ, trong tương lai, bất luận quý vị đọc kinh luận nào, chỉ cần thấy chữ “pháp môn” đều hiểu theo cách giảng ở đây, không có cách giải thích thứ hai. “Quỹ” (軌) là quy tắc, có nghĩa là “quỹ đạo”, nay chúng ta thường gọi là “nguyên lý, nguyên tắc”. Chữ “vật” (物) chỉ hữu tình chúng sanh. Ngài không nói “người”, vì nói “người” thì những loài chúng sanh trong thiên đạo, súc sanh, quỷ, địa ngục không có phần. Ngài nói “vật” thì hữu tình chúng sanh trong lục đạo đều bao gồm. Hữu tình chúng sanh trong lục đạo chiếu theo “quỹ đạo” này, tức là chiếu theo pháp tắc, “quỹ” có nghĩa là pháp tắc, phương pháp, nguyên lý, nguyên tắc, sẽ có thể sanh Giải, tức là có thể lý giải, thông hiểu, đó gọi là “quỹ sanh vật giải” (tuân theo quy tắc sẽ khiến cho hữu tình chúng sanh thông hiểu). Đó gọi là “pháp”. “Môn” là khai trí huệ. Quý vị từ phương pháp này mà mở mang trí huệ, đó gọi là Môn. Trí huệ ấy chẳng phải là trí huệ thông thường, mà là trí huệ của Phật, Bồ Tát; do vậy gọi là “thánh trí”. Chư Phật, Bồ Tát đều dựa theo phương pháp ấy để khai trí huệ, nên gọi là “thánh trí thông du”, “thông” (通) là thông đạt, thông suốt, chẳng trở ngại, đó gọi là Môn. Đây là định nghĩa của hai chữ “pháp môn”. Dưới đây là lời giải thích những ý nghĩa được bao hàm [trong hai câu Sớ].
(Diễn) Đạo thể u huyền giả.
(演) 道體幽玄者。
(Diễn: “Đạo thể u huyền” là…)
Nói thật ra, chữ “đạo” chỉ Chân Như tự tánh của chúng ta, mà cũng là bản thể của hết thảy muôn pháp. Nói cách khác, toàn thể vũ trụ và nhân sinh, kể cả bản thân chúng ta từ đâu mà có? Từ chỗ này mà có, từ đây mà sanh. Bản thể có thể sanh, trong Phật pháp gọi [bản thể] là “tự tánh, bổn tánh”. Bổn tánh có thể sanh, nó là bản thể của đại đạo, hết thảy vạn pháp được sanh bởi nó. Cái có thể sanh (năng sanh) và những cái được sanh (sở sanh) là một, không hai. Nếu luận theo Thể thì “năng sanh” không có hình tướng, không có nơi chốn.
(Diễn) Đạo vô hình tướng, vô phương sở.
(演) 道無形相,無方所。
(Diễn: Đạo không có hình tướng, không có nơi chốn).
Mắt chúng ta không thấy được, tai không nghe thấy, cũng chẳng mò được, thậm chí cũng chẳng nghĩ tưởng được!
(Diễn) Bất khả thấu bạc, vô dung nghĩ nghị.
(演) 不可湊泊,無容擬議。
(Diễn: Chẳng thể nắm bắt, không thể suy tưởng, bàn luận được).
“Bất khả thấu bạc” là mảy may miễn cưỡng cũng chẳng thể được! “Vô dung nghĩ nghị”: Không có cách nào suy tưởng hay bàn luận. Đó gọi là “ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”. Hình dung Chân Như bổn tánh như vậy đó. Thật ra, hình dung như thế nào thì cũng chẳng có cách nào hình dung cho khít khao. Chúng ta phải tự chú tâm thấu hiểu điều này .
(Diễn) Luận Ngữ vân: “Ngưỡng chi di cao, toản chi di kiên, chiêm chi tại tiền, hốt yên tại hậu”, thị dã.
(演) 論語云 : 仰之彌高 , 鑽之彌堅,瞻之在前,忽焉在後是也。
(Diễn: Sách Luận Ngữ có chép: “Càng ngẩng lên trông, càng thấy cao, càng khoét thì càng cứng, mới nhìn thấy đằng trước, chợt ở đằng sau” là nói về ý này vậy).
Mấy câu này nhằm hình dung đạo của Khổng phu tử chẳng thể nghĩ bàn! Ở đây, dùng mấy câu này để tỷ dụ đạo thể; đạo thể u huyền chẳng thể nghĩ bàn!
(Diễn) Tùng môn thỉ nhập giả.
(演) 從門始入者。
(Diễn: “Từ cửa mà bắt đầu tiến vào” là…)
“Môn” là pháp môn, nhất định có phương pháp thì quý vị mới có thể khế nhập, quý vị mới có thể thấu hiểu.
(Diễn) Lăng Nghiêm vân: “Hốt mông thiên vương tứ dữ hoa ốc, yếu nhân môn nhập”.
(演) 楞嚴云:忽蒙天王賜與華屋,要因門入。
(Diễn: Kinh Lăng Nghiêm chép: “Chợt được vua trời ban cho căn nhà đẹp đẽ, phải do cửa để vào”).
Đây là mấy câu do ngài A Nan bạch cùng Thích Ca Mâu Ni Phật. Nếu chẳng tìm được cửa, sẽ không có cách nào khế nhập. Nhất định phải có đường lối thì chúng con mới có thể chứng nhập!
(Diễn): Luận Ngữ vân: “Bất đắc kỳ môn nhi nhập, bất kiến tông miếu chi mỹ, bách quan chi phú”.
(演) 論語云 : 不得其門而入 , 不見宗廟之美、百官之富。
(Diễn: Sách Luận Ngữ chép: “Chẳng tìm được cửa để vào, chẳng thấy tông miếu đẹp đẽ, trăm quan giàu có”).
Những điều này đều nhằm nói lên: Học Phật nhất định phải có đường lối. Đường lối khác nhau, nên có vô lượng vô biên [pháp môn] giống như hai mươi lăm môn Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm đã được nhắc đến trong phần trước. Có người từ sáu căn mà nhập đạo, có người từ sáu thức mà nhập đạo, có người từ bảy đại mà nhập đạo. Chẳng hạn như Quán Thế Âm Bồ Tát từ Nhĩ Căn mà nhập, Đại Thế Chí Bồ Tát từ Kiến Đại trong bảy đại mà nhập. Bảy đại là Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Kiến, Thức. Điều này nêu rõ cửa vào nhập đạo của từng người. Pháp môn là phương pháp; phương pháp khác nhau, nhưng phải biết: Tuy phương pháp khác nhau, nhưng cảnh giới sau khi chứng nhập chẳng khác. Giống như giảng đường của chúng ta có rất nhiều cửa, bất luận quý vị theo cửa nào bước vào, cửa tuy khác nhau, nhưng bước vào sẽ thấy [bên trong] hoàn toàn giống nhau, chẳng khác! Do vậy, Phật pháp là “phương tiện hữu đa môn, quy nguyên vô nhị lộ” (phương tiện có nhiều môn, về nguồn không hai đường). Trở về nguồn là một, chắc chắn chẳng có sai khác. Cửa vào rất nhiều vậy!
(Sớ) Quyền xảo tiếp dẫn, linh đắc nhập môn, danh vi phương tiện.
(演) 權巧接引,令得入門,名為方便。
(Sớ: Quyền xảo tiếp dẫn khiến cho được vào cửa, gọi là phương tiện).
Giải thích “phương tiện” là gì, phàm là pháp môn thì đều gọi là “phương tiện”.
(Diễn) Quyền xảo tiếp dẫn linh đắc nhập môn giả, thử môn biến nhất thiết xứ.
(演) 權巧接引令得入門者,此門遍一切處。
(Diễn: “Quyền biến khéo léo tiếp dẫn, khiến vào được cửa”: Môn này trọn khắp hết thảy các nơi).
Đây là nói tới pháp môn trong Phật pháp, vô lượng vô biên pháp môn đúng là “biến nhất thiết xứ” (trọn khắp hết thảy mọi nơi). Sáu căn, sáu thức, sáu trần, bảy đại bao gồm hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng sót một pháp nào, quả thật là “trọn khắp hết thảy mọi nơi”.
(Diễn) Đầu đầu khả nhập, pháp pháp kham quy.
(演) 頭頭可入,法法堪歸。
(Diễn: Thứ gì cũng đều có thể nhập, pháp nào cũng đáng về).
Vấn đề là quý vị có biết cách sử dụng hay không. Không biết sẽ chẳng có cách nào. Phải biết sử dụng thì đúng là thứ gì cũng là đạo.
(Diễn) Cổ vân.
(演) 古云。
(Diễn: Cổ nhân nói).
Đây là mấy câu “cơ phong” trong nhà Thiền.
(Diễn) “Xứ xứ lục dương kham hệ mã, gia gia hữu lộ thấu Trường An”. Kỳ như chúng sanh bất tri, xứ xứ phùng cừ, đầu đầu thác quá dã.
(演) 處處綠楊堪繫馬 , 家家有路透長安 , 其如眾生不知,處處逢渠,頭頭錯過也。
(Diễn: “Chốn chốn dương xanh kham buộc ngựa, nhà nhà có lối thấu Trường An”. Nếu chúng sanh chẳng biết, thì ở đâu cũng vướng mắc, đối với bất cứ chuyện gì cũng lỡ làng).
Vào thời ấy, Trường An là kinh đô. Nói thật ra, chẳng có một pháp nào không thể nhập đạo, đáng tiếc là chúng sanh chẳng tự mình nhận biết, tự mình mê hoặc, do vậy “xứ xứ phùng cừ”. “Cừ” (渠) là chỗ nước đọng, không vượt qua được. “Đầu đầu thác quá” (Chỗ nào cũng bỏ lỡ): Nhân duyên này quá tốt đẹp [mà chúng sanh luôn bỏ lỡ], đức Phật tiếp dẫn hết thảy chúng sanh đích xác là tùy cơ tiếp dẫn, hoàn toàn chẳng có phương pháp cố định. Nếu có một phương pháp cố định, lẽ nào cả đời lão nhân gia phải nói kinh nhiều ngần ấy? Cớ sao Ngài phải nói ra các pháp môn nhiều ngần ấy? Đích xác là không có một phương pháp cố định nào để nói, mà cũng không có phương pháp cố định nào để tiếp dẫn chúng sanh. Đúng là “tùy cơ tiếp dẫn” (tiếp dẫn thuận theo căn cơ của từng đối tượng), người nào gặp được Phật cũng đều đắc độ.
Hiện thời, chúng ta muốn bàn đến “thắng phương tiện” (phương tiện thù thắng, tuyệt diệu nhất) trong những pháp phương tiện. Chữ “thắng” là nhằm thẳng vào chúng ta để nói. Nói cách khác, [pháp môn được đức Phật dạy trong kinh này] rất thích hợp hoàn cảnh hiện tiền, căn tánh và trình độ của chúng ta. Chúng ta chiếu theo phương pháp này để tu hành, trong một đời này nhất định có thành tựu. Đối với chúng ta mà nói thì pháp phương tiện này là phương tiện thù thắng.
(Sớ) Nhi ngôn thắng giả, phương tiện trung phương tiện dã.
(演) 而言勝者,方便中方便也。
(Sớ: Nói “thắng” tức là [pháp này] là phương tiện bậc nhất trong các phương tiện).
Đó gọi là “thắng phương tiện”.
(Sớ) Tức Quán Kinh sở vị “dị” dã.
(演) 即觀經所謂異也。
(Sớ: Chính là như Quán Kinh gọi là “dị” (khác lạ) vậy).
Liên Trì đại sư nói đến “thắng phương tiện”, tức là như Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh gọi là “dị phương tiện” (phương tiện lạ lùng).
(Sớ) Đa môn giả, hoặc vị môn môn khả dĩ nhập đạo, hà tất niệm Phật vãng sanh.
(演) 多門者,或謂門門可以入道,何必念佛往生。
(Sớ: “Nhiều môn”: Có kẻ nói: “Môn nào cũng đều có thể nhập đạo, sao cứ phải niệm Phật vãng sanh?”)
Người nói như vậy có thể nói là từ xưa đến nay đều có, mà còn là số đông nữa, chúng ta thường gặp họ. Học Phật, thấy Phật, cần gì cứ phải nhất định thấy A Di Đà Phật? Cầu sanh cõi Phật, cớ gì cứ nhất định phải sanh về Tây Phương Tịnh Độ? Thế giới của chư Phật vô lượng vô biên, có thế giới Phật nào chẳng đáng sanh về? Vì sao cứ khăng khăng phải sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới? Những lời ấy dường như rất hợp lý, thật ra chẳng phải, vì sao? Trong ấy có khó, dễ, sai khác rất lớn!
(Sớ) Nhi hữu dị hữu nan.
(演) 而有易有難。
(Sớ: Nhưng các pháp môn có dễ, có khó).
Đã có khó và dễ thì phải chọn lựa!
(Sớ) Bất phương vô giản trạch trung nhi thuyết giản trạch.
(演) 不妨無揀擇中而說揀擇。
(Sớ: Chẳng ngại gì nói “chọn lựa” trong cái “vốn không chọn lựa”).
Về Lý thì không có chọn lựa, nhưng chiếu theo căn tánh của chúng ta mà nói thì cần phải chọn lựa!
(Sớ) Hiểm giả khi khu nan hành, khúc giả hu hồi nan đáo, dụ dư môn dã.
(演) 險者崎嶇難行,曲者紆迴難到,喻餘門也。
(Sớ: “Hiểm” là gập ghềnh khó đi, “khúc” là ngoắt ngoéo khó đến. [Dùng chữ “hiểm khúc”] để sánh ví các pháp môn khác).
Tỷ dụ các pháp môn khác. Lời chú giải ở đây hết sức đơn giản, nhưng ý nghĩa hết sức sâu rộng.
(Diễn) Khi khu nan hành giả, như tiền hạo bác nan trì, u thâm võng thố đẳng.
(演) 崎嶇難行者,如前浩博難持,幽深罔措等。
(Diễn: “Gập ghềnh khó đi” là như trong phần trước đã nói: Mênh mông, bát ngát khó nắm giữ, sâu thẳm khó thể thực hiện v.v…)
Bất luận Hiển Giáo, Mật Giáo, kinh điển vừa nhiều, vừa khó, lại vừa sâu, chúng ta muốn lý giải, tu học, quả thật chẳng dễ dàng!
(Diễn) Hu hồi nan đáo giả.
(演) 紆迴難到者。
(Diễn: “Ngoắt ngoéo khó đến” là…)
Nếu quý vị không đi đường thẳng, mà đi theo con đường quanh co, vòng vèo, ngoắt ngoéo, sẽ phải qua rất nhiều đường vòng mới hòng đến nơi. Vì thế, phải trải qua thời gian rất lâu.
(Diễn) Như Tăng-kỳ tích hạnh, khoáng kiếp cần tu đẳng.
(演) 如僧祇積行,曠劫勤修等。
(Diễn: Như tích tập công hạnh trong A-tăng-kỳ kiếp, siêng tu bao kiếp dài lâu v.v…)
Tu học các pháp môn khác, hao phí thời gian quá nhiều.
(Sớ) Di thản tắc dị hành, dụ niệm Phật nhân giai khả vi.
(演) 夷坦則易行,喻念佛人皆可為。
(Sớ: Bằng phẳng thì dễ đi, ví như niệm Phật ai cũng có thể làm được).
“Di thản” (夷坦) là tỷ dụ. Tỷ dụ con đường bằng phẳng, đường to, thẳng thớm, chẳng có ngõ rẽ, quý vị không biết đường cũng có thể đến nơi. Vì sao? Chỉ có một con đường, noi theo con đường ấy mà đi, cứ đi tới phía trước sẽ đến. Nếu có nhiều khúc quanh, ngoắt ngoéo, sẽ chẳng dễ gì kiếm lối được, dễ bị lạc đường! Quý vị tu pháp môn này chẳng đến nỗi lạc lối. Nói cách khác, tu các pháp môn khác, ma chướng rất nhiều, dễ gặp ma chướng. Tu pháp môn này dễ dàng, vì pháp môn này là con đường thẳng, chỉ cần quý vị thật sự tin là được rồi! Hạ quyết tâm chẳng thay đổi chủ ý, sẽ chẳng đến nỗi chuốc lấy ma chướng, pháp này dễ dàng hơn rất nhiều!
(Sớ) Trực tiệp tắc dị đáo, dụ niệm Phật tốc siêu sanh tử.
(演) 直捷則易到,喻念佛速超生死。
(Sớ: Thẳng tắt sẽ dễ đến, ví như niệm Phật mau vượt thoát sanh tử).
Pháp môn này là pháp môn thẳng chóng. Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy: Người đầu tiên từ nhục thân mà thành Phật trong một đời là Thiện Tài đồng tử, vì sao Ngài có thể làm được? Ngài tu pháp môn thẳng chóng này! Trong kinh Hoa Nghiêm, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ thuộc thế giới Hoa Tạng tu những pháp môn khác, đến cuối cùng Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn họ về Cực Lạc. Bọn họ đi vòng vèo quanh co về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nhìn từ kinh Hoa Nghiêm, Tây Phương Cực Lạc thế giới là chỗ quy y cuối cùng trong Đại Thừa Phật pháp. Bất luận quý vị tu một pháp môn nào, đến cuối cùng đều quay về Tây Phương Tịnh Độ. Đã quay về Tây Phương Tịnh Độ thì niệm A Di Đà Phật là phương pháp thẳng chóng nhất. Chúng ta phải nên hiểu điều này! Dưới đây, Ngài dẫn một đoạn công án.
(Sớ) Như Vy Đề Hy, diệc biến quán thập phương thế giới, nhi duy nguyện sanh Cực Lạc dã.
(演) 如韋提希,亦遍觀十方世界,而惟願生極樂也。
(Sớ: Như bà Vy Đề Hy cũng quán khắp mười phương thế giới, nhưng chỉ nguyện sanh về Cực Lạc).
Đây là một thí dụ hết sức rõ rệt! Phu nhân Vy Đề Hy (Vaidehi) cũng thuộc dòng dõi vua chúa. Trong thời đức Phật tại thế, bà ta là mẹ của vua A Xà Thế (Ajatasatru). Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh được nói ra là do nhân duyên này.
(Diễn) Vy Đề biến quán nguyện sanh Cực Lạc giả.
(演) 韋提遍觀願生極樂者。
(Diễn: “Vy Đề Hy quán khắp [mười phương thế giới chư Phật], nguyện sanh về Cực Lạc” là…)
Bà ta gặp nạn, con bất hiếu, cấu kết với Đề Bà Đạt Đa. Đề Bà Đạt Đa muốn hại Thích Ca Mâu Ni Phật, chính mình muốn làm vị Phật mới, xúi giục A Xà Thế phản bội cha, mưu hại cha ruột, tự mình đoạt lấy ngôi vua, trở thành tân vương, Hai người âm mưu với nhau, tạo vô lượng vô biên tội nghiệp. Mẹ ông ta bị giam chặt trong cung cấm, chẳng cho ai đến thăm viếng. Bà ta là một đệ tử kiền thành của Phật, ở trong cung không biết làm sao, bèn hướng lên hư không van vái, cầu xin Thích Ca Mâu Ni Phật cứu bà ta. Đức Phật biết chuyện này, liền phái vị [đệ tử] thần thông đệ nhất là Mục Kiền Liên đi thăm bà, rồi đích thân đức Thế Tôn cũng đến hoàng cung.
(Diễn) Thế Tôn tùng đảnh phóng quang, chiếu thập phương giới.
(演) 世尊從頂放光,照十方界。
(Diễn: Đức Thế Tôn từ đỉnh đầu phóng quanh, chiếu mười phương cõi nước).
Đức Thế Tôn thị hiện thần thông.
(Diễn) Phục thâu bảo quang, kết vi kim đài, kỳ trung phổ hiện thập phương Phật độ, linh Vy Đề biến quán, Vy Đề độc nguyện sanh ư Cực Lạc dã.
(演) 復收寶光 , 結為金臺 , 其中普現十方佛土,令韋提遍觀,韋提獨願生於極樂也。
(Diễn: Lại thâu quang minh báu, kết thành đài vàng, trong ấy hiện khắp các cõi Phật trong mười phương, bảo Vy Đề Hy hãy nhìn trọn khắp, nhưng Vy Đề Hy chỉ mong sanh vào Cực Lạc).
Thích Ca Mâu Ni Phật dùng sức thần thông thị hiện, đem toàn bộ Tịnh Độ của mười phương chư Phật thị hiện trong không trung cho phu nhân Vy Đề Hy đều có thể thấy được. [Đức Phật dạy]: “Sau khi nhìn xong, bà hãy tự chọn lựa thế giới của vị Phật nào mà bà ưa thích”. Phu nhân Vy Đề Hy nhìn từng cõi xong, chọn Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đức Phật dạy cho bà ta phương pháp cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, dùng phương pháp Quán Tưởng. Vì thế, Thập Lục Quán Kinh là do Thích Ca Mâu Ni Phật nói với phu nhân Vy Đề Hy, truyền xuống như vậy, bà ta nguyện sanh Cực Lạc.
(Sớ) Đắc thường kiến Phật giả, Khởi Tín Luận ký thị Chân Như tam-muội, cập nhị môn Chỉ Quán cánh, phục vân: “Hữu sơ học thị pháp, kỳ tâm khiếp nhược. Dĩ Sa Bà bất thường trị Phật, cụ vị tín tâm nan tựu. Như Lai hữu thắng phương tiện, nhiếp hộ tín tâm, vị chuyên ý niệm Phật, tức sanh Phật độ, thường kiến ư Phật. Như Tu Đa La thuyết: “Chuyên niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, tức đắc vãng sanh, chung vô hữu thoái”. Thử kinh tắc thất nhật nhất tâm, Phật hiện tại tiền, thị dã. Cố tri Linh Sơn dĩ quá, Long Hoa vị lai, vô Phật thế trung nhi đắc kiến Phật, thị danh tối thắng đệ nhất phương tiện.
(演) 得常見佛者 , 起信論既示真如三昧 , 及二門止觀竟。復云:有初學是法,其心怯弱,以娑婆不常值佛,懼謂信心難就。如來有勝方便,攝護信心,謂專意念佛,即生佛土,常見於佛。如修多羅說:專念西方極樂世界阿彌陀佛,即得往生,終無有退,此經則七日一心,佛現在前,是也。故知靈山已過,龍華未來,無佛世中而得見佛,是名最勝第一方便。
(Sớ: “Thường được thấy Phật”: Khởi Tín Luận đã dạy Chân Như tam-muội và hai môn Chỉ – Quán xong, lại nói: “Có kẻ mới học pháp này, tâm kẻ ấy khiếp hãi, yếu ớt, vì trong cõi Sa Bà chẳng thường gặp Phật, hoảng sợ cho rằng tín tâm khó trọn. Như Lai bèn có phương tiện thù thắng để nhiếp trì, bảo vệ tín tâm, đó là: Dốc trọn ý niệm Phật, liền được sanh vào cõi Phật, thường thấy Phật. Như kinh có dạy: “Chuyên niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, liền được vãng sanh, trọn chẳng thoái chuyển”. Kinh này nói bảy ngày nhất tâm, Phật bèn hiện ra trước mặt, chính là nói tới ý đó. Vì thế biết: Hội Linh Sơn đã qua, thời Long Hoa chưa tới, trong đời không có Phật mà được thấy Phật, nên gọi là phương tiện tối thắng bậc nhất).
“Tu Đa La” là Kinh, “Linh Sơn dĩ quá” là Thích Ca Mâu Ni Phật đã diệt độ. “Long Hoa vị lai” là nói Di Lặc Phật chưa ra đời. Trước tiên, đại sư dẫn lời văn từ Khởi Tín Luận để nói. Chân Như tam-muội và “hai môn Chỉ Quán” đều là những thứ hàng sơ học chúng ta mong đạt được. Chân Như tam-muội là gì? Chúng ta phải nhận biết chính xác định nghĩa của danh từ thuật ngữ này. Chân Như (Tathāta) là tiếng Phạn dịch ra, Chân là chẳng vọng, Như là Sự và Lý hoàn toàn tương ứng. Ví như “dùng vàng chế đồ vật, món nào cũng đều là vàng”, Tánh giống như Tướng, Tướng giống như Tánh, nhất như, vô nhị như. Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật nói mười món như thị (thập như thị), đấy là nói về Chân Như. “Tam-muội” (Samādhi) là tiếng Phạn dịch âm, có nghĩa là Chánh Thọ, tức sự hưởng thụ đúng mức, bình thường. Đúng mức, bình thường là gì? Ngoài chẳng chấp tướng, trong tâm bất động. Sự thụ dụng ấy đúng mực, bình thường. Nếu chấp tướng động tâm sự cảm nhận ấy không đúng mực, bất bình thường! Năm thứ cảm nhận “khổ, lạc, ưu, hỷ, xả” là những thứ hưởng thụ không đúng mực, bất bình thường của phàm phu trong tam giới lục đạo. Sự hưởng thụ của chư Phật, Bồ Tát, A La Hán là đúng mực, bình thường, trong tâm các Ngài không có khổ, lạc, ưu, hỷ, xả, đối với hết thảy pháp đều có cái nhìn bình đẳng. Vì sao? Không có một pháp nào chẳng thật, không có một pháp nào chẳng Như!
(Diễn) Chân Như tam-muội, hữu chánh quán, hữu phương tiện.
(演) 真如三昧,有正觀、有方便。
(Diễn: Chân Như tam-muội có chánh quán và phương tiện).
Tức là nói Chân Như tam-muội gồm hai thứ.
(Diễn) Chánh Quán, tức pháp giới nhất tướng, nhất thiết chư pháp, bình đẳng vô nhị.
(演) 正觀,即法界一相,一切諸法,平等無二。
(Diễn: Chánh Quán là pháp giới một tướng, hết thảy các pháp bình đẳng không hai).
Đây là Chánh Quán. Quý vị biết hết thảy pháp bình đẳng, không hai. Do vậy, trong hết thảy các pháp quý vị mới chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, vì sao? Nó là một, không hai, khởi tâm động niệm liền rớt vào hai, ba. Nếu khi nó đã là một, chắc chắn chẳng có khởi tâm động niệm, đó là Chánh Quán. Chúng ta niệm Phật, niệm đến mức nhất tâm bất loạn thì mới có thể nhập cảnh giới này, đó gọi là “chứng nhập”, thật sự được thụ dụng, là “chứng ngộ”. Phương tiện là nói tới giải ngộ; tuy được thụ dụng, nhưng không chân thành, thiết tha như trong phần trên (tức chứng ngộ), chưa thật sự được như vậy.
(Diễn) Phương tiện giả, vị thôi cầu Ngũ Ấm Sắc chi dữ tâm, chung bất khả đắc.
(演) 方便者,謂推求五陰色之與心,終不可得。
(Diễn: Phương tiện là truy tìm Ngũ Ấm, sắc và tâm, trọn chẳng thể được!)
Ví như Tâm Kinh nói “chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không”, đấy chính là Phương Tiện Chân Như tam-muội. Kinh Kim Cang nói: Tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai, “ba tâm chẳng thể được”. Tâm quá khứ đã qua đi, tâm hiện tại chẳng trụ. Nói tới hiện tại thì hiện tại đã trở thành quá khứ, tâm vị lai vẫn chưa sanh, vẫn chưa xảy đến. Ba tâm đều chẳng thể được. Thử hỏi quý vị dùng cái tâm nào? Quả thật chẳng thể được! Suốt ngày từ sáng đến tối khởi vọng tưởng, về căn bản là không có chuyện ấy, tự sanh phiền não! Trong hoàn toàn hư vọng, tự mình cho là có chuyện như vậy, thật sự là không, quyết định là hư vọng.
(Diễn) Nhược năng quán sát tri tâm vô niệm, tức đắc tùy thuận nhập Chân Như môn cố.
(演) 若能觀察知心無念,即得隨順入真如門故。
(Diễn: Nếu có thể quán sát biết tâm vô niệm, liền được tùy thuận nhập Chân Như môn).
Nếu bản thân chúng ta có thể khéo quán sát thì đây là “quán chiếu” như trong Phật môn thường nói. “Quán sát” là quán chiếu, biết chân tâm vô niệm, bổn tánh vô niệm. Lục Tổ nói: “Vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần”. Vốn chẳng có ý niệm, hữu niệm là có vọng niệm. Vốn là vô niệm, ý niệm của quý vị sẽ ngưng dứt, dứt bặt hết thảy vọng niệm, chân tâm bổn tánh của quý vị sẽ hiện tiền; đấy là Chân Như tam-muội hiện tiền, chẳng khác gì chư Phật, Bồ Tát. Đấy là nói về Chân Như tam-muội.
(Diễn) Nhị môn Chỉ Quán giả.
(演) 二門止觀者。
(Diễn: Hai môn Chỉ và Quán là…)
Đây đều là nguyên tắc trong dụng công, mà cũng là đại cương của pháp môn. Chính là vì từ pháp môn này có thể chia thành rất nhiều pháp môn, có thể gọi nó là tổng cương lãnh của các pháp môn.
(Diễn) Chỉ, vị chỉ nhất thiết cảnh giới tướng.
(演) 止,謂止一切境界相。
(Diễn: “Chỉ” là dứt hết thảy các tướng cảnh giới).
“Chỉ” là đình chỉ, ngưng nghỉ. Ngưng cái gì? Ngưng hết thảy
vọng niệm, tức là Định, tức là nhất tâm, “ngưng hết thảy các tướng cảnh giới”.
(Diễn) Hữu ly cảnh, trừ tâm, nhị pháp.
(演) 有離境、除心,二法。
(Diễn: Có hai pháp Chỉ là lìa cảnh và trừ tâm).
Hai thứ phương pháp, một là “lìa cảnh”, hai là “trừ tâm”. Giống như cách tu hành của người Tiểu Thừa. Người mới học quá nửa là dùng phương pháp lìa cảnh, vì sao? Sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần bèn khởi vọng niệm, vậy thì làm sao? Tìm nơi núi sâu chẳng in dấu chân người, tìm nơi ấy để tu hành. Xa lìa cảnh giới thành thị phồn hoa, xa lìa cảnh giới, như vậy thì tâm người ấy sẽ dần dần bình tịnh. Đấy là lý do vì sao người mới học phải trụ nơi tịch tĩnh. A Lan Nhã (Aranya) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tịch Tĩnh Xứ. Người tu hành phải chọn lựa nơi này làm đạo tràng, đó là lìa cảnh; nhưng lìa cảnh trị đằng ngọn chứ chưa trị tận gốc. Quan trọng nhất là trừ tâm. Trừ tâm là trừ bỏ phân biệt, vọng tưởng, chấp trước trong tâm, đó mới là căn bản. Trong Chỉ lại có nhiều phương pháp, phía sau sẽ còn nói thêm.
Nếu nói đến Quán thì Quán là quán chiếu, tức là vận dụng trí huệ, còn Chỉ đặt nặng nơi Định, dùng công phu định lực. Quán là dùng trí huệ để quán chiếu.
(Diễn) Quán vị phân biệt nhân duyên sanh diệt tướng.
(演) 觀謂分別因緣生滅相。
(Diễn: Quán là phân biệt tướng nhân duyên sanh diệt).
“Quán sát” chính là quán sát hết thảy pháp, hết thảy các pháp đều từ nhân duyên sanh và cũng do nhân duyên mà diệt. Nói cách khác, nếu quý vị nhận biết hết thảy các pháp không có tự thể, thì đó là cách quán sát trí huệ. Chúng ta thường nói “thấy thấu suốt, buông xuống”, Chỉ là buông xuống, Quán là thấy thấu suốt. Vì thế, Chỉ và Quán đôi bên giúp đỡ lẫn nhau, giúp cho nhau thành tựu: Buông xuống giúp quý vị thấy thấu suốt, thấy thấu suốt giúp quý vị buông xuống. Quý vị thật sự có thể thấy hết thảy các pháp do nhân duyên sanh và do nhân duyên mà diệt; nói cách khác, hết thảy các pháp không có tự tánh, không có tự thể độc lập.
Nói tới “nhân duyên” thì có rất nhiều điều kiện kết hợp thành, nó không có tự thể. Hiện thời khoa học phát triển, chúng ta đối với hết thảy vật thể, hết thảy hình tướng, cho đến hết thảy sinh vật đều có sự hiểu biết kha khá, tuy hiểu biết chúng, nhưng vẫn chưa giác ngộ, vẫn mê nơi đó. Quán là dùng trí huệ chân chánh. Quán rồi phải giác ngộ. Giác ngộ hết thảy pháp vốn không có tự tánh; do vậy, đối với hết thảy các pháp chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, thật sự buông xuống. Đó là tác dụng của Quán.
(Diễn) Hữu pháp tướng, đại bi, đại nguyện, tinh tấn, tứ hạnh.
(演) 有法相、大悲、大願、精進,四行。
(Diễn: Quán có bốn hạnh là pháp tướng, đại bi, đại nguyện và tinh tấn).
Có bốn thứ phương pháp tu hành.
(Diễn) Thị pháp, chỉ tu hành ngũ môn.
(演) 是法,指修行五門。
(Diễn: Chữ “thị pháp” (pháp này) [trong đoạn văn trích dẫn từ Khởi Tín Luận trong lời Sớ] chỉ năm môn tu hành).
“Phục vân” là lại nói. “Hữu sơ học thị pháp, kỳ tâm khiếp nhược” (lại có kẻ mới học pháp này, tâm kẻ ấy kinh hãi, yếu ớt): Đối với câu “sơ học thị pháp”, lời chú giải giảng: “Chữ ‘thị pháp’ chỉ năm môn tu hành”, [năm môn tu hành] chính là Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn và Chỉ Quán. Chỉ Quán là Thiền Định, [“năm môn”] là những phương pháp tu hành ấy.
(Diễn) Sơ học thị pháp giả, chỉ Bất Định Tụ chúng sanh, tu tín vị mãn giả.
(演) 初學是法者,指不定聚眾生,修信未滿者。
(Diễn: Từ ngữ “kẻ mới học pháp này” chỉ Bất Định Tụ chúng sanh, thuộc địa vị tu tín chưa viên mãn).
Đây là nói tới kẻ mới học. “Bất Định Tụ” là tâm quý vị còn do dự, chưa định, lúc nghĩ học cái này, lúc toan học cái khác, nghe nói cái này cũng hay lắm, cái kia cũng khá, đó gọi là “Bất Định Tụ”. Đây là hiện tượng của kẻ mới học. Khi nào tâm quý vị định lại, công phu của quý vị mới đắc lực. Nếu đối với pháp môn, tâm quý vị do dự, chẳng dứt khoát, bất luận quý vị tu pháp môn nào, bất luận quý vị tu trong một thời gian lâu chừng nào, công phu chẳng đắc lực, giống như con phù du trên mặt nước, vật vờ cuốn theo chiều gió, chẳng có cội rễ! Nhất định phải chọn lấy một pháp môn trong hết thảy các pháp môn, cố định tại một pháp môn. Tu học như thế, quý vị sẽ nhận thấy công phu dần dần đắc lực, cảnh giới mỗi năm mỗi khác, mỗi tháng chẳng giống nhau. Thậm chí quý vị xem kinh, mỗi ngày có ngộ xứ, cùng là một bộ kinh mà mỗi lần xem là một lần thấy được ý nghĩa mới mẻ, đấy là quý vị có sở đắc. Không có cảnh giới ấy, chứng tỏ tâm quý vị vẫn chưa định. Chân tâm thật sự định thì hằng ngày niệm Phật hiệu, thân tâm càng sung sướng, mỗi lúc đọc kinh thì lần nào đọc cũng đều có ngộ xứ. Đích xác khác hẳn!
(Diễn) Kỳ tâm khiếp nhược, thị tâm ký liệt, Sa Bà bất thường trị Phật, thị ngoại khuyết thắng duyên, cố tín hạnh nan thành, tương dục thoái dã.
(演) 其心怯弱 , 是心既劣 , 娑婆不常值佛,是外缺勝緣,故信行難成,將欲退也。
(Diễn: Tâm kẻ ấy khiếp nhược là cái tâm đã kém hèn. Sa Bà chẳng thường gặp Phật là bên ngoài thiếu duyên thù thắng, vì thế, tín hạnh khó thành, sắp bị thoái chuyển).
Kẻ Bất Định Tụ công phu tiến tiến, lùi lùi, thường là tiến ít, lùi nhiều, đây là hiện tượng nơi đại đa số con người. Còn tiến nhiều, lùi ít là do quý vị đời quá khứ túc căn sâu dầy. Hôm nay đã hết thời gian rồi!
— o0o —
Tập 53
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang sáu mươi bảy:
(Huyền Nghĩa) Nhị, đặc ư vô lượng pháp môn xuất thắng phương tiện giả, nhập đạo đa môn, bổn vô giản trạch, hiểm di khúc trực, nan dị du phân, tắc vô lượng môn trung, Niệm Phật nhất môn, tối vi phương tiện. Lược trần hữu tứ: Nhất, bất trị Phật thế, đắc thường kiến Phật phương tiện. Nhị, bất đoạn Hoặc nghiệp, đắc xuất luân hồi phương tiện. Tam, bất tu dư hạnh, đắc Ba La Mật phương tiện. Tứ, bất kinh đa kiếp, đắc tật giải thoát phương tiện.
(玄義) 二 、 特於無量法門出勝方便者 , 入道多門,本無揀擇,險夷曲直,難易攸分,則無量門中,念佛一門,最為方便。略陳有四:一不值佛世,得常見佛方便;二不斷惑業,得出輪迴方便;三不修餘行,得波羅密方便;四不經多劫,得疾解脫方便。
(Huyền Nghĩa: Hai, “đặc biệt trong vô lượng pháp môn nêu ra phương tiện thù thắng”: Có nhiều môn để vào đạo, vốn không chọn lựa, nhưng chia ra thành [các đường lối] hiểm trở, thông suốt, cong, thẳng, khó, dễ rất khác nhau, nên trong vô lượng môn, một môn Niệm Phật là thuận tiện nhất. Nêu đại lược thì có bốn điều như sau: Một, [đây là] phương tiện [khiến cho hành giả] dù không gặp lúc Phật tại thế mà vẫn thường được thấy Phật. Hai, [đây là] phương tiện [khiến cho hành giả] chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà vẫn thoát luân hồi. Ba, [đây là] phương tiện [khiến cho hành giả] chẳng tu các hạnh khác mà đắc Ba La Mật. Bốn, [đây là] phương tiện [khiến cho hành giả] chẳng trải nhiều kiếp, mau được giải thoát).
Phần chú giải từ đây trở đi đều nhằm chú giải đoạn văn này. Lời chú giải khá dài; lần trước, tôi đã giảng một đoạn.
(Sớ) Phục vân: “Hữu sơ học thị pháp, kỳ tâm khiếp nhược. Dĩ Sa Bà bất thường trị Phật, cụ vị tín tâm nan tựu. Như Lai hữu thắng phương tiện, nhiếp hộ tín tâm, vị chuyên ý niệm Phật, tức sanh Phật độ, thường kiến ư Phật. Như Tu Đa La thuyết: “Chuyên niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, tức đắc vãng sanh, chung vô hữu thoái”.
(演) 復云 : 有初學是法 , 其心怯弱,以娑婆不常值佛,懼謂信心難就。如來有勝方便,攝護信心,謂專意念佛,即生佛土,常見於佛。如修多羅說:專念西方極樂世界阿彌陀佛,即得往生,終無有退。
(Sớ: Lại nói: “Có kẻ mới học pháp này, tâm kẻ ấy khiếp hãi, yếu ớt, vì trong cõi Sa Bà chẳng thường gặp Phật, hoảng sợ cho rằng tín tâm khó trọn. Như Lai bèn có phương tiện thù thắng để nhiếp thọ, bảo vệ tín tâm là dốc trọn ý niệm Phật, liền được sanh vào cõi Phật, thường thấy Phật. Như kinh có dạy: “Chuyên niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật bèn được vãng sanh, trọn chẳng thoái chuyển”).
Đoạn văn này đặc biệt nói về cảnh giới tu học của chúng ta trong hiện tại: Chẳng gặp Phật, tu hành quả thật rất khó khăn. Khó ở chỗ nào? Đúng như đại sư đã nói ở đây: Tín tâm chẳng dễ kiến lập! Trong kinh Hoa Nghiêm và Đại Trí Độ Luận, đức Phật đã nói: “Tín vi đạo nguyên, công đức mẫu” (Tín là nguồn đạo, mẹ của công đức). Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã nhắc tới ba món tư lương. Ngài nói Tín gồm có sáu điều, điều thứ nhất là tin vào chính mình. [Sáu thứ Tín là] tín tự, tín tha, tín nhân, tín quả, tín Sự, tín Lý. Trong sáu điều này, khó nhất là “tín tự” (tin vào chính mình). Nếu chính mình đánh mất lòng tin vào chính mình, năm thứ tín tâm sau đó đều chẳng thể kiến lập! Dẫu có năm thứ tín tâm phía sau, [nhưng do thiếu lòng tin vào chính mình], bản thân chúng ta vẫn chẳng thể thành tựu. Do vậy, cái tâm tự tin hết sức trọng yếu. Ở đây cũng nói “tín tâm nan tựu” (lòng tin khó thành). Trong phần tiểu chú (lời chú giải của sách Diễn Nghĩa) đã phân tích rất hay.
(Diễn) Kỳ tâm khiếp nhược, thị nội tâm ký liệt.
(演) 其心怯弱,是內心既劣。
(Diễn: Tâm khiếp nhược là trong tâm đã kém hèn).
“Nội tâm ký liệt” là thiếu lòng tự tin. Bên trong chẳng có lòng tự tín, bên ngoài lại chẳng gặp Phật, đấy là nội duyên lẫn ngoại duyên đều khuyết. Tu hành như thế nếu chẳng gặp thiện tri thức chân chánh; nhất định sẽ đi theo con đường oan uổng. Nếu đi theo con đường oan uổng lắm phen, rốt cuộc vẫn có thể mò ra được chánh đạo thì coi như vẫn còn may mắn. Nếu lạc trong tà ma ngoại đạo, quả thật oan uổng quá! Do điều này, thiện tri thức đóng vai trò mấu chốt quyết định thành bại trong sự tu học của chúng ta hiện nay.
Thiện tri thức là ai? Rất khó nói! Quá ư là khó! Trước mắt chúng ta, những gì chúng ta có thể thấy và nghe, trong tâm ta luôn có nghi hoặc. Chuyện này phiền phức rất lớn. Trong tâm có nghi hoặc, đó là chướng ngại của chúng ta. Tuy nhiên, có những vị tri thức, chúng ta đến gặp họ, họ dạy chúng ta thật thà niệm Phật là được rồi! Câu nói này rất mơ hồ, thành thật theo kiểu nào? Chẳng lẽ hiện thời chúng ta không thành thật ư? Rốt cuộc như thế nào mới được coi là thật thà? Từng câu hỏi nối tiếp nhau, có nhiều câu hỏi đến ngần ấy. Nói cách khác, tín tâm của chúng ta có vấn đề. Người thật sự có tín tâm sẽ chẳng có nghi vấn. Chỉ cần có nghi vấn thì tức là tín tâm chưa đủ, đấy là chướng ngại rất lớn!
Vì thế, tôi thường khuyên lơn, cổ vũ các đồng tu: Thiện tri thức chân chánh của chúng ta là bộ Sớ Sao Diễn Nghĩa này. Liên Trì đại sư là thầy của chúng ta; tuy Ngài đã khuất, nhưng còn cuốn sách này lưu hành là được rồi. Pháp sư Cổ Đức là học trò của Ngài, cuốn Diễn Nghĩa này là bút ký ghi chép [lời giảng của Liên Trì đại sư]. Thuở ấy, khi lão hòa thượng giảng Sớ Sao, ngài Cổ Đức được nghe rất nhiều lần, nghe xong ghi chép lại, nay trao cho chúng ta làm tài liệu tham khảo. Vì thế, đã có Sớ Sao, lại có Diễn Nghĩa, tức là chẳng khác gì chúng ta đích thân nghe lão hòa thượng thuyết pháp. Chúng ta có thể tôn lão hòa thượng làm thầy, coi Ngài là thiện tri thức, chúng ta đi theo đường này sẽ chẳng lạc lối!
Thật thà niệm Phật là gì? Trong Sớ Sao Diễn Nghĩa đã có câu trả lời sáng sủa, xác đáng. Chúng ta có thể thật sự thấu hiểu và tin tưởng bộ kinh này, chết sạch lòng so đo, khăng khăng thực hiện, tin sâu, nguyện thiết, nhất tâm trì danh, trong một đời này, chúng ta nhất định có thành tựu. Đấy mới là vị thiện tri thức thật sự của chúng ta. Nếu muốn thành công, mấu chốt là “nhất tâm”. Nói “nhất tâm”, ắt phải buông xuống vạn duyên. Không chỉ buông xuống hết thảy cảnh duyên thế gian, mà pháp xuất thế gian (Phật pháp) cũng phải buông xuống. Nếu chúng ta vẫn muốn đọc tràn lan ngàn kinh muôn luận, sẽ đúng như Ấn Quang đại sư đã nói: “Muốn vọng tưởng làm một vị đại thông gia, kinh luận nào cũng đều hiểu, đến cuối cùng chẳng thành tựu một thứ gì!” Thật sự có thể thấy thấu suốt, buông xuống, đó mới gọi là “nhất tâm”, đó mới gọi là “tín tâm thành tựu”, tín tâm của quý vị đã đầy đủ rồi!
Đáng sợ nhất là xen tạp, vừa thấy cảnh giới bên ngoài tâm bèn động: Thấy [người khác hành] Thiền, bèn muốn tham Thiền, nghe người ta nói Mật hay lắm, bèn niệm chú. Chuyện này phiền phức rất lớn! Há chẳng nghe cổ đức thường nói: “Niệm chú chẳng bằng niệm Phật”. Lời này là thật! Ở đây, chúng ta in cuốn Tây Phương Công Cứ, trong ấy có một tác phẩm là Tây Phương Xác Chỉ, phân lượng không nhiều, nhưng quả thật là một cuốn sách hay. Trong ấy có rất nhiều giáo huấn hết sức quý báu. Vì người bình thường chúng ta thường phạm những căn bệnh ấy, nên Ngài (Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát) nhắc nhở quý vị. Nếu có thể tuân thủ, chẳng thể nào không có thành tựu, ngăn ngừa chúng ta lui sụt.
(Diễn) Tín tâm hữu tứ chủng: Nhất giả, tín căn bản, sở vị, nhạo niệm Chân Như pháp cố.
(演) 信心有四種:一者信根本,所謂樂念真如法故。
(Diễn: Tín tâm có bốn loại: Thứ nhất là tin vào căn bản, nghĩa là: Thích nghĩ đến pháp Chân Như).
Điều này là tin vào chính mình. Chữ “căn bản” chỉ chính mình, “nhạo” (樂) là vui thích, có nghĩa là mến thích. Thích gì vậy? Thích Chân Như. Điều này hết sức khó có. Thông thường, người ta chẳng thể phân biệt chân và giả, ngỡ giả là chân, những thứ họ ưa thích toàn là hư giả, chẳng ưa thích chân thật. Pháp càng chân thật càng đơn giản; pháp càng chân thật càng bình phàm, chất phác; còn những pháp giả trất thì mới có những điều kỳ quái. Người ta thường ưa kỳ chuộng quái. Giả trất nên mới phải giở trò quái lạ, thứ thiệt đâu cần giở trò ma mãnh!
Một câu A Di Đà Phật là thật, là Chân Như. Một câu A Di Đà Phật là chính mình, phải hiểu rõ điều này! Chúng tôi tuy vẫn chưa giảng xong bộ kinh này, nhưng cũng nói không ít. A Di Đà Phật là tự tánh Vô Lượng Giác, quý vị có tự tánh hay chăng? Đương nhiên có tự tánh, đấy là Vô Lượng Giác trong Chân Như của chính mình. Chúng ta mỗi ngày niệm câu Phật hiệu này chính là “nhạo niệm Chân Như pháp cố”. Tuy một câu này chỉ là một danh hiệu mà thôi, nhưng niệm danh hiệu lâu ngày, sẽ đánh thức Chân Như bổn tánh của quý vị trong mê hoặc, điên đảo, thật sự là như thế; đặc biệt nếu quý vị có thể nhất tâm xưng niệm, hiệu quả hết sức to lớn! Vì sao? Chân Như là nhất tâm, là bổn tánh. Nói chung, danh hiệu này trong kinh Phật có tới mấy chục loại, nhưng đều nói về cùng một chuyện. Cái được gọi là “phụ mẫu vị sanh tiền bổn lai diện mục” (diện mạo vốn có trước khi được cha mẹ sanh ra) trong nhà Thiền cũng chính là nó. Đối với pháp môn tu học thì chúng ta tu học gì vậy? Tu học kiến tánh. Niệm Phật đến mức nhất tâm bất loạn thì cái tâm ấy là kiến tánh. Nhà Thiền gọi Lý nhất tâm là “minh tâm kiến tánh”, trong Mật Tông gọi nó là “tam mật thành tựu”. Có thể thấy là cách nói khác nhau, nhưng cảnh giới hoàn toàn giống nhau! Nhưng trong tất cả các pháp môn, thật sự nói đến vấn đề kiến tánh, thật sự nói đến Chân Như thì có thể nói là pháp môn Niệm Phật “thẳng tắt nhất, ổn thỏa, thích đáng nhất, viên đốn nhất”. Ngẫu Ích đại sư bảo như vậy. Xét ra, bốn câu này đúng là chẳng sai một tí nào! Dựa theo bốn câu này để nói thì có thể nói là trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, chẳng có một pháp môn nào viên mãn rốt ráo như vậy. Chúng ta phải tin tưởng điều này, đó là “tín căn bản” (căn bản của lòng tin). Chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật sẽ có thể chứng Chân Như bổn tánh, có thể chứng Pháp Thân Lý Thể, có thể khôi phục diện mạo vốn có của chính mình.
(Diễn) Nhị giả, tín Phật hữu vô lượng công đức, thường niệm thân cận cúng dường cung kính, phát khởi thiện căn, nguyện cầu Nhất Thiết Trí cố.
(演) 二者信佛有無量功德 , 常念親近供養恭敬 , 發起善根,願求一切智故。
(Diễn: Hai là tin Phật có vô lượng công đức, thường nghĩ thân cận, cúng dường, cung kính, phát khởi thiện căn, nguyện cầu Nhất Thiết Trí).
Thứ hai là tín tha (tin vào người khác), người khác là ai? Chẳng phải ai khác, “tha” là Phật. “Tha Phật” (vị Phật khác), hiện thời chúng ta có hai vị Tha Phật: Một là tin tưởng Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, hai là tin vào Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật. Tin tưởng Tây Phương Cực Lạc thế giới của A Di Đà Phật là chân thật chẳng dối, tính cách chân thật của thế giới ấy giống hệt như thế giới đang hiện hữu trước mắt chúng ta. Chúng ta còn phải tin vào mười phương thế giới hết thảy chư Phật chẳng nói dối, mỗi vị đều tán thán Tây Phương Cực Lạc thế giới, khuyên chúng ta vãng sanh thế giới Cực Lạc. Đấy là tin tưởng hết thảy chư Phật. Đương nhiên, chúng ta càng phải nên tin Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng dối gạt chúng ta, lão nhân gia đề cao, giới thiệu Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhất định [cõi ấy] là chân thật nhất.
Trong phần trên, chúng tôi có nhắc đến phu nhân Vy Đề Hy. Đức Thế Tôn thị hiện các cõi Phật trong mười phương cho phu nhân Vy Đề Hy thấy, lão nhân gia (phu nhân Vy Đề Hy) xem xong, chọn lựa Tây Phương Cực Lạc thế giới để vãng sanh. Vì vậy, chúng ta phải tin tưởng Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Chuyện này đúng là rất khó tin! Bản thân tôi nếu không thâm nhập kinh Hoa Nghiêm, tôi cũng không tin, người khác nói với tôi cách nào tôi cũng không tin. Đã nhập kinh Hoa Nghiêm rồi mới thật sự nhận thấy, vốn là khi Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp lần đầu tiên, trong mười bốn ngày, vì hàng Pháp Thân đại sĩ giảng Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Bộ kinh này giảng về phương pháp tu hành, có tới hơn hai ngàn môn, nói nhiều ngần ấy, nhằm nói Niệm Phật là bậc nhất. Rốt ráo là niệm vị Phật nào vậy? Tuy trong phần trước kinh văn không nói, nhưng phần sau có nói: Trong phần sau, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc, chúng ta có thể suy ra, biết phần trước nói niệm vị Phật nào? Niệm A Di Đà Phật. Đối chiếu trước và sau, quý vị sẽ hiểu rõ. Pháp môn Niệm Phật này, đã là “thẳng chóng nhất, ổn thỏa, thích đáng nhất, đơn giản, dễ dàng nhất, viên đốn nhất”, đương nhiên, đức Phật muốn truyền dạy pháp này đầu tiên. Đức Phật giảng cho mọi người hết thảy pháp môn, đầu tiên là muốn giảng pháp môn này. Quả nhiên đúng như vậy, trong kinh Hoa Nghiêm quả thật giảng pháp môn này đầu tiên! Quý vị thấy Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, tới tham phỏng vị [thiện tri thức] đầu tiên là tỳ-kheo Đức Vân, Ngài bèn dạy Thiện Tài đồng tử pháp môn Niệm Phật. Từ khởi đầu và kết thúc [của năm mươi ba lần tham học], quý vị có thể thấy pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn.
Do quá thẳng chóng, quá đơn giản, càng đơn giản, mọi người càng chẳng tin tưởng, cho là thành Phật đâu thể nào dễ dàng dường ấy? Tu hành đâu có đơn giản như vậy! Chẳng biết đại đạo chân chánh sẽ đơn giản ngần ấy, dễ dàng ngần ấy! Nếu quý vị không tin, sẽ tự chuốc phiền phức, chính mình đi đường vòng, thật sự là “được chẳng bù nổi mất”! Do vậy, chúng ta nhất định phải tin Phật. Tin Phật thì phải thường thân cận Phật, hiện thời, Phật chẳng ở trước mặt chúng ta, chúng ta thân cận bằng cách nào? Chúng ta mỗi ngày đọc kinh, đọc kinh là nghe đức Phật giáo huấn, đó là thân cận Phật. Chúng ta mỗi ngày niệm Phật, niệm Phật là thân cận Phật, niệm đâu nghĩ tại đó! Huống chi, kinh đã nói rất rõ ràng: “Ức Phật, niệm Phật, hiện tiền, đương lai, tất định kiến Phật” (Nhớ Phật, niệm Phật, hiện tiền, tương lai nhất định thấy Phật). Do vậy, chúng ta phải coi niệm Phật là đại sự duy nhất của chúng ta trong cuộc đời này.
Hôm qua, chúng ta mở hội Niệm Phật, trong hội Niệm Phật thường yêu cầu tôi nói mấy câu. Tôi đâu có nhiều câu hay ho để nói như thế? Do vậy, lật lại Tây Phương Xác Chỉ. Xem xong, hết sức cảm thán. Trong quá khứ, tôi đọc Tây Phương Xác Chỉ đã nhiều lượt, cớ sao tôi chẳng thấy những lời yếu khẩn ấy? Nói thật ra, trong quá khứ tôi đã có những khuyết điểm mà chính mình chẳng phát hiện được! Tôi thấy có hai chuyện trong sách ấy:
Chuyện thứ nhất là có một vị đồng học muốn tìm một nơi có hoàn cảnh thanh tịnh để tu hành, [Giác Minh Diệu Hạnh] Bồ Tát bèn khai thị cho ông ta: “Nếu không tìm được hoàn cảnh ấy, suốt đời ông chẳng tu hành hay sao?” Bồ Tát dạy ông ta: “Tâm tịnh, ắt cõi nước tịnh. Chỉ cần tâm thanh tịnh, chẳng cần phải tìm hoàn cảnh”. Lời này đúng quá! Hoàn cảnh tốt hay xấu là do nghiệp báo của chúng ta, đời quá khứ chẳng làm thiện nghiệp, lẽ nào có hoàn cảnh tốt! Do vậy, muốn cầu một hoàn cảnh tốt chính là khởi vọng tưởng. Chẳng bằng thâu thập cái tâm, hoàn cảnh tốt cũng xong, xấu cũng xong, hết thảy mặc kệ nó! Nhất tâm niệm Phật chính là hoàn cảnh tốt, đấy mới là chính xác. Rất nhiều người chúng ta giống như vậy, [cứ than thở] hoàn cảnh hiện thời chẳng thích hợp, lại đi tìm một hoàn cảnh tốt đẹp để tu hành. Tìm mấy chục năm chẳng ra, công phu chẳng tiến triển tí nào! Đó là một chuyện.
Chuyện thứ hai là tự mình muốn làm một ít chuyện tốt đẹp, nhưng không có sức, không có sức thì làm sao? Hóa duyên! Đi ra ngoài mộ hóa (quyên mộ, khuyến hóa). Bồ Tát nói: Tra khắp Đại Tạng Kinh, không có hai chữ “mộ hóa”. Vì thế, Ngài quở trách chuyện này rất gắt gao! Tôi suy nghĩ, thấy rất có lý, Phật pháp nói tùy duyên, chứ không phan duyên. Nếu chúng ta mộ hóa để làm chuyện gì đó, tức là đã phan duyên, tâm chẳng thanh tịnh. Vì thế, chúng ta làm chuyện gì cũng phải nên hữu duyên mới làm. Không có duyên, chúng ta có tâm, chỉ cần có tâm nhưng chưa có cơ duyên, chúng ta vẫn là niệm niệm công đức viên mãn. Đừng nói “tôi không làm sẽ chẳng có công đức”, chẳng phải vậy! Quý vị phát tâm bèn có công đức, công đức viên mãn. Sau khi quý vị phát tâm, quý vị bèn phan duyên sẽ chẳng có công đức! Cơ duyên thành tựu sẽ khiến cho chuyện ấy tự nhiên thành tựu, chớ nên có mảy may miễn cưỡng nào. Điều này rất có lý. Vì thế, nhà Phật từ xưa đến nay không mộ hóa.
Thuở đức Phật tại thế, phương thức sống là đi khất thực, chẳng kiến lập bất cứ thứ gì. Giảng kinh, thuyết pháp tùy duyên, chẳng nói nhất định phải dựng giảng đường, dựng đại điện tại đâu, không hề có! Tùy tiện tại nơi nào đó, người ta tụ tập lại bèn bắt đầu giảng, đứng cũng giảng được, mà ngồi cũng giảng được, ngồi trên mặt đất, núi, rừng, cội cây, không đâu chẳng phải là đạo tràng! Nghĩ đến quá khứ quả thật là như vậy. Vì thế, ý niệm ấy (tức ý niệm hóa duyên) là vọng niệm, chúng ta cũng phải nên dứt trừ [ý niệm ấy] thì tâm chúng ta mới có thể thanh tịnh, niệm Phật mới đắc lực. Hằng ngày suy tưởng còn có chuyện chưa làm thành công, làm sao niệm Phật đắc nhất tâm cho được? Làm sao đắc công phu thành phiến? Cuối cùng vẫn rớt trong sanh tử luân hồi, chẳng đáng tí nào! Do vậy, chúng tôi suy nghĩ những điều Bồ Tát vừa nói ấy, càng nghĩ càng thấy có lý! Huống chi trong các bộ kinh lớn thường răn dạy chúng ta: Bồ Tát phát tâm nghĩ muốn độ hết thảy chúng sanh, điều kiện tiên quyết là phải tự độ mình. Chính mình chưa thể vượt thoát luân hồi trong sáu nẻo, nghĩ độ cho người khác thoát khỏi sanh tử luân hồi, đó là chuyện chẳng thể nào được! Vì thế, trước hết phải tự độ, tự độ rồi mới có năng lực, mới có thể thả chiếc bè Từ độ thoát hết thảy chúng sanh.
Trong Tây Phương Xác Chỉ, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát đã nói rất rõ ràng: Thoạt tiên Ngài là người sống vào đời Tấn. [Thuở ấy], có tất cả mười người, là bạn bè thân thiết, mọi người cùng nhau tu niệm Phật. Bản thân Ngài vì ngã bệnh, cảm thấy nghiệp chướng của chính mình rất nặng, nên phát tâm trong bảy ngày bảy đêm chẳng ngủ, niệm Phật không ngớt, cầu sanh Tịnh Độ, sám trừ nghiệp chướng. Bảy ngày bảy đêm nhất tâm niệm Phật, Ngài thật sự niệm được A Di Đà Phật hiện đến. Sau đấy, năm bảy mươi mấy tuổi, Ngài mới vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhưng những người đồng học với Ngài bị đọa lạc. Vì sao? Ngoài học Phật ra, họ còn học Đạo (tu tiên) kèm thêm. Vào thời đại Ngụy, Tấn, Nam Bắc Triều, Đạo Giáo hết sức thịnh hành, thế lực cũng rất lớn. Có nhiều đạo sĩ luyện đan[77], giảng thuật trường sanh, còn có rất nhiều pháp thuật, giống như hiện thời ta gọi là “thần thông”. Bọn họ ưa thích những thứ ấy, một mặt học Phật, một mặt học Đạo. Kết quả đời đời kiếp kiếp chẳng có thành tựu. Trong một đời này, bọn họ vẫn mang tập khí Lão – Đạo, cầu cơ phò loan. Vì thế, Bồ Tát xuất hiện trong đàn cầu cơ, bảo cho họ biết nhân duyên: Tám trăm năm trước, chúng ta là bạn bè xưa, thấy cho đến hiện thời các ông vẫn đọa lạc trong tình cảnh ấy, nhưng cũng rất khó có là mấy người các ông vẫn tụ tập một chỗ. Do vậy, lần này ta nhờ vào đàn cầu cơ để xuất hiện hòng độ mấy người các ông!
Từ đoạn khai thị này, chúng ta hiểu: Nhất tâm xưng niệm bảy ngày bảy đêm nhất định hữu hiệu, cho nên Phật Thất mới làm theo cách này. Trong quá khứ, thầy Lý cũng thường bảo chúng tôi: “Thật sự đả Phật Thất, quyết định không thể nhiều hơn mười người!” Hơn mười người, vị Chủ Thất Sư không có cách nào có đủ tinh thần để chiếu cố [từng người]. Thật sự đả Phật Thất là bảy ngày bảy đêm không ngủ, không nghỉ, một câu Phật hiệu niệm đến cùng, chẳng cho một vọng niệm dấy lên, tâm cầu gì cũng chẳng có. Bởi lẽ, quý vị có tâm mong cầu thì cái tâm chẳng thanh tịnh, đó là nhị niệm, là vọng niệm. Bảo quý vị thật sự niệm Phật, thật sự dụng công. Ngay cả cơ duyên niệm Phật bảy ngày bảy đêm chúng ta cũng chẳng có! Quý vị có thể làm được hay chăng? Quý vị ở nhà đóng cửa niệm bảy ngày bảy đêm, người nhà nhất định nghĩ quý vị bị bệnh thần kinh, lẽ đâu có cách niệm Phật như vậy? Quý vị chuốc lấy phiền phức, chướng ngại quá nhiều! Không chỉ là trong nhà có chướng ngại, mà đến tự viện đả Phật Thất vẫn có chướng ngại. Ai cũng chẳng bằng lòng thấy quý vị niệm Phật suốt bảy ngày bảy đêm, khổ sở như vậy, người ta có lòng tốt sợ quý vị niệm đến ngã bệnh, hảo tâm biến thành chướng ngại! Do vậy, [người có thể niệm Phật suốt bảy ngày bảy đêm không gián đoạn] có phước báo rất lớn! Bảy ngày bảy đêm, bên cạnh có người hộ thất chăm sóc quý vị, đến giờ sẽ chuẩn bị trà, cơm chu đáo cho quý vị. Khi ăn cơm, Phật hiệu cũng không gián đoạn, chắc chắn chẳng có một câu tán tâm tạp thoại (tâm tán loạn, nói chuyện xen tạp), đó gọi là tu hành chân chánh, rất khó có! Đó chính là “thường niệm thanh tịnh cúng dường, cung kính”, thứ gì cũng đều có; chỉ cần phát tâm niệm Phật như vậy thì toàn bộ đều có. Dùng gì để cúng dường? Dùng cung kính xưng niệm để cúng dường, nhất tâm là cúng dường, nhất tâm là cung kính, nhất tâm là thiện căn; chỉ cần đạt đến nhất tâm bất loạn, Nhất Thiết Chủng Trí sẽ tự nhiên hiện tiền. Chúng ta phải tin Phật.
(Diễn) Tam giả tín pháp hữu đại lợi ích, thường niệm tu hành chư Ba La Mật cố.
(演) 三者信法有大利益,常念修行諸波羅蜜故。
(Diễn: Ba là tin pháp có lợi ích to lớn, thường nghĩ tu hành các Ba La Mật).
Ở đây có bốn thứ “pháp”: Có giáo pháp, giáo pháp là kinh điển, tức là sách giáo khoa do Thích Ca Mâu Ni để lại cho chúng ta. Trong sách giáo khoa có lý luận, gọi là Lý pháp; lại còn dạy cho chúng ta phương pháp tu hành, đó là Hành pháp, cũng dạy cho chúng ta rất nhiều cảnh giới, đó là Quả pháp. Bởi vậy, “Giáo, Lý, Hành, Quả” đều là pháp; nhưng quý vị phải hiểu: Lý, Hành, Quả đều nằm trong kinh, cho nên văn tự là chủ thể diễn nói pháp, còn Lý, Hành, Quả là pháp được diễn nói [bởi văn tự]; hoặc cũng có thể gộp Giáo vào đó, Giáo – Lý – Hành – Quả là pháp được diễn nói, còn văn tự là chủ thể diễn nói.
Do vậy, nếu chúng ta hiểu rõ kinh điển sẽ có lợi ích to lớn. Vì thế, phải thường xuyên đọc tụng kinh điển. Điều cuối cùng trong Tam Phước của Quán Kinh là “tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa”, kinh điển Đại Thừa cũng rất nhiều; có phải là kinh điển nhiều ngần ấy chúng ta đều phải đọc hết hay chăng? Thưa quý vị, không nhất định! Chúng ta vẫn là chọn lấy một bộ trong hết thảy các kinh, vì sao? Tâm dễ chuyên, dễ nhất. Nếu đọc quá nhiều, kinh này và kinh kia nói quá khác nhau, chúng ta sẽ hoài nghi, sẽ có phân biệt. Đấy chính là như Thanh Lương đại sư đã nói: Quý vị càng đọc nhiều, càng tăng trưởng tà kiến. Chỉ cần quý vị có phân biệt bèn là tà kiến. Do vậy, kinh vẫn phải là học một thứ mới nên. Vì mỗi pháp môn đều có thể thành vô thượng đạo, cho nên mới nói: “Pháp môn bình đẳng, không có cao – thấp”, quyết chẳng phải là pháp môn này dành cho ta khi mới học, trong tương lai, sau khi đã học một khoảng thời gian, chúng ta lại đổi sang một pháp môn khác; nếu [nghĩ] như vậy, quý vị đã có ý nghĩ “pháp môn cao – thấp” mất rồi! Thật ra, chẳng cần phải chuốc lấy nỗi phiền phức ấy!
Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy [pháp môn] Thiện Tài đồng tử [tu là niệm] là một câu A Di Đà Phật. Thiện Tài đồng tử tu hành bèn chuyên tu pháp môn Niệm Phật, tức là niệm A Di Đà Phật. Thầy của Ngài niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ, thầy của Ngài là Văn Thù Bồ Tát. Thiện Tài đồng tử thành Phật ngay nơi nhục thân. Trong quá trình tham học, từ Sơ Trụ mãi cho đến Đẳng Giác, cho đến khi viên mãn Bồ Đề là một câu A Di Đà Phật, hoàn toàn chẳng đổi sang pháp môn nào khác. Tuy Ngài đi tham phỏng khắp nơi, tham phỏng năm mươi ba vị thiện tri thức, nhưng Ngài chẳng học theo những pháp môn của các vị ấy, quyết định chẳng “thấy lạ, nghĩ khác”, vì sao? Cuối cùng là “luyến đức, lễ từ” (luyến mộ đức hạnh, lễ bái, từ tạ), “luyến đức” là rất cảm tạ Ngài, “lễ từ”: “Lễ” là cung kính, “từ” là gì? Tôi vẫn học theo cách của tôi, tôi chẳng học theo đường lối của Ngài. Tôi hiểu đường lối của Ngài, tuy hiểu nhưng không học, vẫn thật thà niệm một câu A Di Đà Phật này. Đó gọi là “luyến đức lễ từ”. Nói thật ra, sẽ là như kinh Kim Cang đã dạy: “Ngoại bất trước tướng, nội bất động tâm” (Ngoài chẳng chấp tướng, trong chẳng động tâm). Có bản lãnh ấy thì mới có thể tham học. Đích xác là tham học, một mặt giúp quý vị mở mang trí huệ, quý vị vừa nhìn liền hiểu rõ, đó là trí huệ; mặt kia là giúp cho quý vị đắc Thiền Định rất sâu, tức là nhất tâm bất loạn. Vì sao? Tất cả cảnh giới trước mặt đều nhằm khảo nghiệm quý vị, nếu quý vị như như bất động, chứng tỏ quý vị thật sự đắc nhất tâm. Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy được điều này.
Do vậy, quý vị đồng tu nhất định phải biết: Quý vị muốn tu hành các Ba La Mật thì một môn là đủ rồi! Nay chúng ta dùng một câu A Di Đà Phật, Lục Độ viên mãn. Kinh Hoa Nghiêm nói mười món Ba La Mật đều viên mãn, chẳng cần phải tìm bên ngoài. Tiếp đó, lời Sớ có nêu lên một thí dụ: “Nhi kim nhất tâm niệm Phật, vạn duyên tự xả, tức Bố Thí Ba La Mật. Nhất tâm niệm Phật, chư ác tự chỉ, tức Trì Giới Ba La Mật. Nhất tâm niệm Phật, tâm tự nhu nhuyễn, tức Nhẫn Nhục Ba La Mật. Nhất tâm niệm Phật, vĩnh bất thoái đọa, tức Tinh Tấn Ba La Mật. Nhất tâm niệm Phật, dư tưởng bất sanh, tức Thiền Định Ba La Mật. Nhất tâm niệm Phật, chánh niệm phân minh, tức Bát Nhã Ba La Mật” (Nay nhất tâm niệm Phật, tự bỏ vạn duyên, tức Bố Thí Ba La Mật. Nhất tâm niệm Phật, các điều ác tự ngưng, tức Trì Giới Ba La Mật. Nhất tâm niệm Phật, tâm tự mềm mỏng, tức Nhẫn Nhục Ba La Mật. Nhất tâm niệm Phật, vĩnh viễn chẳng lui sụt, đọa lạc, tức Tinh Tấn Ba La Mật. Nhất tâm niệm Phật, các tưởng khác chẳng sanh, tức Thiền Định Ba La Mật. Nhất tâm niệm Phật, chánh niệm phân minh, tức Bát Nhã Ba La Mật). Chúng ta đối chiếu [lời giải thích ấy] với câu “thường niệm tu hành chư Ba La Mật” (thường nghĩ tu hành các Ba La Mật) ở đây thì một câu A Di Đà Phật có trọn đủ, chẳng cần phải tìm kiếm những thứ phiền toái khác, điều này chẳng giả đâu! Bởi lẽ, một câu A Di Đà Phật đầy đủ Lục Độ vạn hạnh nên nó thật sự thuận tiện, thật sự đơn giản. Một câu Phật hiệu phước huệ song tu, lại còn là phước huệ viên mãn, phước huệ rốt ráo. Quý vị hãy suy nghĩ: Quý vị đến nơi đâu để tìm được một pháp môn như thế này!
(Diễn) Tứ giả, tín Tăng năng chánh tu hành, tự lợi, lợi tha, thường nhạo thân cận chư Bồ Tát chúng, cầu học như thật hạnh cố.
(演) 四者信僧能正修行 , 自利利他 , 常樂親近諸菩薩眾,求學如實行故。
(Diễn: Bốn là tin Tăng có thể tu hành chân chánh, tự lợi, lợi người, thường thích thân cận các vị Bồ Tát để cầu học hạnh như thật).
Ở đây là nói đến Tăng. Nói thật ra, ở đây có bốn niềm tin. Đối với ba điều trước đều không thành vấn đề, vấn đề ở nơi điều này. Điều này quả thật có vấn đề lớn! Nhưng đến cuối cùng đại sư bảo: “Thường nhạo thân cận chư Bồ Tát chúng” (thường thích thân cận các vị Bồ Tát). Tăng là ai? Thưa quý vị, Quán Âm, Thế Chí! A Di Đà Phật là Phật, còn Quán Âm và Thế Chí là Tăng, các Ngài chẳng phải là Phật. Bồ Tát Tăng, Thanh Văn Tăng, phàm phu Tăng. Phàm phu Tăng chẳng đáng tin cậy lắm, Bồ Tát Tăng thật sự đáng tin cậy. Bồ Tát Tăng là ai? Chúng ta rất khó biết, bất quá, nếu chúng ta rất lắng lòng quan sát thì cũng chẳng khó biết, như trong Tây Phương Xác Chỉ, Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát cũng là phàm phu. Ngài vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thưa quý vị, vãng sanh liền thành Bồ Tát Tăng. Hễ vãng sanh, sẽ chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái. Người trước tác bộ Sớ Sao này là Liên Trì đại sư, cũng như pháp sư Cổ Đức đều là những người đã vãng sanh. Đối với những người được ghi trong Vãng Sanh Truyện và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, ta nay đều có thể gọi họ là Bồ Tát Tăng. Đại sư là tổ sư của Tịnh Độ Tông, chúng ta thân cận lão nhân gia quyết định không sai lầm. Cận đại, lão pháp sư Ấn Quang là vị tổ sư gần đây nhất của Tịnh Độ Tông, Ngài là hóa thân của Đại Thế Chí Bồ Tát; tuy lão nhân gia hiện thời đã khuất bóng, nhưng bộ Văn Sao còn lưu truyền trên thế gian, chúng ta thường đọc Văn Sao cũng là thân cận Bồ Tát Tăng.
Nay chúng ta tìm một người nào đó để học, dẫu người có danh vọng to lớn, thanh danh về đức hạnh cao đến đâu đi nữa, chưa chắc đã đáng nương cậy, vì trong thời gian này “tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”, chúng ta là phàm phu mắt thịt không cách nào phân biệt được! Vạn nhất lầm lỡ, sẽ không biết làm thế nào, đúng là “sai chỉ hào ly, lạc lối ngàn dặm”. Chúng ta thọ mạng hữu hạn, nói cách khác, thời gian tu hành chẳng nhiều, chẳng thể sai lầm chút nào. Muốn chẳng sai lầm chút nào, quý vị phải thân cận Bồ Tát Tăng hay Thánh Hiền Tăng. Vì thế, chúng ta đọc Liên Trì Đại Sư Toàn Tập, nếu quý vị nói đọc một cuốn sách này nhiều lượt cảm thấy khô khan thì thật sự là quý vị chưa có tâm đắc. Nếu có tâm đắc, ý vị của mỗi lần đọc sau sẽ nồng đậm hơn lần trước. Học rồi tu tập, cũng chẳng sướng lắm ư? Sung sướng là sự hỷ duyệt từ trong nội tâm phát ra, pháp hỷ sung mãn! Đọc đến mức khô khan, chẳng có ý vị gì tức là về căn bản, quý vị chẳng hiểu gì, không có tâm đắc, chưa thụ dụng được!
Nếu đọc Liên Trì Đại Sư Toàn Tập thì phạm vi rộng hơn một chút, hoặc là đọc Ngẫu Ích Đại Sư Toàn Tập là đủ rồi, những thứ khác chẳng thể quá nhiều! Quá nhiều, quá tạp, chắc chắn sẽ không hay! Ngài Ngẫu Ích là học trò của Liên Trì đại sư, họ có mối quan hệ sư thừa, nói chung là theo cùng một phương hướng, đi cùng một đường. Đọc thêm nữa là Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, tôi nghĩ là đủ lắm rồi, chớ nên tham nhiều hơn! Nếu chúng ta muốn một đời hoằng dương [pháp môn Tịnh Độ] thì trong phạm vi những sách ấy, hoằng dương suốt một đời này vẫn chẳng hết. Huống chi nếu thật sự phát tâm hoằng dương pháp môn này, suốt đời chuyên giảng một bộ kinh này là đủ rồi, hãy chuyên môn hoằng dương bộ kinh này. Cũng có các vị hỏi: Bộ Sớ Sao lớn ngần ấy, chúng tôi giảng ở đây một lượt, mỗi ngày đều giảng mà phải mất cả một năm, người ta thỉnh tôi đến giảng kinh, thỉnh tôi giảng trong vòng một tuần thì giảng bằng cách nào? Quý vị có thể trích lục đại cương để giảng. Quý vị phải hiểu: Bộ Sớ Sao có thể kéo dài hay rút gọn, có thể giảng sâu hay cạn, vận dụng khéo léo ở chỗ nhất tâm, lẽ nào chẳng giảng được? Có nhiều nơi bên Mỹ mời tôi đến giảng kinh, thời gian chỉ hạn định là tám buổi, giảng bằng cách nào? Giảng kinh Di Đà, tôi soạn đại cương để giảng trong bảy lần, bảy lần giảng viên mãn, buổi cuối cùng dành để trả lời câu hỏi, mở cuộc họp nghiên cứu thảo luận. Nghe giảng suốt bảy ngày, những tâm đắc cảm tưởng, nghi vấn của quý vị đều nêu ra, tôi sẽ giải đáp. Do vậy viên mãn. Năm ngoái tôi soạn cuốn Giảng Nghĩa là dựa theo sách Yếu Giải để biên soạn; nếu dựa theo Sớ Sao thì tài liệu càng phong phú hơn. Vì thế, trong một đời, bất luận tại đạo tràng nào hoằng dương bộ kinh này, chắc chắn chẳng khó khăn gì!
Mục đích tin Tăng là muốn “cầu học như thật hạnh cố” (vì cầu học hạnh như thật). Mấy vị đại sư này cả đời chuyên môn niệm Phật, vị nào cũng thật sự có thành tựu, đây là điều chúng ta phải học tập theo. Tín tâm có bốn loại, bốn loại tín tâm này chúng ta đều phải có đủ, chẳng thể khuyết một điều nào!
Ta quay lại đọc tiếp Sớ Sao, “Như Lai hữu thắng phương tiện” (đức Như Lai có phương tiện thù thắng), tức là Phật có pháp phương tiện thù thắng nhất, “nhiếp hộ tín tâm” (nhiếp thọ, bảo vệ tín tâm), “nhiếp” (攝) là nhiếp thọ, “hộ” (護) là hộ trì, hộ trì tín tâm của chúng ta, đức Phật dùng phương pháp nào? Chính là dạy chúng ta “chuyên ý niệm Phật, tức sanh Phật độ” (chuyên dốc lòng niệm Phật, liền sanh vào cõi Phật), “chuyên ý” là chuyên tâm. Hiện thời, chúng ta vẫn chưa thể dùng chân tâm, chúng ta dùng cái tâm ý thức thứ sáu. Về mặt hành, dùng cái tâm ý thức thứ sáu cũng được, [muốn sanh vào] cõi Phàm Thánh Đồng Cư hay cõi Phương Tiện Hữu Dư đều có thể dùng cái thức thứ sáu, tức Ý Thức, để niệm. Nếu lìa thức thứ sáu tức là lìa Ý Thức, lìa tâm ý thức, phẩm vị sẽ cao, sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm, sanh vào cõi Thường Tịch Quang, những người bình thường chưa thể làm được. Dùng cái tâm ý thức thứ sáu để niệm thì chúng ta ai nấy đều có phần. Công phu tốt đẹp, có thể niệm đến Sự nhất tâm bất loạn, kém hơn một chút thì cũng có thể do niệm đến mức công phu thành phiến, đới nghiệp vãng sanh. Nói cách khác, sanh về Tây Phương Tịnh Độ ai cũng có phần, quý vị phải chuyên niệm.
Đến thế giới Tây Phương sẽ thường gặp Phật, hằng ngày gặp Phật, thời thời khắc khắc chẳng lìa A Di Đà Phật. Chẳng những không lìa A Di Đà Phật, mà quý vị cũng có thể thời thời khắc khắc thuận theo lòng muốn mà thân cận mười phương chư Phật Như Lai, những chướng nạn hoàn toàn tiêu trừ. “Như Tu Đa La thuyết” (như kinh đã nói), Tu Đa La là kinh điển, trong kinh có nói “chuyên niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, tức đắc vãng sanh, chung vô hữu thoái” (chuyên niệm Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật liền được vãng sanh, trọn chẳng thoái chuyển), quyết định chẳng thoái chuyển.
Trong phần trước, [sách Sớ Sao] có câu “tín tâm nan tựu”, “tựu” (就) là thành tựu. [“Tín tâm nan tựu”] là tín tâm khó thành tựu. Trong phần trước, chúng ta chỉ nói về tín tâm, phần tiếp theo sẽ giảng về “nan tựu”.
(Diễn) Tựu giả, thành tựu, tức tín thành tựu phát tâm dã. Luận vân: “Tín thành tựu phát tâm giả, phát hà đẳng tâm? Lược thuyết tam chủng: Nhất giả, trực tâm, chánh niệm Chân Như pháp cố; nhị giả, thâm tâm, nhạo tập nhất thiết chư thiện hạnh cố; tam giả, đại bi tâm, dục bạt nhất thiết chúng sanh khổ cố.
(演) 就者 , 成就 , 即信成就發心也。論云:信成就發心者,發何等心。略說三種:一者直心,正念真如法故;二者深心,樂習一切諸善行故;三者大悲心,欲拔一切眾生苦故。
(Diễn: Tựu là thành tựu, tức lòng tin thành tựu bèn phát tâm. Luận chép: “Lòng tin thành tựu bèn phát tâm, phát những tâm nào? Nói đại lược thì có ba thứ: Một là trực tâm, vì chánh niệm pháp Chân Như; hai là thâm tâm, vì thích tu tập hết thảy các thiện hạnh; ba là đại bi tâm, vì muốn dẹp trừ nỗi khổ của hết thảy chúng sanh”).
Bồ Tát phát tâm thành tựu, phát Bồ Đề tâm. Đại Thừa Khởi Tín Luận giảng ba thứ Bồ Đề tâm.
(Diễn) Nan giả, vị tu hành tín tâm, kinh nhất vạn kiếp, phương đắc thành tựu cố.
(演) 難者,謂修行信心,經一萬劫,方得成就故。
(Diễn: “Khó khăn” ý nói: Tu hành [hòng thành tựu] lòng tin, phải mất một vạn kiếp mới thành tựu).
Khó thật sự, chẳng phải là khó khăn giả tạm. Nếu quý vị ngày nay thật sự thành tựu tín tâm, có thể buông hết các pháp thế gian và xuất thế gian xuống, nhất tâm nương theo bộ kinh này, nhất tâm xưng danh cầu nguyện vãng sanh, chính quý vị sẽ biết rõ: Trong đời quá khứ, tối thiểu đã trải qua một vạn kiếp [để tu thành tựu lòng tin ấy]. Nếu không, nhất định sẽ thấy lạ, nghĩ khác, tâm bất định! Nếu thật sự chết sạch lòng so đo, khăng khăng [tu trì], chứng tỏ trong quá khứ quý vị đã tu một vạn kiếp. Vì thế, thành tựu tín tâm quả thật chẳng dễ dàng. Tiếp theo đó, sách giảng: Vãng sanh thế giới Tây Phương bèn đắc bất thoái chuyển.
(Diễn) Chung vô hữu thoái, ước hữu tam chủng.
(演) 終無有退,約有三種。
(Diễn: Trọn chẳng thoái chuyển, nói đại lược gồm có ba thứ).
Nói đại lược thì có ba thứ.
(Diễn) Nhất như liên hoa vị khai thời, tín hạnh vị mãn, vị danh Bất Thoái, đản dĩ xử vô thoái duyên, cố xưng Bất Thoái.
(演) 一如蓮花未開時 , 信行未滿 , 未名不退,但以處無退緣,故稱不退。
(Diễn: Một, như lúc hoa sen chưa nở, tín hạnh chưa trọn vẹn, chưa thể gọi là Bất Thoái, chỉ vì đã ở trong hoàn cảnh không có duyên gây thoái chuyển, nên gọi là Bất Thoái).
Chiếu theo Lý mà nói, đới nghiệp vãng sanh, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư và Phương Tiện Hữu Dư của Tây Phương Cực Lạc thế giới nhất định vẫn có thể thoái chuyển. Thật sự chẳng thoái chuyển thì phải sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm, vì [người trong] cõi Thật Báo Trang Nghiêm đã kiến tánh, sử dụng chân tâm, dùng Chân Như bổn tánh, người dùng chân tâm sẽ chẳng bị thoái chuyển. Từ cõi Phương Tiện Hữu Dư trở xuống, vẫn là dùng cái tâm ý thức. Tâm ý thức là vọng tâm, dùng vọng tâm nhất định bị thoái chuyển. Vì sao [chúng sanh trong] Tây Phương Cực Lạc thế giới không bị thoái chuyển? Do không có duyên gây thoái chuyển! Điều này tốt lắm! Bất luận là hoàn cảnh vật chất, hay hoàn cảnh quan hệ giữa con người với nhau, đều giúp cho quý vị tiến lên, không có gì nhiễu loạn khiến đạo tâm của quý vị bị lui sụt. Vì thế, quý vị có muốn lui sụt cũng chẳng thể lui sụt được! Do vì lẽ này, quý vị mới chẳng thoái chuyển.
Từ cõi Phương Tiện Hữu Dư trở xuống, liên hoa hóa sanh, hoa sen chưa nở, luôn ở trong hoa sen. Hoa nở thấy Phật, ngộ Vô Sanh, đấy chính là cõi Thật Báo Trang Nghiêm. “Hoa nở thấy Phật” là thấy Báo Thân Phật, tức là vị Phật như trong bài kệ tán Phật đã nói: “Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di, cám mục trừng thanh tứ đại hải”, vị Phật như vậy đó, đại Phật. Còn vị Phật mà ta được thấy trong hoa sen chính là Hóa Thân Phật. Quý vị ở trong hoa sen thì A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí, chư Phật, Bồ Tát mà quý vị trông thấy đều là hóa thân trong hoa sen để thuyết pháp. Hơn nữa, ở trong hoa sen, tuy mỗi người đều có hoa sen riêng dành cho mỗi cá nhân, nhưng rất kỳ lạ là trong hoa sen của ta cũng dường như thấy có đông người ngần ấy, mà người khác từ trong hoa sen của họ cũng thấy ta, nhưng thật ra mỗi người ở trong một hoa sen riêng. Cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn! Vì thế, quý vị ngàn vạn phần đừng khởi vọng tưởng: Hai người chúng ta vãng sanh, sanh về bên đó, tôi cũng chẳng gặp bạn, mà bạn cũng chẳng thấy tôi, giống như chúng ta sống trong hai căn nhà, bạn ở bên đó, tôi ở bên này, hai người chúng ta vẫn chưa thấy mặt nhau. Không phải vậy! Tuy là hai hoa sen, nhưng chính quý vị cảm thấy giống như ở cùng một chỗ; cảnh giới ấy chẳng thể nghĩ bàn!
Do vậy, quý vị hằng ngày thấy Phật, chẳng qua là thấy Hóa Thân Phật mà thôi! Hóa thân Phật bao lớn? Tùy thuộc phước báo của quý vị: Phước báo nhỏ thì thấy Phật nhỏ, phước báo lớn thấy Phật lớn. Bởi lẽ, Phật tùy loại hiện thân; hoa sen của quý vị to, đương nhiên thân quý vị cũng to, Phật cũng to. Hoa sen của quý vị nhỏ, đương nhiên quý vị thấy Phật cũng nhỏ, cùng một đạo lý! Hoa sen lớn hay nhỏ là do công phu niệm Phật của chúng ta sâu hay cạn mà biến hiện ra. Chỉ cần chúng ta phát tâm ở đây, niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, trong ao sen bảy báu nơi thế giới Cực Lạc sẽ sanh một đóa hoa sen. Kinh còn nói rất rõ ràng: Trên hoa sen có ghi tên họ, trong tương lai [khi hành nhân] vãng sanh, A Di Đà Phật cầm hoa sen ấy đến tiếp dẫn quý vị. Quý vị niệm Phật công phu càng siêng năng, hoa sen ngày càng to hơn, ánh sáng và màu sắc ngày càng tốt đẹp hơn. Quý vị niệm Phật biếng nhác, bê trễ, hoặc chẳng muốn niệm, học những pháp môn khác, hoa sen ấy dần dần chết khô, không còn nữa. Nay chúng ta dốc hết tánh mạng niệm Phật tại nơi đây nhằm vun quén đóa sen to trong ao bảy báu. Nếu chúng ta thích tranh đua, hãy nên tranh đua về độ lớn nhỏ, ánh sáng, màu sắc của hoa sen. Quý vị ở trong nhân gian ganh đua của cải, địa vị, những thứ ấy đều là giả, vì sao? Quý vị chết rồi sẽ chẳng mang thứ gì theo được, hoàn toàn là giả. Do vậy, niệm Phật nhiều để vun quén cho hoa sen của mình to lớn, đó là thật, quyết định chẳng giả!
Thật sự gặp gỡ pháp môn này, gặp được bộ kinh này, quý vị thật sự có phước báo. Do vậy, từ nay trở đi, giảng đường chúng ta hễ in kinh bèn in A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, chỉ hoằng dương một thứ này, hy vọng ấn hành số lượng càng nhiều càng tốt. Ngoài ra là đề xướng Tây Phương Công Cứ nhằm tiếp dẫn kẻ sơ cơ hoặc người vừa mới niệm Phật.
(Diễn) Nhị, tín vị mãn túc dĩ khứ, hoa khai kiến Phật, nhập Thập Trụ vị.
(演) 二信位滿足以去,華開見佛,入十住位。
(Diễn: Hai là sau khi đã viên mãn địa vị Thập Tín, hoa nở thấy Phật, bước vào địa vị Thập Trụ).
“Thập Trụ” là địa vị Thập Trụ trong Viên Giáo, [“nhập Thập Trụ vị”] là chứng địa vị Sơ Trụ.
(Diễn) Đắc thiểu phần kiến Pháp Thân, trụ Chánh Định vị dã.
(演) 得少分見法身,住正定位也。
(Diễn: Được thấy Pháp Thân ít phần, trụ trong địa vị Chánh Định).
Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, đấy là Bất Thoái. Chỗ thù thắng nhất trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là ở ý nghĩa Bất Thoái thứ nhất (tức là “không có duyên thoái chuyển trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư và Phương Tiện Hữu Dư”), vì chúng ta chẳng hề thấy loại Bất Thoái thứ nhất trong bất cứ một cõi Phật nào. Nói cách khác, [trong các cõi Phật khác] chắc chắn là thoái chuyển, tiến tiến, lùi lùi. Chúng ta đọc kinh Hoa Nghiêm sẽ hiểu, trong kinh Hoa Nghiêm, Thập Tín Bồ Tát không có địa vị, đến Thập Trụ mới kể là [thuộc vào] bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, chứ địa vị Thập Tín trước đó thì không tính, bắt đầu từ Thập Trụ mới nói [là Pháp Thân đại sĩ]. Vậy thì Thập Tín có [phần trong hội Hoa Nghiêm] hay không? Có, nhưng không được coi là có địa vị [trong thế giới Hoa Tạng] vì sao? Tiến tiến, lùi lùi. Nói cách khác, Bồ Tát thuộc địa vị Thập Tín trong thế giới Hoa Tạng vẫn là tiến tiến, lùi lùi, còn Bồ Tát thuộc địa vị Thập Tín trong thế giới Cực Lạc chẳng thoái chuyển. Điều này rất lạ lùng, thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Chúng ta hiểu rõ sự lý này, nhất định phải quý tiếc pháp môn này. Thế giới Hoa Tạng chẳng thể sánh bằng Tây Phương Cực Lạc thế giới về mặt thù thắng.
Lại nghĩ đến bản thân chúng ta dụng công tu hành, quý vị có thể chứng đến địa vị Thập Tín là khá lắm, nhưng nếu quý vị không thể vãng sanh thì vẫn bị thoái chuyển. Địa vị Thất Tín trong Thập Tín đã đoạn sạch Kiến Tư phiền não, bằng với bậc A La Hán trong Tiểu Thừa, nhưng vẫn bị thoái chuyển. Bởi lẽ, bậc A La Hán còn mê khi cách ấm. Nếu A La Hán đầu thai vào nhân gian, sẽ quên sạch sành sanh những chuyện trước lúc được sanh ra, Ngài vẫn còn mê hoặc, điên đảo. Do đây biết rằng: Chỗ hết sức thù thắng trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, hết sức khó có [chính là không có duyên thoái chuyển]. Đã thế, ai cũng có thể sanh về nơi ấy! Có những người rất quật cường, đức Phật khuyên họ sanh về Tây Phương, họ khăng khăng không chịu tin tưởng: “Tôi muốn sanh về Đông Phương. Đông Phương có Dược Sư Lưu Ly Phật, tôi đến đó chẳng tốt hay sao? Vì lẽ gì tôi phải nhất định về Tây Phương?” Đến Đông Phương Lưu Ly thế giới, quý vị thật sự có thể sanh về đó được, nhưng nếu quý vị thuộc vào địa vị Thập Tín thì vẫn còn thoái chuyển, quý vị phải cẩn thận chuyện này! Địa vị Thập Tín trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng thoái chuyển, điều nào thù thắng hơn? Chính quý vị có thể hiểu rõ!
(Diễn) Tam giả, Tam Hiền vị mãn, nhập Sơ Địa dĩ khứ, chứng biến mãn Pháp Thân, sanh vô biên Phật độ, như Phật ký Long Thọ đẳng, trụ Sơ Địa, sanh Tịnh Độ dã.
(演) 三者三賢位滿 , 入初地以去 , 證遍滿法身,生無邊佛土,如佛記龍樹等,住初地,生淨土也。
(Diễn: Ba là đã viên mãn địa vị Tam Hiền, đã chứng từ Sơ Địa trở lên, chứng Pháp Thân trọn khắp, sanh trong vô biên cõi Phật, như Phật thọ ký cho ngài Long Thọ v.v… trụ Sơ Địa, sanh trong Tịnh Độ).
Đây là nói tới Địa Thượng Bồ Tát trong Viên Giáo, tức bậc Đăng Địa (chứng nhập từ Sơ Địa trở lên). Tu viên mãn địa vị Tam Hiền, nhập Sơ Địa. Lão nhân gia nêu lên thí dụ: Long Thọ Bồ Tát là Sơ Địa Bồ Tát trong Viên Giáo, Ngài cũng niệm Phật cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ. Ngài Long Thọ rất phi phàm! Tám tông phái Đại Thừa của Trung Quốc đều công nhận Ngài là tổ sư đời thứ nhất, Ngài là tổ chung của tám tông. Vì sao? Tám đại tông phái lưu xuất từ Ngài, Ngài đúng là bậc học rộng nghe nhiều. Ngài đã lấy kinh Hoa Nghiêm từ cung rồng. Sau khi đức Phật nói kinh này xong, trong thế gian không ai có thể thọ trì, Đại Long Bồ Tát đem kinh này cất giữ trong long cung. Long Thọ Bồ Tát đến thăm long cung, thấy kinh này bèn đem về, khi ấy, thế gian mới có Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Vì vậy, tông Hoa Nghiêm cũng tôn Ngài làm tổ sư đời thứ nhất. Bản thân Ngài là người niệm Phật cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, sách Tịnh Độ Thánh Hiền Lục có ghi truyện ký về Ngài. Sơ Địa Bồ Tát sanh về Tịnh Độ, đương nhiên sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm.
(Sớ) Thử kinh tắc thất nhật nhất tâm, Phật hiện tại tiền, thị dã.
(演) 此經則七日一心,佛現在前,是也。
(Sớ: Kinh này nói bảy ngày nhất tâm, Phật bèn hiện trước mặt, chính là nói về chuyện này).
Nói tới mau chóng thì chẳng có gì mau chóng hơn. Có người học đạo nào chẳng hy vọng mau chóng thành tựu? Càng nhanh càng tốt, thật đấy! Nhanh nhất thì không chi hơn được pháp môn này!
(Diễn) Thử kinh tắc thất nhật nhị cú, thị dẫn bổn kinh vi chứng, nhi tứ đoạn văn trung giai dẫn bổn kinh vi chứng giả, minh phân thử tứ chủng, phi ức kiến dã.
(演) 此經則七日二句 , 是引本經為證 , 而四段文中皆引本經為證者,明分此四種,非臆見也。
(Diễn: Hai câu “kinh này nói bảy ngày…” chính là dẫn kinh này để làm chứng, trong bốn đoạn văn đều dẫn kinh này làm chứng, nhằm chỉ rõ: [Lời Sớ] chia [tín tâm] thành bốn loại như thế, chẳng phải là đoán mò).
Nói rõ câu nào cũng đều phát xuất từ kinh điển, căn cứ trên kinh điển, chứ không do chính mình suy đoán. Đức Phật dạy răn kẻ hậu học “y pháp, bất y nhân”.
Ưu điểm của Liên Trì đại sư và pháp sư Cổ Đức là mỗi câu đều có kinh điển làm chứng cứ, quyết chẳng phải là quan niệm hay suy luận của chính các Ngài. Bản thân các Ngài đã “y pháp, bất y nhân”, nghiêm ngặt tuân thủ pháp Tứ Y, chính các Ngài đã thành tựu như vậy, mà còn giúp cho mọi người chúng ta đều được thành tựu.
(Sớ) Cố tri Linh Sơn dĩ quá.
(演) 故知靈山已過。
(Sớ: Nên biết: “Hội Linh Sơn đã qua”).
Thích Ca Mâu Ni Phật đã diệt độ.
(Sớ) Long Hoa vị lai.
(演) 龍華未來。
(Sớ: Hội Long Hoa chưa đến).
Di Lặc Bồ Tát vẫn chưa thị hiện thành Phật.
(Sớ) Vô Phật thế trung, nhi đắc kiến Phật, thị danh tối thắng đệ nhất phương tiện.
(演) 無佛世中,而得見佛,是名最勝第一方便。
(Sớ: Trong đời không có Phật mà được thấy Phật, đó gọi là phương tiện tối thắng thứ nhất).
Hiện thời không có Phật trụ thế, chúng ta dựa vào pháp môn này có thể thấy Phật, hiện tiền, tương lai, nhất định thấy Phật. Đấy là “phương tiện tối thắng bậc nhất”. Trong phần trên có nói bốn thứ phương tiện, đến đây đã giảng xong phương tiện thứ nhất. Hôm nay chúng tôi giảng đến chỗ này!
— o0o —
Tập 54
Xin đọc A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bảy mươi mốt:
(Sớ) Đắc xuất luân hồi giả, diêu Hoặc khởi nghiệp, diêu nghiệp cảm báo, vãng lai lục đạo, luân chuyển vô cùng, y dư pháp tu, trực chí Hoặc tận, thỉ đắc xuất ly.
(演) 得出輪迴者 , 繇惑起業 , 繇業感報,往來六道,輪轉無窮,依餘法修,直至惑盡,始得出離。
(Sớ: “Được thoát luân hồi”: Do Hoặc khởi nghiệp, do nghiệp cảm báo, qua lại sáu đường, luân chuyển vô cùng, nương theo các pháp khác để tu thì phải mãi cho đến khi đã hết Hoặc mới được lìa thoát).
Trong hết thảy các kinh, luận, đức Phật thường bảo chúng ta những lời này. Chẳng dễ gì thoát khỏi luân hồi trong tam giới. Nếu chúng ta chẳng thể vượt thoát, khổ nạn quá nhiều! Có những nỗi khổ nạn phải hứng chịu đời đời kiếp kiếp vẫn chẳng xong, đạo lý này chẳng khó hiểu chi! Nếu chúng ta lắng lòng suy tưởng, chuyện trong quá khứ đã chẳng nhớ được, nhưng đại khái là trong một đời này, vẫn có thể nghĩ xem chúng ta đãi người xử sự đối với hết thảy chúng sanh rốt cuộc là kết nhiều thiện duyên, hay là kết lắm ác duyên? Chúng ta phải thấu hiểu điều này: Nếu chúng ta đãi người xử sự kết nhiều ác duyên với chúng sanh thì nói cách khác, trong tương lai, quả báo nhất định là khổ nhiều, vui ít. Nếu trong một đời này, chúng ta kết lắm thiện duyên, ít ác duyên, sẽ rất khó nói, vì sao? Quý vị thấy như trong Bách Pháp Minh Môn Luận đã nói: Tâm Sở tương ứng với Tâm Vương. Phiền Não Tâm Sở gồm hai mươi sáu loại, Thiện Tâm Sở[78] chỉ có mười một loại. Do đây có thể biết:
Tâm ý thức khởi tác dụng vốn là ác nhiều, thiện ít.
Chúng ta mở lịch sử ra xem, thật ra, thời gian nhân loại có lịch sử[79] cũng rất ngắn, Trung Quốc được coi là có lịch sử lâu đời nhất, cũng chẳng qua là năm ngàn năm lịch sử. Các nhà khảo cổ hiện thời cho rằng nhân loại có mặt trên địa cầu tối thiểu là một trăm mấy ức năm trở lên, nhưng lịch sử của nhân loại mới chưa đầy vài ngàn năm. Từ lịch sử, tức là dựa trên mấy ngàn năm lịch sử, chúng ta quan sát những quả báo mà chúng sanh cảm vời, lấy đao binh kiếp để nói, hoặc là dựa trên tai họa tự nhiên để nói, quả thật mỗi ngày một nghiêm trọng hơn. Đó là quả báo. Vì sao mỗi ngày một nghiêm trọng hơn? Chiến tranh xưa kia, đối với khoảng cách xa nhất cũng dùng cung tên, cung tên bắn được bao xa? Chiến tranh hiện thời dùng bom nguyên tử, quý vị nghĩ xem quả báo thê thảm, khốc liệt đến nhường nào? Nếu quán như thế, quý vị sẽ thật sự ngộ rằng: Không thể trụ trong lục đạo luân hồi, chắc chắn không thể sống cuộc đời thoải mái trong ấy được! Do vậy, nhất định phải vượt thoát. Vượt thoát quả thật có khó, có dễ! Trong kinh luận thường nói, ở đây đại sư cũng trích dẫn, trước hết nói phải làm như thế nào mới có thể thoát luân hồi; trước hết, quý vị phải hiểu luân hồi hình thành như thế nào? Trước hết, phải hiểu đạo lý này!
Luân hồi là “diêu Hoặc khởi nghiệp” (do Hoặc tạo nghiệp), Hoặc (惑) là mê hoặc. Do mê hoặc mà tạo nghiệp, mê là gì? Tâm động là mê. Khởi Tín Luận có nói: “Nhất niệm bất giác nhi hữu vô minh” (do một niệm chẳng giác mà có vô minh). Tướng trạng của giác ngộ là tướng thanh tịnh; bởi lẽ, giác tâm là thanh tịnh. Tướng trạng của mê là vọng động; mê là động! Phật pháp dạy chúng ta tu hành, pháp môn tuy rất nhiều, nhưng thật sự có mấy ai có thể nhận biết, hiểu được? Đúng là chúng sanh có các thứ bệnh, đức Phật có các món thuốc. Thuốc chẳng tệ, mà cũng chẳng mắc phải những căn bệnh ngặt nghèo, thế mà hiện thời chẳng những không trị lành bệnh, mà trái lại bệnh còn nặng hơn, tức là dùng thuốc chưa thích đáng!
Nhìn ngược lại, đối với pháp môn, chúng ta chưa nhận biết rõ ràng, nẩy sanh rất nhiều hiểu lầm đối với pháp môn, nghĩa là sao? Ví như có những kẻ chấp vào pháp môn này, hủy báng hết thảy các pháp môn khác, đó là sai lầm! Dẫu quý vị tu hành pháp môn này tốt đẹp đến đâu đi nữa, mà nếu quý vị hủy báng một pháp môn nào khác, chúng ta hãy xét xem cái tâm của quý vị có động hay chăng? Nếu tâm quý vị chẳng động, làm sao quý vị hủy báng được? Nếu tâm quý vị chẳng động, làm sao quý vị phân biệt được? Tâm động là mê, là nghiệp. Quý vị học Phật lại tạo nghiệp, tạo ra nghiệp ấy sẽ rất phiền phức, vì nghiệp ấy chẳng giống như nghiệp thế gian. Nếu nghiệp ấy là nghiệp phá hoại Pháp Thân huệ mạng của người khác thì sẽ nặng lắm, nghiệp ấy chính là báng Phật, báng Pháp, báng Tăng! Không chỉ đừng nên hủy báng, mà ngay cả hoài nghi cũng chớ nên. Vì vậy, nói: Nghi ngờ, hủy báng Tam Bảo chính là mê hoặc, là tạo nghiệp.
Do điều này, chúng ta thường bất tri bất giác tạo vô lượng vô biên tội nghiệp. Hễ có nghiệp, sẽ cảm quả báo, vì vậy nên mới “vãng lai lục đạo, luân hồi vô cùng” (qua lại trong sáu đường, luân hồi vô cùng). Từ vô thủy kiếp đến nay là như vậy, đời đời kiếp kiếp chẳng có thuở thoát ra. Nếu nói đến tu hành, nói đến học Phật, chắc chắn chúng ta chẳng chỉ [tu hành hay học Phật] trong một đời này, mà cũng là đời đời kiếp kiếp đều tu học, nhưng chưa thoát ra. Ở đây, đại sư nói nguyên nhân chưa thoát ra được là “y dư pháp tu” (nương theo pháp khác để tu tập), tức là nói tới tám vạn bốn ngàn pháp môn, quý vị nương theo phương pháp khác để tu. “Trực chí Hoặc tận, thỉ đắc xuất ly” (mãi cho tới khi hết Hoặc, mới được thoát lìa). Câu này nên hiểu như thế nào? Tôi nghĩ nó chẳng khó hiểu đối với những vị đồng tu tu học đã lâu!
(Diễn) Trực chí Hoặc tận, thỉ đắc xuất ly giả, Tư Hoặc bất tận, bất xuất tam giới.
(演) 直至惑盡始得出離者,思惑不盡,不出三界。
(Diễn: “Mãi cho đến khi hết Hoặc mới được thoát lìa”: Tư Hoặc chưa hết, chẳng ra khỏi tam giới).
Đây là nói về luân hồi trong tam giới lục đạo. Nếu Kiến Hoặc đã hết, chẳng đọa trong ba đường ác. Tư Hoặc đã hết, sẽ vượt thoát khỏi lục đạo luân hồi. Tư Hoặc gồm năm loại lớn là tham, sân, si, mạn, nghi, đó là nói đại lược. Chúng ta hãy suy nghĩ, chúng ta có đoạn được [Kiến Tư Hoặc] hay chăng? Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Thủ Kiến, Kiến Thủ Kiến, Tà Kiến, năm thứ kiến giải sai lầm này (tức Kiến Hoặc) quý vị có đoạn được hay chăng? Nếu chưa thể đoạn thì nói cách khác, chúng ta vẫn có phần trong tam đồ, chưa thoát khỏi tam ác đạo. Năm loại kiến giải sai lầm lớn thảy đều đoạn sạch, vẫn chưa ra khỏi luân hồi. Chúng ta phải nghĩ nhiều về chuyện này! Quý vị dùng các pháp môn khác để tu, đến rốt cuộc chẳng có thành tựu. Nếu quý vị nghĩ thông suốt thì mới giác ngộ, có thể làm được hay không?
(Diễn) Trần Sa bất tận, bất xuất Nhị Thừa giới.
(演) 塵沙不盡,不出二乘界。
(Diễn: Chưa đoạn Trần Sa phiền não, chưa ra khỏi giới hạn Nhị Thừa).
Trong phần trên là nói tới Kiến Tư phiền não, [ở đây] lại nói: Nếu Trần Sa phiền não chưa đoạn, chắc chắn chẳng thể vượt khỏi phạm vi Tiểu Thừa.
(Diễn) Vô minh bất tận, bất xuất Bồ Tát giới.
(演) 無明不盡,不出菩薩界。
(Diễn: Vô minh chưa hết, chẳng ra khỏi phạm vi của Bồ Tát).
Đây là Đại Thừa Phật pháp, viên thành Phật đạo, chúng ta tạm gác lại hai điều sau (tức Trần Sa và Vô Minh chưa đoạn) không bàn tới; trước hết, hãy nói về luân hồi trong lục đạo trong tam giới. Chúng ta không có năng lực vượt thoát, đây là một vấn đề lớn. Bản thân tôi học Phật ba mươi năm, các tông, các phái đều mon men đôi chút, tôi chẳng dám nói ai khác, chính mình quay đầu nghĩ lại: “Không được rồi! Quá khó!” Muốn liễu sanh tử thoát luân hồi thì chẳng có hy vọng gì! Sau đấy mới thật sự phát hiện: Chỉ có một con đường đới nghiệp vãng sanh, chỉ có con đường này!
(Sớ) Nhi thác chất thế gian, thăng trầm vị bảo.
(演) 而託質世間,升沈未保。
(Sớ: Nhưng gởi thân trong thế gian, thăng hay trầm chẳng đảm bảo).
“Chất” (質) là nhục thân (cái thân xác thịt). Ngài không nói đến thịt, mà cũng chẳng nói đến thân, nói đến “chất” là do đối với lục đạo hữu tình dùng chữ này để chỉ chung [sắc thân] của họ. Trong lục đạo luân hồi, bất luận quý vị đang thọ thân trong đường nào, nói chung quý vị có thể chất sắc tướng. Nếu quý vị ở trong lục đạo, đúng là “thăng trầm vị bảo” (thăng hay trầm chẳng đảm bảo). Quý vị tu ba thiện nghiệp sẽ sanh trong tam thiện đạo. Tạo ba ác nghiệp sẽ đọa trong tam ác đạo; nhưng chúng ta suy nghĩ kỹ càng, chúng ta đích xác là tạo thiện nghiệp ít, tạo ác nghiệp nhiều. Nói cách khác, cơ hội thăng lên ít, thường là cơ hội đọa xuống thì nhiều. Đó là đạo lý tất nhiên.
(Sớ) Duy tư Niệm Phật, đới Hoặc vãng sanh, dĩ kỷ niệm lực, cập Phật nhiếp thọ đại thần lực cố.
(演) 唯茲念佛 , 帶惑往生 , 以己念力,及佛攝受大神力故。
(Sớ: Chỉ có pháp Niệm Phật này là mang theo Hoặc nghiệp vãng sanh nhờ vào niệm lực của chính mình và đại thần lực của Phật nhiếp thọ).
Dùng niệm lực của chính mình, đó là tự lực; đại thần lực của Phật nhiếp thọ là Phật lực. Do vậy, pháp môn này được gọi là Nhị Lực Pháp Môn. Đây là dạy cho chúng ta một sanh lộ, nói thật ra, sanh lộ chỉ có một đường! Lão hòa thượng Quảng Khâm viên tịch đã hiện thân thuyết pháp cho chúng ta, Ngài cũng đi theo con đường này [nhằm khiến cho chúng ta] hiểu: Không có con đường nào khác để có thể đi thông suốt cả!
(Diễn) Đới Hoặc vãng sanh giả.
(演) 帶惑往生者。
(Diễn: “Mang theo Hoặc nghiệp vãng sanh” là…)
Đây là đới nghiệp vãng sanh.
(Diễn) Quán Kinh Thượng Thượng Phẩm sanh giả, đoạn Vô Minh Hoặc; Trung Thượng Phẩm sanh giả, đoạn Kiến Tư Hoặc; nãi chí Trung Hạ Phẩm sanh giả, thỉ đoạn Kiến Hoặc.
(演) 觀經上上品生者 , 斷無明惑 ; 中上品生者,斷見思惑;乃至中下品生者,始斷見惑。
(Diễn: Theo Quán Kinh, người vãng sanh trong Thượng Thượng Phẩm đoạn Vô Minh Hoặc; người vãng sanh trong Trung Thượng Phẩm đoạn Kiến Tư Hoặc; cho đến vãng sanh trong Trung Hạ Phẩm là người mới đoạn Kiến Hoặc).
Đây là nói đến Tam Bối Vãng Sanh (ba bậc vãng sanh). Thượng Thượng Phẩm vãng sanh phá một phẩm vô minh, sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Trung Thượng Phẩm vãng sanh là sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư, đoạn Kiến Tư phiền não, chẳng khác gì các pháp môn khác. “Nãi chí Trung Hạ” (cho đến Trung Hạ) là nói về những người vãng sanh trong Trung Hạ phẩm, “thỉ đoạn Kiến Hoặc” (mới đoạn Kiến Hoặc), Tư Hoặc chưa đoạn xong, nhưng đã đoạn Kiến Hoặc. Đoạn Kiến Hoặc là Trung Hạ Phẩm.
(Diễn) Nhược hạ bối tam phẩm, tắc toàn vị đoạn Hoặc.
(演) 若下輩三品,則全未斷惑。
(Diễn: Nếu là ba phẩm thuộc bậc Hạ thì hoàn toàn chưa đoạn Hoặc).
“Hạ bối” là [ba phẩm] Hạ Thượng, Hạ Trung, Hạ Hạ. “Toàn vị đoạn Hoặc” là Kiến Tư, Trần Sa, Vô Minh thảy đều chưa đoạn. Nói “đới nghiệp vãng sanh” là chỉ cho hạng người như vậy. Nếu nay chúng ta nói “đoạn Hoặc”, sợ rằng chẳng có cách nào làm được. Không cần nói đoạn Kiến Tư, chỉ đoạn Kiến Hoặc mà chúng ta cũng chẳng đoạn được, không có năng lực ấy. Vì thế, chỉ cầu đới nghiệp vãng sanh, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Nay chúng ta chỉ có một hy vọng là đi theo con đường như vậy, nhưng đối với con đường này, tức là con đường sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, quý vị cũng phải nhớ rằng:
(Diễn) Đản sảo năng phục vọng, thành tựu tịnh thân.
(演) 但稍能伏妄,成就淨身。
(Diễn: Chỉ có thể hơi khuất phục vọng, thành tựu tịnh thân).
Câu này hết sức quan trọng, nói chung là phải có thể khuất phục phiền não, tức là nói quý vị chưa đoạn phiền não, nhưng có thể chế ngự nó. Nói “phục” (伏) tức là chẳng để cho phiền não dấy lên hiện hành, phiền não vừa mới khởi lên bèn dùng một câu Phật hiệu để chuyển biến nó, thay thế nó, đó gọi là “phục phiền não”. Do vậy, trong mười hai thời, chúng ta giữ cho một câu Phật hiệu chẳng gián đoạn, niệm niệm đều là A Di Đà Phật. Nếu chẳng niệm Phật, Kiến Tư phiền não sẽ dấy lên.Vì sao bảo quý vị “trong mười hai thời chẳng dứt Phật hiệu?” Đấy chính là vì sợ phiền não dấy lên. Cổ nhân bảo đây là biện pháp “dùng đá đè cỏ”, đè nén nó, chẳng cho nó dấy lên hiện hành, đó gọi là “phục Hoặc”. Thân tâm của chúng ta thanh tịnh, có thể đạt được một chút khinh an, như vậy thì sẽ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Vì thế, gọi là “đới Hoặc vãng sanh”, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư.
Nay chúng ta thật sự nói tới “liễu sanh tử, thoát tam giới” thì trừ con đường này ra, quý vị hãy nghiêm túc suy nghĩ, bất luận quý vị tu học một pháp môn nào, có thể [thoát sanh tử] hay không? Tu tập sao cho ngoài mặt dễ coi thì vô ích, trong tương lai phải luân hồi ra sao thì vẫn luân hồi như thế ấy, phải sanh tử như thế nào thì vẫn là sanh tử như thế ấy, đó mới là oan uổng! Vì thế, cổ đại đức thường dạy chúng ta hãy thật thà niệm Phật, đừng mong dễ coi. Chúng tôi học Phật nhiều năm như vậy, tỉnh ngộ sâu xa, biết lời cổ đại đức nói câu nào cũng đều là buốt lòng, rát miệng, toàn là kinh nghiệm cả đời [của các Ngài], ngàn vạn phần đừng coi đó là những lời nói tầm thường quá nhàm mà hờ hững, để rồi chính mình bị thiệt thòi. Do vậy, hãy nên quay đầu lại, buông vạn duyên xuống, thật thà niệm Phật; dẫu là chuyện hoằng pháp lợi sanh vẫn là “nhiều chuyện chẳng bằng ít chuyện, ít chuyện chẳng bằng không có chuyện gì”.
Nguyện lực của chúng ta phải to lớn, nhưng chớ nên bới ra việc, nguyện lực quả thật phải là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, phải có bi nguyện ấy, phải có đại nguyện ấy; nhưng nếu quý vị tìm chuyện để làm thì đã sai rồi, tâm chẳng thanh tịnh! Nếu duyên chín muồi, quý vị sẽ chẳng thể không làm. Quý vị phải tận tâm tận lực làm cho viên mãn. Không có duyên thì chẳng phan duyên. Ví như các đồng tu ở nơi đây rất vui vẻ bỏ tiền bỏ sức để dựng ngôi chùa này, dựng đạo tràng này, chúng ta chỉ đành xây dựng, duyên đã chín muồi rồi. Nếu chưa có cái duyên ấy, tự mình vắt óc suy nghĩ: Tôi muốn lập đạo tràng tại đây, nhưng không có cách nào, bèn đi khắp nơi hóa duyên, đó là trật! Không có duyên, chắc chắn chớ nên phan duyên. Hễ duyên đưa đến, chắc chắn chẳng thể tránh né. Quý vị tránh né là thiếu từ bi. Không có duyên bèn phan duyên thì quý vị chẳng thanh tịnh. Hai bên thanh tịnh và từ bi chẳng thể lệch vào một bên, chẳng thể coi trọng [một bên nào], phải bình đẳng tu học, như thế thì mới có thể tránh khỏi lầm lỗi.
Dẫu là hoằng pháp lợi sanh nhằm giúp đỡ người khác, nhất quyết chẳng đánh mất sự thanh tịnh của chính mình. Vì sao? Chính mình mới có thể đắc độ. Nếu không, khá lắm là giúp đỡ người khác, chứ chính mình cũng chẳng ra khỏi tam giới, biến thành phước báo hữu lậu trong tam giới, vẫn không có cách nào vãng sanh. Người biết tu thì chính mình nhất định vãng sanh Tịnh Độ, lại có thể giúp đỡ người khác, giúp đỡ người khác chẳng trở ngại sự thanh tịnh của chính mình; sự thanh tịnh của chính mình chẳng trở ngại việc giúp đỡ người khác; đó mới gọi là công phu chân chánh!
(Sớ) Nhất sanh bỉ quốc, tức siêu tam giới, bất thọ luân hồi.
(演) 一生彼國,即超三界,不受輪轉。
(Sớ: Hễ sanh về cõi kia liền vượt thoát tam giới, chẳng bị luân hồi).
Dẫu chúng ta là Hạ Phẩm Hạ Sanh, đới nghiệp vãng sanh, nhưng lợi ích, công đức thù thắng ấy quả thật chẳng thể nghĩ bàn! Đấy chính là điều mà chúng ta nỗ lực suốt đời hòng đạt được!
(Sớ) Kinh vân: Chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí, thị dã. Thị vi tối thắng đệ nhị phương tiện.
(演) 經云 : 眾生生者 , 皆是阿鞞跋致,是也。是為最勝第二方便。
(Sớ: Kinh dạy: “Chúng sanh sanh về Cực Lạc đều là A Bệ Bạt Trí” chính là nói về ý này. Đây là phương tiện tối thắng thứ hai).
Trong bốn thứ phương tiện, đây là điều thứ hai. Đại sư trích dẫn kinh điển để giảng giải, toàn là lấy từ kinh [A Di Đà] này: “Chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí” (Chúng sanh sanh về Cực Lạc đều là A Bệ Bạt Trí). A Bệ Bạt Trí (Avaivartika) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Bất Thoái Chuyển, “giai thị” là không một ai chẳng như vậy. Trong kinh hoàn toàn chẳng nói “Thượng Thượng Phẩm đều là” hoặc “Thượng Trung Phẩm đều là”, không nói như thế, chẳng có cách nói như vậy, mà đương nhiên [mọi người trong cõi Cực Lạc] đều là [Bất Thoái Chuyển], Hạ Hạ Phẩm vãng sanh cũng là [Bất Thoái Chuyển]. Đấy là chỗ chẳng thể nghĩ bàn của Tây Phương Cực Lạc thế giới.
A Bệ Bạt Trí là Bất Thoái Chuyển, có ba loại Bất Thoái: Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, và Niệm Bất Thoái. Nếu chiếu theo sự tu học trong các pháp môn thông thường, muốn đạt đến địa vị có đủ ba thứ Bất Thoái thì [địa vị ấy] khá cao. Trong Biệt Giáo phải là từ Sơ Địa trở lên; trong Viên Giáo phải là từ Sơ Trụ trở lên mới có thể đắc ba thứ Bất Thoái. Những điều được dạy trong kinh này tuyệt đối chẳng phải là đức Phật vọng ngữ, Ngài tuyệt đối chẳng dùng lời lẽ này để dụ dỗ, mê hoặc chúng ta, không phải vậy! Đới nghiệp vãng sanh, Hạ Hạ Phẩm vãng sanh cũng chứng ba thứ Bất Thoái. Nói cách khác, chẳng sanh về Tây Phương thì thôi, hễ sanh về Tây Phương sẽ chẳng khác bậc Pháp Thân đại sĩ trong thế giới Hoa Tạng, không hai, không khác. Do vậy, kinh này ngay cả đức Phật cũng bảo là “pháp khó tin”. Tu các pháp môn khác [muốn chứng ba thứ Bất Thoái] phải tu đến địa vị Sơ Địa trong Biệt Giáo hoặc Sơ Trụ trong Viên Giáo, quá khó, chẳng phải là chuyện dễ dàng! Chiếu theo Biệt Giáo để nói thì phải dùng một A-tăng-kỳ kiếp tu hành mới đạt đến Sơ Địa, nhưng chúng ta trong một đời mấy chục năm ngắn ngủi, hoặc là trong mấy năm bèn tu thành công, đấy là như Ngẫu Ích đại sư đã nói: Pháp môn này chí viên, chí đốn. Đốn là “đốn siêu” (nhanh chóng vượt trỗi), không có pháp môn nào nhanh chóng hơn! Không có pháp môn nào viên mãn hơn! Ngay cả tổ sư của tông Pháp Tướng là Khuy Cơ đại sư cũng nói pháp môn Niệm Phật viên đốn đến tột bực. Trong sách A Di Đà Kinh Thông Tán Sớ có một đoạn tán thán kinh này đến cùng cực.
Phương tiện thứ hai là “phương tiện chẳng đoạn Hoặc nghiệp mà thoát khỏi luân hồi”, phương tiện thứ ba là “phương tiện chẳng tu các hạnh khác mà đắc Ba La Mật”. Tiếp theo đây, sách Sớ Sao giảng về phương tiện thứ ba.
(Sớ) Đắc Ba La Mật giả.
(演) 得波羅密者。
(Sớ: Đắc Ba La Mật là…)
Ba La Mật (Pāramitā) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là “rốt ráo viên mãn”. Dịch theo nghĩa gốc là “đạt đến bờ kia”, người Hoa quen dịch là “rốt ráo viên mãn”.
(Sớ) Chư Bồ Tát chúng, hữu Hằng sa kiếp trung, tu Lục Độ vạn hạnh, vị năng mãn túc.
(演) 諸菩薩眾 , 有恆沙劫中 , 修六度萬行,未能滿足。
(Sớ: Các hàng Bồ Tát có vị trải số kiếp nhiều như cát sông Hằng tu Lục Độ, muôn hạnh, nhưng chưa thể trọn vẹn).
Đây cũng là thật, Bồ Tát đời đời kiếp kiếp đều tu Lục Ba La Mật, kinh Hoa Nghiêm có nói Thập Ba La Mật, có viên mãn hay không? Không! Nhưng pháp môn Niệm Phật của chúng ta tu một môn là viên mãn rồi. Vì sao một môn mà viên mãn? Mấy câu dưới đây hết sức quan trọng.
(Sớ) Nhi kim nhất tâm niệm Phật.
(演) 而今一心念佛。
(Sớ: Mà nay nhất tâm niệm Phật).
“Nhất tâm niệm Phật” là pháp môn này. Niệm Phật phải nhớ nhất tâm, mấu chốt ở chỗ nhất tâm. Phàm là công phu niệm Phật chẳng đắc lực là do người ấy chẳng dùng nhất tâm, mà dùng tán tâm, loạn tâm. Suốt ngày từ sáng đến tối dùng cái tâm suy nghĩ loạn xạ để niệm Phật nên chẳng đắc lực, suốt một đời này chẳng thể thành tựu. Vì sao chẳng thể thành tựu? Chưa thể chế phục phiền não. Dẫu chẳng thể đoạn phiền não, quý vị phải chế phục nó! Tâm tán loạn, tâm vọng tưởng chẳng thể chế phục phiền não; nhất tâm có thể chế phục phiền não. Vì thế, đây là điều trọng yếu. Nhất tâm sẽ không có ý niệm thứ hai, đó mới gọi là nhất tâm.
Nếu nói thật thà thì như thế nào mới là hiếu kính chư Phật, tuân phụng Tam Bảo? Nhất tâm niệm Phật! Bởi lẽ, Phật, Bồ Tát, thầy, Tam Bảo đều hy vọng quý vị mau thoát lìa tam giới, mong quý vị mau chứng đắc ba thứ Bất Thoái. Nếu quý vị chứng đắc, đấy là hiếu thuận nhất. Đây cũng là niềm kỳ vọng chân thật của các Ngài. Nếu quý vị một mặt niệm Phật, một mặt nghĩ đến chuyện khác, thế là hỏng bét! Đó là ngu si, chẳng phải là hiếu thuận. Một mặt niệm A Di Đà Phật, một mặt vẫn suy nghĩ đến chuyện của thầy, chẳng hạn cụ Quảng Khâm viên tịch, đồ đệ của Ngài vừa niệm A Di Đà Phật vừa nghĩ đến thầy, đấy là lầm lẫn quá đỗi! Vì sao? Quý vị chắc chắn chưa thể chế phục phiền não, quý vị suy tưởng, đấy chính là vọng tưởng, là vọng niệm. Quý vị chuyện gì cũng chẳng tưởng, tâm địa đạt đến thanh tịnh mới có thể thoát lìa. Các Ngài cũng mong mỏi quý vị thanh tịnh, nhưng tâm chúng ta chẳng thanh tịnh.
Chúng ta đọc Ấn Quang Đại Sư Văn Sao, vì sao Ấn Quang đại sư thường quở trách các đệ tử của Ngài là do đạo lý này: Họ chưa hiểu! Phàm phu kiến giải sai lầm, nói chung là dùng phàm tình để làm Phật sự. Làm Phật sự nhằm tu cái tâm thanh tịnh, dùng tâm lý giao thiệp thù tạc của phàm phu để tu cái tâm thanh tịnh, làm sao tu thành công cho được? Thuở Ấn Quang đại sư tại thế, nếu quý vị thỉnh Ngài truyền trao Tam Quy mà đến gặp Ngài mấy lượt, Ngài bèn quở mắng quý vị, chẳng cho phép đến. Vì sao? Sợ quý vị khởi xen tạp, sợ quý vị loạn tâm. Đó chính là yêu thương, quan tâm đệ tử thật sự. “Ông đến đây để làm gì?” “Con đến gặp thầy”. “Thầy có gì hay đâu mà xem? Gặp một hai lần mà vẫn chưa đủ hay sao?” Có lý lắm! Thật sự có lý! Thầy mà còn chẳng cho phép quý vị thường gặp gỡ Ngài, há Ngài bằng lòng cho quý vị gặp người khác ư? Đạo tràng của thầy mà còn chẳng chấp thuận quý vị đến nhiều lần thì thầy hy vọng quý vị đến đạo tràng các nơi ư? Vì sao ngăn cấm? Sợ quý vị chẳng thể nhất tâm, đạo lý ở chỗ này!
Nếu quý vị đã nhất tâm bất loạn, hằng ngày gặp gỡ thầy cũng chẳng sao! Đến đạo tràng nào cũng chẳng sao! Công phu của quý vị đã thành tựu. Thật sự giống như kinh Kim Cang đã nói: Ngoài chẳng chấp tướng, “bất thủ ư tướng” (chẳng giữ lấy tướng), trong chẳng động tâm, “như như bất động”, vậy là được, có thể đến! Quý vị đắc đại tự tại, thật sự giải thoát. Có công phu ấy thì mới được! Từ kinh Hoa Nghiêm chúng ta thấy Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, do Ngài đã đắc công phu nên mới có tư cách ra ngoài đi tham học. Nếu bên ngoài vẫn chấp tướng, bên trong vẫn động tâm, tốt nhất là đóng cửa ở nhà thật thà niệm Phật, ngay cả thầy cũng chẳng cần phải tới thăm. Thế nhưng người nghiệp chướng nặng nề không thể đóng cửa [thật thà niệm Phật được], ắt phải chạy lung tung bên ngoài, chạy như vậy sẽ chẳng thể thành tựu. Đóng cửa cũng chẳng được, muốn thành tựu khó quá! Do vậy, mấu chốt của niệm Phật là hai chữ “nhất tâm”, chúng ta nhất định phải hiểu rõ ý nghĩa này!
(Sớ) Vạn duyên tự xả, tức Bố Thí Ba La Mật.
(演) 萬緣自捨,即布施波羅密。
(Sớ: Vạn duyên tự bỏ, tức là Bố Thí Ba La Mật).
Nhất định xả, quý vị chẳng xả sẽ chẳng thể nhất tâm. Hễ nhất tâm, Lục Độ vạn hạnh bèn viên mãn. Nếu quý vị chẳng bỏ vạn duyên, lúc nghĩ Đông, khi nghĩ Tây, làm sao đắc nhất tâm được? Nhất tâm là không có hai niệm. Không chỉ ngũ dục lục trần trong thế gian phải buông xuống, mà Phật pháp cũng chẳng tham cầu, cũng buông xuống, đấy là bố thí rốt ráo viên mãn. Bố Thí là xả, xả gì vậy? Xả vọng niệm, xả phân biệt, xả chấp trước, xả tham, sân, si. Tâm người ấy thanh tịnh, chẳng có chuyện gì vướng mắc, đó mới gọi là nhất tâm niệm Phật. Quý vị vẫn còn nghĩ cái này, tưởng cái nọ, tức là nhị tâm, tam tâm, rất khó chế phục phiền não, chế phục không được! Nhất định phải là nhất tâm niệm Phật. Vì thế, người niệm Phật chẳng thể không buông bỏ hết thảy cảnh duyên. Cảnh là hoàn cảnh vật chất, Duyên là hoàn cảnh nhân sự (quan hệ giữa con người với nhau). Hoàn cảnh vật chất và hoàn cảnh nhân sự đều phải buông xuống, đó là nhất tâm. Do vậy, Bố Thí Ba La Mật bèn viên mãn.
(Sớ) Nhất tâm niệm Phật, chư ác tự chỉ, tức Trì Giới Ba La Mật.
(演) 一心念佛,諸惡自止,即持戒波羅密。
(Sớ: Nhất tâm niệm Phật, các ác tự dứt, tức là Trì Giới Ba La Mật).
Người niệm Phật có cần trì giới hay không? Người niệm Phật trì giới viên mãn. Khi đi tìm những giới luật [để trì] thì giới luật viên mãn của quý vị bị phá hoại. Kết quả là quý vị đạt được điều gì? Trì “phá giới chẳng viên mãn!” Trong hết thảy giới điều, quý vị chỉ có thể thọ trì một hai điều, giữ một, sót cả vạn. Quý vị chẳng hiểu “trong nhất tâm, giới luật bèn viên mãn”. “Giới” (戒) có nghĩa là gì? Ngăn điều sai, dứt điều ác. Tinh thần của toàn bộ Luật Tạng là hai câu: “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” (Đừng làm các điều ác, vâng giữ những điều lành). Quý vị nhất tâm niệm Phật, các điều ác tự nhiên ngưng dứt, tự nhiên không làm nữa! Một mặt niệm Phật, một mặt vẫn nghĩ đến chuyện xấu xa, đấy chẳng phải là nhất tâm. Nhất tâm không có hai niệm, chẳng những không có ác niệm, mà thiện niệm cũng không có! Ác niệm không có thì giới luật Tiểu Thừa bèn viên mãn. Thiện niệm cũng chẳng có thì giới luật Bồ Tát viên mãn. Đấy là Trì Giới Ba La Mật.
Nói như vậy, người niệm Phật chúng ta có cần trì giới hay không? Người thật sự niệm Phật, Giới – Định – Huệ thảy đều có trong ấy, chẳng cần phải tìm kiếm phiền phức. Liên Trì đại sư lão nhân gia mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, những chuyện gì khác đều chẳng làm. Liên Trì đại sư chẳng niệm kinh, mà cũng không niệm chú, mỗi ngày là mười vạn câu A Di Đà Phật. Lão nhân gia niệm bốn chữ, đi, đứng, nằm, ngồi đều là Phật hiệu. Ngài cũng chẳng có khóa sáng, khóa tối, đó gọi là nhất tâm niệm Phật. Chúng ta thấy Ngài điều gì cũng không tu, nhưng Ngài thứ gì cũng viên mãn, thứ gì cũng trọn đủ. Điều này đáng cho chúng ta suy nghĩ sâu xa, đáng cho chúng ta học tập.
(Sớ) Nhất tâm niệm Phật, tâm tự nhu nhuyễn, tức Nhẫn Nhục Ba La Mật.
(演) 一心念佛,心自柔軟,即忍辱波羅密。
(Sớ: Nhất tâm niệm Phật, tự tâm mềm mại, tức Nhẫn Nhục Ba La Mật).
Nếu còn có chuyện gì chẳng thể nhẫn thì tâm chúng ta chưa nhất! Nếu tâm đã đạt đến nhất thì ý niệm về chữ Nhẫn chẳng còn, còn phải nhẫn nữa ư? Không có! Còn phải nhẫn tức là tâm vẫn chưa thanh tịnh, còn chưa thể nhất. Lục Tổ nói: “Vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần?” Quý vị còn có một vật để “nhẫn”, chứng tỏ tâm quý vị chưa thanh tịnh, chưa thể nhất. Đạt đến nhất thì nhẫn cũng chẳng có, chẳng cần nói đến nhục, ngay cả nhẫn còn kiếm không ra! Nhẫn nhục bèn viên mãn.
(Sớ) Nhất tâm niệm Phật, vĩnh bất thoái đọa, tức Tinh Tấn Ba La Mật.
(演) 一心念佛,永不退墮,即精進波羅密。
(Sớ: Nhất tâm niệm Phật, vĩnh viễn chẳng lui sụt, đọa lạc, tức là Tinh Tấn Ba La Mật).
Tổ sư đại đức mỗi ngày mười vạn câu Phật hiệu, miên mật chẳng gián đoạn. Đấy là Tinh Tấn. Không chỉ kẻ sơ học chúng ta phải nỗ lực, mà đạt đến Đẳng Giác Bồ Tát, Phật hiệu vẫn chẳng gián đoạn! Trong chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm có câu: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương kế” (nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối). Trong hội Lăng Nghiêm, Đại Thế Chí Bồ Tát mang thân phận Sơ Địa trong Biệt Giáo hay Sơ Trụ trong Viên Giáo, mang thân phận như vậy. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, Ngài mang thân phận Đẳng Giác Bồ Tát. Ngài có thông hiểu Lý hay chăng? Ngài đã viên mãn từ lâu, về Sự thì sao? Về Sự bèn chẳng gián đoạn. Phật hiệu từ trước đến giờ chưa hề gián đoạn. Đấy gọi là Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, là Tinh Tấn. Chấp Sự phế Lý vẫn có thể thành tựu, nhưng thành tựu không cao. Nếu chấp Lý phế Sự, nhất định đọa trong ba ác đạo.
Chấp Lý phế Sự là gì? Về Lý thì dường như đã hiểu, nhưng nơi mặt Sự chẳng niệm, tự mình cho rằng chẳng cần phải niệm Phật, lầm lẫn quá đỗi! Người thật sự thông đạt Lý chắc chắn chẳng phế Sự. Phàm những kẻ phế bỏ Sự, hoàn toàn chẳng thật sự thông hiểu Lý! Bản thân chúng ta phải giác ngộ và kiểm điểm chỗ này. Do vậy, trong tâm chúng ta Phật hiệu chớ nên gián đoạn, nơi miệng có gián đoạn cũng không sao, miệng niệm lâu sẽ mệt, trong tâm chớ nên gián đoạn, nhưng miệng niệm thì có thể điều thân, đồng thời cũng có thể điều tâm. Trong khi ta hôn trầm, khi Phật hiệu chẳng dấy lên, bèn lớn tiếng niệm mấy câu, tinh thần bèn phấn chấn. Do vậy, niệm Phật chậm hay nhanh, lớn tiếng hay nhỏ tiếng tùy theo tâm của chính mình mà điều chỉnh, không nhất định, niệm sao cho thoải mái, niệm chẳng hôn trầm thì niệm như vậy là tốt đẹp, điểm này rất quan trọng.
(Sớ) Nhất tâm niệm Phật, dư tưởng bất sanh, tức Thiền Định Ba La Mật.
(演) 一心念佛,餘想不生,即禪定波羅密。
(Sớ: Nhất tâm niệm Phật chẳng sanh suy tưởng gì khác, tức là Thiền Định Ba La Mật).
“Thiền” (Dhyāna) dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tĩnh Lự, Tĩnh (靜) là không có vọng niệm, Lự (慮) cũng chẳng phải là vô niệm. Chẳng phải hữu niệm, chẳng phải vô niệm. Chẳng phải hữu niệm là không có hết thảy vọng niệm. Chẳng phải vô niệm là có một niệm, niệm ấy là A Di Đà Phật. Vì thế, nó viên mãn hơn Thiền, thù thắng hơn Thiền. Điều này các vị có thể suy tưởng được, dễ hơn Thiền! Chỉ có một câu Phật hiệu, chẳng cần phải dùng công phu tham cứu trong ấy, đó là Thiền Định, chẳng khác gì cách tu trong nhà Thiền. Nếu quý vị đọc Lục Tổ Đàn Kinh, hoặc ngữ lục của Thiền Tông, họ sử dụng công phu hoàn toàn giống như công phu của người niệm Phật, chỉ là phương pháp khác nhau. Họ dùng quán tâm, tham thoại đầu, dùng những phương pháp ấy hòng đạt đến cảnh giới này. Đi, đứng, nằm, ngồi đều là tham Thiền.
Từ Đàn Kinh chúng ta thấy: Người thật sự dụng công, Lục Tổ ở núi Hoàng Mai từ đầu đến cuối chưa vào Thiền Đường. Ngũ Tổ truyền pháp cho Ngài tại Phương Trượng Thất, cũng chẳng phải là Thiền Đường. Ngài tu pháp Thiền ở nơi đâu? Tu trong phòng giã gạo. Suốt ngày từ sáng đến tối Ngài giã gạo, bửa củi, nhưng Ngài tu Thiền. Ngài tu Thiền Định ở nơi ấy. Ngài suốt ngày từ sáng đến tối làm công chuyện, nhưng đang tu Thiền Định. Ở chỗ này, chúng ta phải hiểu cách tu Thiền Định như thế nào, chẳng phải là ngồi xếp bằng nhìn vào vách, xếp bằng nhìn vào vách tại nơi đó là tạo tư thế [nhằm huân tập sự định tâm].
Đàn Kinh có định nghĩa về Thiền. Trong chương Giáo Thọ Tọa Thiền đã nói rất rõ Thiền là gì? Chẳng chấp tướng. Định là gì? Chẳng động tâm. “Ngoài chẳng chấp tướng, trong chẳng động tâm”, đó gọi là Thiền Định. Sở dĩ ngồi [Thiền] là vì người ta ngồi một chỗ, người ấy bất động, giữ lấy ý nghĩa đó, chứ không phải thật sự bảo quý vị suốt ngày từ sáng đến tối ngồi tại đấy, mà nhằm bảo quý vị chớ động tâm! Tâm chẳng động là “tọa”, tâm chẳng chấp tướng là “Thiền”. Vì thế, Lục Tổ suốt ngày từ sáng đến tối làm lụng, bận bịu suốt ngày từ sáng đến tối mà Ngài tọa Thiền tại nơi đó. Vì sao? Ngài chẳng giữ lấy tướng, chẳng động tâm, trọn chẳng trở ngại công việc, đó gọi là “tọa Thiền”. Người niệm Phật công phu còn dễ dàng hơn, còn thù thắng hơn nữa. Trong mười hai thời, đi, đứng, nằm, ngồi, bất luận quý vị đang làm việc gì, trong tâm chỉ có một câu Phật hiệu, đấy chẳng phải là Thiền thì là gì vậy? Thật sự nhất tâm bất loạn. Vì thế, đấy là Thiền Định Bát Nhã Ba La Mật. Không chỉ tu Thiền Định, mà còn là Thiền Định viên mãn rốt ráo.
Thuở ấy, khi thầy Lý giảng kinh Lăng Nghiêm ở Đài Trung. Lúc ấy Ngài đã giảng kinh mười một, mười hai năm tại Đài Trung. Các đồng tu tâm bất định, cho rằng theo học với thầy Lý mười mấy năm toàn là nghe giảng những bộ kinh nhỏ, người ta ở chỗ khác giảng kinh to luận lớn, toàn là giảng Thiền, giảng Mật, toàn là những pháp môn ở trình độ cao, còn chúng ta học pháp của ông già bà cả! Do vậy nghe xong, trong tâm chính mình cảm thấy rất khó chịu, dường như ta chẳng bằng người, cảm giác tự ty rất nặng, thấy người khác cao ngất ta chẳng bén gót. Do vậy, thầy Lý bèn giảng kinh Lăng Nghiêm ở đó, kinh Lăng Nghiêm là một bộ kinh to. Giảng kinh Lăng Nghiêm, thầy nói: “Niệm A Di Đà Phật là tu Lăng Nghiêm Đại Định”. Lấy kinh Lăng Nghiêm để chứng minh, hai mươi lăm vị Bồ Tát trong hai mươi lăm pháp Viên Thông đều tu Lăng Nghiêm Đại Định. Đại Thế Chí Bồ Tát dùng phương pháp Niệm Phật để tu Lăng Nghiêm Đại Định. Suốt ngày từ sáng đến tối niệm một câu A Di Đà Phật là tu Lăng Nghiêm Đại Định mà chính mình vẫn không biết, cho nên quý vị tu chẳng thành công!
Nếu quý vị thật sự hiểu, đối với hết thảy pháp môn, chúng ta tán thán, nhưng không học. Vì sao tán thán? Vì những pháp ấy đều do đức Phật nói, chúng ta khen ngợi Phật. Chúng ta khen ngợi những người tu các pháp môn đó, tán Tăng! Chúng ta tán thán pháp môn, tức là tán Pháp! Chúng ta tán thán Tam Bảo, nhưng chúng ta có học hay chăng? Không học! Chúng ta vẫn niệm A Di Đà Phật. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn nào cũng đều có thể đạt đến mục đích, quý vị thích đi theo con đường đó thì được thôi! Tôi đi theo con đường này cũng chẳng sai, đều tốt đẹp cả! Tôi chẳng cưỡng ép quý vị đi theo con đường này của tôi, quý vị cũng chẳng cần phải ép buộc tôi đi theo con đường đó. Chúng ta đường ai nấy đi, xem ai tới trước? Hễ tới nơi thì đều tốt đẹp, không có gì chẳng tốt đẹp! Do vậy, chúng ta phải tán thán Tam Bảo, quyết định đừng hủy báng Tam Bảo, phải hiểu đạo lý này!
(Sớ) Nhất tâm niệm Phật, chánh niệm phân minh, tức Bát Nhã Ba La Mật.
(演) 一心念佛,正念分明,即般若波羅密。
(Sớ: Nhất tâm niệm Phật, chánh niệm phân minh chính là Bát Nhã Ba La Mật).
Bát Nhã là trí huệ. Trí huệ là giác. Người niệm Phật tâm thanh tịnh, nhất tâm. Hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian quý vị có thể thấy, nghe, tiếp xúc, không gì chẳng hiểu rõ, không gì chẳng thông đạt; sự hiểu rõ thông đạt ấy chính là Chánh Niệm. Tuy hiểu rõ, tuy thông đạt, nhưng trong hết thảy cảnh giới quyết chẳng khởi phân biệt, quyết chẳng có chấp trước, chẳng có vọng tưởng, đó gọi là Chánh Niệm. Nếu khởi phân biệt, khởi chấp trước, dấy vọng tưởng thì là tà kiến, [hay nói chi tiết hơn là] tà tư tà kiến, chẳng gọi là Chánh Kiến. Vì thế, người nhất tâm niệm Phật chẳng mê hoặc, không gì chẳng biết, thứ gì cũng đều hiểu! Nói ngược lại, kẻ tán tâm niệm Phật, kẻ loạn tâm niệm Phật, hết thảy các pháp bày ra trước mặt, nhưng chẳng thể phân biệt rõ ràng tà – chánh, đúng – sai, hiểu lầm; đấy là ngu si, mê hoặc, chẳng phải là trí huệ Bát Nhã.
Nhất tâm niệm Phật, Lục Ba La Mật thảy đều viên mãn, thảy đều đầy đủ. Quý vị nghĩ xem: Chúng ta còn phải tu gì nữa? Trong phần trên đã nói rất hay! Quý vị tu những thứ khác, Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Thiền Định, Tinh Tấn, tu trong Hằng sa kiếp vẫn tu chưa viên mãn. Đấy là sự thật ngàn vạn phần xác đáng! Nếu quý vị thật sự nhất tâm niệm Phật, mọi thứ đều viên mãn. Quý vị chẳng tin tưởng phương pháp tu hành viên mãn dễ dàng nhất, vẫn muốn tìm cành vặt lá, tự chuốc lấy phiền phức thì còn có cách nào nữa đây? Vì thế, nếu quý vị thật sự tin tưởng pháp môn này, chính là đại thiện căn, đại phước đức, đại nhân duyên, thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Tổ sư đã giảng cho chúng ta cặn kẽ ngần ấy, chẳng dễ dàng! Sở dĩ chúng ta không chịu học là vì tâm chưa buông xuống được, chính mình chưa chịu tu học đàng hoàng. Dưới đây là một câu nói hay nhất.
(Sớ) Thôi nhi cực chi, bất xuất nhất tâm, vạn hạnh cụ túc.
(演) 推而極之,不出一心,萬行具足。
(Sớ: Suy xét đến cùng cực thì chẳng ngoài nhất tâm mà vạn hạnh trọn đủ).
Không chỉ là Lục Độ [trọn đủ] như đã nói trong phần trên, mà vô lượng vô biên pháp môn thảy đều đầy đủ. Không chỉ đầy đủ, mà còn đúng như trong phần trước đã nói: Đầy đủ rốt ráo viên mãn, đấy là nhất tâm. Vì thế, trong hết thảy hạnh môn, bộ kinh này và pháp môn này là trực tiếp tu nhất tâm, chỗ thù thắng của nó là ở chỗ này. Kinh văn nói rất rõ ràng, nhất tâm bất loạn, tâm chẳng điên đảo, trực tiếp dạy quý vị tu nhất tâm. Trực tiếp liễu sanh tử, trực tiếp thoát tam giới, trực tiếp thành Phật, không đi vòng quanh. Càng trực tiếp như vậy thì càng dễ dàng, càng đơn thuần, nhưng chúng sanh càng chẳng chịu tin tưởng! Nói chung, chúng sanh thích kỳ quái, ham kỳ chuộng lạ, nên đây là pháp khó tin!
(Diễn) Lục Độ vạn hạnh, hữu Đại Tiểu Thừa Sự Lý bất đồng, nhi Lý trung, hữu phục thâm thiển, như Thiên Thai Tứ Giáo sở minh.
(演) 六度萬行 , 有大小乘事理不同 , 而理中,又復深淺,如天台四教所明。
(Diễn: Lục Độ vạn hạnh có Đại Thừa, Tiểu Thừa, Sự, Lý khác nhau, nhưng trong Lý lại có mức độ sâu và cạn [khác nhau] như trong Tứ Giáo của tông Thiên Thai đã nói).
Tứ Giáo của tông Thiên Thai và Ngũ Giáo của tông Hiền Thủ đều giảng cặn kẽ về Lục Độ vạn hạnh của Bồ Tát.
(Diễn) Bất xuất nhất tâm vạn hạnh cụ túc giả, thử nhất tâm diệc phân Sự Lý, nhược Lý nhất tâm cụ túc vạn hạnh, tự bất tất thuyết.
(演) 不出一心萬行具足者 , 此一心亦分事理 , 若理一心具足萬行,自不必說。
(Diễn: “Chẳng ra ngoài nhất tâm mà vạn hạnh trọn đủ”: Nhất tâm này cũng chia thành Sự nhất tâm và Lý nhất tâm. Nếu là Lý nhất tâm đầy đủ vạn hạnh thì chẳng cần phải bàn nữa).
Đương nhiên chúng ta đều thừa nhận điều này, thế nhưng Sự nhất tâm thì sao?
(Diễn) Tức Sự nhất tâm, tuy vị nhập Lý, nhi ư Tạng Giáo Sự Lục Độ, Sự vạn hạnh, diệc khả vân cụ túc dã.
(演) 即事一心 , 雖未入理 , 而於藏教事六度、事萬行,亦可云具足也。
(Diễn: Ngay như Sự nhất tâm, tuy chưa nhập Lý, nhưng đối với Lục Độ và vạn hạnh thuộc mặt Sự trong Tạng Giáo cũng có thể nói là trọn đủ).
Đối với những hạnh tu tập của hàng Bồ Tát thuộc Tiểu Giáo, quý vị cũng viên mãn. Hàng Bồ Tát Tiểu Giáo tu tập Lục Độ vạn hạnh chẳng được thuận tiện như người [niệm Phật] đắc Sự nhất tâm. Hàng Bồ Tát Đại Thừa tu tập Lục Độ vạn hạnh chẳng dễ dàng bằng người niệm Phật đã đắc Lý nhất tâm. Không chỉ Lục Độ vạn hạnh thuộc mặt Lý phải mất vô lượng kiếp mới có thể thành tựu, mà theo như kinh dạy, Lục Độ vạn hạnh thuộc mặt Sự trong Tiểu Giáo cũng phải tốn ba đại A-tăng-kỳ kiếp. “Ba đại A-tăng-kỳ kiếp thành Phật” là thành Phật trong Tạng Giáo, quý vị phải tu ba đại A-tăng-kỳ kiếp mới có thể viên mãn. Người niệm Phật đạt đến Sự nhất tâm bèn viên mãn.
Đối với những đạo lý giống như vậy, chúng ta chớ nên không hiểu, chớ nên không tin tưởng! Tu hành phải đặc biệt chú trọng nhất tâm! Chúng ta dùng nhất tâm để niệm Phật, dùng niệm Phật cầu nhất tâm. Hai phương pháp này giúp đỡ lẫn nhau, thành tựu lẫn nhau, chẳng dùng nhất tâm để niệm Phật, quý vị sẽ chẳng đạt được niệm Phật nhất tâm!
(Sớ) Như Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân.
(演) 如大本法藏願云。
(Sớ: Như trong kinh Vô Lượng Thọ, ngài Pháp Tạng nguyện rằng…)
Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ, tỳ-kheo Pháp Tạng trong lúc tu nhân đã phát ra bốn mươi tám nguyện.
(Sớ) Nhược ngã thành Phật, quốc trung hữu tình, bất hoạch thần thông tự tại Ba La Mật Đa, bất thủ Chánh Giác.
(演) 若我成佛 , 國中有情 , 不獲神通自在波羅密多,不取正覺。
(Sớ: Nếu tôi thành Phật mà các hữu tình trong nước tôi chẳng đắc thần thông tự tại Ba La Mật Đa, tôi chẳng lấy ngôi Chánh Giác).
Trong lúc tu nhân, A Di Đà Phật từng phát hoằng nguyện như vậy. Ngài nói sau khi chính mình thành Phật, trong cõi nước của Ngài, trong khu vực giáo hóa của Ngài, “hữu tình” là hữu tình chúng sanh, nếu chẳng đạt được “thần thông tự tại Ba La Mật Đa”, tức là chẳng đạt được thần thông viên mãn rốt ráo, tự tại viên mãn rốt ráo, Ngài “bất thủ Chánh Giác” (chẳng giữ lấy ngôi Chánh Giác), tức là Ngài quyết chẳng dùng thân phận Phật thị hiện trong thế gian, mà dùng thân phận Bồ Tát. Nói cách khác, nay Ngài dùng thân phận Phật xuất hiện trong thế giới Tây Phương, vậy thì nguyện này nhất định viên mãn, nhất định đã trở thành hiện thực.
Do vậy, quý vị chẳng sanh vào thế giới Tây Phương thì thôi, hễ sanh vào thế giới Tây Phương, nhất định đạt được thần thông tự tại viên mãn rốt ráo. Kinh còn dạy chúng ta: “Chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí” (Chúng sanh sanh vào cõi đó, đều là Bất Thoái Chuyển) là do đạo lý này. Vì thế, trong các thế giới của chư Phật khắp mười phương, quả thật chúng ta kiểm khắp hết thảy các kinh, không thấy có cách nói này! Trong kinh Hoa Nghiêm cũng không có cách nói như vậy. Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng [hàng Pháp Thân đại sĩ] phải cầu sanh Tịnh Độ thì mới có thể đạt đến viên mãn rốt ráo. Đối với bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong kinh Hoa Nghiêm, quý vị có thể nói là các Ngài chẳng có thần thông tự tại ư? Có, nhưng chưa viên mãn. Viên mãn là địa vị nào vậy? Chính là phải thành Phật, Phật quả rốt ráo mới là viên mãn.
Do vậy, chúng ta thường thấy kinh nhắc tới ba thứ Bất Thoái ấy, nhưng phải đặc biệt chú ý “viên chứng ba thứ Bất Thoái”. “Đều là A Bệ Bạt Trí” tức là đã viên chứng ba thứ Bất Thoái. Có chữ Viên thì sao? Đối với chữ Viên thì mức độ thấp nhất là Đẳng Giác Bồ Tát, chẳng khác gì quả địa Như Lai mới gọi là Viên. Do quả thật là như thế, chúng ta phải chết sạch lòng so đo, khăng khăng tin tưởng, chớ nên có mảy may hoài nghi. Hoài nghi thì trong tương lai sẽ bỏ lỡ cơ duyên này, đó là [lỗi lầm] của chính mình, chứ không phải do Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát, tổ sư chẳng có lỗi gì, các Ngài đã nói rõ ràng, rành mạch, nhưng chúng ta không tin tưởng, tự mình hoài nghi, tức là chính mình có nghiệp chướng, các Ngài chẳng chướng ngại chúng ta, chính chúng ta chướng ngại chính mình. Chúng ta chẳng thành tựu, đừng trách móc người khác!
(Sớ) Thị vi đệ tam thắng phương tiện.
(演) 是為第三勝方便。
(Sớ: Đấy là phương tiện thù thắng thứ ba).
Chẳng cần tu các hạnh khác mà có thể viên mãn Lục Độ Ba La Mật. Nếu quý vị thật sự tin tưởng, thật sự tiếp nhận, phước báo của quý vị quá lớn, trong đời này quyết định thành tựu. Hôm nay đã hết thời gian, chúng tôi giảng tới đoạn này!
— o0o —
Tập 55
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bảy mươi hai:
(Sớ) Đắc tật giải thoát giả, Trí Luận vân: “Hữu chư Bồ Tát, tự niệm báng Đại Bát Nhã, đọa ác đạo trung, lịch vô lượng kiếp, tuy tu dư hạnh, bất năng diệt tội, hậu ngộ tri thức, giáo niệm A Di Đà Phật, nãi đắc diệt chướng, siêu sanh Tịnh Độ”.
(演) 得疾解脫者 , 智論云 : 有諸菩薩,自念謗大般若,墮惡道中,歷無量劫,雖修餘行,不能滅罪,後遇知識,教念阿彌陀佛,乃得滅障,超生淨土。
(Sớ: “Mau chóng được giải thoát”: Trí Độ Luận nói: “Có các Bồ Tát tự nghĩ mình hủy báng Đại Bát Nhã, đọa vào trong ác đạo, trải vô lượng kiếp, tuy tu các hạnh nhưng chẳng thể diệt tội; sau đấy gặp tri thức dạy họ niệm A Di Đà Phật, bèn diệt được chướng, siêu sanh Tịnh Độ).
Đại sư trích dẫn một đoạn công án trong Đại Trí Độ Luận nhằm thuyết minh sức diệt tội giải thoát lớn nhất, hiệu quả rõ ràng nhất cũng là do niệm Phật. Hiện thời có rất nhiều người chẳng hiểu rõ đạo lý này, chẳng tin niệm Phật có công đức to lớn. Tuy niệm Phật nhưng cũng chẳng tương ứng, [vì] người ấy thiếu tín tâm! Tu các pháp môn khác có thể diệt tội hay không? Rất nhiều vấn đề, hoặc là chính mình tu, hoặc quý vị quán sát người khác tu học, quý vị thấy rốt cuộc là có thể diệt tội hay không? Thật ra, tội từ tâm sanh; do lẽ này, tội vẫn là từ tâm diệt. Nếu tâm có ý niệm bèn là có tội, diệt tội phải nhờ vào tâm. Trong các buổi giảng, chúng tôi đã nói rất nhiều, [mà quý vị cũng] đọc quá nhiều rồi, tâm chẳng thanh tịnh bèn sanh ra “tội nghiệt” (mầm mống tội chướng). Nếu tâm thanh tịnh, sẽ diệt tội, diệt chướng. Nói thật ra, đạo lý này hoàn toàn chẳng khó hiểu.
Chúng ta hãy suy nghĩ: Phải làm sao để tâm được thanh tịnh? Nói thật ra, niệm Phật khiến cho tâm ta có thể chuyên nhất, được thanh tịnh, thù thắng hơn hết thảy các pháp môn khác. Vẫn có những kẻ nói: “Niệm Phật luôn luôn là niệm một câu A Di Đà Phật, niệm lâu ngày sẽ không có ý nghĩa gì hết!” Kẻ ấy bèn giải đãi, chẳng muốn niệm nữa. Đấy là chưa hiểu rõ đạo lý! Chúng ta niệm Phật, tác dụng là ở chỗ nào? Tác dụng [của niệm Phật] là tâm thanh tịnh. Trong tâm chỉ cần vừa khởi ý niệm, bất luận thiện niệm hay ác niệm, chỉ cần có ý niệm, ta liền nhanh chóng thay nó bằng A Di Đà Phật, đó là đúng.
Đúng như cổ đức đã nói: “Bất phạ niệm khởi, chỉ phạ giác trì” (Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm). Giác là gì? Đổi thành A Di Đà Phật là giác. Chẳng niệm A Di Đà Phật thì đều là vọng tưởng, đều là vọng niệm. Không chỉ hết thảy các pháp trong thế gian này đều là vọng niệm, mà ngay cả trong Phật pháp cũng có rất nhiều vọng niệm. Chúng ta nhất định phải hiểu điều này. Do vậy, tác dụng của niệm Phật là không gì chẳng nhằm tiêu trừ vọng niệm mà thôi! Do vọng niệm chẳng ngừng, cho nên Phật hiệu chẳng thể gián đoạn. Hễ Phật hiệu gián đoạn, vọng niệm lại dấy lên.
(Diễn) Trí Luận trung tội tức thị chướng.
(演) 智論中罪即是障。
(Diễn: Theo Trí Độ Luận, tội tức là chướng).
Đại Trí Độ Luận viết: “Tội tức thị chướng”, [nghĩa là] tội chính là chướng.
(Diễn) Dĩ tội năng chướng đạo.
(演) 以罪能障道。
(Diễn: Vì tội có thể chướng ngại đạo).
“Đạo” là gì? Là nhất tâm. Quý vị phải nhớ điều này: Đạo là gì? Tâm thanh tịnh là đạo. Nhất tâm bất loạn là đạo. Tội có thể chướng ngại đạo! Tội nghiệp dấy lên, tâm sẽ chẳng thanh tịnh, tâm chẳng chuyên nhất.
(Diễn) Cố phục vân chướng dã.
(演) 故復云障也。
(Diễn: Cho nên lại nói là “chướng”).
Tội chính là chướng.
(Diễn) Thử niệm Phật nãi đắc diệt giả.
(演) 此念佛乃得滅者。
(Diễn: Chướng này do niệm Phật bèn được diệt trừ).
Đây là trích dẫn một đoạn văn trong Đại Trí Độ Luận; trước tiên, chúng tôi giới thiệu ý nghĩa của đoạn văn này. Ở đây, chẳng phải là kẻ tầm thường, mà là hàng Bồ Tát, “hữu chư Bồ Tát” (có các Bồ Tát), đương nhiên các vị Bồ Tát này chẳng phải là Ma Ha Tát, chẳng phải là đại Bồ Tát. Nói thông thường thì là các Bồ Tát thuộc địa vị Tam Hiền trong Biệt Giáo, hoặc Bồ Tát thuộc địa vị Thập Tín trong Viên Giáo. Bồ Tát tự suy nghĩ: Trong quá khứ, [chính mình đã] “báng Đại Bát Nhã, đọa ác đạo trung, lịch vô lượng kiếp, tuy tu dư hạnh, bất năng diệt tội” (hủy báng Đại Bát Nhã, đọa trong ác đạo, trải qua vô lượng kiếp, tuy tu các hạnh khác, nhưng chẳng thể diệt tội). Nếu tội diệt, người ấy sẽ kiến tánh. Sở dĩ hàng Bồ Tát thuộc địa vị Thập Tín chưa thể chứng nhập Sơ Trụ, hàng Bồ Tát thuộc địa vị Tam Hiền trong Biệt Giáo chưa thể đăng địa, nguyên nhân là ở chỗ này. Người niệm Phật chúng ta tuy niệm Phật, nhưng chưa thể chứng đắc Lý nhất tâm bất loạn thì cũng giống như vậy, có cùng một nguyên nhân! Lý nhất tâm bất loạn thì mới phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân. Đó là “tội diệt”. Nếu không, sẽ là chướng đạo, chướng ngại Lý nhất tâm bất loạn. Tu các pháp môn khác, không có cách nào thành tựu, chẳng thể diệt tội! Quý vị có thể đắc Định, vượt thoát tam giới, sanh tử, luân hồi, nhưng chưa thể kiến tánh, chưa thể phá vô minh. Nói cách khác, dẫu công phu tu tập tốt đẹp đến mấy đi nữa, bất quá cũng chỉ bằng với A La Hán, Bích Chi Phật; công phu đoạn chứng[80] đạt đến mức đó là cùng, kể như đã rất khá rồi!
Dùng phương pháp nào để có thể nhanh chóng diệt tội, trừ chướng, hòng minh tâm kiến tánh? Đại Trí Độ Luận cho biết: Sau này, những vị Bồ Tát ấy gặp thiện tri thức dạy họ niệm A Di Đà Phật. Quý vị phải biết: Phàm người nào có thể dạy quý vị niệm A Di Đà Phật, người ấy là chân thiện tri thức, chẳng giả tí nào. Ai dạy quý vị tu các pháp môn khác, chẳng thể coi người ấy là chân thiện tri thức được! Vì sao? Trong một đời này, quý vị chẳng thể thành tựu; dạy quý vị niệm A Di Đà Phật, quý vị quyết định có thể thành tựu trong một đời này. Đấy là thiện tri thức thật sự. Nhưng tuy gặp được thiện tri thức thật sự, thường là chính mình chẳng tin tưởng, vậy là không có cách nào hết! Phải tự trách chính mình thiện căn, phước đức, nhân duyên chưa đầy đủ. Kinh nói rất hay: Pháp môn này “chẳng thể dùng chút thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cõi ấy”. Nói cách khác, phàm là người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, ngay cả kẻ Hạ Phẩm Hạ Sanh, cũng đều là nhiều thiện căn, phước đức, nhân duyên. Nhân duyên là gặp được thiện hữu khuyên quý vị niệm Phật, quý vị chịu tiếp nhận, chịu tin tưởng, chịu y giáo phụng hành, đó là quý vị có nhiều thiện căn, lắm phước đức. Nếu chẳng tin tưởng, tức là chẳng có thiện căn, chẳng chịu niệm Phật; đấy là thiếu phước! Làm như vậy thì người ấy mới có thể diệt tội, diệt chướng, “siêu sanh Tịnh Độ”.
Quý vị đọc đoạn văn này trong Đại Trí Độ Luận, hãy quay lại, nghĩ xem kinh Hoa Nghiêm có bao giờ chẳng phải là như vậy hay không? Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, cũng là khuyên các vị Bồ Tát trong Hoa Tạng hải hội cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ. Văn Thù và Phổ Hiền là hai vị dẫn đầu. Hai vị đại Bồ Tát dẫn dắt [đại chúng phát nguyện] cầu sanh Tây Phương Cực Lạc, vì sao? Là để diệt tội, phá căn bản vô minh, chứng Vô Thượng Bồ Đề! Quý vị mới hiểu sự thù thắng của pháp môn này, thật sự là thù thắng khôn sánh! Trong hội Hoa Nghiêm, Văn Thù và Phổ Hiền chẳng khuyên các vị Bồ Tát tham Thiền, chưa hề thấy, chưa thấy Văn Thù và Phổ Hiền bảo mọi người hãy trì chú học Mật, chưa hề thấy! Chúng ta chỉ thấy Văn Thù và Phổ Hiền bảo mọi người hãy niệm Phật, chúng ta thấy điều này trong hội Hoa Nghiêm. Nếu quý vị chẳng tin tưởng niệm Phật thì không có cách nào hết! Đây chính là căn bản pháp luân của đức Phật, hiển thị cảnh giới thù thắng trang nghiêm như thế cho chúng ta thấy. Chúng ta thấy rồi phải giác ngộ. Thấy xong, phải nên chọn lựa pháp môn này, chớ nên lầm loạn! Trong chú giải, [có giải thích] vì sao Niệm Phật có thể diệt tội?
(Diễn) Bỉ Phật hữu bất tư nghị oai thần lực cố, bất tư nghị đại nguyện lực cố.
(演) 彼佛有不思議威神力故,不思議大願力故。
(Diễn: Vị Phật ấy có sức oai thần chẳng thể nghĩ bàn, có đại nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn).
Chữ “bỉ Phật” chỉ A Di Đà Phật. A Di Đà Phật nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn, trí huệ chẳng thể nghĩ bàn, thần thông chẳng thể nghĩ bàn, các thứ phương tiện thiện xảo đều chẳng thể nghĩ bàn. Vì vậy, Ngài có công đức thù thắng dường ấy.
(Diễn) Cố thử niệm A Di Đà Phật, tức Đại Bát Nhã.
(演) 故此念阿彌陀佛,即大般若。
(Diễn: Do điều này, niệm A Di Đà Phật chính là Đại Bát Nhã).
Người ấy trước kia hủy báng Bát Nhã, tạo nghiệp báng pháp ấy. Đã báng Pháp, đương nhiên sẽ báng Phật, vì Pháp do đức Phật nói. Không chỉ báng Phật, mà đồng thời cũng báng Tăng. Vì sao? Có không ít người chiếu theo pháp môn ấy để tu hành. Quý vị báng Pháp, đương nhiên cũng báng bổ những người tu hành [pháp môn ấy]. Do vậy, gọi là “hủy báng Tam Bảo”. Tội ấy hết sức nặng, dẫu chịu tội trong ác đạo đã mãn hạn, thoát ra, trong A Lại Da Thức tội nghiệp ấy vẫn chưa hoàn toàn tiêu sạch, chưa tẩy xóa hết. Dùng phương pháp Niệm Phật mới có thể đạt được thanh tịnh. “Niệm A Di Đà Phật, tức Đại Bát Nhã” (niệm A Di Đà Phật chính là Đại Bát Nhã). Nhìn từ ý nghĩa của danh hiệu, chúng ta thấy A Di Đà Phật là Vô Lượng Giác, Giác là Bát Nhã. Giác là không mê; hễ mê bèn có tội chướng. Giác ngộ rồi, tội chướng tiêu trừ. Vì vậy, chúng ta niệm Phật chính là tu pháp môn Đại Bát Nhã.
Thiền Tông Trung Quốc, đặc biệt là chi phái do ngài Đạt Ma truyền sang, hoàn toàn tu Bát Nhã Ba La Mật. Quý vị đọc Lục Tổ Đàn Kinh sẽ biết ngay. Tuy gọi là Thiền Tông, hoàn toàn chẳng phải là tu Thiền Định trong Lục Độ, mà là tu Bát Nhã Ba La Mật trong Lục Độ. Về sau, Lục Tổ hoàn toàn lấy kinh Kim Cang làm tông chỉ, lấy hai câu trong kinh Kim Cang: “Chẳng giữ lấy tướng, như như bất động” [làm tông chỉ]. Quý vị hãy nghĩ xem: Điều này có khác gì chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật hay không? Nhất tâm xưng niệm A Di Đà Phật, chẳng phải là tu Đại Bát Nhã thì là tu cái gì? So với Thiền Tông, còn thuận tiện hơn, còn thiện xảo hơn! Tiếp theo đó là nêu tỷ dụ:
(Diễn) Như nhân tùng địa đảo, hoàn tùng địa khởi dã, thử tật đắc giải thoát chi nhất chứng.
(演 ) 如人從地倒,還從地起也,此疾得解脫之一證。
(Diễn: Như người do đất mà ngã, vẫn phải từ đất mà đứng dậy. Đây chính là một chứng minh cho [điều khẳng định] “mau được giải thoát”).
Đây là chứng minh thứ nhất. Niệm Phật dễ dàng nhất, nhanh chóng đạt đến giải thoát nhất, vượt thoát lục đạo sanh tử luân hồi.
(Sớ) Hựu Thập Trụ Đoạn Kết Kinh vân: “Thị thời tọa trung, hữu tứ ức chúng, tự tri tử thử sanh bỉ, khiên liên bất đoạn, dục vi chi nguyên, nhạo sanh vô dục quốc độ, Phật ngôn: – Tây Phương khứ thử vô số quốc độ, hữu Phật danh Vô Lượng Thọ. Kỳ độ thanh tịnh, vô dâm, nộ, si, liên hoa hóa sanh, bất diêu phụ mẫu. Nhữ đương sanh bỉ”. Cố Đại Bổn vân: “Bồ Tát dục linh chúng sanh tốc tật an trụ Vô Thượng Bồ Đề giả, ưng đương khởi tinh tấn lực, thính thử pháp môn”.
(演) 又十住斷結經云 : 是時座中 , 有四億眾,自知死此生彼,牽連不斷,欲為之源,樂生無欲國土。佛言西方去此無數國土,有佛名無量壽,其土清淨,無淫怒痴,蓮華化生,不繇父母,汝當生彼。故大本云:菩薩欲令眾生速疾安住無上菩提者,應當起精進力,聽此法門。
(Sớ: Lại nữa, Thập Trụ Đoạn Kết Kinh chép: “Hiện diện [trong hội giảng kinh] khi ấy có bốn ức người tự biết chết đây, sanh kia, dây dưa chẳng dứt, mà dục là cội nguồn, [nên họ] thích sanh về cõi vô dục. Đức Phật dạy: ‘Ở phương Tây, cách đây vô số cõi nước, có vị Phật tên là Vô Lượng Thọ, cõi nước của Ngài thanh tịnh, không có dâm, giận, si, hóa sanh trong hoa sen, chẳng do cha mẹ [sanh ra], các ông nên sanh về đó’. Vì thế, kinh Đại Bổn nói: “Bồ Tát muốn làm cho chúng sanh mau chóng an trụ nơi Vô Thượng Bồ Đề, hãy nên dấy lên sức tinh tấn, nghe [ta giảng] pháp môn này”).
Đây là một đoạn kinh văn của Thập Trụ Đoạn Kết Kinh[81]. Bốn ức người đều là những vị đắc thần thông, đều có Túc Mạng Thông, đối với sanh tử luân hồi, quá khứ, hiện tại, vị lai, họ thấy rất rõ ràng, sự luân hồi ấy vĩnh viễn không ngừng nghỉ, do nguyên nhân nào tạo thành hiện tượng ấy? Tiếp đó, kinh văn chép: “Dục chi vi nguyên” (Dục là nguồn cội). Dục là Ngũ Dục: Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Trong kinh Phật thường nói: Tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ là năm cội rễ của địa ngục. Quý vị chỉ có một điều [trong những điều ấy], sẽ chẳng thể thoát luân hồi được! “Tử thử, sanh bỉ” (Chết đây, sanh kia) là nói về lục đạo luân hồi, chết trong đường này, sanh trong đường kia, chết trong đường kia, lại sanh vào đường khác, sanh sanh, tử tử vĩnh viễn chẳng xong, “khiên liên bất đoạn” (dây dưa không ngớt), cội nguồn là vì tham luyến Ngũ Dục.
Chúng ta lại nói tới những người tu đạo, Tiểu Thừa hay Đại Thừa đều không ra khỏi tam giới, vẫn luân hồi trong lục đạo là do nguyên nhân nào? Những người tu đạo ấy chẳng nhiễm Ngũ Dục Lục Trần thế gian, nhưng vì sao vẫn sanh tử luân hồi? Trong kinh, đức Phật có dạy: Lỗi lầm của họ là những sai trái về mặt kiến giải. Người thế gian có Ngũ Dục, đó là căn bản sanh tử. Người học Phật chẳng thể liễu sanh tử, thoát tam giới là do có kiến giải sai trái: Kiến Thủ Kiến và Giới Thủ Kiến. Quý vị cần phải biết, hai thứ kiến giải này thuộc về Kiến Hoặc. Kiến Hoặc chưa trừ thì người Tiểu Thừa chẳng thể chứng Sơ Quả, [tức là] chẳng thể chứng đắc quả Tu Đà Hoàn. Nếu nói theo phía Viên Giáo Đại Thừa, hàng Bồ Tát thuộc địa vị Sơ Tín đã đoạn Kiến Hoặc. Nói cách khác, [người chưa đoạn Kiến Hoặc] vẫn ở ngoài địa vị Thập Tín, chưa chứng đắc Sơ Tín.
Hai thứ kiến giải này: Giới Thủ Kiến là thành kiến nơi tu nhân;
Kiến Thủ Kiến là thành kiến nơi quả báo. Có những thành kiến ấy, nhất định sanh ra tranh chấp, nhất định có hủy báng, giống như các vị Bồ Tát được nhắc đến trong phần trên, vì sao họ hủy báng Bát Nhã? Là do có hai thứ sai lầm về kiến giải này. Kẻ tu Thiền hủy báng người học Giáo, kẻ học Hiển Giáo hủy báng người học Mật; kẻ học Mật hủy báng người học Hiển Giáo, cho rằng học Hiển Giáo chẳng thể thành công, tam mật gia trì “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay trong cái thân hiện đời). Họ tin họ sẽ tức thân thành Phật, đấy là Kiến Thủ Kiến. Họ tin chỉ có Mật Tông mới có thể thành tựu, những pháp môn khác đều chẳng thể thành tựu; đó là Giới Thủ Kiến. Chỉ cần có hai thứ kiến giải này tồn tại, chuyện gì cũng chẳng thể thành tựu, vẫn phải sanh tử luân hồi y như cũ, chuyện này phiền phức lắm! Do vậy, người học đạo phải trừ khử Kiến Hoặc, người không học đạo phải ly dục thì mới có thể vượt thoát sanh tử luân hồi. Chỉ cần có một thứ nào trong Dục và Kiến chưa buông xuống được, sẽ chẳng thể vượt thoát sanh tử luân hồi, chúng ta phải nên hiểu điều này!
Bốn ức người thông minh thấy chân tướng sự thật này, muốn sanh vào một cõi nước vô dục, có thể tìm một nơi nào không có Ngũ Dục lục trần, nơi ấy tốt lắm, chúng ta chẳng tạo tội nghiệp nữa. Họ có ý nghĩ ấy, đức Phật liền bảo họ: “Tây Phương khứ thử vô số quốc độ” (Ở Tây phương cách đây vô số cõi nước). Kinh Di Đà bảo là [cõi Cực Lạc cách Sa Bà] mười vạn ức cõi Phật. “Vô số” là một con số lớn, là một nơi khá xa xôi. Nơi ấy “hữu Phật danh Vô Lượng Thọ” (có Phật hiệu Vô Lượng Thọ), tức là A Di Đà Phật. “Kỳ độ thanh tịnh, vô dâm, nộ, si” (cõi ấy thanh tịnh, không có dâm, giận, si), chúng ta thường nói “dâm, nộ, si” là tham, sân, si. Chúng sanh nơi ấy không có Tam Độc, [tức là] không có tham, sân, si. Trong tâm chúng sanh không có tham, sân, si, quý vị nghĩ xem: Xã hội của họ thanh tịnh lắm! Tất cả hết thảy tội chướng đều sanh từ tham, sân, si; không có tham, sân, si thì trong xã hội ấy không có người tạo tội, không có kẻ làm ác. Do vậy, gọi là “chư thượng thiện nhân”. Không tham, sân, si là thiện, là thiện nhân, huống hồ lại theo A Di Đà Phật học Phật, nên gọi là “thượng thiện”. Bởi đó, Tây Phương Cực Lạc thế giới toàn là thượng thiện nhân.
“Liên hoa hóa sanh, bất diêu phụ mẫu” (hóa sanh trong hoa sen, chẳng do cha mẹ sanh thành): Chúng ta có được cái thân này thì cha mẹ là duyên. Không có cha mẹ làm Tăng Thượng Duyên, chúng ta chẳng thể có thân người. Thế giới Tây Phương không cần, thế giới Tây Phương là liên hoa hóa sanh. Chúng ta có cần vay mượn hoa sen hay chăng? Không cần! Chúng ta ở nơi đây sanh một niệm muốn cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, trong ao bảy báu nơi thế giới Cực Lạc liền trổ một đóa sen, tự tại lắm! Chẳng phải là mượn hoa sen của người khác để sanh vào cõi ấy, mà là hoa sen của chính mình. Khởi tâm động niệm ở nơi đây, trong ao bảy báu liền có hoa sen. Nếu quý vị tín tâm rất kiên cường, nguyện rất thiết tha, niệm rất siêng năng, hoa sen ấy ngày càng lớn, ánh sáng và màu sắc ngày một tốt đẹp. Nếu quý vị ngã lòng, hoặc đổi sang học pháp môn khác, chẳng niệm Phật nữa, mà tham Thiền, học Mật, hoa sen ấy sẽ dần dần chết khô, không còn nữa! Vì thế, liên hoa hóa sanh là hoa sen do cái tâm của chính mình biến hiện ra, chứ không do ai khác, mà cũng chẳng phải do A Di Đà Phật trồng đóa sen ấy ban cho quý vị. Chẳng phải vậy! Chân thật là “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”, là cảnh giới được biến hiện bởi tự tánh. Đức Phật khuyên họ “nhữ đương sanh bỉ” (các ông hãy nên sanh về đó), khuyên những người ấy vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đoạn kinh này trích từ Thập Trụ Đoạn Kết Kinh.
“Cố Đại Bổn vân” (vì thế, kinh Đại Bổn nói): Lại trích dẫn kinh. Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ chép: “Bồ Tát dục linh chúng sanh tốc tật an trụ Vô Thượng Bồ Đề giả” (Bồ Tát muốn cho chúng sanh mau chóng an trụ Vô Thượng Bồ Đề), Bồ Tát luôn đại từ đại bi phổ độ chúng sanh, mong chúng sanh ai nấy mau chóng thành tựu. Không chỉ muốn thành tựu, mà còn hy vọng họ có thể thành tựu viên mãn rốt ráo. Thành tựu viên mãn rốt ráo là Vô Thượng Bồ Đề. Phải như thế nào thì mới đạt được mục đích ấy? “Ưng đương khởi tinh tấn lực thính thử pháp môn” (Hãy nên dấy lên sức tinh tấn nghe pháp môn này). Ở đây đặc biệt chú trọng nơi nghe, vì sao? Nếu chẳng hiểu rõ ràng, thấu triệt lý luận, chẳng rõ phương pháp, chẳng nhận biết cảnh giới, quý vị chẳng tránh khỏi thoái chuyển nơi pháp môn này, quý vị thấy các cảnh giới khác cũng chẳng tránh khỏi động tâm, như vậy thì sẽ chẳng thể thành tựu nơi pháp môn này. Do vậy, nhất định phải hiểu rõ ràng lý luận, phương pháp, cảnh giới; sau đấy quý vị mới thật sự chịu chết sạch so đo, khăng khăng thâm nhập một môn, quyết định thành tựu trong một đời này!
(Diễn) Thập Trụ Đoạn Kết Kinh trung, tử thử sanh bỉ, giai nhân dục cố.
(演) 十住斷結經中,死此生彼,皆因欲故。
(Diễn: Trong kinh Thập Trụ Đoạn Kết có nói: Chết đây sanh kia đều vì lòng dục).
Đều vì Ngũ Dục Lục Trần.
(Diễn) Tây Phương vô dục, cố đốn siêu sanh tử, thử tật đắc giải thoát chi nhị chứng.
(演) 西方無欲,故頓超生死,此疾得解脫之二證。
(Diễn: Tây Phương không có dục, nên nhanh chóng vượt thoát sanh tử. Đây là chứng minh thứ hai cho sự giải thoát nhanh chóng).
Đây là chứng minh thứ hai.
(Diễn) Khởi tinh tấn lực thính thử pháp môn giả, thính pháp hữu tam: Nhĩ thính, tâm thính, cập ư thần thính.
(演) 起精進力聽此法門者 , 聽法有三 : 耳聽、心聽及於神聽。
(Diễn: “Dấy lên sức tinh tấn nghe pháp môn này”: Nghe pháp có ba loại: Nghe bằng tai, nghe bằng tâm thức, và nghe bằng chân tâm).
Tuy đều đang nghe, nhưng mỗi người sử dụng cái tâm khác nhau. “Nhĩ thính” là nghe như gió thoảng qua tai, nghe là nghe vậy, nghe xong rồi thôi, chẳng có ấn tượng gì, đó gọi là “nhĩ thính”. Người ấy chẳng nhớ, cũng chẳng liễu giải ý nghĩa, càng chẳng nói tới chuyện y giáo phụng hành. “Tâm thính” là thật sự dùng tâm, nghe xong có thể ghi nhớ, có thể tư duy những đạo lý đã được kinh nói tới, có thể thành tựu. Cuối cùng là “thần thính”.
(Diễn) Hạ sĩ nhĩ thính, như phong quá nhĩ, trung sĩ tâm thính, phả năng giải nghĩa, thượng sĩ thần thính, thâm ngộ Thật Tướng.
(演) 下士耳聽 , 如風過耳 ; 中士心聽,頗能解義;上士神聽,深悟實相。
(Diễn: Kẻ căn cơ bậc hạ nghe bằng tai, như gió thoảng qua tai, người căn cơ bậc trung chú tâm nghe, khá hiểu ý nghĩa; người căn cơ bậc thượng nhất tâm nghe, ngộ Thật Tướng sâu xa).
Kinh chú trọng nơi “thần thính”. Thần thính và tâm thính có khác
nhau hay chăng? “Tâm” là tâm ý thức, chúng ta thường nói “chú ý nghe”, tức là Ý Thức chuyên chú, nhằm bảo quý vị đừng “nghe tai nọ lọt qua tai kia”, đừng nghe như gió thoảng qua tai mà hãy chú ý! Bình thường khi chúng ta không chú ý, tai tuy cũng nghe, nhưng nghe không rõ ràng, đấy là điều đích xác. Khi tôi mới học Phật, lúc ấy còn đang đi làm, tôi ở tại Bắc Đầu, đến Đài Bắc nghe kinh phải ngồi xe lửa. Buổi tối trở về, thấy xe lửa còn nửa tiếng nữa mới tới, bèn ngồi chờ trên băng ghế dài ở phía sau ga xe lửa. Đường rầy ở ngay sau đó, cách một tấm ván, cửa sổ đều mở toang ra, nửa giờ hãy còn sớm mà! Chúng tôi mang theo kinh, đọc tại đó, chú ý xem kinh, chẳng chú ý nghe tiếng xe lửa. Xem kinh một chốc, nhìn thấy đã đến giờ rồi mà sao xe lửa vẫn chưa tới? Người trong ga bảo tôi: “Xe lửa vừa mới đến, lại chạy mất rồi!” Thế mà tôi không biết! Vì sao? Không chú ý! Tôi tin rằng các vị cũng đã từng gặp tình cảnh như vậy. Không chú ý! Không chú ý nhìn thì tuy có nhìn nhưng chẳng thấy rõ; chẳng chú ý nghe, tuy có nghe, âm thanh của xe lửa to như thế mà trọn chẳng nghe! “Tâm thính” chính là chú ý nghe.
“Thần thính” là gì? Thần thính là nhất tâm lắng nghe, càng tuyệt diệu hơn nữa! Tức là bỏ đi cái tâm ý thức, lìa tâm ý thức. Tham Thiền phải lìa tâm ý thức để tham, nghe kinh cũng lìa tâm ý thức để nghe. Như vậy là cao minh! Nếu quý vị biết nghe, nói thật ra, biết nói chẳng bằng biết nghe. Nói thật ra, có thể dùng nhất tâm để nghe, dù người nói là tốt hay xấu cũng chẳng sao cả! Nhưng nếu quý vị “tâm thính” (nghe bằng tâm ý thức), thì người nói là tốt hay xấu sẽ có ảnh hưởng rất lớn. Đấy là vì công phu của quý vị chưa đạt đến mức [đắc lực], nên cần có thiện tri thức giúp đỡ, làm Tăng Thượng Duyên cho quý vị. Nếu chính mình nhất tâm, cảnh giới bên ngoài chẳng quan trọng nữa! Vì sao? Quý vị nhất tâm nghe, nhất tâm là chân tâm. Quý vị sử dụng chân tâm. Trong cảnh giới, không gì chẳng phải là “trải qua sự việc để luyện tâm”. Luyện điều gì? Luyện sử dụng chân tâm. Như vậy thì mới có thể đắc Thật Tướng. “Thâm ngộ Thật Tướng” (ngộ Thật Tướng sâu xa). Nhà Thiền gọi [thâm ngộ] Thật Tướng là “kiến tánh, minh tâm kiến tánh”, Giáo Hạ nói “thâm ngộ Thật Tướng”, còn người niệm Phật gọi là “Lý nhất tâm bất loạn”, có thể chứng Lý nhất tâm bất loạn.
(Diễn) Kim ngôn tinh tấn thính pháp, thị bất dĩ duyên tâm thính pháp, dĩ thần thính dã.
(演) 今言精進聽法,是不以緣心聽法,以神聽也。
(Diễn: Nay nói “tinh tấn nghe pháp” thì chẳng phải là dùng cái tâm phan duyên để nghe pháp, mà là dùng nhất tâm để nghe).
“Duyên tâm” là thức thứ sáu, tức Ý Thức. Thức thứ sáu tức Ý Thức và thức thứ bảy (Mạt Na Thức) đều là “duyên tâm”, tức là cái tâm phan duyên (nắm níu): Dùng Ý Thức duyên theo Thanh Trần. Đây là nói rõ ba cách nghe!
Do đây, có thể biết rằng: Chẳng thấu triệt Giáo là không được! Thứ tự tu học trong những pháp môn khác nhất định phải là Tín, Giải, Hành, Chứng, chẳng thể lầm loạn! Thế nhưng pháp môn này đặc biệt; nếu quý vị tin tưởng, sẽ có thể gộp chung Giải và Hành, không cần phải [theo thứ tự] trước sau, chẳng có trước sau. Đấy là chỗ thuận tiện của pháp môn này. Ta một mặt niệm Phật, niệm Phật là Hành. Ta tin tưởng, ta muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, ta hằng ngày niệm A Di Đà Phật, đó là Hành. Một mặt Hành, một mặt cầu Giải, tức là Giải và Hành đồng thời. Những pháp môn khác là “Giải trước, Hành sau”. Nếu không, quý vị chẳng Giải mà Hành sẽ là “tu mù, luyện đui”. Nhất định phải Giải trước rồi mới hiểu cách Hành ra sao. Dưới đây là tỷ dụ:
(Sớ) Thị tri nghĩ sơn phong thủy, trì tật thiên thù.
(演) 是知蟻山風水,遲疾天殊。
(Sớ: Do vậy biết: Con kiến trèo lên núi và thuyền đã thuận gió lại còn thuận nước, nhanh hay chậm khác biệt một trời một vực).
“Nghĩ sơn”: Nghĩ (蟻) là con kiến. Giống như con kiến trèo lên núi, trèo rất chậm chạp. “Phong thủy” là nói tới chuyện giong thuyền. Chúng ta đi xa ngồi thuyền, thuyền buồm đã thuận gió, lại xuôi con nước, tốc độ hết sức nhanh chóng. Đây là tỷ dụ sự nhanh – chậm khác nhau. Nhanh và chậm sai khác một trời một vực, khác biệt quá lớn!
(Diễn) Nghĩ sơn phong thủy giả, Liên Tông Bảo Giám vân: “Dư môn học đạo, như nghĩ tử thượng ư cao sơn”.
(演) 蟻山風水者 , 蓮宗寶鑑云 : 餘門學道,如蟻子上於高山。
(Diễn: “Nghĩ sơn phong thủy”: Sách Liên Tông Bảo Giám viết: “Học đạo trong các môn khác, như con kiến trèo lên non cao”).
Tu học các pháp môn khác, tu học thành công sẽ chậm chạp, giống như con kiến trèo lên núi cao, phải rất lâu mới trèo tới nơi.
(Diễn) Niệm Phật vãng sanh, tự phong phàm dương ư thuận thủy.
(演) 念佛往生,似風帆揚於順水。
(Diễn: Niệm Phật vãng sanh giống như buồm căng gió, lướt theo con nước thuận).
Tốc độ hết sức nhanh chóng, rất nhanh chóng tới nơi. Cổ nhân có thơ rằng: “Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn” (Giang Lăng ngàn dặm một ngày về), tức là vừa thuận nước lại được thuận gió, một ngày có thể đi cả ngàn dặm. Trước kia, đó là tốc độ nhanh nhất.
(Sớ) Cổ vị dục đắc nhất sanh thủ biện, tiện ư thị pháp lưu tâm, thị danh tối thắng đệ tứ phương tiện.
(演) 古謂欲得一生取辦 , 便於是法留心 , 是名最勝第四方便。
(Sớ: Cổ nhân nói: “Muốn được thành tựu trong một đời thì phải lưu tâm nơi pháp này”. Đấy gọi là phương tiện tối thắng thứ tư).
Ở đây, chúng ta phải đặc biệt chú ý câu nói này. Nếu quý vị thật sự muốn thành tựu trong một đời này, “thủ biện” là thành tựu. “Tôi muốn đạt được, muốn lo liệu thỏa đáng” thì quý vị phải đặc biệt lưu ý phương pháp Tịnh Độ Niệm Phật này, chớ nên coi thường bỏ qua. Học các pháp môn khác, quả thật không được! Nếu quý vị không tin, hãy quan sát kỹ càng, tạm thời chúng ta không hỏi đến cổ nhân, hãy xem những người có thành tựu trong hiện tại, họ tu pháp môn nào? Pháp sư Quảng Khâm thuở trẻ tham Thiền, vì sao Ngài không nêu gương nơi Thiền? Thiền không xong! Về sau Ngài vẫn phải quay lại chuyên tu Tịnh Độ, niệm A Di Đà Phật thì mới thành công. Đây là một trường hợp bày ra ngay trước mặt chúng ta gần đây nhất.
Lại nói đến thầy Lý ở Đài Trung, năm nay cụ đã chín mươi tám tuổi, năm ba mươi mốt tuổi cụ bắt đầu học Phật. Khi ấy, cụ ở Trung Quốc Đại Lục, thân cận không ít thiện tri thức. Ngài tham Thiền tám năm, được Thiền sư nổi danh ở Đại Lục chỉ dạy mà chẳng khai ngộ. Sau đấy, Ngài lại học Mật, theo học với các vị Hô Đồ Khắc Đồ[82] Tây Tạng và Mông Cổ, chúng ta thường gọi họ là Hoạt Phật (Phật sống). Học Mật tám năm, cụ từng bảo chúng tôi: Cụ học hơn hai trăm pháp môn, học những thứ ấy quả thật hết sức nghiêm túc, lũ chúng ta chắc chắn chẳng thể sánh bằng. Học Mật tám năm chẳng tương ứng! Khi ở chung với các đồng học chúng tôi, trong Mật Tông có bài chú Ẩn Thân, cụ học chú ấy, cũng niệm tới mười vạn biến, chiếu theo phương pháp ấy tu tập. Cụ niệm chú ấy một lượt, hỏi chúng tôi còn thấy cụ hay không? Chúng tôi vẫn trông thấy cụ, [thần chú] chẳng linh rồi! Không có cách nào hết! Cụ cũng học Giáo mười mấy năm, những vị thầy chỉ dạy cụ đều là những nhà Phật học lừng lẫy thời đầu Dân Quốc. Cụ học Duy Thức với cụ Mai Quang Hy[83], thân cận rất nhiều thiện tri thức, nhưng đều chẳng thông suốt! Lãng phí thời gian nhiều năm, mà thuở ấy chính là thời đại hoàng kim [trong đời cụ], lúc tuổi còn trẻ. Cuối cùng, cụ gặp được pháp sư Ấn Quang, đúng là cứu mạng. Pháp sư Ấn Quang dạy cụ thật thà niệm A Di Đà Phật, cụ được thành tựu hoàn toàn do niệm Phật. Từ đấy trở đi, cụ bỏ sạch những pháp môn đã học, chuyên niệm A Di Đà Phật. Đấy cũng là nêu gương cho chúng ta trong hiện tại!
Cụ tự nói cụ “sanh tử tự tại”, đương nhiên chẳng phải là gạt người. Nếu lừa dối người khác tức là đại vọng ngữ. Cụ học Phật kiền thành như thế, tuyệt đối chẳng thể phạm đại vọng ngữ, trên giảng đài, cụ công khai nói với mọi người: Cụ muốn đi lúc nào sẽ ra đi lúc ấy. Muốn ở lại bao nhiêu năm sẽ ở lại đời bấy nhiêu năm. Thành tựu vì đâu? Do niệm Phật mà thành tựu! Lũ học trò chúng ta nghe thầy nói lời này, hy vọng thầy trụ thế thêm vài năm nữa. Làm thế nào để giữ cụ trụ thế lâu hơn? Cụ trụ thế để giảng kinh, chẳng giảng kinh sẽ không trụ thế. Do vậy, các đồng học thương lượng, khi ấy chúng tôi có tám người, đề xướng, tôi là một trong số đó, thỉnh cụ giảng kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm giảng chưa xong, chắc là cụ sẽ chẳng tiện ra đi. Dùng cách này để giữ thầy nhiều năm nữa. Ngài thành tựu ước chừng năm bảy mươi mấy tuổi, thành tựu vào lúc ấy, sanh tử tự tại. Khi tôi theo học với lão nhân gia, cụ đã bảy mươi tuổi.
Do đây, có thể biết: Pháp môn Niệm Phật đúng là thành tựu trong một đời, điều này chẳng giả! Nếu quý vị chẳng tin, quý vị đã bỏ lỡ cơ hội trong một đời này. Đời này bỏ lỡ, mong có cơ hội này lần nữa trong tương lai chẳng dễ dàng đâu nhé! Vì thế, chính quý vị phải khéo phản tỉnh, sau khi chấm dứt một đời này, ta còn có thể được làm thân người trong đời sau hay chăng? Đó là một vấn đề lớn! Dẫu đời sau được làm thân người, Phật giáo hiện thời đã rối loạn dường ấy, quý vị có thể gặp được một vị thiện tri thức chỉ dạy quý vị pháp môn Tịnh Độ hay chăng? Dẫu có thể gặp gỡ, quý vị có chịu tin tưởng hay không? Quý vị có tiếp nhận hay không? Những câu hỏi lớn này đều là ẩn số, nghĩ đến [những điều ấy], quả thật đáng sợ lắm! Nếu muốn thành tựu, chắc chắn chẳng thể đợi đến đời sau, kiếp sau; nhất định phải thành công trong một đời này.
Nghe kinh không gì chẳng nhằm đoạn nghi sanh tín mà thôi! Nếu quý vị chẳng ngờ vực pháp môn này, thật sự sanh khởi tín tâm, kiên định, nghe kinh hay không nghe cũng không sao. Thật sự có thể thành công là do một câu A Di Đà Phật, bốn chữ thôi, đơn giản lắm! Do không buông xuống được, nên mới nghe kinh, không ngừng un đúc, dần dần thông hiểu đạo lý, thấy rốt ráo nên hay không nên buông xuống, vấn đề là như vậy đó! Do vậy, nhất định phải giác ngộ, phải cảnh giác, phải sốt sắng niệm. Đó là nhân duyên thứ hai. Lại xem điều thứ ba.
(Huyền Nghĩa) Tam, khích dương sanh tử phàm phu linh khởi hân yếm giả.
(玄義) 三、激揚生死凡夫令起欣厭者。
(Huyền Nghĩa: Ba là kích động hàng phàm phu sanh tử dấy lòng ưa chán).
Đây là lý do thứ ba khiến đức Phật nói bộ kinh Di Đà này. “Khích” (激) là khích động, Dương (揚) có nghĩa là cổ vũ, khích lệ. Khích động, cổ vũ bọn phàm phu sanh tử chúng ta biết chán lìa thế giới Sa Bà cực khổ, sanh lòng hâm mộ cõi Tây Phương thù thắng trang nghiêm. Vì thế, đức Phật nói ra pháp môn này.
(Huyền Nghĩa) Dĩ chư chúng sanh trầm mê tự tánh.
(玄義) 以諸眾生沈迷自性。
(Huyền Nghĩa: Do các chúng sanh trầm luân, mê mất tự tánh).
“Trầm” là trầm luân, “mê” là mê mất.
(Huyền Nghĩa) Cam thọ luân hồi, khoáng kiếp chí kim, tằng vô tỉnh lệ.
(玄義) 甘受輪迴,曠劫至今,曾無省勵。
(Huyền Nghĩa: Cam chịu luân hồi, từ bao kiếp đến nay, chưa từng tỉnh ngộ, gắng sức).
“Tỉnh” là phản tỉnh, “lệ” là cố gắng.
(Huyền Nghĩa) Cố thị khổ lạc lưỡng độ, viên khai Chiết Nhiếp nhị môn, khích chi dương chi, tỉ hân tỉ yếm, thắng tâm ký phát, tịnh nghiệp tư thành.
(玄義) 故示苦樂兩土 , 爰開折攝二門 , 激之揚之,俾欣俾厭,勝心既發,淨業斯成。
(Huyền Nghĩa: Vì thế, chỉ bày hai cõi khổ vui, bèn mở hai môn Chiết -Nhiếp, khích động, cổ vũ, khiến cho [chúng sanh] vui mừng, chán nhàm. Tâm thù thắng đã phát, Tịnh nghiệp bởi đó được thành tựu).
Lời văn không nhiều, nhưng ý nghĩa hết sức phong phú!
(Diễn) Khích dương sanh tử phàm phu giả, sanh nhi tử, tử nhi sanh.
(演) 激揚生死凡夫者,生而死,死而生。
(Diễn: “Khích động, cổ vũ hàng phàm phu sanh tử”: Sống rồi chết, chết rồi sống).
Đây là nói về sanh tử luân hồi, nói tới hiện tượng sanh tử nhọc nhằn.
(Diễn) Vạn kiếp thiên sanh, vô hữu cùng dĩ, cố danh sanh tử phàm phu.
(演) 萬劫千生,無有窮已,故名生死凡夫。
(Diễn: Muôn kiếp vạn đời chẳng có cùng tận, nên gọi là “sanh tử phàm phu”).
Trong kinh Phật thường nói “sanh tử bì lao” (sống chết mệt mỏi, nhọc nhằn), chẳng ngưng nghỉ, hết sức khổ. Kinh Địa Tạng nói người chết chưa đầy bốn mươi chín ngày lại đầu thai, đầu thai xong lại sanh, già, bệnh, chết. Chết rồi lại sanh, già, bệnh, chết, vĩnh viễn luân hồi chẳng ngưng nghỉ. Chỉ cần chẳng thoát khỏi luân hồi, nói chung, quý vị phải ghi nhớ: Sanh tử luân hồi mỗi lúc càng tệ hơn, đời sau chẳng bằng đời trước, đời sau khổ hơn đời trước. Vì sao biết? Chúng ta cũng chẳng cần nghĩ đến đời quá khứ, cũng chẳng cần suy xét đời vị lai, mà hãy suy nghĩ một đời này, quý vị sẽ hiểu ngay chân tướng sự thật ấy. Trong một đời, chúng ta khởi tâm động niệm đãi người tiếp vật là thiện nhiều hay ác nhiều? Nếu trong một đời khởi lên nhiều ác niệm, thấy lắm kẻ gai mắt, ít kẻ hợp nhãn, thiện niệm ít, đương nhiên quả báo đời sau sẽ là ác nhiều hơn thiện, khổ nhiều hơn vui, nhất định là như vậy! Hiện tại tạo tác cái nhân ra sao, đời sau sẽ mắc quả báo như thế ấy. Chúng ta từ vô lượng kiếp mãi cho đến nay, đời sau kém đời trước, chất chồng lại! Chúng ta cảm thấy đời này khổ sở, nếu chẳng thoát luân hồi, đời sau còn khổ hơn đời này, chỉ có một bề khổ sở hơn! Tuyệt đối chẳng có chuyện khổ mãi, đến cuối cùng sẽ được vui sướng, không có chuyện ấy đâu nhé! Sung sướng đến tột bậc sẽ biến thành đau thương, nhưng đau thương tột bậc chẳng sanh ra vui sướng, phải hiểu đạo lý này! Vì thế, chẳng thoát luân hồi, đúng là không thể [chịu đựng] được!
(Diễn) Khích giả, khích lệ.
(演) 激者,激勵。
(Diễn: “Khích” là khích lệ).
Kích thích, phát khởi chúng ta.
(Diễn) Linh nhân khởi yếm.
(演) 令人起厭。
(Diễn: Khiến cho con người sanh lòng chán ngán).
Biết thế giới này đáng sợ. Nỗi sợ hãi trong thế giới chẳng phải là vì hoàn cảnh hiện thời đáng sợ, mà là sanh tử đáng sợ. Đấy là nỗi sợ hãi “hễ luân hồi trong thế gian này thì đời sau tệ hơn đời trước!”
(Diễn) Dương giả, cổ dương, linh nhân khởi hãn.
(演) 揚者,鼓揚,令人起忻。
(Diễn: Dương là cổ vũ, tán dương, khiến cho con người dấy lòng hớn hở).
[Chữ “dương”] mang ý nghĩa cổ vũ, khích lệ.
(Diễn) Trầm mê tự tánh giả, mê giả, hôn mê, trầm giả, mê chi cực dã. Tự tánh, tức chú trung bình đẳng pháp môn.
(演) 沈迷自性者 , 迷者 , 昏迷;沈者,迷之極也。自性,即註中平等法門。
(Diễn: “Trầm mê tự tánh”: “Mê” là hôn mê, “trầm” là mê đến tột cùng. Tự tánh chính là pháp môn bình đẳng được nhắc tới trong lời chú giải).
Quý vị phải hiểu: Tâm bình đẳng là tự tánh. Hễ là người tu học Đại Thừa thì đều phải phát Bồ Đề tâm. Theo như Đại Thừa Khởi Tín Luận đã nói, Bồ Đề tâm thứ nhất là trực tâm. Đây chính là bản thể của Bồ Đề tâm. Thâm tâm và đại bi tâm đều là tác dụng của Bồ Đề tâm. Có Thể, có Dụng. Thông thường, đối với những danh từ này, chúng ta xem xong [cảm thấy] rất khó thấu hiểu! Do vậy, trong các buổi giảng, chúng tôi thường nói phương tiện, dùng cách nói hiện thời để nói thì trực tâm là gì? Chính là tâm bình đẳng. Tâm bình đẳng là trực tâm. Thâm tâm là gì? Tâm thanh tịnh là thâm tâm. Đại bi tâm là tâm từ bi. Có thể đồng cảm với hết thảy chúng sanh, thương xót hết thảy chúng sanh, đó là đại bi tâm. Vì thế, đại bi tâm là tha thụ dụng của bình đẳng tâm, dùng để đãi người tiếp vật; còn tâm bình đẳng để chính mình hưởng thụ thanh tịnh, nhất tâm bất loạn. Do vậy, tâm bình đẳng là Thể.
Trong hết thảy cảnh giới, chúng ta đều thấy là bất bình đẳng. Tâm bất bình đẳng là vọng tâm. Bất bình đẳng chính là tâm phàm phu. Tâm bình đẳng là tâm Phật. Chúng ta đã học Phật, phải tu cái tâm bình đẳng trong hết thảy cảnh giới bất bình đẳng. Tu hành thì quý vị tu cái hạnh gì? Trong tâm hạnh của chúng ta có những lầm lạc thì phải sửa đổi, đó gọi là tu hành. Tâm vốn là bình đẳng, nay nó bất bình đẳng thì bất bình đẳng là sai lầm. Nếu có thể hồi quang phản chiếu để khôi phục sự bình đẳng, đó gọi là “chân tu hành”. Dốc sức nơi nội tâm, đó là chân tu, tu bình đẳng nơi chỗ hết sức bất bình đẳng. Vì thế, tu học Phật pháp phải thực hiện từ nơi đâu? Nơi oán thân bình đẳng. Oán thân là một điều vô cùng bất bình đẳng, tu bình đẳng ở ngay nơi bất bình đẳng nhất. Đó là một phương pháp tốt đẹp!
“Trầm mê tự tánh”: Hiện thời mê mất cái vốn sẵn bình đẳng, biến thành bất bình đẳng; trong hết thảy các pháp, sanh tâm cao thấp, khởi tâm động niệm phân biệt, chấp trước, đấy là trầm luân, mê muội đến tột cùng. Vì lẽ nào bị mê mất? Ở đây cũng có mấy câu giảng giải rõ ràng:
(Diễn) Do tối sơ nhất niệm vô minh, sanh khởi lục thô tam tế, toại tánh tâm thất chân, điên đảo hành sự, luân hồi thị trung, tự thủ lưu chuyển dã.
(演) 由最初一念無明 , 生起六粗三細 。 遂性心失真,顛倒行事,輪迴是中,自取流轉也。
(Diễn: Do một niệm vô minh lúc thoạt đầu mà sanh khởi sáu tướng thô, ba tướng tế, cho nên tánh tâm mất đi sự chân thật, làm việc điên đảo, luân hồi ở trong ấy, tự mình giữ lấy sự lưu chuyển).
Luân hồi sanh tử trong lục đạo do chính mình tạo ra, do chính mình tạo tác, chính mình chịu khổ ở trong ấy. Tự làm, tự chịu. Đây là nói về cảnh giới hiện tiền của chúng ta và chân tướng của cuộc sống trong hiện tại.
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật giảng cho chúng ta bộ kinh này, chỉ dạy chúng ta:
(Diễn) Thị khổ lạc lưỡng độ giả, vị Lạc Bang chi dữ khổ vực.
(演) 示苦樂兩土者,謂樂邦之與苦域。
(Diễn: “Chỉ bày hai cõi khổ vui”: Nói tới Lạc Bang và cõi khổ sở).
Chữ “Lạc Bang” chỉ Tây Phương Cực Lạc thế giới; chữ “khổ vực” chỉ thế giới Sa Bà hiện tiền của chúng ta.
(Diễn) Kim bảo chi dữ nê sa.
(演) 金寶之與泥沙。
(Diễn: Vàng, chất báu và bùn, cát).
Nói về hoàn cảnh. Tây Phương Cực Lạc thế giới là bảy báu, còn đất ở cõi này là bùn, đất, cát, đá, chẳng thể sánh bằng. Đường sá của chúng ta trải nhựa đường, còn đường của người ta lát bằng vàng ròng. Thật sự nghĩ đến điều này, những thứ châu báu hoàng kim của quý vị sẽ đều bỏ hết, vì sao? Đến thế giới Cực Lạc, khó thể chấp nhận! Đó là những thứ người ta dùng để lót đường, quý vị quấn lên cổ mang sang đó sẽ cảm thấy rất khó coi. Những thứ đó người ta dùng làm vật liệu xây dựng, là miếng gạch, hòn ngói, quý vị giắt đầy trên thân, rất khó coi! Câu này nhằm nói hai thế giới khác nhau, sự thụ dụng về mặt vật chất khác nhau.
(Diễn) Thai ngục chi vọng hoa trì.
(演) 胎獄之望華池。
(Diễn: Trong thai ngục ngóng về ao hoa).
Đây là nói về chỗ để sanh ra. Đầu thai vào thế giới này, mẹ mang thai mười tháng. Ở trong bào thai như trong địa ngục, khổ chẳng thể nói nổi! Chỗ để sanh về trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là hoa sen trong ao bảy báu, làm sao có thể sánh bằng được?
(Diễn) Cức lâm chi tỷ quỳnh thụ.
(演) 棘林之比瓊樹。
(Diễn: So sánh rừng gai góc với cây quỳnh).
“Cức lâm”: Cức (棘) là “kinh cức” (荊棘:gai góc), [“cức lâm”] là rừng cây có gai. “Cức lâm” là nói về thế giới này của chúng ta. Chúng ta đi vào rừng cây ấy, chỗ nào cũng đều có thể gặp nguy hiểm. Bảy hàng cây trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều do bảy báu hợp thành, tuyệt đối an toàn; điều này cũng chẳng thể sánh bằng.
(Diễn) Thành do tâm phân cấu tịnh, kiến lưỡng độ chi thăng trầm dã.
(演) 誠由心分垢淨,見兩土之升沈也。
(Diễn: Thật sự là do tâm chia ra nhơ và sạch, nên thấy có sự thăng trầm nơi hai cõi).
Vì sao thế giới này khác hẳn? Thưa quý vị, cảnh chuyển theo tâm đấy! Do vậy, kinh Hoa Nghiêm mới dạy chúng ta: “Tình dữ vô tình, đồng viên Chủng Trí” (Hữu tình và vô tình cùng viên thành Nhất Thiết Chủng Trí). Chẳng phải là cảnh giới chuyển tâm, mà là tâm chuyển cảnh giới! Nếu quý vị thật sự biết “tâm chuyển cảnh giới” thì còn có Phong Thủy hay chăng? Hiện thời chúng ta nói đến Địa Lý, Phong Thủy, có đấy! Từ đâu mà có? Do cái tâm biến hiện ra. Tâm chuyển Phong Thủy, chứ không phải là Phong Thủy có thể chuyển biến chúng ta. Phong Thủy chuyển chúng ta thì chúng ta đáng thương quá! Vật do chính mình biến hiện, mà kết quả chính mình lại bị nó trói buộc, giống như con tằm kéo kén để tự nhốt mình trong ấy, còn có gì ngu si hơn nữa? Thật sự hiểu rõ đạo lý này, còn có Phong Thủy hay không? Có! Quả thật có! Nhưng chúng ta có cần phải kiếm [một nơi] có Phong Thủy và Địa Lý tốt đẹp hay chăng? Không cần thiết! Tu từ cái tâm của quý vị! Tâm quý vị tốt đẹp, quý vị đi đến chỗ nào, Phong Thủy sẽ chuyển theo tâm quý vị. Quý vị đến ngồi nơi chỗ Phong Thủy xấu, hai ngày sau nó sẽ chuyển biến thành tốt đẹp! Nếu tâm quý vị không tốt, tìm một chỗ Phong Thủy tốt, quý vị ở đó chưa đầy hai ngày nó đã chuyển thành xấu. Phong Thủy chuyển theo tâm của quý vị mà!
Đại hoàn cảnh do cộng nghiệp của chúng sanh cảm thành. Trong đại hoàn cảnh, tâm địa của đại đa số con người trong thế giới này không thanh tịnh, đều là phàm phu, cho nên mới có cõi khổ, bùn, cát, rừng gai. Tâm địa của con người nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới thanh tịnh, chẳng có tham, sân, si! Tâm địa ai nấy đều thiện lương, vì ai nấy đều phát Bồ Đề tâm. Chẳng phát Bồ Đề tâm, sẽ chẳng thể vãng sanh thế giới Tây Phương.
Thế giới Tây Phương là Đại Thừa Phật pháp, nhất định phải phát Bồ Đề tâm [mới có thể vãng sanh]. Vì lẽ đó, người trong thế giới Tây Phương ai nấy đều thanh tịnh, chân thành, từ bi; bởi vậy, hoàn cảnh vật chất do cộng nghiệp cảm thành cũng hết sức thù thắng. Đấy là do tâm phân cấu – tịnh mà hai thế giới khác nhau.
(Diễn) Khai Chiết – Nhiếp nhị môn giả.
(演) 開折攝二門者。
(Diễn: “Mở hai môn Chiết và Nhiếp” là…)
“Khai” là khai khải (開啟: mở ra, khơi gợi), đức Phật khai thị cho chúng ta.
(Diễn) Chúng sanh đam luyến Sa Bà, Phật tắc cực ngôn Sa Bà chi khổ dĩ chiết phục chi.
(演) 眾生耽戀娑婆,佛則極言娑婆之苦以折伏之。
(Diễn: Chúng sanh say đắm, quyến luyến Sa Bà, đức Phật bèn cực lực nêu ra nỗi khổ trong Sa Bà để chiết phục).
Chúng sanh đang khổ mà chẳng biết khổ, vẫn chẳng nỡ lìa, vẫn lưu luyến, vẫn không buông xuống được! Khổ như vậy mà họ trọn chẳng buông xuống, còn có cách nào nữa đây? Do vậy, đức Phật chẳng thể không đem từng nỗi khổ nói cho họ nghe, hòng khiến họ giác ngộ!
(Diễn) Chúng sanh võng tri Tịnh Độ.
(演) 眾生罔知淨土
(Diễn: Chúng sanh chẳng biết Tịnh Độ).
“Võng” là không hay biết, chẳng biết Tây Phương có Cực Lạc Tịnh Độ; vì thế, đức Phật giới thiệu cho chúng ta.
(Diễn) Phật tắc cực ngôn Tịnh Độ chi lạc dĩ nhiếp thọ chi.
(演) 佛則極言淨土之樂以攝受之。
(Diễn: Đức Phật bèn cực lực giảng về niềm vui nơi cõi Tịnh Độ để nhiếp thọ họ).
Chuyện này chỉ nên tin tưởng vào Thánh Ngôn Lượng của Phật. Dựa vào đâu mà ta có thể tin tưởng Phật? Dựa vào sự kiện đức Phật chẳng vọng ngữ. Vọng ngữ là đại giới của chư Phật, chắc chắn Phật chẳng lừa dối chúng ta. Đức Phật nói câu nào cũng đều chân thật, giống như kinh Kim Cang có nói: “Phật thị chân ngữ giả” (Đức Phật là bậc nói lời chân thật), “chân” là chẳng giả; “thật ngữ giả”, “thật” là chẳng hư dối; “như ngữ giả”, “như” là nhất định giống hệt với sự việc, không tăng, không giảm, nói đúng sự việc, sự việc đúng như lời nói; “bất vọng ngữ giả, bất cuống ngữ giả” (là bậc chẳng nói láo, chẳng nói gạt gẫm). Chúng ta phải tin tưởng. Không tin lời Phật thì thật sự là ngu si! Chúng ta hãy suy nghĩ thêm, đức Phật chẳng thể lừa dối chúng ta. Phàm là kẻ dối gạt người khác, hắn nhất định có mong cầu, nhất định có mục đích, đức Phật cầu mong điều gì nơi chúng ta? Đức Phật mong chúng ta cúng dường, mong chúng ta lạy lục Ngài ư? Không có đạo lý ấy! Ngài chẳng mong cầu gì hết! Đức Phật chẳng mong cầu điều gì nơi chúng ta, nên chẳng có lý do gì để lừa gạt chúng ta! Vì thế, Ngài nói ra câu nào cũng tốt lành cho chúng ta, nói toàn lời chân thật.
(Diễn) Thị ư niệm Phật nhất pháp, cụ Chiết Nhiếp nhị môn dã.
(演) 是於念佛一法,具折攝二門也。
(Diễn: Trong một pháp niệm Phật có đủ cả hai môn Chiết và Nhiếp).
Nói về pháp môn Niệm Phật thì Chiết là muốn cho chúng ta cảnh giác, lìa khỏi chuyện khổ tột bậc này. “Nhiếp” (攝) là nhiếp thọ, làm cho chúng ta hâm mộ cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Câu này nhằm giải thích câu “viên khai Chiết Nhiếp nhị môn, khích chi, dương chi” (bèn mở hai môn Chiết và Nhiếp để khích động, cổ vũ) [trong lời Sớ], mong mỏi chúng ta sẽ ưa thích Cực Lạc, chán ngán Sa Bà.
“Thắng tâm ký phát” (tâm thù thắng đã phát), “thắng” là thù thắng. “Thắng tâm” là gì?
(Diễn) Thắng tâm, vị dũng mãnh tâm, tinh tấn tâm.
(演) 勝心,謂勇猛心、精進心。
(Diễn: Tâm thù thắng là tâm dũng mãnh, tâm tinh tấn).
Đấy là “thắng tâm”.
(Diễn) Tịnh nghiệp sở dĩ bất đắc thành tựu, giai do du du dương dương, tâm bất mãnh lợi nhĩ.
(演) 淨業所以不得成就 , 皆由悠悠揚揚 , 心不猛利耳。
(Diễn: Sở dĩ Tịnh nghiệp chẳng thành tựu đều là vì cái tâm lần chần, do dự, chẳng mạnh mẽ, quả quyết vậy).
Nguyên nhân là ở chỗ này. Vì sao chẳng thể thành tựu? Nay chúng ta nói là hờ hững, thờ ơ. Như vậy là không được rồi! Chẳng thể thành công, nhất định phải sốt sắng. Khi Thích Ca Mâu Ni thị hiện thành đạo dưới cội Bồ Đề, Ngài cũng hạ quyết tâm: Chẳng chứng Bồ Đề, sẽ chẳng bằng lòng đứng lên. Ngồi dưới gốc cây, nguyện thà chịu chết cũng chẳng đứng dậy! Ngài có quyết tâm như thế, nên mới thành công. Xưa kia có nhiều vị đại đức phát tâm niệm Phật, đóng cửa nhất tâm niệm A Di Đà Phật, chẳng thành công sẽ không mở cửa. Nghị lực quyết tâm như thế mới có thành tựu. Từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Vãng Sanh Truyện, chúng ta thấy rất nhiều [trường hợp như vậy], thông thường là bao nhiêu ngày? Quá nửa là bảy ngày thành công. Ngày nay chúng ta không có quyết tâm ấy!
“Tấn”, phải tinh tấn. “Tinh” là chẳng có mảy may xen tạp, tức là phải thật sự buông xuống vạn duyên. Chẳng những hết thảy pháp thế gian phải buông xuống, chẳng có mảy may vướng mắc nào, mà Phật pháp cũng phải buông xuống! Ngàn kinh vạn luận, vô lượng pháp môn thảy đều buông xuống, một câu A Di Đà Phật niệm đến tột cùng, như vậy thì mới có thể thành công.
(Diễn) Quả năng nhất nhật dụng lực, phát đại dũng mãnh, phát đại tinh tấn, công phu vô bất thành tựu.
(演) 果能一日用力 , 發大勇猛 , 發大精進,工夫無不成就。
(Diễn: Nếu có thể dùng sức trong một ngày, phát đại dũng mãnh, phát đại tinh tấn, không ai chẳng thành tựu công phu).
Tương lai, khi giảng đến phần kinh văn “nhất tâm bất loạn” sẽ có một đoạn chú giải rất dài để thảo luận vấn đề này. Người lợi căn một ngày bèn thành công, kẻ tội chướng oan nghiệt dẫu nặng đến đâu đi nữa, kẻ Ngũ Nghịch, Thập Ác, bảy ngày cũng có thể thành công. Vì thế, kinh đã định kỳ hạn cho chúng ta “hoặc một ngày, cho đến bảy ngày”, bảy ngày là tội nặng nhất, tức Ngũ Nghịch, Thập Ác. Theo Đại Trí Độ Luận đã dẫn trong phần trước, quý vị tạo tội nghiệp, tu các pháp môn khác trải qua vô lượng kiếp, tội vẫn chưa diệt hết, nhưng pháp môn này trong bảy ngày có thể diệt tội, được vãng sanh. Sách Tây Quy Trực Chỉ trong bộ An Sĩ Toàn Thư đã nêu ra rất nhiều trường hợp.
Tình hình cổ nhân niệm Phật vãng sanh có nhiều vị biết chính mình tội lỗi oan nghiệt sâu nặng, đóng cửa, giống như “dũng mãnh, tinh tấn” đang được nhắc tới ở nơi đây. Niệm dăm ba ngày liền cảm được A Di Đà Phật hiện đến, tự tại vãng sanh. Do vậy, niệm Phật phải tuân theo cách niệm như vậy.
(Diễn) Cố vân thắng tâm ký phát, Tịnh nghiệp tư thành.
(演) 故云勝心既發,淨業斯成。
(Diễn: Cho nên nói: “Tâm thù thắng đã phát, Tịnh nghiệp nhờ đấy mà thành”).
Tâm này thù thắng nhất! “Tịnh nghiệp tư thành” vãng sanh Tịnh Độ, quý vị đã thành công, đã gặp A Di Đà Phật. Sự thù thắng sau khi đã vãng sanh càng chẳng cần phải nói nữa. Chúng ta phải nhớ kỹ! Vì thế, làm chuyện khác, tốn hao tinh thần, thời gian như thế, nói thật ra là lãng phí, đáng tiếc quá! Vì sao chẳng chuyên tu pháp môn Niệm Phật? Hôm nay chúng tôi giảng đến chỗ này.