A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA
QUYỂN 3 – Tập 61-66
Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong
— o0o —
Tập 61
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang tám mươi mốt.
(Sớ) Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới Kinh vân: “Bồ Tát liễu tri chư Phật, cập nhất thiết pháp, giai duy tâm lượng, đắc Tùy Thuận Nhẫn, hoặc nhập Sơ Địa, xả thân tốc sanh Diệu Hỷ thế giới, Cực Lạc Tịnh Phật độ trung”.
(疏) 如來不思議境界經云 : 菩薩了知諸佛 , 及一切法,皆唯心量,得隨順忍,或入初地,捨身速生妙喜世界,極樂淨佛土中。
(Sớ: Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh Giới Kinh chép: “Bồ Tát biết rõ chư Phật và hết thảy pháp đều chỉ là tâm lượng, đắc Tùy Thuận Nhẫn, hoặc nhập Sơ Địa, xả thân sẽ mau chóng sanh vào thế giới Diệu Hỷ, cõi Phật thanh tịnh Cực Lạc”).
Ở chỗ này, đại sư trích dẫn kinh để chứng minh: “Bồ Tát liễu tri chư Phật, cập nhất thiết pháp, giai duy tâm lượng” (Bồ Tát biết rõ chư Phật và hết thảy pháp đều chỉ là tâm lượng). Câu này được sách Diễn Nghĩa chú giải [trong phần sau]. “Thật sự liễu tri”, thông thường chúng ta nói có hai loại: Một là giải ngộ, hai là chứng ngộ; liễu tri thuộc về chứng ngộ, cảnh giới này do người ấy đích thân chứng đắc. Cảnh giới của bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo hay Sơ Địa trong Biệt Giáo trở lên là cảnh giới Hiện Lượng, chứ không phải Tỷ Lượng[1]. Kinh điển Đại Thừa thù thắng hơn kinh Tiểu Thừa rất nhiều, trong kinh điển Tiểu Thừa có những Sự và Lý đức Phật không bàn đến, cho nên người Tiểu Thừa không hiểu. Trong kinh Tiểu Thừa, đức Phật chỉ nói thức thứ sáu, còn thức thứ bảy và thức thứ tám thì chỉ trong Đại Thừa Phật pháp, đức Phật mới thường nói đến. Chúng ta đọc tụng kinh điển Đại Thừa hiểu rõ những đạo lý ấy, chúng ta cũng tin tưởng. Khi chúng ta còn chưa chứng đắc cảnh giới ấy thì gọi là “giải ngộ”, tức là chúng ta lý giải. Giải ngộ cũng có ích rất lớn, vì sao? Những điều ấy là phương hướng dẫn dắt chúng ta tu hành. Thanh Lương đại sư chia kinh Hoa Nghiêm thành bốn khoa: Tín, Giải, Hành, Chứng. Đủ thấy trong kinh Hoa Nghiêm, “ngộ” trong phần Giải thuộc về giải ngộ, cho đến phẩm Nhập Pháp Giới, nay chúng ta gọi là Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm, thì mới là chứng ngộ, chẳng phải là giải ngộ. Do điều này có thể biết: Giải cũng chẳng dễ dàng! Liễu giải rồi tu hành sẽ thuận tiện rất lớn.
(Diễn) Liễu tri Phật pháp giai duy tâm lượng giả, ngộ nhất thiết pháp.
(疏) 了知佛法皆唯心量者,悟一切法。
(Diễn: “Liễu tri Phật pháp đều chỉ là tâm lượng”: Ngộ hết thảy pháp).
“Ngộ” là giải ngộ.
(Diễn) Giai tự tâm hiện lượng dã.
(疏) 皆自心現量也。
(Diễn: Đều là tự tâm hiện lượng).
Đều là tâm lượng của chính mình.
(Diễn) Đắc Tùy Thuận Nhẫn giả.
(疏) 得隨順忍者。
(Diễn: Đắc Tùy Thuận Nhẫn là…)
Tốt đẹp ở chỗ này! Chúng ta ở trong hết thảy các pháp, tức là nói tới hết thảy Phật và pháp, chữ Phật tượng trưng cho mười pháp giới, tức hữu tình thế giới, dùng một chữ Phật làm đại diện, còn “pháp” là y báo, tức hoàn cảnh vật chất. Nay chúng ta gọi [y báo] là thực vật, động vật và các hiện tượng tự nhiên v.v… Tùy Thuận Nhẫn là đối với hết thảy hoàn cảnh nhân sự (quan hệ giữa người và người) và hoàn cảnh vật chất đều có thể tùy thuận, ở trong ấy chẳng khởi phân biệt, chấp trước, cũng chẳng khởi vọng tưởng thì tu hành mới hòng đắc lực, mới có thể vận dụng công phu. Nếu trong hết thảy các pháp chẳng thể Tùy Thuận Nhẫn, sẽ gặp nhiều chướng ngại ngăn trở cái tâm thanh tịnh của quý vị. Vì thế, Tùy Thuận Nhẫn hết sức trọng yếu. Điều kiện tiên quyết của Tùy Thuận Nhẫn là quý vị phải liễu tri vạn pháp “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, đạo lý là như vậy đó! Tận hư không trọn pháp giới đều là chính mình. Trừ chính mình ra, không có một pháp nào, pháp nào cũng đều là “tự tâm sở hiện, tự tâm sở biến”.
Kinh Đại Thừa thường nói: “Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có tâm”, nhất định phải hiểu đạo lý này. Có như vậy thì mới có thể chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, mới có thể chứng đắc Lý nhất tâm bất loạn. Cùng niệm Phật như nhau, cùng đắc nhất tâm như nhau, vậy thì Lý nhất tâm và Sự nhất tâm khác nhau ở chỗ nào? Ở ngay chỗ này! Một đằng hiểu sâu xa Lý này, một đằng là nghi hoặc Lý này, hoặc là về căn bản chẳng thể tiếp nhận. Dẫu người ấy niệm đến mức nhất tâm, chỉ gọi là Sự nhất tâm. Sự nhất tâm là khuất phục phiền não, rất khổ! Lý nhất tâm bèn chuyển biến phiền não, tự nhiên [phiền não] không còn nữa, bèn đắc tự tại!
(Diễn) Duy tâm diệu lý, tùy thuận nhẫn khả.
(疏) 唯心妙理,隨順忍可。
(Diễn: Tùy thuận, chấp nhận diệu lý duy tâm).
Chỗ mầu nhiệm của tâm, bản thể của hết thảy vạn pháp là Lý, [thường gọi là] Lý Thể. Lý Thể chính là tâm, tâm là bản thể của hết thảy các pháp. “Tùy thuận nhẫn khả”: “Nhẫn khả” có nghĩa là đồng ý, thừa nhận, lời Phật đã nói chúng con thừa nhận, chúng con tin tưởng, chúng con chẳng hoài nghi, đó gọi là “nhẫn khả”. “Nhẫn khả” (忍可) và “nhận khả” (認可) có cùng ý nghĩa.
(Diễn) Thử Tam Hiền vị.
(疏) 此三賢位。
(Diễn: Đối với điều này, các vị Bồ Tát thuộc địa vị Tam Hiền).
Các vị Bồ Tát thuộc địa vị Tam Hiền trong Biệt Giáo chẳng chứng nhập!
(Diễn) Tỷ Quán tương ứng, hoặc nhập Sơ Địa, tắc Hiện Quán tương ứng hỹ.
(疏) 比觀相應,或入初地,則現觀相應矣。
(Diễn: Tương ứng với Tỷ Quán. Nếu nhập Sơ Địa sẽ tương ứng với Hiện Quán).
Địa vị Tam Hiền thuộc về Tỷ Lượng Tương Ứng. Đức Phật nói chân tướng sự thật, bản thân họ chưa chứng đắc, bèn dùng lý trí để suy đoán: Đạo lý ấy có thể thừa nhận được, cho nên [sự giải ngộ của họ] thuộc về Tỷ Lượng. “Tỷ Quán tương ứng” chính là quán sát bằng Tỷ Lượng. Hiện thời, các vị đồng tu cũng dùng phương thức này, nhưng hiện thời chúng ta còn chưa đạt đến địa vị Tam Hiền. Đạt đến địa vị Tam Hiền vẫn là cảnh giới Tỷ Lượng. “Nhập Sơ Địa” sẽ khác hẳn, Sơ Địa là cảnh giới Hiện Lượng, “tắc Hiện Quán tương ứng” (tương ứng với cảnh giới quán sát bằng Hiện Lượng), nghĩa là vị ấy đã hoàn toàn nhập cảnh giới [Hiện Lượng] này, hoàn toàn chứng thực, khi ấy chính mình thật sự thụ dụng. Phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm là cảnh giới Hiện Lượng của Sơ Địa, tương ứng với Hiện Quán.
Trong lời Sớ có câu “xả thân tốc sanh Diệu Hỷ thế giới, Cực Lạc tịnh Phật độ trung”, đó là nói về Sơ Địa, do Tùy Thuận Nhẫn mà nhập Sơ Địa; điều này cũng ban cho chúng ta một khải thị rất lớn: Chúng ta muốn nhập Sơ Địa, nhất định phải tu Tùy Thuận Nhẫn! Nói cách khác, chúng ta muốn niệm Phật đạt đến Lý nhất tâm bất loạn thì phải tu Tùy Thuận Nhẫn. Trong Tùy Thuận Nhẫn, trí huệ và Thiền Định tràn trề. Nhẫn là Thiền Định, Tùy Thuận là trí huệ. Không có trí huệ, sẽ chẳng có cách nào tùy thuận! Danh từ Tùy Thuận Nhẫn có nghĩa là Định Huệ Song Tu, như vậy thì mới chứng đắc Sơ Địa, là Lý nhất tâm bất loạn. “Xả thân tốc sanh Diệu Hỷ thế giới, Cực Lạc tịnh Phật độ trung” là nói về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Bậc Sơ Địa trong thế giới này vãng sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm, cho nên gọi là “Diệu Hỷ thế giới”.
Sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm, chẳng phải là cõi Phàm Thánh Đồng Cư và Phương Tiện Hữu Dư, chẳng khác gì bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong kinh Hoa Nghiêm, có cùng một cảnh giới. Tiếp theo đó là dẫn chứng…
(Sớ) Cố Long Thọ dĩ Sơ Địa vãng sanh, Ma Sai Mạt dĩ đắc Nhẫn vãng sanh. Chí như Văn Thù Phổ Hiền đẳng chư đại Bồ Tát, phát nguyện vãng sanh, mạc khả thắng số, huống sơ tâm hồ?
(疏) 故龍樹以初地往生 , 摩差末以得忍往生 , 至如文殊普賢等諸大菩薩,發願往生,莫可勝數,況初心乎。
(Sớ: Vì thế, ngài Long Thọ do Sơ Địa mà vãng sanh, ngài Ma Sai Mạt do đắc Nhẫn mà vãng sanh, cho đến các vị đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền v.v… còn phát nguyện vãng sanh chẳng thể kể xiết, huống là hàng sơ tâm ư?)
Đây là nêu lên những tấm gương nhằm khuyến khích, cổ vũ chúng ta. Long Thọ Bồ Tát (Nāgārjuna) đã chứng đắc Sơ Địa, Ma Sai Mạt Bồ Tát đã chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Sơ Địa có thể tạm gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn, chứ nói nghiêm ngặt thì Thất Địa Bồ Tát mới chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Ở đây, xét theo cấu trúc của kinh văn, phải hiểu [ngài Ma Sai Mạt] là Thất Địa. Sau Sơ Địa và Thất Địa [nêu danh tính của bậc Bồ Tát] Đẳng Giác, mỗi tầng một cao hơn, những vị ấy ai nấy đều phát nguyện vãng sanh. Chúng ta là Sơ Phát Tâm, cớ sao chẳng cầu vãng sanh? Nói rườm lời như thế, quan trọng là câu này: Huống là kẻ Sơ Phát Tâm ư?
(Diễn) Long Thọ Sơ Địa vãng sanh giả.
(疏) 龍樹初地往生者。
(Diễn: Ngài Long Thọ thuộc địa vị Sơ Địa vãng sanh).
Đây cũng là lời dự ký của đức Thế Tôn.
(Diễn) Phật vân: “Nam Thiên Trúc quốc trung, đại danh đức tỳ-kheo, quyết hiệu vi Long Thọ, năng phá hữu vô tông, thế gian trung hiển ngã, vô thượng Đại Thừa pháp, đắc Sơ Hoan Hỷ Địa, vãng sanh An Lạc sát”.
(疏) 佛云 :南天竺國中 ,大名德比丘 , 厥號為龍樹,能破有無宗,世間中顯我,無上大乘法,得初歡喜地,往生安樂剎。
(Diễn: Đức Phật nói: “Trong cõi Nam Thiên Trúc có bậc tỳ-kheo danh lẫn đức cao vời, danh hiệu là Long Thọ, có thể phá các tông Hữu và Vô, hiển thị pháp Đại Thừa vô thượng của ta trong thế gian, đắc Sơ Hoan Hỷ Địa, vãng sanh cõi An Lạc).
“An Lạc sát” là Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đây là lời dự ký (tiên đoán, thọ ký trước) của Thích Ca Mâu Ni Phật trong khi Ngài giảng kinh vào thuở ấy. Ngài Long Thọ xuất hiện sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật đã diệt độ sáu trăm năm, cũng là một vị đại sư lỗi lạc thuở đó, Đại Thừa Phật pháp nhờ Ngài mà được hưng khởi. Vị này là người thông minh tuyệt đỉnh trong thế gian, chẳng những thông đạt kinh sách của hết thảy ngoại đạo trong thế gian, mà kinh sách nhà Phật trong thế gian Ngài cũng đã đọc hết. Pháp thế gian và Phật pháp không gì chẳng thông đạt. Do vậy, chính Ngài khởi tâm ngạo nghễ, ngã mạn, nghĩ mình là bậc nhất trong thế giới này, không có ai hơn được, tâm ngạo mạn dấy lên. Vị Bồ Tát này chuyển thế tái lai, bị mê khi cách ấm, tuy mê không nặng lắm, nhưng vẫn là mê! Tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay chẳng dễ gì đoạn sạch.
Khi ấy, Đại Long Bồ Tát thấy ngài Long Thọ ngạo mạn dường ấy, hết sức thương xót, đến hóa độ, dẫn Ngài xuống thăm long cung. Kinh Hoa Nghiêm do Long Thọ Bồ Tát lấy ra từ long cung, thuở ấy [kinh Hoa Nghiêm] chưa lưu thông trong thế gian. Đại Long Bồ Tát bảo Ngài: “Còn có rất nhiều thứ ông chưa từng xem qua”. Ngài nghe xong, đương nhiên chẳng phục. “Ông không phục thì tôi dẫn ông đi xem”. Long Thọ Bồ Tát thấy cung rồng tàng trữ kinh Hoa Nghiêm, chẳng thể không cúi đầu. Thấy Đại Bổn Hoa Nghiêm Kinh, đừng nói đến nội dung, trước hết hãy nói về sự phong phú của tạng kinh, kinh này có “mười tam thiên đại thiên thế giới vi trần số kệ”. Nay chúng ta gọi mỗi một đại thiên thế giới là “tam thiên đại thiên thế giới”, giống như Ngân Hà Hệ (Milky Way, Galaxy) do các nhà Thiên Văn Học hiện tại đã nói. Đem tất cả tinh cầu trong Ngân Hà Hệ nghiền thành vi trần, mỗi một vi trần tính như một bài kệ[2], [một bài kệ] gồm bốn câu! Không phải là một Ngân Hà Hệ, mà là mười Ngân Hà Hệ. Phân lượng của bộ kinh này lớn ngần ấy. Do vậy, khuân Đại Bổn Hoa Nghiêm Kinh về chỗ chúng ta, toàn thể địa cầu không có cách gì chứa đựng được! Có một tứ thiên hạ vi trần số phẩm, Long Thọ Bồ Tát vừa nhìn, ngơ ngẩn! Do vậy, mới năm vóc gieo sát đất bội phục Đại Thừa Phật pháp.
Chắc chắn Ngài chẳng thể thọ trì Đại Bổn Hoa Nghiêm được! Lại xem Trung Bổn, Ngài có thể thọ trì Trung Bổn, nhưng chúng sanh trong Diêm Phù Đề chẳng thể thọ trì, số lượng quá nhiều. Do vậy, lại xem đến Hạ Bổn, Hạ Bổn giống như cương yếu của kinh Hoa Nghiêm, có tổng cộng mười vạn kệ, bốn mươi phẩm. Ngài nói bản này sử dụng được, có thể mang về Diêm Phù Đề. Mang về bằng cách nào? Bồ Tát thật phi phàm. Ngài xem bộ kinh này từ đầu đến cuối xong liền có thể đọc thuộc, tức là mang kinh ra khỏi [long cung] bằng cách đọc thuộc lòng. Vì thế, hiện thời có rất nhiều người chẳng thừa nhận kinh Hoa Nghiêm là do đức Phật nói, mà nghĩ là do Long Thọ Bồ Tát tạo ra. Thật ra, kinh này do Long Thọ Bồ Tát mang từ cung rồng về nhân gian. Hiện thời, kinh này truyền sang Trung Quốc chỉ được một nửa, chúng ta bảo là lược bản của kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm được truyền sang Trung Quốc và phiên dịch vào đời Đông Tấn[3], gồm ba vạn sáu ngàn bài tụng.
Vào đời Đường, ngài Thật Xoa Nan Đà (Śiksānanda) đến Trung Quốc, mang theo kinh Hoa Nghiêm, lại dịch thành bản mới, gồm bốn vạn năm ngàn bài tụng, phân lượng tăng thêm chín ngàn bài tụng so với lần dịch trước. Do vậy, kinh Hoa Nghiêm tuy chưa hoàn chỉnh, nhưng có thể thấy được ý tưởng chính. Đến niên hiệu Trinh Nguyên (785-805), quốc vương xứ Ô Đồ (Odra) tấn cống Trung Quốc, trong lễ vật có phẩm cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm, tức là Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm, đây là bản hoàn chỉnh của phẩm này, tổng cộng bốn mươi quyển. Trong bộ Hoa Nghiêm tám mươi quyển, phẩm Nhập Pháp Giới chính là phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhưng chỉ gồm hai mươi mốt quyển. Vì thế, bản Tứ Thập Hoa Nghiêm gần như gấp đôi [phẩm Nhập Pháp Giới]. Bởi lẽ đó, bản Hoa Nghiêm Kinh bằng tiếng Hán chỉ là một nửa của nguyên bản [bằng Phạn văn]. Trừ bản tiếng Hán, Phạn bản [của kinh Hoa Nghiêm] đã không còn tồn tại trong thế gian này. Nghe nói Phạn bản của Tứ Thập Hoa Nghiêm vẫn còn, chứ Phạn bản của Bát Thập Hoa Nghiêm đã không còn nữa. Vì thế, bản dịch tiếng Hán của kinh Hoa Nghiêm là một bộ kinh điển hết sức quý báu.
Long Thọ Bồ Tát là tổ chung của tám tông. Tám tông phái Đại Thừa của Phật giáo Trung Quốc đều công nhận Long Thọ Bồ Tát là tổ sư đời thứ nhất[4]. Tám tông phái đều lưu xuất từ Ngài. Vì thế, có thể gọi Ngài là Sơ Tổ của Đại Thừa Phật pháp. Tại Trung Quốc, Ngài là một người hết sức bất phàm, Sơ Địa Bồ Tát! Đức Phật dự ký sáu trăm năm sau sẽ có một vị Bồ Tát xuất hiện trong thế gian, Ngài vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
(Diễn) Ma Sai Mạt đắc Nhẫn vãng sanh giả, Bồ Tát Sanh Địa Kinh vân: “Thời Ma Sai Mạt đắc Bất Khởi Pháp Nhẫn, ngũ bách thanh tín sĩ nữ giai đắc Bất Thoái Chuyển địa, thọ chung câu sanh Vô Lượng Thọ Phật quốc”. Dĩ thượng chứng Tam Hiền, Sơ Địa vãng sanh dã.
(疏) 摩差末得忍往生者 , 菩薩生地經云 : 時摩差末得不起法忍,五百清信士女皆得不退轉地,壽終俱生無量壽佛國。已上證三賢初地往生也。
(Diễn: “Ma Sai Mạt đắc Nhẫn vãng sanh”: Bồ Tát Sanh Địa
Kinh[5] chép: “Khi ấy, Ma Sai Mạt đắc Bất Khởi Pháp Nhẫn, năm trăm thanh tín sĩ và thanh tín nữ đều đắc địa vị Bất Thoái Chuyển, khi hết tuổi thọ đều sanh vào cõi Vô Lượng Thọ Phật”. Những điều trên đây chứng tỏ các vị Bồ Tát thuộc Tam Hiền và Sơ Địa đều vãng sanh).
Trong phần trên đã nói về Tam Hiền, đây là “liễu tri chư Phật cập nhất thiết pháp, giai duy tâm lượng, đắc Tùy Thuận Nhẫn”.
(Diễn) Chí như Văn Thù Phổ Hiền đẳng, tắc Đẳng Giác Bồ Tát, diệc dục vãng sanh, như Hoa Nghiêm kệ trung thuyết.
(疏) 至如文殊普賢等 , 則等覺菩薩 ,亦欲往生 ,如華嚴偈中說。
(Diễn: Còn như Văn Thù, Phổ Hiền v.v… là Đẳng Giác Bồ Tát, cũng muốn vãng sanh, như trong bài kệ của kinh Hoa Nghiêm đã có nói).
Bài kệ phát nguyện vãng sanh của các Ngài, chúng ta có thể đọc trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện[6] của kinh Hoa Nghiêm. Đại sư trích dẫn những đoạn kinh văn này nhằm khuyến khích chúng ta: Chúng ta là kẻ sơ phát tâm, mục tiêu nhất định phải gắn chắc nơi Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trừ Tây Phương Cực Lạc thế giới ra, quả thật chẳng dễ gì thành tựu, nhưng tu pháp môn thế giới Tây Phương, đích xác là không gì hơn niệm Phật. Phương pháp Niệm Phật này đúng như Ngẫu Ích đại sư đã nói: “Thẳng chóng nhất, ổn thỏa thích đáng nhất, viên đốn nhất, đơn giản, dễ dàng nhất”, chắc chắn chẳng trở ngại công việc. Quý vị muốn niệm Phật hiệu tốt đẹp thì phải tuân thủ hai điều kiện:
1) Điều kiện thứ nhất là đừng gián đoạn. Quý vị vừa nghe nói “chẳng gián đoạn” bèn hoảng sợ. Nếu tôi làm việc, trong khi làm việc chẳng thể niệm Phật, nhất định phải bị gián đoạn. Đấy chẳng phải là gián đoạn, mà là nói công khóa sáng tối của quý vị đừng gián đoạn. Quý vị tự xét hoàn cảnh của chính mình, đừng miễn cưỡng, đừng ham cao, chuộng xa. Mỗi ngày ấn định công khóa cho nhiều, tự chuốc lấy phiền! Người công việc bận bịu, khóa sáng khóa tối niệm mười tiếng Phật hiệu, dùng phương pháp Thập Niệm. Chẳng gián đoạn là vì tôi mỗi ngày sáng tối đều mười niệm, suốt cả đời chẳng gián đoạn một ngày nào, đó gọi là “chẳng gián đoạn”, quý vị phải hiểu ý nghĩa này! Đừng coi thường cách Thập Niệm này, nó sẽ dưỡng thành thói quen niệm Phật cho quý vị. Bình thường là tán niệm: Không có chuyện gì bèn niệm, có chuyện thì không cần phải niệm, quý vị làm việc thì cứ làm. Do vậy, học Phật đừng học một cách cứng ngắc, phải hiểu đạo lý này!
Nếu là người thanh nhàn một chút, bèn ước định niệm Phật hiệu nhiều một chút, hoặc là một trăm câu, xâu chuỗi một trăm lẻ tám hạt, quý vị niệm một chuỗi, hoặc là niệm ba trăm câu, năm trăm câu, một ngàn câu, tùy mình ấn định. Đến mai sau, tuổi đã cao, đã nghỉ hưu không có chuyện gì, khi ấy hãy ấn định niệm một vạn tiếng, hai vạn tiếng sẽ có thể được, vì sao? Chẳng cần phải làm chuyện gì! Hiện tại tuổi trẻ, còn có công việc, gia đình, con cái. Nếu quý vị mỗi ngày niệm mười vạn tiếng, chuyện gì quý vị cũng chẳng làm, cả nhà quý vị chẳng cần ăn cơm, đâu có thể nào như vậy được! Quý vị nhất định phải hiểu đạo lý này. Chúng ta niệm Phật phải tăng thêm dần dần, chẳng thể ấn định hôm nay niệm một vạn câu, niệm đến nỗi thở cũng không nổi, mà công chuyện cũng không có cách gì làm được! Ngày mai lại xin Bồ Tát cho nghỉ, con niệm năm ngàn câu, hôm sau nữa niệm ba ngàn câu. Đó là thoái chuyển, không thể chấp nhận được! Thà chỉ mười niệm, quý vị niệm mấy năm trở thành thói quen, dần dần tăng thêm, đó là tướng tinh tấn, chẳng bị thoái chuyển. Thà bắt đầu niệm ít, càng ít càng hay, phải dụng công như thế.
2) Điều kiện thứ hai là chẳng xen tạp. Điều này hết sức quan trọng. Không chỉ hết thảy các tạp sự thế gian chẳng được xen lẫn vào, mà hết thảy Phật pháp xuất thế gian cũng đừng xen tạp vào đó. Do vậy, người niệm Phật phải đọc kinh; thật ra, đọc kinh cũng là niệm Phật, ức Phật, niệm Phật. Quý vị đọc kinh là nghĩ đến Phật, toàn bộ kinh văn từ đầu đến cuối đều nói về Phật, giảng những lý luận, phương pháp, cảnh giới, nghĩ đến Phật, đọc kinh cũng là niệm Phật. Chúng ta đọc kinh nào? Trừ những kinh Tịnh Độ ra, tốt nhất là đừng niệm [những kinh khác], mà cũng đừng nghe. Vì sao? Chẳng xen tạp, điều này rất quan trọng! Có không ít người, kinh gì cũng xem, đi khắp nơi nghe. Tôi thưa cùng quý vị: “Không thể học theo cách đó được!” Người thật sự có thể đến các nơi tham học thì người ta nghe là nghe vậy, một câu A Di Đà Phật chẳng bị ảnh hưởng, như vậy là đúng, như vậy thì được! Nếu chúng ta nghe họ nói mà bị ảnh hưởng, nghe xong cảm thấy pháp khác cũng khá lắm, cũng muốn học thử xem, hỏng bét rồi! Không chỉ công phu niệm Phật của quý vị bị xen tạp những thứ ấy vào, mà nhất tâm cũng chẳng đạt được. Không chỉ chẳng đắc nhất tâm, mà công phu thành phiến cũng khó thành. Vì thế, bảo là chớ nên!
Khi nào bản thân chúng ta như như bất động thì được, thứ gì cũng đều có thể xem, thứ gì cũng đều có thể nghe, chẳng bị trở ngại. Chưa đạt đến công phu ấy thì không nên! Thật sự đạt đến “chẳng chấp lấy tướng, như như bất động” như kinh Kim Cang đã dạy, khi ấy, bất luận ai giảng kinh cũng đều nên đi nghe, vì sao? Làm ảnh hưởng chúng. Bởi lẽ, giảng đường đông người thì trang nghiêm! Người ngoài thấy giảng đường đông người như vậy, họ cũng ngồi xuống nghe thử, tạo ảnh hưởng đến người khác. Nếu vị pháp sư giảng kinh trong giảng đường này chỉ có dăm ba người nghe, người bên ngoài đến nơi đây thấy vậy họ cũng chẳng muốn đến nghe. Khi chúng ta còn chưa đủ tư cách làm ảnh hưởng chúng thì phải tránh né cảnh giới bên ngoài quấy nhiễu chính mình. Vì thế, trước hết phải cầu nhất tâm bất loạn, trước hết cầu công phu thành phiến, đặt vững cơ sở vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, điều này khẩn yếu hơn bất cứ điều gì khác. Ở chỗ này, Bồ Tát khuyến khích chúng ta.
(Sớ) Vĩnh Minh vị dục thác chất liên đài, vĩnh ly thai tạng, sanh Cực Lạc đẳng chư Phật quốc độ du hý thần thông giả, giai năng liễu đạt tự tâm, vô bất hóa vãng.
(疏) 永明謂欲託質蓮臺 , 永離胎藏 , 生極樂等諸佛國土遊戲神通者,皆能了達自心,無不化往。
(Sớ: Ngài Vĩnh Minh nói: “Người muốn gởi thân nơi đài sen, vĩnh viễn rời khỏi thai tạng, sanh về các cõi Phật giống như cõi Cực Lạc, du hý thần thông, thảy đều có thể liễu đạt tự tâm, không cõi nào mà chẳng hóa thân đến đó”).
Mấy câu này dẫn lời khai thị của Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư. Ngài là tổ sư đời thứ sáu của Tịnh Độ Tông, nói mấy câu này đơn giản, dễ hiểu. “Dục”: Chúng ta có ham muốn, hy vọng được “thác chất liên đài”, tức là người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới hóa sanh trong hoa sen. Vì thế, gọi là “liên đài”. “Vĩnh ly thai tạng”: Thai tạng là thai sanh (sanh trong bào thai) như trong thế gian của chúng ta, thai sanh khổ lắm! Thế giới Tây Phương là hóa sanh, không có nỗi khổ thai ngục. “Sanh Cực Lạc đẳng chư Phật quốc độ”: [Sanh vào] các cõi Phật giống như Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Du hý thần thông”: Câu này hình dung cuộc sống tự tại của người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chúng ta thường mong mỏi cuộc sống Chân Thiện Mỹ, trên thực tế, trong thế giới này chỉ có danh từ Chân Thiện Mỹ, trọn chẳng có Chân Thiện Mỹ thật sự; nhưng Tây Phương Cực Lạc thế giới quả thật là cuộc sống Chân Thiện Mỹ Huệ. Quý vị mong đạt được dục vọng ấy, giống như họ, thì phải biết “liễu đạt tự tâm”. Câu này tương ứng với câu “Bồ Tát liễu tri chư Phật và hết thảy pháp đều chỉ là tâm lượng” trong phần trước.
Kinh Hoa Nghiêm có một bài kệ: “Nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Nếu ai muốn biết rõ, ba đời hết thảy Phật, nên quán tánh pháp giới, hết thảy do tâm tạo). Bài kệ này có cùng một ý nghĩa với những điều đang được nói ở đây. “Nên quán tánh của pháp giới” thì “tánh” là thể tánh, Triết Học gọi tánh ấy là “bản thể”, [tánh] chính là bản thể của hết thảy pháp. “Tạo” có nghĩa là hiện hay biến. “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, đó gọi là “nhất thiết duy tâm tạo”. Đây là cảnh giới Hiện Lượng của chư Phật Như Lai. Thường đọc tụng bài kệ này, niệm cho thật thuần thục, quan niệm về cảnh giới của chính mình sẽ bất tri bất giác chuyển biến, nó có tác dụng ấy, tức là biến đổi nhân sinh quan và vũ trụ quan của chúng ta.
Thật sự hiểu rõ thông đạt hết thảy các pháp đều do tự tâm biến hiện ra, há có lẽ nào chẳng thể đến cõi nước của chư Phật trong mười phương ư? Không đâu chẳng hóa thân đến được. Chuyện này chẳng khó! Cõi nước của chư Phật do chính mình biến hiện, chẳng phải do người khác. Chúng ta hiện thời chẳng thể đến được là vì không biết [những cõi nước ấy] do chính mình biến hiện, ngỡ chúng chẳng liên can gì đến mình, đến nơi đó quá ư khó khăn! Nếu hiểu những cõi ấy do chính mình biến hiện, sẽ rất dễ dàng!
(Diễn) Liễu đạt tự tâm vô bất hóa vãng giả, Luận vân: “Nhược quán bỉ Phật Chân Như Pháp Thân, thường cần tu tập, tất cánh đắc
sanh nhập Chánh Định cố”.
(疏) 了達自心無不化往者,論云:若觀彼佛真如法身,常勤修習,畢竟得生入正定故。
(Diễn: “Hiểu rõ thông đạt tự tâm thì không một cõi nào chẳng hóa thân đến được”. Luận viết: “Nếu quán Chân Như Pháp Thân của đức Phật ấy, thường siêng tu tập, sẽ rốt ráo được vãng sanh, nhập Chánh Định”).
Nếu như chúng ta quán, “quán” là quán chiếu, quán sát, “bỉ Phật Chân Như Pháp Thân” (Chân Như Pháp Thân của đức Phật ấy), chẳng phải là quán Báo Thân, chẳng phải là quán Ứng Hóa Thân, mà bảo chúng ta hãy quán Pháp Thân của Phật, vì sao? Pháp Thân và bản thân chúng ta có cùng một Thể. So với Báo Thân và Ứng Hóa Thân càng dễ hiểu hơn, lại càng có cảm giác thân thiết hơn. Quý vị quán sát từ bản thể, chẳng phải là từ những tướng được biến hiện, tướng được hiện có sai biệt, bản thể không có sai biệt, Pháp Thân là bản thể. “Thường cần tu tập, tất cánh đắc sanh” (Thường siêng tu tập, rốt ráo được vãng sanh): Tu tập là tu cách quán sát này, giống như trong cách quán tướng hảo quang minh của Phật trong Thập Lục Quán Kinh (Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh), làm như vậy nhất định sẽ được vãng sanh. Quán lâu ngày cũng đắc Định, “nhập Chánh Định” giống như “nhập Chánh Định Tụ” đã nói trong phần trước.
(Sớ) Thiên Như vị: “Nhữ nhược ngộ tâm, tắc Tịnh Độ vãng sanh, vạn ngưu bất năng vãn hỹ”.
(疏) 天如謂 : 汝若悟心 ,則淨土往生 ,萬牛不能挽矣。
(Sớ: Ngài Thiên Như nói: “Nếu ngươi ngộ tâm sẽ vãng sanh Tịnh Độ, một vạn con trâu chẳng thể kéo lại được”).
Thiên Như đại sư[7] là bậc đại triệt đại ngộ trong Thiền Tông rồi quay đầu chuyên tu Tịnh Độ. Mấy câu nói này của Ngài hết sức hay, có thể tạo tín nguyện kiên định nhất cho người cầu sanh Tịnh Độ chúng ta. Trừ phi quý vị mê mất tự tánh thì mới chẳng chịu vãng sanh, mới hoài nghi pháp môn Tịnh Độ. Nếu quý vị thật sự giác ngộ, “nhữ nhược ngộ tâm” (nếu ngươi ngộ tâm), nếu cái tâm của quý vị thật sự giác chứ không mê, lòng tín nguyện cầu sanh Tịnh Độ của quý vị bất cứ sức mạnh nào cũng chẳng thể kình chống được. “Vạn ngưu bất năng vãn” (Một vạn con trâu cũng chẳng thể kéo lại được): Trước kia đều nhờ trâu kéo xe, cái xe ấy do bao nhiêu con trâu kéo? Một vạn con trâu kéo mà chẳng nhúc nhích, nêu rõ tín nguyện của chúng ta kiên cố, quyết định chẳng bị dao động. Nếu quý vị mê, chẳng biết đến sự tốt đẹp của Tịnh Độ, chẳng biết pháp môn này thù thắng, chẳng biết tới công đức lợi ích này. Nếu quý vị ngộ, sẽ biết pháp môn này thù thắng, biết công đức lợi ích của nó. Nói cách khác, so sánh vô lượng vô biên pháp môn, chẳng có bất cứ pháp môn nào có thể sánh bằng pháp môn này! Thật đấy! Kinh dạy: “Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”. Đó là thật, pháp môn bình đẳng, mỗi một pháp môn đều có thể thành vô thượng đạo, nhưng tu học có dễ dàng, có khó khăn, pháp môn này dễ dàng! Có pháp ổn thỏa, thích đáng, có pháp chẳng ổn thỏa, thích đáng, là vì nó chẳng thể trông cậy được! Chẳng thể trông cậy là như thế nào? Ma chướng rất nhiều, phân định khá khó khăn; đây cũng chẳng phải là điều mà phàm nhân chúng ta có thể khắc phục được!
Trải qua các đời, bao nhiêu vị trong Tông môn, Giáo Hạ trừ những người chưa ngộ, chứ ngộ rồi không một ai chẳng quay đầu chuyên tu Tịnh Độ. Phải biết chuyện này là đại sự! Chuyện này thành tựu thì không có chuyện thế gian và xuất thế gian nào mà chẳng thể thành tựu! Nếu chẳng thể thành tựu chuyện này, tất cả các nguyện vọng trong thế gian đều chẳng thể đạt được một thứ nào. Người thế gian coi trọng nhất là ân cha mẹ, ân cha mẹ khó báo đền! Niệm niệm mong báo ân, nhưng trì trệ niệm Phật, uổng phí thời gian, kết quả là chính mình vẫn phải luân hồi trong lục đạo, làm sao có thể báo đáp cha mẹ? Quý vị phải tạm thời gạt cảm tình qua một bên, biết rằng chỉ có cầu sanh Tịnh Độ thì mới có thể báo ân cha mẹ. Nếu quý vị vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng những cha mẹ trong một đời này, mà cha mẹ, gia đình, quyến thuộc trong đời đời kiếp kiếp dù đang ở trong đường nào, mang hình dạng nào, quý vị đều thấy rõ ràng, sẽ có biện pháp giúp đỡ họ. Vì sao? Phật môn thường nói: “Phật độ người hữu duyên”, những người ấy có duyên với quý vị! Có duyên thì họ sẽ chịu nghe lời quý vị. Không có duyên, quý vị nói họ chẳng chịu nghe, chẳng tin tưởng, đó là không có duyên. Quý vị nói, họ tin tưởng, họ ưa thích nghe, y giáo phụng hành, đó là duyên sâu. Duyên sâu sẽ dễ độ. Vì thế, “Phật độ kẻ hữu duyên” là chuyện như vậy đó. Trong đời quá khứ, người ấy là quyến thuộc của quý vị, là cha mẹ hoặc là con cái của quý vị, có mối quan hệ thân mật như thế, hễ gặp gỡ sẽ rất dễ tiếp nhận. Vì thế, nhằm độ người nhà, quyến thuộc, cũng phải cầu sanh về thế giới Tây Phương.
(Sớ) Nhiên tắc sơ tâm Bồ Tát, tuy viết liễu minh, khứ Phật thượng viễn, chánh nhĩ cầu sanh bất khả hậu dã.
(疏) 然則初心菩薩 ,雖曰了明 ,去佛尚遠 , 正爾求生不可後也。
(Sớ: Nhưng sơ tâm Bồ Tát tuy nói là “hiểu rõ”, nhưng cách Phật quá xa, đúng là nên cầu vãng sanh, đừng để tụt hậu).
Đây là đại sư rát miệng dặn dò chúng ta. “Sơ Tâm Bồ Tát” chẳng đơn giản! Nói đến các Bồ Tát thuộc địa vị Tam Hiền, nay chúng ta gọi là Sơ Tâm Bồ Tát, quả thật là đã đề cao chính mình quá. Tuy hiểu rõ, tức là giải ngộ, thật sự vẫn còn cách Phật quá xa. Các Bồ Tát thuộc địa vị Tam Hiền chưa phải là chứng ngộ, dẫu đã chứng ngộ thì theo kinh Hoa Nghiêm còn có bốn mươi mốt đẳng cấp. Sơ Trụ là chứng ngộ, chứng ngộ rồi còn có bốn mươi mốt đẳng cấp. Vì thế, quả thật cách Phật quá xa! Chúng ta làm thế nào để thân cận Phật? Chỉ có vãng sanh Tịnh Độ, đấy là thân cận Như Lai. Chúng ta phải nắm vững con đường tắt duy nhất để thân cận Phật này, quyết định chẳng để tụt hậu.
(Diễn) Nhữ nhược ngộ tâm vạn ngưu mạc vãn giả, ngộ tâm chi sĩ, tri Tịnh Độ duy tâm, sanh Tịnh Độ giả, phi sanh Tịnh Độ, sanh tự kỷ tâm trung dã.
(疏) 汝若悟心萬牛莫挽者 , 悟心之士 , 知淨土唯心,生淨土者,非生淨土,生自己心中也。
(Diễn: “Nếu ông ngộ tâm, một vạn con trâu chẳng kéo lại”: Bậc ngộ tâm biết Tịnh Độ duy tâm, sanh về Tịnh Độ mà chẳng sanh Tịnh Độ, sanh trong tâm của chính mình).
Đọc xong đoạn này, mọi người đừng nên suy đoán. Nếu quý vị suy đoán, sẽ tự chuốc phiền. Khởi vọng tưởng “đây là sanh trong tâm của chính mình, chẳng hề sanh về Tây Phương Tịnh Độ”, chẳng phải là rắc rối hay sao? Nhưng quý vị chẳng hiểu tâm của chính mình ở đâu, cứ nghĩ “tâm” là cái tâm đang suốt ngày từ sáng đến tối suy tưởng loạn xạ, lầm lẫn quá đỗi! Muốn hiểu cái tâm này, quý vị phải đọc kinh Lăng Nghiêm, ba quyển đầu của kinh Lăng Nghiêm đều giảng về tâm, chúng ta không biết! Chúng ta đâu có hiểu đạo lý này! Tận hư không, khắp pháp giới là tâm của chính mình! Hiểu điều này cũng được, mà không hiểu cũng xong, không sao hết, chỉ cần chăm chỉ niệm một câu Phật hiệu là được rồi!
(Diễn) Tuy viết liễu minh khứ Phật thượng viễn giả, cổ vân: “Đốn ngộ tuy đồng Phật, đa sanh tập khí thâm”.
(疏) 雖曰了明去佛尚遠者 ,古云 : 頓悟雖同佛 ,多生習氣深。
(Diễn: “Tuy nói đã hiểu rõ, nhưng còn cách Phật rất xa”. Cổ nhân nói: “Đốn ngộ tuy giống như Phật, nhưng tập khí nhiều đời sâu đậm”).
“Ngộ” ở đây là giải ngộ. Ngộ rồi, kiến giải chẳng khác gì kiến giải của Phật, nhưng tập khí khác nhau! Tâm Phật thanh tịnh, còn người ấy tuy đã ngộ, nhưng tâm chẳng thanh tịnh, vì sao? Kẻ ấy có phiền não, tập khí nhiều đời sâu đậm.
(Diễn) Phong đình ba thượng dũng.
(疏) 風停波尚涌。
(Diễn: Gió đã lặng, sóng vẫn trào).
Tuy không còn gió, nhưng sóng vẫn chưa ngừng. Đây là tỷ dụ, sánh ví sóng với tự tâm: Tâm vẫn chưa tĩnh. Kiến giải đã chính xác rồi, giống như không còn tà kiến, cuồng phong đã dứt bặt, nhưng tâm vẫn chưa tĩnh được!
(Diễn) Lý hiện, niệm do xâm.
(疏) 理現念猶侵。
(Diễn: Lý đã rõ, nhưng niệm vẫn còn dấy).
“Lý hiện” là đã hiểu lý rồi, “niệm do xâm”: Vọng niệm vẫn còn, chưa thể đoạn, chẳng thể đạt đến chứng ngộ, chỉ là giải ngộ. Chứng ngộ là gì? Tâm thanh tịnh, đắc Lý nhất tâm bất loạn; chứ Sự nhất tâm bất loạn thì tập khí còn chưa đoạn. Lý nhất tâm bất loạn, tập khí mới đoạn.
(Diễn) Hựu vân: “Thức băng thị thủy, do lại thang khí dĩ tiêu dung”.
(疏) 又云:識冰是水,猶賴湯氣以消鎔。
(Diễn: Lại nói: “Tảng băng Thức là nước, vẫn phải nhờ hơi nước nóng để tan chảy).
Đây cũng là tỷ dụ. Chữ “thức” chỉ thức thứ tám. Thức thứ tám là tâm, khi chúng ta ngộ thì nó được gọi là bổn tánh, khi mê thì gọi là thức thứ tám. Thức thứ tám là bổn tánh, do mê hay ngộ mà danh xưng khác nhau. “Thức băng thị thủy”: Nước ví như Chân Như bổn tánh, băng là nước, không sai! Thế nhưng vẫn phải nhờ “thang khí dĩ tiêu dung”, thang (湯) là nước sôi, nước sôi rưới lên băng, băng liền tan chảy thành nước.
(Diễn) Ngộ vọng tức chân, thượng y Phật huệ nhi huân luyện dã.
(疏) 悟妄即真,尚依佛慧而熏煉也。
(Diễn: Ngộ vọng chính là chân, vẫn phải nương vào Phật huệ để hun đúc).
Thưa quý vị, ngộ rồi thì vọng là chân, chân là vọng. Chân – vọng chẳng hai! Khi mê bèn có chân và vọng, chân và vọng là hai. Khi ngộ thì chân – vọng chẳng hai! Vì sao? Thể là tương đồng. Khi mê, băng và nước khác nhau, băng là băng, nước là nước. Ngộ rồi, mới biết băng và nước là một, không hai, Tướng là hai, nhưng Thể chẳng hai, Thể là một. Ngộ rồi, vẫn cần phải huân tu Phật pháp, như vậy thì mới có thể thành tựu.
Một đoạn lớn này nhằm khuyên các đồng tu Sơ Phát Tâm học Phật chúng ta nhất định phải thân cận Như Lai. Nói cách khác, nhất định phải thân cận một vị thầy tốt, chớ nên tách rời; nhưng hiện thời, Phật chẳng còn tại thế, đại sư khuyên chúng ta sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới tìm A Di Đà Phật. Ngài là vị Phật trong hiện tại, chưa diệt độ, đến kiếm Ngài, thân cận Ngài. Đây là một trong những nhân duyên khiến lão nhân gia giảng bộ kinh này, soạn bản chú giải này. Tôi thường khuyến khích các đồng tu: Hiện thời, chúng ta còn chưa thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, phải thân cận một vị thiện tri thức hay một vị thầy tốt đẹp, thời thời khắc khắc bám chắc vị ấy, chớ nên tách lìa, thì mới có thể về thế giới Tây Phương. Vị thầy ấy là ai? Chẳng phải là tôi, theo tôi là hỏng bét! Vị thầy ấy là Liên Trì đại sư, chắc chắn là Ngài tốt đẹp lắm. Tôi cũng theo Ngài, Ngài ở nơi đâu? Ở ngay trong bộ Sớ Sao này. Hằng ngày đọc tụng Sớ Sao Diễn Nghĩa là hằng ngày thân cận thầy.
Cũng có nhiều đồng tu nói: “Tôi đọc cũng không hiểu!” Không hiểu cũng chẳng sao cả! Đọc lâu ngày sẽ hiểu, giống như chúng ta nghe một vị thầy giảng kinh, thoạt đầu nghe không hiểu, giọng địa phương của thầy rất nặng, chẳng dễ gì phân biệt được. Nghe tới mấy năm sau bèn nghe hiểu. Vì thế, đừng sợ khó, phải đọc tụng cho nhiều!
(Huyền Nghĩa) Lục, tận nhiếp lợi độn chư căn tất giai độ thoát giả.
(玄義) 六、盡攝利鈍諸根悉皆度脫者。
(Huyền Nghĩa: Sáu là nhiếp hết lợi căn và độn căn, thảy đều độ thoát).
Đây là nhân duyên thứ sáu. Căn tánh của hết thảy chúng sanh khác nhau, Phật pháp quy nạp [các căn tánh] thành hai loại lớn: Lợi căn và độn căn. Người rất thông minh, vừa tiếp xúc Phật pháp liền giác ngộ, đó là lợi căn. Nghe một biết mười, lợi căn đấy; nghe một chỉ biết một, độn căn! Pháp môn này lợi căn cũng được, độn căn cũng được, bất luận người có căn tánh như thế nào đều có thể học tập, đều có thể thành tựu. Còn như thành tựu cao hay thấp, thưa cùng quý vị, không nhất định người độn căn thành tựu thấp, người lợi căn thành tựu cao, chưa chắc!
Nếu quý vị dựa trên lợi căn và độn căn để luận định thành tựu cao hay thấp thì quý vị lầm lẫn quá lớn rồi! Vì sao? Thường là lợi căn chẳng bằng độn căn! Người lợi căn vừa tiếp xúc kinh điển, vừa nghe bèn thông đạt, hiểu rõ triệt để, nhưng tập khí phiền não quá nặng, dẫu được vãng sanh, phẩm vị không cao! Kẻ độn căn, quý vị nói với họ, nói như thế nào họ cũng chẳng hiểu, nghe cũng chẳng lọt tai, bảo họ thật thà niệm Phật, được! Ngoan ngoãn suốt ngày từ sáng đến tối thật thà niệm Phật. Kết quả người ấy Thượng Phẩm Thượng Sanh, niệm đến mức nhất tâm bất loạn, đâm ra người ấy thành công cao. Đủ thấy: Chẳng thể dùng lợi căn hay độn căn để phán định phẩm vị cao hay thấp.
Người lợi căn thì phải có sự cảnh giác kha khá! Vì thế, nhiều kẻ thông minh, trí huệ lại chẳng bằng những bà cụ già, các bà ấy thật sự thành tựu! Điều gì họ cũng chẳng cần biết, điều gì cũng chẳng cần hiểu, phàm những lý luận phải dùng đến đầu óc, phải suy xét, họ nhất loạt không màng tới. Bảo họ thật thà niệm Phật thì: “Được! Tôi thật thà niệm Phật!” Tâm họ không có phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, thật thà niệm một câu Phật hiệu, từng tiếng cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, họ bèn thành công. Phẩm vị quyết định chẳng thấp hơn người khác.
(Huyền Nghĩa) Chư dư pháp môn, cao chi tắc hạ cơ tuyệt phận, ty chi tắc bất bị thượng căn.
(玄義) 諸餘法門 , 高之則下機絕分 , 卑之則不被上根。
(Huyền Nghĩa: Các pháp môn khác, cao thì kẻ căn cơ thấp chẳng có phần, nếu thấp thì chẳng phù hợp hạng thượng căn).
“Chư dư pháp môn” là nói hết thảy các pháp môn trừ pháp môn này ra, kinh thường nói “tám vạn bốn ngàn pháp môn” hay “vô lượng pháp môn”, hoặc là quá cao, người căn tánh trung hạ chẳng có phần! Nếu quá thấp thì người căn cơ trung thượng chẳng muốn học. Chẳng thể nhiếp trọn [hết thảy các căn cơ] được!
(Huyền Nghĩa) Thị dĩ Hoa Tạng như manh, huỳnh quang tăng kết.
(玄義) 是以華藏如盲,螢光增結。
(Huyền Nghĩa: Do vậy, đối với Hoa Tạng [hàng Nhị Thừa và Thập Tín Bồ Tát trở xuống] như lòa, [trí huệ của họ như] ánh lửa đom đóm, [đối với đại pháp Nhất Thừa, do không thể thông hiểu nên] càng tăng thêm phiền não).
Đoạn này nêu tỷ dụ. Chữ “Hoa Tạng” chỉ kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm được giảng trong mười bốn ngày khi đức Phật thị hiện thành Phật. Nếu nhìn theo hình tướng để nói, trước hết, đức Phật giảng pháp Tứ Đế cho năm vị tỳ-kheo[8] tại Lộc Dã Uyển (Mrgá-dāva). Kinh Hoa Nghiêm do Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi dưới cội Bồ Đề, nhập Định, nói trong Định. Phàm phu nhục nhãn chúng ta chẳng thấy, chẳng nghe. Chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật tịnh tọa dưới cội cây, đâu biết Ngài thuyết pháp trong Định? Người căn tánh trung hạ như đui, như điếc, chẳng nghe, mà cũng chẳng thấy. Lão nhân gia ở trong Định thuyết pháp là nói với những ai? Nói với bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong thế giới Hoa Tạng. Bốn mươi mốt địa vị chẳng phải là chỉ có bốn mươi mốt người, mà là không biết bao nhiêu người! Bốn mươi mốt tầng cấp, tức là Sơ Trụ Bồ Tát, Nhị Trụ Bồ Tát và Tam Trụ Bồ Tát, mãi cho đến Đẳng Giác Bồ Tát. [Số lượng các] Bồ Tát thuộc mỗi địa vị đều là vô lượng vô biên, đức Phật vì những người ấy thuyết pháp. Bởi lẽ đó, Thanh Văn, Duyên Giác đều chẳng có phần, đều chẳng thấy được. Đây là đức Phật giảng Phật pháp thượng thừa, giảng Hoa Nghiêm, hàng căn tánh trung hạ chẳng có phần.
“Huỳnh quang tăng kết”: Ánh lửa đom đóm chẳng thể so với ánh mặt trời. Chẳng những họ (phàm phu, Nhị Thừa, quyền tiểu Bồ Tát) không thể tiếp nhận, mà còn hủy báng, họ đâu có thấy! Giống như trong hiện thời có nhiều kẻ hoài nghi Đại Thừa, đề xuất “Đại Thừa chẳng phải do Phật nói”. Ở đây, chúng ta phải đặc biệt lưu ý: Chẳng riêng gì đức Phật không dối gạt con người, mà Bồ Tát đã đạt đến Sơ Địa, chúng ta hạ thấp địa vị xuống một chút thì các Bồ Tát thuộc địa vị Tam Hiền, thậm chí người công phu thành phiến có dối gạt người khác hay chăng? Chắc chắn chẳng dối gạt người khác! [Ngăn cấm] dối gạt người là đại giới, là căn bản giới của Phật. Kẻ phá căn bản giới, chiếu theo Giới Kinh để kết tội thì quả báo là trong địa ngục. Chúng ta tin tưởng những vị [Bồ Tát] ấy chắc chắn chẳng phá căn bản giới. Vì thế, đối với những lời họ nói, lưu truyền lại, nhất định phải tin tưởng, nhất định chớ nên hoài nghi.
Huống chi kinh Đại Thừa sau khi chúng ta đọc qua, những chỗ tạo cảm kích, phát khởi [tâm nguyện] hết sức nhiều, quả thật là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn. Thế nhưng ngày nay chúng ta chỉ có thể thấy một chút ngoài da, chứ đối với những nghĩa uyên áo trong ấy thì cần phải có công phu, thật đấy, tâm địa một phần thanh tịnh, quý vị sẽ thấy một phần áo diệu, mười phần thanh tịnh sẽ có thể thấy mười phần áo diệu. Tâm thanh tịnh của chính mình chưa hiện tiền thì quý vị nên làm sao? Khiêm tốn, chân thành, cung kính. Dùng cái tâm cung kính để đọc, cũng sẽ có chỗ khải phát (khơi gợi, phát khởi), cũng có ngộ xứ. Nếu tâm chẳng thanh tịnh, lại chẳng cung kính, quý vị chẳng có cách gì đọc kinh ấy!
(Huyền Nghĩa) Duy thử nhất pháp, thượng hạ kiêm thâu.
(玄義) 唯此一法,上下兼收。
(Huyền Nghĩa: Chỉ có mình pháp này, gồm thâu thượng căn lẫn hạ căn).
Đây là nói về pháp môn trong Tiểu Bổn A Di Đà Kinh. Thượng căn là những vị Đẳng Giác Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, hạ căn là hạng người giống như ngài Châu Lợi Bàn Đà Già. Tôi nghĩ mỗi một người chúng ta đều [có trí nhớ] mạnh hơn Ngài, Ngài niệm hai chữ “điều chửu”[9] đọc chữ trước, quên khuấy chữ sau. Nhắc Ngài chữ sau, lại quên khuấy chữ trước! Tôi nghĩ quý vị vẫn chưa đến nỗi ngốc nghếch như thế! Ngài có thể thành công, một bài kệ Ngài học hơn ba tháng mới đọc được, cũng là rất ít có! Thật sự là hàng hạ căn.
(Huyền Nghĩa) Khả vị vạn bệnh dũ ư A Già, thiên khí thành ư cự dã, khởi bất Từ môn quảng đại, phổ độ vô di?
(玄義) 可謂萬病愈於阿伽 , 千器成於巨冶 , 豈不慈門廣大,普度無遺。
(Huyền Nghĩa: Có thể nói là thuốc A Già Đà chữa lành muôn bệnh, là lò lớn luyện thành ngàn món đồ, há chẳng phải là Từ môn rộng lớn, phổ độ chẳng sót ư?)
Mấy câu này có ý nghĩa rất rõ ràng, chẳng khó hiểu; nhưng ý nghĩa bao hàm trong ấy rất sâu. Từ những câu nói này, chúng ta có thể thấu hiểu vì sao mười phương chư Phật đều tán thán và hộ niệm bộ kinh này, đạo lý là ở chỗ này: Phật môn phổ độ chúng sanh rộng lớn, rộng lớn ở chỗ nào? Dùng gì để phổ độ? Dùng pháp môn này! Không chỉ mình Thích Ca Mâu Ni Phật dùng pháp môn này, mà mười phương ba đời tất cả chư Phật, không vị Phật nào chẳng dùng pháp môn này. Nếu chúng ta hỏi: Vì sao đức Phật lại nói các pháp môn khác nhiều ngần ấy? Tôi vừa mới nói rồi đó! Chính là vì đức Phật nói pháp môn này, có một loại chúng sanh chẳng tin tưởng, chẳng chịu tiếp nhận, họ nghĩ thành Phật đâu có đơn giản như thế, đâu có dễ dàng dường ấy! Được rồi! Nếu ngươi nghĩ là chẳng dễ dàng, chẳng đơn giản, đức Phật nói cho ngươi một pháp môn không đơn giản, không dễ dàng cho ngươi học. Nếu ngươi thật sự chịu tin tưởng, học Phật dễ dàng, đơn giản dường ấy thì ngươi là thượng căn. Bậc thượng căn lợi trí thật sự vừa nghe liền tin tưởng, chẳng hoài nghi, sốt sắng thực hiện, sẽ thành công. Chẳng tin tưởng, hoài nghi thì sẽ ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ! Phật độ kẻ hữu duyên, kẻ đó vô duyên! Vô duyên thì Phật phải kết duyên với kẻ ấy, dùng các thứ phương pháp khác nhau để kết duyên với hắn.
Độ kẻ hữu duyên thì dùng phương pháp nào? Dùng pháp môn này. Ta dùng các pháp môn khác để kết duyên với kẻ ấy. Quý vị vẫn ở trong lục đạo, còn chưa thành tựu, đến đời nào kiếp nào nhân duyên chín muồi, sẽ từ đâu mà đắc độ? Nói thành thật, chẳng khách sáo thì vẫn là do pháp môn này mà đắc độ! Chỉ có thật sự vãng sanh thì mới là đắc độ. Chưa vãng sanh là chưa đắc độ! Chúng ta thấy trong Thiền Tông có nhiều công án, sau khi đại triệt đại ngộ, quả thật có thần thông, biết quá khứ, hiện tại, vị lai, có thể trốn khỏi luân hồi hay chăng? Trốn chẳng khỏi! Có thể trốn khỏi là những người sau khi đại triệt đại ngộ bèn quay về niệm Phật, liền vượt thoát! Nếu chúng ta có thể hiểu rõ chân tướng sự thật này, sẽ chẳng động tâm đối với bất cứ một pháp môn nào!
Chúng ta muốn đọc, muốn nghiên cứu, phải lấy kinh Di Đà làm trung tâm, có thể nghiên cứu thêm những kinh luận liên quan tới pháp môn này nhằm giúp cho chúng ta lý giải, giúp chúng ta đoạn nghi sanh tín. Tín tâm thật sự kiến lập thì niệm Phật mới nắm chắc, mới có thể nghiên cứu lan man sang các pháp môn khác. Tín tâm của chúng ta chưa kiên cố, vẫn còn dao động, tốt nhất đừng dính dáng tới những pháp môn khác. Những sách như Tịnh Độ Thập Yếu, Liên Trì Đại Sư Toàn tập, Ngẫu Ích Đại Sư Toàn Tập chúng ta có thể đọc, vì sao? Chỗ nào cũng đều chỉ về Tịnh Độ, đi theo một phương hướng, một mục tiêu. Thích hiểu nhiều hơn một chút thì phải đi theo phương hướng này. Nếu chẳng muốn học nhiều thứ thì ta vẫn là càng đơn giản càng hay, Tây Phương Công Cứ kèm thêm Di Đà Kinh Sớ Sao là đủ rồi! Nếu vẫn chưa buông xuống được, Tịnh Độ Thập Yếu, Liên Trì Đại Sư Toàn Tập, Ngẫu Ích Đại Sư Toàn Tập, Ấn Quang Đại Sư Văn Sao, những thứ này đều được. Nhiều hơn nữa thì không được! Chắc chắn là xen tạp, chẳng hay ho gì! Vì thế, những thứ khác đừng nên dính dáng tới, chuyên tu pháp môn này. Thật sự chuyên tu, giống như cổ nhân, ba năm sẽ có hiệu quả. Nếu quý vị thật sự tu tập không gián đoạn, chẳng xen tạp, ba năm nhất định sẽ có tin tức. Nếu quý vị gián đoạn, xen tạp thì không có cách gì hết! Lập chí nguyện, chuyên cầu Tây Phương Tịnh Độ. Hôm nay hết giờ rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này.
— o0o —
Tập 62
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang tám mươi ba:
(Sớ) Như manh giả, Như Lai ư Thệ Đa lâm trung, diễn Đại Hoa Nghiêm, bỉ thời thượng đức Thanh Văn, Thân Tử Mục Liên đẳng, như manh như lung.
(疏) 如盲者 , 如來於逝多林中 ,演大華嚴 ,彼時上德聲聞,身子目連等,如盲如聾。
(Sớ: “Như mù”: Trong rừng Thệ Đa, đức Như Lai diễn giảng kinh Đại Hoa Nghiêm, lúc ấy, bậc thượng đức Thanh Văn như Thân Tử, Mục Liên v.v… như lòa, như điếc).
Đây là lời giải thích câu “Hoa Tạng như manh” trong phần nhân duyên thứ sáu. “Thệ Đa lâm” (Jetavana) chính là Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên. Đoạn này nằm trong hội thứ chín của kinh Hoa Nghiêm[10], nói rõ kinh Đại Thừa chẳng khế hợp tiểu cơ (căn cơ Tiểu Thừa), tức là người căn khí nhỏ nhoi không nhận biết giá trị, hiển thị pháp môn Niệm Phật “thích hợp khắp ba căn, gồm thâu lợi căn và độn căn”.
(Sớ) Đỗ thị tuyệt thính, nãi chí tích hành Bồ Tát, do vân bộc tai[11], minh cao chi tắc đạo đại cơ tiểu cố.
(疏) 杜視絕聽 ,乃至積行菩薩 ,猶云曝顋 , 明高之則道大機小故。
(Sớ: “Lấp thấy, dứt nghe”: Thậm chí hàng Bồ Tát tu hành đã lâu vẫn còn mẻ đầu sứt trán, cho thấy đạo thì cao rộng mà căn cơ thì nhỏ nhoi vậy).
Hai câu này nhằm nói rõ ý nghĩa ấy. “Tích hành”, “hành” là tu hành. Nói cách khác, vị Bồ Tát ấy là Bồ Tát tu hành trong nhiều kiếp, chẳng phải là Sơ Phát Tâm. Thế nhưng Ngài vẫn chẳng thể nghe pháp Nhất Thừa là pháp chân thật trong Phật pháp “duy hữu Nhất Thừa pháp, vô nhị diệc vô tam” (chỉ có pháp Nhất Thừa, không hai cũng không ba). Đạo lớn, mà căn tánh nhỏ, căn tánh Tiểu Thừa mà! “Tích hành Bồ Tát” chính là Tạng Giáo Bồ Tát, họ cũng chẳng thấy, chẳng nghe!
“Tăng kết”: “Kết” (結) là chướng ngại, mà cũng là phiền não. Chẳng những không thể trừ chướng, mà ngược lại còn tăng thêm. Đương nhiên cũng là do pháp chẳng khế hợp căn cơ, nên mới có những thứ chướng ngại sanh ra. Đức Phật quả thật hết sức từ bi, đức Phật có pháp nào để nói hay chăng? Trong kinh Đại Thừa đã nói không ít lần: “Phật vô hữu pháp khả thuyết” (Đức Phật chẳng có pháp nào để có thể nói). Kinh Kim Cang nói rất rõ ràng: “Phật vô hữu định pháp khả thuyết” (Phật không có pháp nhất định nào để nói). Chúng ta phải hiểu rõ điều này! Rốt cuộc đức Phật thuyết pháp nhằm lẽ gì? Ứng theo bệnh tình mà cho thuốc, Ngài không có một phương cách nhất định nào! Chúng sanh bị bệnh gì, Ngài bèn trao cho họ phương pháp đó, phương pháp đó nhằm trị lành chứng bệnh ấy. Quý vị lành bệnh rồi, thuốc cũng chẳng còn, pháp cũng chẳng còn, chúng ta phải hiểu rõ nguyên lý nguyên tắc này.
Do vậy, chúng ta tu học Phật pháp phải chú ý, Phật pháp từ đầu đến cuối chỉ là phá chấp trước mà thôi! Phá chấp: Chấp trước là bệnh; phá chấp trước chính là thuốc. Chấp trước không còn, đương nhiên phương pháp phá chấp trước cũng chẳng dùng tới, cũng chẳng còn nữa! Nhưng hiện thời, nói thật ra, đối với chúng ta, đây là một thứ bệnh tình rất nghiêm trọng, phàm phu không có cách nào chẳng chấp trước. Chúng ta rất muốn không chấp trước, nhưng không có cách nào tách rời [chấp trước], nên gọi là phàm phu. Dạy phàm phu làm như thế nào? Khéo chọn cách cố chấp! Đây là phương tiện thiện xảo nhằm răn dạy kẻ sơ học. Nếu nâng lên một mức cao hơn thì thiện cũng đừng cố chấp, như vậy thì mới có thể đột phá. Phá gì vậy? Phá vô minh, chứng Pháp Thân. Kinh đã nêu lên những trường hợp như thế.
Nói cách khác, những thứ bệnh tình ấy, đối với chúng ta đang thuộc địa vị phàm phu thì bệnh gì cũng đều có cả! Làm như thế nào để trừ khử những bệnh ấy? Chuyện này đích xác chẳng phải là chuyện dễ, ắt cần phải đọc tụng kinh điển Đại Thừa, phải thân cận Như Lai, chẳng thể tách rời Như Lai. Mỗi ngày đọc kinh là nghe Phật thuyết pháp. Luôn luôn là một loại kinh, hằng ngày niệm cùng một thứ, còn có ý niệm nào nữa? Hằng ngày cùng một thứ là điều khẩn yếu, là điều quan trọng nhất. Bởi lẽ, Phật pháp khác với các sách vở thế gian, quý vị đọc sách vở thế gian một lượt, chẳng muốn đọc lần thứ hai. Vì sao? Đã hiểu hết ý nghĩa rồi. Đọc xong chẳng còn hứng thú nữa. Phật pháp chẳng giống như vậy. Phật pháp là tu hành, Phật pháp là Tam Học Giới – Định – Huệ cùng hoàn thành một lượt!
Nội dung của giáo học Phật pháp là ba khoa: Giới – Định – Huệ. Kinh điển chia thành Tam Tạng: Kinh, Luật, Luận. Kinh chủ yếu nói về Định Học, Luật là nói về Giới Học, Luận là nói về Huệ Học. Giới – Định – Huệ là ba đại cương lãnh của toàn bộ Phật pháp. Đọc kinh và niệm Phật đều là hoàn thành Tam Học Giới – Định – Huệ trong cùng một lúc. Khi đọc kinh, tâm chúng ta không có một vọng niệm, không có một ác niệm nào, đấy là “chư ác mạc tác” (đừng làm các điều ác). Kinh điển do Chân Như bổn tánh của Như Lai lưu lộ thành ngôn ngữ, văn tự, thật sự là điều tốt lành nhất trong những điều tốt lành, Nho gia nói “chỉ ư chí thiện” (đạt đến điều tốt lành tột bậc), kinh điển là “chí thiện”. Do vậy, chúng ta đọc kinh là “chúng thiện phụng hành” (vâng làm các điều lành). Quý vị thấy đó: Ý nghĩa của Giới viên mãn. Giới Luật là “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Quý vị hãy suy nghĩ: Một câu Nam-mô A Di Đà Phật cũng là chẳng khởi ác niệm, câu A Di Đà Phật này được chư Phật tán thán, càng là điều lành nhất trong các điều lành, là tinh hoa của chí thiện. Niệm một câu Phật hiệu, mười phương chư Phật không vị Phật nào chẳng hoan hỷ, huống chi Phật hiệu diễn bày ý nghĩa “quy y Vô Lượng Giác”, ý nghĩa này quá hay! Quý vị niệm một câu Nam-mô A Di Đà Phật, giới luật viên mãn, chẳng sót một điều nào! Bình thường quý vị trì giới chẳng dễ gì trì viên mãn, đâu biết một câu A Di Đà Phật chính là các giới luật Đại Tiểu Thừa, thế gian, xuất thế gian thảy đều cùng tu, chẳng sót một điều nào. Khi niệm kinh phải nhất tâm niệm, chuyên tâm niệm. Kinh thường nói “nhất tâm xưng danh”, nhất tâm là Định. Chuyên tâm đọc kinh, chuyên tâm là Định. Niệm một bộ kinh từ đầu đến cuối rõ ràng, từng chữ phân minh, đó là Huệ.
Đạo tràng này của chúng ta dành nhiều thời gian giảng kinh, có nhiều đạo tràng chẳng giảng kinh, nhưng mỗi tháng hoặc mỗi tuần, hoặc hai tuần làm pháp hội một lần, mọi người họp nhau niệm kinh; như Hoa Nghiêm Liên Xã, mỗi nửa tháng có một lần mở pháp hội tụng kinh Hoa Nghiêm, công đức vô lượng, có pháp sư hướng dẫn mọi người niệm. Đấy là tu học Tam Học được hoàn thành cùng một lúc. Do vậy, khi tôi ra nước ngoài, hy vọng đạo tràng này của chúng ta mỗi tuần tối thiểu có một lần niệm kinh, niệm A Di Đà Kinh Sớ Sao. Nếu chư vị có thể niệm Sớ Sao từ đầu đến cuối mấy lượt, sau đấy nghe giảng sẽ thấy khác hẳn: Nói đến phần đầu, quý vị bèn nghĩ đến phần sau, nói đến phần sau thì trước sau đều có thể kết nối, dễ dàng khai ngộ, có được điều tốt lành như thế ấy. Vì thế, công đức niệm kinh là vô lượng.
Chúng ta nên dưỡng thành thói quen, nếu hằng ngày niệm kinh,
chính là hằng ngày thân cận Phật, Bồ Tát. Chuyên tâm niệm, chẳng cần suy nghĩ, chẳng nghĩ kinh có ý nghĩa gì. Vì sao? Nhất tâm niệm! Quý vị suy nghĩ thì sẽ là nhị tâm, tam tâm, chẳng nên! Nhất tâm niệm sẽ khai ngộ, ý nghĩa [của kinh văn] đột nhiên xuất hiện, chứ không do quý vị suy nghĩ, đó là ngộ! Chỉ cần quý vị thường xuyên niệm, sẽ thường có ngộ xứ, đọc lần nào cũng có ngộ xứ. Vì thế, đọc kinh này chẳng chán. Nhất tâm niệm, niệm kinh và niệm Phật là tu Định. Khi đọc kinh, từng chữ phân minh là tu Huệ. Huệ là hiểu rõ hết thảy, nhưng không có phân biệt, chấp trước. Thứ gì cũng hiểu rõ, lìa phân biệt, chấp trước, đó là trí huệ thật sự, là Căn Bản Trí. Niệm Phật cũng giống như vậy, cổ đức bảo chúng ta: “Sáu chữ hồng danh, từng chữ phân minh, niệm rõ ràng, nghe rõ ràng”, phải dùng phương pháp ấy. Đây là Tam Học huân tu cùng một lúc, phương pháp này thật sự mầu nhiệm đến tột bâc.
Tôi thưa cùng các vị đồng tu, bản thân tôi dành nhiều thời gian để đọc kinh, mỗi ngày tối thiểu đọc kinh bốn tiếng đồng hồ. Hiện thời những kinh tôi đọc đều rất chuyên, tức là đọc kinh Hoa Nghiêm, Di Đà Kinh Sớ Sao. Năm ngoái ở Mỹ quốc, tôi đọc Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký, đấy là chú giải của ngài Hiền Thủ dành cho bộ Lục Thập Hoa Nghiêm. Chúng ta tự mình tu hành nếu muốn thật sự có thành tựu, nhất định phải tuân thủ hai nguyên tắc sau đây: Một là chẳng gián đoạn, hai là không xen tạp, nhất định phải chuyên!
(Sớ) Tăng kết giả.
(疏) 增結者。
(Sớ: “Tăng kết” là…)
Kẻ ấy chẳng khéo tu học, tăng trưởng phiền não.
(Sớ) Tịnh Danh Kinh vân.
(疏) 淨名經云。
(Sớ: Kinh Tịnh Danh chép…)
Trong kinh Duy Ma Cật có một công án.
(Sớ) Hữu nhị tỳ-kheo phạm Căn Bản Giới, phát lộ cầu sám, Ưu Ba Ly vị y Luật định tội, nghi tâm bất thích.
(疏) 有二比丘犯根本戒 , 發露求懺 , 優波離為依律定罪,疑心不釋。
(Sớ: Có hai tỳ-kheo phạm Căn Bản Giới, bày tỏ, sám hối, tôn giả Ưu Ba Ly y theo Giới Luật kết tội họ, tâm họ nghi hoặc không cởi gỡ được).
Có hai vị tỳ-kheo phạm Căn Bản Giới. Căn Bản Giới là bốn điều “giết, trộm, dâm, dối”. Sau khi phá giới bèn cầu sám hối. Tôn giả Ưu Ba Ly (Upāli) là vị trì giới bậc nhất trong mười đại đệ tử của Thích Ca Mâu Ni Phật, họ đối trước Ngài cầu sám hối. “Phát lộ” có nghĩa là phơi bày, đem tất cả những tội lỗi chính mình đã phạm thảy đều nói hết ra, nói hết chẳng giấu diếm mảy may nào! Đó gọi là “phát lộ sám hối”. Tôn giả Ưu Ba Ly chiếu theo giới luật do đức Phật chế định để kết tội họ, phán định tội nghiệp nặng hay nhẹ. Hai tỳ-kheo ấy thấy ngài Ưu Ba Ly định tội họ, trong tâm nghi hoặc, không có cách nào tiêu trừ nỗi ngờ vực ấy được. Khi đó, họ gặp cư sĩ Duy Ma Cật (Vimalakīrti, Tịnh Danh). Ngài Ưu Ba Ly học Tiểu Thừa, tôn giả Duy Ma là Đại Thừa Bồ Tát, quan niệm của Đại Thừa và Tiểu Thừa khác nhau. Trong Tiểu Thừa, tội ấy chẳng được phép sám hối.
(Sớ) Tịnh Danh ngôn: “Nhữ vô dĩ thường pháp nhiễu loạn kỳ tâm, trọng tăng thử nhị tỳ-kheo tội”.
(疏) 淨名言 : 汝毋以常法擾亂其心 , 重增此二比丘罪。
(Sớ: Ngài Tịnh Danh nói: “Ông đừng lấy thường pháp nhiễu loạn tâm họ, khiến cho tội của hai vị tỳ-kheo này nặng thêm”).
Thấy tình hình ấy, tôn giả Duy Ma quở trách tôn giả Ưu Ba Ly. Ngài nói: “Ông đừng nên dùng giới luật bình thường (giới luật Tiểu Thừa) để định tội họ, đâm ra khiến họ càng nặng tội thêm. Họ đã hoài nghi, như vậy là ông đã đánh mất lòng từ bi, nhiễu loạn tâm họ, tăng thêm tội cho họ”. Đấy là trọng tăng (tăng nặng thêm), tăng kết (tăng thêm phiền não) đấy!
(Diễn) Thường pháp tức thị y Luật định tội. Vô nhiễu loạn kỳ tâm giả, vị đương trực đàm tội tánh bổn không, bất tại nội ngoại trung gian đẳng dã.
(疏) 常法即是依律定罪 。 毋擾亂其心者 , 謂當直談罪性本空,不在內外中間等也。
(Diễn: “Thường pháp” là căn cứ theo Luật để định tội, “đừng nhiễu loạn tâm họ” ý nói: Hãy nên nói thẳng tội tánh vốn không, chẳng ở trong, ngoài, chặng giữa v.v…)
Như vậy thì mới thật sự tăng trưởng tín tâm cho họ. Quý vị phải hiểu: Nếu chúng ta thường cảm thấy bản thân ta nghiệp chướng rất nặng, tội nghiệt rất nặng, trong tâm thường có ý niệm ấy, đối với sự tu học của chính mình sẽ có chướng ngại không chi lớn bằng. Tội ấy có thật hay chăng? Thật sự có! Chẳng giả! Quý vị chưa ra khỏi tam giới [thì tội ấy] sẽ là thật sự có. Vì sao cư sĩ Duy Ma Cật chẳng dùng giới luật Tiểu Thừa để kết tội, mà lại bảo quý vị hãy dùng cách quán tưởng của Đại Thừa để diệt tội? Giúp cho quý vị vượt thoát tam giới, đả phá những mối nghi ngờ lo âu trong lòng quý vị. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật dạy: “Tội tùng tâm khởi tương tâm sám” (tội từ tâm khởi, đem tâm sám). Tội từ đâu mà có? Do tâm đã mê rồi nên mới vọng động, tội nghiệp từ mê ấy mà ra! Sanh từ tâm! Chúng ta thấy như trong kinh Bát Nhã, kinh Lăng Nghiêm đã nói, tâm ở tại chỗ nào? Tìm tâm trọn chẳng thể được! Tâm đã không có, còn có tội ở nơi đâu? Đấy là sự thật ngàn vạn phần xác đáng. Nói cách khác, hễ quý vị có tâm là có tội, vô tâm bèn vô tội. Đó là pháp Đại Thừa, trưởng giả Duy Ma quở trách tôn giả Ưu Ba Ly là vì chỗ này!
Bởi lẽ, tôn giả Ưu Ba Ly hữu tâm, hàng Tiểu Thừa dùng thức thứ sáu, tức Ý Thức, chẳng lìa tâm ý thức; bởi vậy, nhất định phải chiếu theo Luật Tạng để kết tội. Hàng Đại Thừa lìa tâm ý thức, tìm tâm trọn chẳng thể được! Tìm tội, tội ở nơi đâu? Như vậy thì mới có thể vượt thoát. Có tư tưởng này thì trong một đời này niệm Phật cầu sanh về thế giới Tây Phương, quý vị mới chắc chắn nắm chắc. Thường có tội chướng vây bủa trong tâm của chính mình tức là tự tạo chướng ngại, tự chuốc phiền phức, làm sao quý vị đạt cái tâm thanh tịnh cho được? Tâm tịnh, cõi nước tịnh. Quý vị chưa đạt được cái tâm thanh tịnh mà!
Vì thế, cách trưởng giả Duy Ma răn dạy người học cao minh lắm! Phá hết thảy nghi chướng, trong một đời này viên chứng Bồ Đề, thẳng thừng, thỏa đáng nói “tội tánh bổn không”, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở chặng giữa, giống hệt như trong kinh Lăng Nghiêm tìm tâm bảy chỗ trọn chẳng thể được! Đấy là người thật sự giác ngộ! Đối với người mê thì không được, kẻ mê sẽ thấy có trong, ngoài, trung gian, khó lắm! Vì thế, Phật pháp chỗ nào cũng đều nhằm dạy con người phá mê khai ngộ. Sau khi khai ngộ mới có thể thật sự đạt được tự tại. Đoạn kế tiếp có liên quan mật thiết với đoạn này, đấy là điều mà Vĩnh Gia đại sư đã nói trong Chứng Đạo Ca.
(Sớ) Vĩnh Gia nghĩ chi huỳnh quang, vị bất năng khai kỳ mê ám, nhi phản tăng ích chi dã.
(疏) 永嘉擬之螢光 , 謂不能開其迷暗 , 而反增益之也。
(Sớ: Ngài Vĩnh Gia phê là “ánh sáng đom đóm”, ý nói: [Trí huệ Tiểu Thừa] chẳng thể soi tan sự mê ám, mà ngược lại còn làm tăng thêm).
Đây là dạy học chẳng khế cơ, chẳng đúng pháp. Không chỉ chẳng thể khiến cho người khác phá mê khai ngộ, mà trái lại còn khiến họ mê càng sâu hơn. Khuyết điểm ở chỗ này!
(Diễn) Nghĩ chi huỳnh quang giả, Chứng Đạo Ca vân: “Hữu nhị tỳ-kheo phạm dâm sát, Ba Ly huỳnh quang tăng tội kết, Duy Ma đại sĩ đốn trừ nghi, do như hách nhật tiêu sương tuyết”, thị dã.
(疏) 擬之螢光者 ,證道歌云 : 有二比丘犯淫殺 ,波離螢光增罪結,維摩大士頓除疑,猶如赫日消霜雪是也。
(Diễn: “Phê là ánh sáng đom đóm”: Trong bài Chứng Đạo Ca có đoạn: “Có hai tỳ-kheo phạm tội dâm và giết hại, [trí huệ của ngài] Ưu Ba Ly như ánh sáng đom đóm khiến họ tăng thêm phiền não. Duy Ma Bồ Tát trừ ngay nỗi nghi hoặc của họ, ví như mặt trời rực rỡ, sương tuyết tiêu tan” chính là ý này).
Đây là chuyện được nói trong kinh Duy Ma Cật: Có hai tỳ-kheo phạm Căn Bản Giới. Tôn giả Ưu Ba Ly chiếu theo giới luật phán tội, khiến họ mê càng sâu. Một câu nói của Duy Ma đại sĩ khiến họ phá được khối mê ấy. Chứng Đạo Ca dẫn dụng công án này. Ngàn vạn phần chúng ta chớ nên hiểu lầm ý nghĩa của đoạn công án này [rồi cho rằng]: “Tìm tâm chẳng thể được, tìm tội cũng chẳng thể được, không sao hết! Ta tạo cả đống tội nghiệp, không sao hết!” Quý vị tạo nhiều tội nghiệp nhất định vào địa ngục, đừng nói “không sao hết!” Vì sao kinh nói như thế? Kinh nói như thế, nhưng quý vị chẳng làm được! Nếu quý vị thật sự trong mười hai thời “tìm tâm chẳng thể được”, vậy thì được! Chỗ nào quý vị vẫn là “dụng tâm” (sử dụng cái tâm ý thức, phân biệt, chấp trước) thì sẽ có thể tìm được, chẳng phải là không thể tìm được! Quý vị khởi tâm động niệm: “Tôi chẳng sợ chuyện này, tạo thêm một ít tội nghiệp chẳng sao hết”. Đó chính là tâm. Có tâm là có tội, vô tâm mới không có tội nghiệp! Suốt ngày từ sáng đến tối luôn có tâm, khi nào mới đạt được vô tâm? Chuyện này chẳng dễ dàng!
Nay chúng ta khởi tâm động niệm, có Ngã, có Nhân, kinh Kim Cang nói “ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng”, bốn tướng đầy đủ, vẫn phải kiếm tôn giả Ưu Ba Ly định tội. Duy Ma đại sĩ thấy vậy cũng cảm thấy ngài Ưu Ba Ly định tội không sai! Khi nào quý vị đã phá bốn tướng, không có “ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng”, tôn giả Ưu Ba Ly sẽ chẳng thể định tội quý vị được! Chẳng biết phải làm sao đối với quý vị! Chúng tôi đặc biệt nói lời này ở đây, hy vọng quý vị phải khéo nghe, phải lưu ý nhiều hơn: Chỉ cần quý vị có bốn tướng thì quý vị làm lành sẽ được thiện báo, làm ác ắt mắc ác báo. Sau khi lìa khỏi bốn tướng thì mới là thiện ác hai đằng đều phá sạch, mới thật sự đạt đến “tâm và cảnh đều Không”, đấy là cảnh giới của Pháp Thân đại sĩ. Chúng ta phải niệm Phật đến Lý nhất tâm thì mới là cảnh giới này. Nói cách khác, từ Sự nhất tâm trở xuống đều có kết tội, vì quý vị chưa lìa khỏi tâm ý thức, quý vị phải hiểu rõ đạo lý này!
Do vậy, phải tuân thủ giới luật! Không chỉ phải tuân thủ, mà còn phải giữ cho thanh tịnh. Ở đây trích dẫn đoạn kinh văn này có dụng ý rất sâu, chúng ta tuân thủ giới luật hoàn toàn chẳng chấp chết cứng vào giới điều. Vì sao phải giữ giới luật? Giúp chúng ta đạt được cái tâm thanh tịnh. Giới có nghĩa là thanh lương, giúp cho chúng ta tâm địa thanh lương, giúp chúng ta đắc nhất tâm bất loạn. Sau khi đạt được nhất tâm bất loạn, phải biết đột phá, đột phá rồi thì mới có thể chứng đắc Lý nhất tâm bất loạn. Nếu chấp trước giới luật, công phu tối đa chỉ có thể là Sự nhất tâm, chẳng thể đạt Lý nhất tâm, đó là chướng ngại. Vì thế, đạt đến cảnh giới này phải đột phá, giống như cư sĩ Duy Ma đã nói: Phải đột phá cửa ải này rồi mới có thể chứng đắc Pháp Thân, mới có thể phá vô minh, thấy bổn tánh.
Vì thế, quan niệm của Đại Thừa và Tiểu Thừa không giống nhau. Pháp Đại Thừa quả thật cao hơn pháp Tiểu Thừa rất nhiều. Trong Giới Kinh (Luật Tạng), kinh Tiểu Thừa kết tội theo Sự, chẳng bàn đến tâm, giống như pháp luật trong thế gian, luận theo sự việc để kết tội, luận theo lỗi lầm để kết tội. Giới luật Đại Thừa chẳng quan tâm đến sự mà luận định tâm. Vì thế, giới Đại Thừa khó giữ, giới Tiểu Thừa dễ tuân thủ. Ví như giới sát sanh, trong tâm tôi căm hận tột bậc, tôi muốn giết anh, nhưng hoàn toàn chẳng giết, đối với Tiểu Thừa chẳng phải là phạm tội, tôn giả Ưu Ba Ly chẳng thể định tội. Vì sao? Không có hành động! Nhưng đối với Đại Thừa Bồ Tát giới, quý vị bị kết tội. Giới Đại Thừa răn dè nơi tâm địa, giới Tiểu Thừa răn nơi sự tướng. Trong kinh Phạm Võng có phẩm Phạm Võng Bồ Tát Tâm Địa Giới. Đại Thừa luận tâm, không luận sự, kết tội nơi khởi tâm động niệm.
Điều này nhằm nói rõ “giáo chẳng phù hợp căn cơ, như hai tỳ-kheo bị ngài Ưu Ba Ly kết tội”. Vì sao họ hoài nghi? Chúng ta xem đoạn văn này liền hiểu ngay: Họ là căn tánh Đại Thừa, chẳng phải căn tánh Tiểu Thừa. Nếu là căn tánh Tiểu Thừa, họ chẳng hoài nghi, ta phạm tội này, đúng là phải kết tội như vậy. Họ cam tâm tình nguyện chịu [xử phạt]. Người căn tánh Đại Thừa, tuy bị phán tội, trong tâm họ không phục. Do vậy, họ mới có nghi hoặc. Gặp trưởng giả Duy Ma [phân xử] phù hợp căn tánh. Đối với người căn tánh Đại Thừa, nhất định phải dùng pháp Đại Thừa để độ họ; đối với người căn tánh Tiểu Thừa nhất định phải dùng pháp Tiểu Thừa để độ họ. Đoạn này nhằm nói rõ đạo lý này.
(Sớ) Minh ty chi tắc cơ thâm giáo thiển cố.
(疏) 明卑之則機深教淺故。
(Sớ: Chỉ rõ điều kém cỏi là [ở chỗ] căn cơ sâu mà giáo pháp nông cạn vậy).
“Minh” là nói rõ, “ty” là “ty hạ” (卑下: kém hèn), “cơ thâm” như vừa mới nói, tức là hai tỳ-kheo căn tánh Đại Thừa. Tôn giả Ưu Ba Ly theo luật định tội họ, đấy là tiểu giáo. Căn cơ Đại Thừa chẳng hợp với tiểu giáo.
(Sớ) Tha nhược bất tịnh thác thi lô câu, sổ tức bất lợi trủng nhân, bỉ thử vi môn, diệc phục các dị, nhi thiển thâm tiểu đại, thế bất kiêm nghi.
(疏) 他若不淨錯施爐韝 ,數息不利冢人 ,彼此為門,亦復各異,而淺深小大,勢不兼宜。
(Sớ: Ngoài ra, giống như lầm lẫn đem Bất Tịnh Quán dạy người kéo bễ thổi lò, pháp Sổ Tức Quán chẳng tạo lợi ích cho người trông mộ, pháp môn được lập ra cho mỗi bên mỗi khác là do [căn tánh] cạn, sâu, nhỏ, lớn [khác biệt]. Vì tình thế ấy, [những pháp môn ngoài Tịnh Độ] không thể nào thích hợp mọi căn cơ).
Những pháp môn khác cũng phải thích ứng khít khao với căn tánh thì mới có hiệu quả. Nếu căn tánh khác nhau, căn cơ chẳng phù hợp giáo pháp thì sẽ chẳng đạt được lợi ích. Người học Phật rất nhiều, có người học mấy chục năm, học suốt một đời chẳng đạt được gì, nguyên nhân là ở chỗ nào? Phật pháp họ được tiếp xúc chẳng khế hợp với căn cơ của chính họ, chẳng thích hợp! Vì thế, họ chẳng thành tựu gì! Chọn lựa như thế nào? Giống như bị bệnh vậy! Đã bị bệnh thì phải uống thuốc, thuốc rất nhiều, thử thuốc này, thử thuốc kia, thử cả mấy chục năm vẫn chẳng đúng bệnh. Bệnh tình của chính mình chẳng hề chuyển biến tốt đẹp hơn, đâm ra mỗi ngày một nặng hơn, phiền quá! Vì thế, ắt cần phải khế cơ. Đúng như khi ta bị bệnh, thuốc phải phù hợp căn bệnh thì mới có thể trị lành bệnh được!
(Diễn) Bất Tịnh Sổ Tức giả, Xá Lợi Phất giáo đệ tử.
(疏) 不淨數息者,舍利弗教弟子。
(Diễn: “Bất Tịnh, Sổ Tức”: Ngài Xá Lợi Phất dạy đệ tử).
Tôn giả Xá Lợi Phất dạy hai đồ đệ phương pháp tu hành, Ngài dạy một người tu Bất Tịnh Quán, dạy người kia tu Sổ Tức Quán. Trong An Sĩ Toàn Thư có viết về cách tu Bất Tịnh Quán rất cặn kẽ, có chín thứ Bất Tịnh Quán[12]. Sổ Tức là đếm hơi thở, tức là đếm hơi thở hít vào, hoặc đếm hơi thở ra, chẳng cần phải đếm cả hai loại, chỉ đếm một loại, có thể nhiếp tâm, đắc Định, mà cũng đoạn hết thảy vọng niệm. Khi đả tọa (tịnh tọa), quý vị chú ý hơi thở, ghi nhớ phân minh, từ một đến mười, rồi lại từ một đến mười, rõ ràng, rành rẽ, quý vị sẽ chẳng suy nghĩ loạn xạ, dùng phương pháp này tâm có thể đắc Định.
(Diễn) Cửu chi, giai bất thành.
(疏) 久之,皆不成。
(Diễn: Đã lâu ngày, họ đều tu chẳng thành).
Hai người đều chẳng thành công, nói cách khác, đều chẳng đắc Định. Trong tâm vẫn còn rất nhiều vọng tưởng.
(Diễn) Tâm dục phản đạo.
(疏) 心欲返道。
(Diễn: Lòng muốn bỏ đạo).
“Phản đạo” là ngã lòng, tu lâu lắc ngần ấy mà chẳng thành công, chẳng muốn tu nữa!
(Diễn) Vãng kiến Thế Tôn.
(疏) 往見世尊。
(Diễn: Đến gặp đức Thế Tôn).
Đây là nói đến gặp Phật, xin Phật cho phép thôi tu: Con có tu cũng chẳng thành. Chắc là do tội nghiệp quá nặng, chẳng có phần tu đạo, tính trở về nhà, không tu nữa, không hành nữa, thoái chuyển rồi!
(Diễn) Thế Tôn vấn nhị nhân tại gia hà nghiệp?
(疏) 世尊問二人在家何業?
(Diễn: Đức Thế Tôn hỏi hai người lúc chưa đi tu làm nghề gì?)
Đức Thế Tôn hỏi: – Lúc tại gia, các ông làm nghề gì?
(Diễn) Tu Sổ Tức giả viết: Thủ phần mộ.
(疏) 修數息者曰:守墳墓。
(Diễn: Người tu Sổ Tức thưa: “Con canh giữ mồ mả”).
Người tu Sổ Tức Quán nói lúc còn tại gia, ông ta canh giữ mồ mả cho người khác.
(Diễn) Tu Bất Tịnh giả viết: Dã kim khí.
(疏) 修不淨者曰:冶金器。
(Diễn: Người tu Bất Tịnh Quán thưa: “Con là thợ kim hoàn”).
Người tu Bất Tịnh Quán nói khi ông ta tại gia làm thợ kim hoàn, khảm châu báu, nung vàng, luyện vàng, làm những thứ đó.
(Diễn) Thế Tôn nãi lệnh nhị nhân dịch quán tu chi.
(疏) 世尊乃令二人易觀修之。
(Diễn: Đức Thế Tôn bèn bảo hai người đổi pháp Quán để tu tập).
Đức Phật nghe nói xong, bảo: Hai người hãy trao đổi, người coi mộ tu Bất Tịnh Quán, người thợ bạc tu Sổ Tức Quán. Hai người trao đổi pháp tu, tu chẳng bao lâu bèn thành công. Vì sao? Người coi mộ tu Bất Tịnh Quán là vì hằng ngày thấy người chết, dễ quán thành. Người thợ bạc ắt phải kéo ống bễ, phải rất chú tâm, thích hợp cách Sổ Tức. Dạy ông ta tu phép Bất Tịnh, ông ta chẳng có khái niệm gì hết. Vì thế, pháp môn nào thích hợp với hạng người ấy, thích hợp với căn tánh của người ấy, sẽ dễ tu thành công!
(Diễn) Bất cửu giai chứng đạo quả.
(疏) 不久皆證道果。
(Diễn: Không lâu sau, cả hai đều chứng đạo quả).
Đều thành tựu! Nếu pháp chẳng đúng với căn cơ, thưa quý vị, vẫn gọi là “tu mù, luyện đui” y như cũ! Vì thế, mọi người phải hiểu: Ta tu pháp môn này thích hợp, chưa chắc nó cũng thích hợp với người khác. Người khác tu pháp môn kia rất tốt đẹp, chưa chắc đã thích hợp với ta! Giống như chúng ta mắc bệnh không giống nhau, người ta uống loại thuốc kia, uống vào liền hết bệnh, ta cũng uống thuốc của người ấy, ta mắc bệnh không giống người ấy, uống thuốc ấy vào bệnh tăng nặng hơn, nhưng người ấy uống thuốc đó, bệnh liền lành! Đạo lý này ai nấy đều hiểu! Tu hành cũng giống như vậy; pháp môn chẳng đúng với căn cơ thì đều là “tu mù, luyện đui”. Chọn lựa pháp môn hết sức quan trọng, đây là một vấn đề lớn! Hai người ấy may mắn, sanh nhằm thời Thích Ca Mâu Ni Phật, thầy dạy họ chẳng phù hợp, họ có thể hỏi đức Phật. Nay chúng ta hỏi ai? Tôi lại thưa với quý vị: Hỏi ai cũng đều chẳng đáng tin cậy, chuyện này phiền lắm! Đây là do chúng ta thiếu phước báo. Vô lượng pháp môn, tu pháp môn nào mới nên? Phải nên tuân thủ pháp môn này; đây là con đường thẳng tắt, ổn thỏa, thích đáng nhất do đức Phật đã truyền lại.
(Sớ) Duy thử Niệm Phật pháp môn, tam bối cửu phẩm, tất giai độ thoát.
(疏) 惟此念佛法門,三輩九品,悉皆度脫。
(Sớ: Chỉ có pháp môn Niệm Phật này, ba bậc, chín phẩm đều được độ thoát).
Phần trên đã nói nhiều lời như thế chỉ vì một câu này. Pháp môn này như thế nào? Bất luận căn tánh nào cũng đều thích hợp! Thượng trung hạ căn đều thích hợp, chẳng như các pháp môn khác chỉ hợp với một loại bệnh nào đó mà thôi! Dùng thuốc ấy để trị bệnh khác chẳng được! Pháp này ví như thuốc A Già Đà, là vạn linh đan, bất luận quý vị bị bệnh gì, dùng thuốc này tuyệt đối chẳng bị rắc rối, chỉ có lợi, chứ không có hại! Đang nhằm thời kỳ Mạt Pháp, chúng ta phước báo cạn mỏng, chẳng gặp thiện tri thức, tu pháp môn này chắc chắn tốt lành. Có nhiều người chiếu theo pháp môn này tu tập mà chẳng thành công là do mắc lỗi gián đoạn, xen tạp. Nếu chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp, không ai chẳng thành công. Vì thế, phải nhớ thật kỹ câu này!
“Duy thử” (chỉ có): Chỉ có pháp môn Niệm Phật này, “tam bối” (ba bậc) là ba thứ căn cơ thượng, trung, hạ, chữ “cửu phẩm” cũng chỉ các căn cơ khác nhau. Trong thượng bối có thượng thượng, thượng trung, thượng hạ; trong hạ bối có hạ thượng, hạ trung, hạ hạ, tổng cộng chín phẩm. “Tất giai độ thoát” (thảy đều độ thoát): Không có một ai chẳng thành tựu. Vì thế, nay chúng ta chọn lựa pháp môn này, chuyên tu pháp môn này, chuyên hoằng dương pháp môn này. Nói cách khác, chuyên hoằng dương pháp môn này thì những người có cùng căn tánh với chúng tôi, có tín tâm gần giống chúng tôi, tôi có thể đạt được lợi ích, quý vị cũng đều đạt được lợi ích. Những người tín giải khác biệt, họ tu các pháp môn khác, chúng ta chỉ có cách tán thán họ. Giống như trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, mỗi vị thiện tri thức tu một loại pháp môn, Thiện Tài đồng tử đều nhất loạt tán thán. Chẳng riêng mình Thiện Tài đồng tử tán thán, mà chư thiện tri thức cũng đều tự mình khiêm hư, khen ngợi lẫn nhau.
Ở đây, chúng tôi phải nhắc nhở các vị đồng tu, đức Phật chẳng trụ thế, chúng ta có thể tuân thủ Tứ Y Pháp trong di giáo của đức Phật thì sẽ chẳng khác gì đức Phật tại thế. Điều thứ nhất là “y pháp, bất y nhân”; đặc biệt là trong thế gian hiện thời, trong giai đoạn hiện tại, “ma mạnh, pháp yếu”, ma nhiều, Phật ít chính là giai đoạn này! Trong kinh Lăng Nghiêm có nói: Trong thời đại hiện tại, “tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”, chúng ta làm cách nào để phân biệt? Do vậy, ắt cần phải nhớ Tứ Y Pháp của Phật. “Y pháp, bất y nhân”, bất luận ai nói gì, đúng cũng được, mà trật cũng được, chúng ta không quan tâm đến, chính mình sẽ chẳng bị tổn hại. Pháp là gì? Kinh điển. Kinh điển phải lấy Đại Tạng Kinh làm tiêu chuẩn. Kinh điển này trong Đại Tạng Kinh có hay chăng? Nếu trong Đại Tạng Kinh không có, kinh ấy không đáng tin, chúng ta đừng nên tin theo, ngay cả chú giải cũng đều là như thế!
Trước kia, Đại Tạng Kinh được biên tập hết sức cẩn thận. Hiện thời, chúng ta đừng xem Đại Tạng Kinh được biên tập theo lối mới, vì sao? Chẳng đủ tiêu chuẩn! Trước kia, Đại Tạng Kinh do hoàng đế ban bố. Chưa được hoàng đế ban chiếu chấp thuận, kinh ấy chẳng được phép lưu thông. Vì sao? Sợ hại người! Nói cách khác, quốc gia lập ra một cơ sở kiểm nghiệm, phải phù hợp tiêu chuẩn mới có thể lưu thông. Chẳng hợp tiêu chuẩn, chẳng được phép lưu thông. Trước kia, kinh điển phiên dịch ra được bao nhiêu người ấn chứng không sai lầm, hoàng đế mới ban bố. Các đại đức chú giải kinh, chú sớ đều phải trình lên chính quyền, chính quyền bèn mời rất nhiều cao tăng đại đức thẩm tra, [chứng nhận chú sớ] không bị sai lầm rồi mới trình lên hoàng đế. Hoàng đế phê chuẩn rồi mới được “nhập tạng” (đưa vào Đại Tạng Kinh), [tức là] chép vào Đại Tạng Kinh. Chẳng giống như hiện thời, chúng ta có tiền mở thư cục, tác phẩm nào của quý vị rất hay, tôi bèn đem sách của quý vị ghép vào Đại Tạng Kinh, chẳng có tiêu chuẩn! Vì lẽ này, đối với những bản sách trong hiện thời, càng là bản xưa càng quý báu, vì sao? Tiêu chuẩn càng cao!
Thứ hai là “y nghĩa, bất y ngữ”, ngôn ngữ, văn tự có sai khác đôi chút chẳng sao, đừng chấp chết cứng nơi văn tự. Chẳng hạn như kinh Kim Cang có sáu bản dịch, chúng ta rốt cuộc nên dựa theo bản nào? Không sao cả! Chỉ cần ý nghĩa giống nhau là được rồi, văn tự sai khác đôi chút không sao hết, quan trọng là ý nghĩa. Hiểu rõ đạo lý này, chúng ta trích dẫn kinh, hay đọc chú giải, hoặc nghe giảng, quan trọng nhất là phải hiểu được ý nghĩa trong ấy. Hiểu rõ ý nghĩa thì trong tương lai quý vị nói với người khác, quý vị thích nói như thế nào bèn nói như thế ấy, đừng học theo ngôn ngữ, học ngôn ngữ là học chết cứng! Hiểu được ý nghĩa bèn sống động, nương theo nghĩa, chẳng nương theo ngôn ngữ, như vậy thì mới có thể tránh được rất nhiều tranh chấp!
Thứ ba là “y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa”. Nói đơn giản, những gì có thể giúp cho quý vị thoát lìa luân hồi, liễu sanh tử, thoát tam giới trong một đời này thì là “liễu nghĩa”. Nếu kinh điển nào không có cách gì giúp quý vị vượt thoát lục đạo luân hồi trong một đời này, kinh điển ấy gọi là “bất liễu nghĩa”. Pháp môn cũng như vậy, [pháp môn nào] chẳng thể vượt thoát tam giới thì pháp môn ấy chẳng phải là pháp môn liễu nghĩa, có thể vượt thoát tam giới sanh tử luân hồi thì gọi là pháp môn liễu nghĩa. Nay chúng ta thấy trong tất cả các pháp môn, pháp môn này có thể làm cho chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, vậy thì pháp môn này là pháp môn liễu nghĩa, kinh này là kinh điển liễu nghĩa.
Thứ tư, “y trí, bất y thức”. Trí là trí huệ, lý trí. Thức là cảm tình, người học Phật phải dựa trên lý trí, đừng nương theo cảm tình. Nương theo cảm tình sẽ thuộc vào sanh tử, luân hồi! Nương theo Lý Trí mới có thể vượt thoát. Vì thế, thời thời khắc khắc đãi người tiếp vật phải có lý tánh, đừng trọng cảm tình. Đức Phật dạy chúng ta bốn nguyên tắc này. Có thể tuân thủ bốn nguyên tắc này, sẽ chẳng khác gì thân cận Phật!
Kinh điển, nhất là những kinh điển lưu truyền từ xưa đến nay, đối với những lý luận, phương pháp, cảnh giới được nói trong các kinh điển chúng ta phải nên tin sâu chẳng nghi, phải y giáo tu hành. Hiện thời, có rất nhiều người phê bình kinh điển, hủy báng kinh điển, thậm chí còn muốn sửa đổi kinh điển. Những kẻ ấy đều là yêu ma, quỷ quái, chúng ta phải nhận biết rõ ràng, đừng bị bọn chúng lừa gạt! Nếu bọn chúng nói chúng nó là vị Phật nào đó tái lai, Phật tái lai cũng chẳng thể sửa kinh, vì sao? Phật Phật đạo đồng! Nếu pháp do đức Phật này nói, đức Phật kia bảo là không đúng thì kẻ [nêu ra thuyết] đó nhất định là yêu ma quỷ quái, vì sao? Kiến giải của chư Phật hoàn toàn tương đồng! Quý vị đã thành Phật thì [sẽ nói] kinh điển chẳng sai chút nào, [người nói] hoàn toàn giống với lời Phật nói thì người ấy mới là Phật. Lại xem đoạn tiếp theo, đại sư lại vì chúng ta mà chẳng ngại phiền giảng rõ câu “tam giới cửu phẩm, tất giai độ thoát”.
(Sớ) Triệt thượng, tắc tam tâm viên phát, trực nhập Vô Sanh, triệt hạ, tắc thập niệm thành công, diệc sanh bỉ quốc. Sở vị: “Bất ly nhất pháp, xảo bị chư căn”.
(疏) 徹上, 則三心圓發, 直入無生, 徹下, 則十念成功,亦生彼國。所謂不離一法,巧被諸根。
(Sớ: Thông trên thì phát trọn vẹn ba tâm, chứng nhập thẳng vào Vô Sanh, thấu dưới thì mười niệm thành công cũng sanh về cõi kia. Đấy gọi là: “Chẳng lìa một pháp, khéo phù hợp các căn”).
Đây là giải thích câu “tam căn phổ bị, lợi độn tề thâu”. Tam tâm viên phát là gì? Quý vị hãy mở sách Diễn Nghĩa, ở đây chúng ta phải đặc biệt chú ý, vì sao? Có mối quan hệ khiến ta có thể vãng sanh trong một đời này hay không? Không chỉ quan hệ về vãng sanh, mà còn quan hệ đến phẩm vị vãng sanh cao hay thấp, hy vọng mọi người trong cuộc sống thường ngày đều vận dụng ba thứ tâm này, tức là [ba tâm] như đức Phật đã nói trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh.
(Diễn) Tam tâm, tức Quán Kinh sở vân: Nhất giả, chí thành tâm, nhị giả thâm tâm, tam giả hồi hướng phát nguyện tâm.
(疏) 三心,即觀經所云:一者至誠心,二者深心,三者回向發願心。
(Diễn: Tam tâm là như Quán Kinh đã nói: Một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện tâm).
“Tam tâm” là nhất tâm, tức là Bồ Đề tâm, là Phật tâm. Phật là tâm gì vậy? Phật là những tâm này! Cái tâm của chúng ta khác với tâm Phật, cho nên chúng ta chưa thể thành Phật. Nếu tâm chúng ta giống như Phật thì sẽ thành Phật, thành Phật chẳng phải là thân thành Phật, mà là tâm thành Phật, quý vị nhất định phải hiểu rõ đạo lý này!
Thứ nhất là “chí thành”, thành đến mức cùng cực, “thành” là thật, chẳng có tí ti hư giả nào. Tâm ấy gọi là “chân tâm”, đối với hết thảy người, đối với hết thảy vật đều phải dùng tấm lòng chân thành, nhất định chẳng lừa dối người khác. Cũng có những vị cho rằng: “Nếu tôi dùng chân tâm, thành tâm, tôi làm gì cũng chẳng suông sẻ!” Có người nói: “Tôi buôn bán, nếu tôi chẳng gạt người ta, làm sao kiếm tiền được?” Thật ra những quan niệm ấy đều sai lầm. Nếu nói gạt người sẽ kiếm được tiền thì kẻ gạt người rất nhiều, cớ sao họ mạt rệp như thế? Đủ thấy những món tiền họ kiếm được chẳng do lừa gạt mà có! Trong kinh, đức Phật đã dạy chúng ta: Của cải do tu Tài Bố Thí trong đời quá khứ đưa tới, trong mạng quý vị có! Tâm quý vị chân thành thì nay quý vị buôn bán kiếm được tiền nhiều ngần ấy. Quý vị sử dụng hết mọi thủ đoạn lừa gạt thì nay quý vị vẫn kiếm được đúng ngần ấy, chẳng tăng, chẳng giảm, sao lại khổ sở lừa gạt người khác? Chẳng cần thiết! Cổ nhân nói: “Quân tử vui vẻ làm quân tử, tiểu nhân oan uổng làm tiểu nhân”. Trong mạng của quý vị đã có sẵn, một miếng ăn, một hớp uống không gì chẳng phải đã định sẵn, chẳng dính dáng gì với dụng tâm. Quý vị dùng chân tâm, ngày nay quý vị có được nhiều ngần ấy; quý vị dùng giả tâm, quý vị vẫn được nhiều ngần ấy, chẳng liên can! Nhưng quý vị dùng chân tâm thì có thể thành Phật, dùng giả tâm phải đọa tam đồ. Đó là oan uổng! Vì thế, đãi người, tiếp vật phải dùng lòng chân thành, đừng nên hư ngụy. Đó là cơ sở và căn bản để “học Phật, thành Phật”. Đấy là bản thể của Bồ Đề tâm, bản thể là chí thành.
Hai tâm kế tiếp là ứng dụng. Thâm tâm là Tự Thụ Dụng tâm, để chính mình thụ dụng, đối với chính mình. Chân thành chí thành tâm đối với chính mình khởi tác dụng thì gọi là “thâm tâm”. Vì vậy, thâm tâm là thanh tịnh tâm. Con người thích nhất là tâm thanh tịnh, đó là niềm vui tối cao! Người thân tâm thanh tịnh là người sung sướng nhất. Thâm tâm là thanh tịnh tâm, chuộng thiện ưa đức là thâm tâm, Tự Thụ Dụng đấy! Đối đãi người khác như thế nào? Chí thành đối đãi người khác là hồi hướng phát nguyện tâm. Trí huệ, năng lực, thân thể, tài sản của chúng ta đều cống hiến cho xã hội, mưu cầu phước lợi cho đại chúng, đó là hồi hướng phát nguyện tâm. Chẳng vì chính mình mà vì hết thảy chúng sanh, đó là hồi hướng, hồi tự hướng tha. Hồi tự hướng tha thì có phải là công đức của chính mình chẳng còn nữa hay chăng? Chẳng phải! Trong kinh Địa Tạng nói: Nếu chính mình tu hành mà chẳng hồi hướng thì lợi ích chỉ được một đời, tối đa là ba đời. Nếu hồi hướng, đúng là trăm kiếp ngàn đời hưởng thụ phước báo bất tận!
Hồi hướng giống như thắp đèn: Dùng một ngọn đèn của ta thắp sáng hết thảy các ngọn đèn. Hết thảy các ngọn đèn đều được thắp lên, đèn của ta vẫn cháy, trọn chẳng bị tắt. Trọn chẳng phải là ta san sẻ lửa đèn cho người khác, đèn của ta liền tắt. Không có! Chỉ càng thêm sáng sủa, vì sao? Ví như một căn nhà, ta thắp một ngọn đèn chiếu sáng, nhưng mấy ngàn ngọn đèn, mấy vạn ngọn đèn thảy đều thắp lên, càng sáng rực hơn! Khuếch đại công đức do chính mình đã tu, khuếch đại đến vô lượng vô biên tận hư không khắp pháp giới, làm sao bị tổn thất cho được? Chẳng bị tổn thất! Đức Phật dạy chúng ta phát bốn hoằng thệ nguyện đều là hồi hướng. Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát cũng là hồi hướng. Hai nguyện trước trong ba nguyện cuối cùng là “biệt hồi hướng”, một nguyện sau cùng là tổng hồi hướng, “phổ giai hồi hướng”. Lại thưa cùng quý vị, nếu chẳng hồi hướng, quý vị sẽ chẳng phá được Nhân Ngã Chấp, niệm niệm vì chính mình. Nếu quý vị chịu hồi hướng, sẽ bất tri bất giác phá Ngã Chấp trong ấy, phá Ngã Chấp sẽ chứng địa vị Tứ Quả La Hán. Nếu quý vị niệm Phật bèn có thể đắc Sự nhất tâm bất loạn. Nếu quý vị chẳng phá Ngã Chấp, đới nghiệp vãng sanh bèn sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn mang thân phận trời người, điều này có quan hệ rất lớn đối với phẩm vị. Có thể niệm niệm đều hồi hướng cho hết thảy chúng sanh, sẽ vô ý phá được Ngã Chấp; đã vô ngã rồi, chúng ta niệm Phật mới có thể đắc nhất tâm bất loạn, như vậy thì mới có thể sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư, hay cõi Thật Báo Trang Nghiêm, phẩm vị được nâng cao lên rất nhiều!
Quý vị phải ghi nhớ: Tam tâm là nhất tâm, một tâm (chí thành tâm) là Thể, hai tâm kia (thâm tâm và hồi hướng phát nguyện tâm) là Dụng. Một Thể, hai Dụng. Một cái là Tự Thụ Dụng, một cái là Tha Thụ Dụng. Vì thế, tam tâm là nhất tâm, Thể và Dụng của nhất tâm là nói theo ba phương diện. Lại giảng thế nào là “viên phát”?
(Diễn) Viên giả, viên đốn, vô thứ đệ cố.
(疏) 圓者圓頓,無次第故。
(Diễn: Viên là viên đốn, không theo thứ tự).
Viên có ý nghĩa như thế này: Chẳng có giai cấp, chẳng có thứ tự trước sau. Hễ phát thì cả ba tâm đồng thời đều phát, chứ không phải là trước hết ta phát chí thành tâm, rồi phát thâm tâm, sau đấy mới phát ra cái tâm phát nguyện hồi hướng. Chẳng phải vậy, mà là đồng thời. Đồng thời thì là Viên, thì là Đốn!
(Diễn) Hựu viên dung, vô bỉ thử cố.
(疏) 又圓融,無彼此故。
(Diễn: Lại là viên dung, không có đây, kia).
Viên có ý nghĩa như thế này: Ý nghĩa viên dung, chẳng có đây hay kia.
(Diễn) Hựu viên mãn, vô khuyết thiểu cố.
(疏) 又圓滿,無缺少故。
(Diễn: Lại có nghĩa là viên mãn, không thiếu sót).
Đây là ý nghĩa khác của chữ Viên, Viên bao gồm rất nhiều ý nghĩa: Viên mãn, chẳng có thiếu sót!
(Diễn) Thử thị viên nhân.
(疏) 此是圓人。
(Diễn: Đây là người căn tánh viên đốn).
Thưa quý vị, người thật sự phát những tâm ấy là người căn tánh viên đốn trong năm giáo. Do vậy, để xét xem căn tánh của con người là căn tánh Đại Thừa hay căn tánh Tiểu Thừa, căn tánh Biệt Giáo, căn tánh Thông Giáo, hay căn tánh Viên Giáo thì xét từ chỗ nào? Xét từ phát tâm. Xét sự phát tâm thì quý vị tiếp xúc, quan sát, chuyện trò mấy câu liền biết ngay, biết người ấy dùng cái tâm gì, thuộc hạng nào trong Tạng, Thông, Biệt, Viên. Nói cách khác, nên dùng giáo pháp nào thì mới khế hợp căn cơ của người ấy. Căn tánh viên đốn nhạy bén nhất là bậc thượng thượng căn. Chỉ có phát trọn vẹn ba tâm thì mới có thể tiếp nhận Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, cũng như kinh Phạm Võng. Những kinh ấy đều là pháp Nhất Thừa, người ấy vui thích tiếp nhận, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, thật sự đã phát ba tâm ấy.
(Diễn) Tựu viên dung tam pháp nhi phát tâm dã.
(疏) 就圓融三法而發心也。
(Diễn: Bèn viên dung ba pháp mà phát tâm).
Đó gọi là người căn tánh viên đốn, hoặc còn gọi là chủng tánh viên đốn.
(Diễn) Đương tri phát thử tam tâm thị nhân.
(疏) 當知發此三心是因。
(Diễn: Hãy nên biết: Phát ba tâm này là nhân).
Có nhân lại còn có duyên, đương nhiên có quả báo.
(Diễn) Thị vị sanh Tịnh Độ thời sự.
(疏) 是未生淨土時事。
(Diễn: Đó là chuyện trước khi sanh về Tịnh Độ).
Đây là bảo chúng ta: Phát trọn vẹn ba tâm là [nhằm nói về] chúng ta trong hiện tại, hiện thời chúng ta vẫn chưa sanh về Tịnh Độ, [còn đang] cầu sanh Tịnh Độ, vẫn chưa sanh về Tịnh Độ. Quý vị đã phát trọn vẹn ba tâm, niệm một câu A Di Đà Phật, sẽ gọi là Lý niệm, nhất tâm bất loạn mà quý vị đắc chính là Lý nhất tâm bất loạn, chẳng phải là Sự nhất tâm. Người đã phát trọn vẹn ba tâm rất dễ khai ngộ, vì sao? Người ấy ít chướng ngại. Vì sao ít chướng ngại? Chẳng có nghi lự gì! Phàm là kẻ lắm chướng ngại, nghi thần, nghi quỷ, lắm nỗi hoài nghi, lo lắng quá nhiều, đó là chướng ngại. Người đã phát trọn vẹn ba tâm, lo lắng gì cũng chẳng có, nghi hoặc gì cũng không có. Do vậy, đối với hết thảy kinh giáo, người ấy dễ dàng khai ngộ. Những thứ ấy đều phải do chính mình cầu, người khác chẳng giúp đỡ được. Nói theo cách bây giờ, đây chính là thiết lập một nhân sinh quan và vũ trụ quan mới mẻ.
Đối với các pháp thế gian và xuất thế gian, hết thảy chẳng hoài nghi, hết thảy không vướng mắc, tâm quý vị sẽ thanh tịnh. Tâm thanh tịnh tiếp xúc hết thảy các pháp, tâm khai ý giải, tự nhiên có thể lý giải, đấy chính là trí huệ Bát Nhã trong bổn tánh khởi tác dụng. Thiền gia thường nói “lìa tâm ý thức”, ba tâm bèn hiển lộ. Tâm là vọng tưởng, Ý là chấp trước, Thức là phân biệt. Nói cách khác, trong hết thảy các pháp chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, chẳng khởi vọng tưởng, người ấy tự tại lắm! Đó là người căn tánh viên đốn thật sự. Câu “vị sanh Tịnh Độ thời sự” (chuyện thuộc lúc chưa sanh về Tịnh Độ) chính là nói về chúng ta trong hiện thời.
(Diễn) Thị Viên Thập Tín vị trung sự.
(疏) 是圓十信位中事。
(Diễn: Là chuyện thuộc về địa vị Thập Tín trong Viên Giáo).
[Đây là] chuyện thuộc về địa vị Thập Tín trong Viên Giáo. Tuy thuộc Thập Tín, nhưng chỗ thù thắng của địa vị Thập Tín trong Viên Giáo là Thập Tín trong Viên Giáo bằng với địa vị Tam Hiền trong Biệt Giáo; nhưng so ra, căn tánh phải nhạy bén hơn hàng Bồ Tát thuộc địa vị Tam Hiền trong Biệt Giáo rất nhiều.
Tam Hiền Bồ Tát trong Biệt Giáo vẫn có nhiều chướng ngại, Thập Tín trong Viên Giáo ít chướng ngại. Vì vậy, người căn tánh viên đốn đáng quý nhất, khó có nhất.
(Diễn) Trực nhập Vô Sanh thị quả.
(疏) 直入無生是果。
(Diễn: Chứng nhập thẳng vào Vô Sanh là quả).
Trực nhập Vô Sanh là quả báo.
(Diễn) Thị dĩ sanh Tịnh Độ thời sự, thị chứng Viên Sơ Trụ thời sự.
(疏) 是已生淨土時事,是證圓初住時事。
(Diễn: Đó là chuyện khi đã sanh vào Tịnh Độ, là chuyện khi đã chứng Sơ Trụ trong Viên Giáo).
Thật là phi phàm! Sơ Trụ trong Viên Giáo là gì? Là Lý nhất tâm bất loạn, sanh trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm, chúng ta nói là Thượng Phẩm Thượng Sanh, hoa nở thấy Phật. Trong bài kệ Hồi Hướng ta thường niệm có câu: “Hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh” là nói về người thuộc quả vị này. Nếu quý vị hỏi: Lý nhất tâm là gì? Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta từ sáng đến tối đãi người, tiếp vật, đều dùng chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm thì đó là Lý nhất tâm. Ắt phải trong hết thảy cảnh duyên thuận và nghịch, cảnh là hoàn cảnh vật chất, duyên là hoàn cảnh nhân sự (quan hệ giữa con người với nhau), rèn luyện trong hết hoàn cảnh vật chất và nhân sự, luyện gì vậy? Luyện chân thành! Người khác đối xử tốt đẹp với ta, ta dùng tâm chân thành đối với người ấy. Người khác chơi xấu ta, ta vẫn phải dùng cái tâm chân thành để đối đãi kẻ ấy, nhất quyết chẳng có hai tâm! Ta đối với Phật, Bồ Tát bằng cái tâm chân thành, đối với kẻ oan gia đối đầu vẫn dùng tấm lòng chân thành, nhất tâm, chẳng nhị tâm, đó là Lý nhất tâm bất loạn. Nếu quý vị dùng cái tâm này, bất luận trong cảnh giới nào, tâm quý vị luôn thanh tịnh, từ bi, hồi hướng phát nguyện tâm là tâm đại từ đại bi.
Quý vị chẳng chịu dùng cái tâm này thì nói cách khác, quý vị chẳng tu Lý nhất tâm, còn có cách gì nữa đây? Đấy là chuyện của chính mình, Phật, Bồ Tát chắc chắn chẳng giúp được! Có thể chuyển cảnh giới hay không là do trong một niệm của quý vị. Trong thế gian này, quý vị vẫn còn phân biệt nhân ngã, thị phi thì chẳng những không có phần nơi Viên Giáo, mà Biệt Giáo và Thông Giáo cũng chẳng có phần, chắc chắn thuộc vào Tạng Giáo, tức là tầng thấp nhất trong Tạng – Thông – Biệt – Viên. Chỉ có người thuộc Tạng Giáo mới phân chia nhân ngã, thị phi,
mới có những chấp trước nghiêm trọng như vậy. Người thuộc Thông Giáo đã biến đổi lớn lao, chẳng còn chấp trước nữa.
(Diễn) Tam tâm viên phát trực nhập Vô Sanh giả, vị đản năng tam tâm viên phát giả, sanh Tịnh Độ thời tức trực nhập Vô Sanh dã.
(疏) 三心圓發直入無生者 , 謂但能三心圓發者 , 生
淨土時即直入無生也。
(Diễn: “Phát trọn vẹn ba tâm, chứng nhập thẳng vào Vô Sanh” ý nói: Chỉ cần phát trọn vẹn ba tâm thì lúc sanh vào Tịnh Độ liền lập tức chứng nhập Vô Sanh).
Câu này nói hết sức rõ ràng, chỉ cần quý vị dùng ba tâm (chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm), từ nay trở đi, ta đối với người bằng lòng chân thành, kẻ khác luôn dối gạt ta, được thôi! Tiêu nghiệp chướng cho chính mình! Chẳng những chớ nên trách móc kẻ ấy, mà ngược lại còn dập đầu cảm tạ hắn. Vì sao? Tiêu trừ nghiệp chướng từ vô thỉ kiếp đến nay. Người ta chửi chúng ta một câu là tiêu trừ nghiệp chướng, nếu quý vị chửi lại người ta một câu, quý vị không chỉ chẳng tiếp nhận người ta thay mình tiêu trừ nghiệp chướng, mà chính mình còn muốn tạo nghiệp, tăng thêm tội! Vì thế, đối với người hiểu biết: Chịu thiệt thòi là chiếm tiện nghi. Kẻ chẳng chịu thua thiệt là kẻ chẳng biết tiếp nhận cách tiêu nghiệp chướng. Vì thế, quý vị đọc kinh Phật phải mở mang trí huệ, nhất định phải giác ngộ.
Trực nhập Vô Sanh là trực tiếp sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm, quý vị chẳng vãng sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, chẳng sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư. Người sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm có ai chẳng biết trước lúc mất? Có ai chẳng sanh tử tự tại? Ngay cả bậc Thượng Phẩm Thượng Sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng đều biết trước lúc mất, lúc lâm chung như nhập Thiền Định, huống hồ bậc Thượng Phẩm Thượng Sanh trong cõi Thật Báo! Vì thế, quý vị nhất định phải khéo dụng tâm, phải dùng chân tâm, chớ nên hư tình giả ý, [nếu hư tình giả ý] kẻ chịu thiệt thòi là chính mình, chắc chắn chẳng phải là người khác! Hôm nay chúng tôi giảng kinh văn đến chỗ này!
— o0o —
Tập 63
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang tám mươi tư:
(Sớ) Duy thử Niệm Phật pháp môn, tam bối cửu phẩm, tất giai độ thoát, triệt thượng, tắc tam tâm viên phát, trực nhập Vô Sanh; triệt hạ, tắc thập niệm thành công, diệc sanh bỉ quốc.
(疏) 惟此念佛法門 ,三輩九品 ,悉皆度脫 。 徹上,則三心圓發,直入無生;徹下,則十念成功,亦生彼國。
(Sớ: Chỉ có pháp môn Niệm Phật này, ba bậc chín phẩm đều được độ thoát. Thông trên thì phát trọn ba tâm, vào thẳng Vô Sanh; thấu dưới thì mười niệm thành công, cũng sanh về cõi ấy).
Kinh A Di Đà không dài, cổ nhân ca ngợi bản chú giải của Liên Trì đại sư là “bác đại tinh thâm” (mênh mông, tinh vi, sâu thẳm). Cơ hội giảng Sớ Sao một lượt hết sức khó có, chúng ta phải nên quý tiếc dịp này. Lần này, khóa giảng của chúng tôi bị gián đoạn tám tháng, đột nhiên đọc kinh văn này, quả thật cũng chẳng biết nói điều gì. Xin quý vị mở quyển kinh, chúng ta ôn lại phần Duyên Khởi đã giảng trước kia. Trước khi giảng kinh, Liên Trì đại sư đã nói rõ đạo lý của bộ kinh này, đạo lý ấy được chia thành mười đoạn. Đoạn thứ nhất là Giáo Khởi Sở Nhân, [tức là] vì nguyên nhân nào mà [đức Phật] nói pháp môn này? Vì sao chúng ta phải niệm Phật? Trong điều này, trước hết là tổng thuyết (nói tổng quát), “tiên minh tổng giả (tổng nhân duyên), vị Như Lai duy vị nhất đại sự nhân duyên xuất hiện ư thế” (trước hết, nói nhân duyên chung, nghĩa là Như Lai vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện trong cõi đời). Rốt cuộc đức Phật vì đại sự gì vậy? Chúng ta phải hiểu rõ điều này!
Chuyện lớn nhất của đời người trong thế gian là đại sự sanh tử. Nhiều đồng tu cũng có thể nói [như vậy], tuy biết nói, nhưng thường quên khuấy đại sự này. Vì sao? Nếu quý vị chẳng quên khuấy, cớ sao quý vị khởi vọng tưởng? Quý vị suốt ngày từ sáng đến tối khởi vọng tưởng, đủ thấy đã quên khuấy đại sự này. Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật nói “khai thị ngộ nhập tri kiến của Phật”. Đó là lý do vì sao Thích Ca Mâu Ni Phật giáng sanh trong thế gian này, vì sao Ngài muốn giảng Phật pháp cho chúng ta. Đức Phật “khai thị”, “khai” (開) là khơi mở, “thị” (示) là chỉ bày. Gợi mở, chỉ bày điều gì? Phật tri, Phật kiến. Mỗi cá nhân chúng ta vốn sẵn có Phật tri, Phật kiến. Kinh Đại Thừa nói “hết thảy các chúng sanh vốn đã thành Phật”. Quý vị vốn là Phật, vì sao ngày nay biến thành nông nỗi này? Do quý vị mê mất Phật tri Phật kiến của chính mình. Đức Phật làm Tăng Thượng Duyên cho chúng ta, giúp cho chúng khơi mở, chỉ bày Phật tri Phật kiến mà chúng ta sẵn có, nhưng chúng ta phải biết học. Vì thế, hai chữ “ngộ nhập” là chuyện của chính mình, đức Phật khơi mở, chỉ bày, còn bản thân chúng ta phải giác ngộ. Sau khi giác ngộ, chính mình phải nhập cảnh giới ấy, “nhập” (入) là phải chứng đắc, như vậy thì mới chẳng cô phụ ý nghĩa xuất hiện trong thế gian này của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Tiếp theo đó là “biệt thuyết”, nhân duyên riêng biệt gồm mười điều. “Nhất, đại bi mẫn niệm Mạt Pháp, vị tác tân lương cố” (Thứ nhất, do lòng đại bi nghĩ thương đời Mạt Pháp, làm cầu bến [cho chúng sanh]). Chúng ta đặc biệt chú ý từ ngữ “mẫn niệm Mạt Pháp”. “Mẫn” (憫) là xót thương; [“mẫn niệm Mạt Pháp” là] xót thương chúng sanh đời Mạt Pháp, nay chúng ta đang sống trong thời Mạt Pháp. Cõi đời loạn lạc, thế giới hiện thời nguy cơ trùng trùng, chẳng tìm được chỗ nào để an thân lập mạng, loạn đến tột cùng! Nhìn từ chỗ nào? Nhìn từ lòng người. Lòng người rối loạn, đánh mất chuẩn tắc, [tức là] chẳng có một nguyên tắc, tiêu chuẩn nào, không được rồi! Đây là một điềm dự báo hết sức bất lợi, chúng ta phải giác ngộ. Điềm dự báo là cả thế giới nhất định sẽ xảy ra tai nạn to lớn; nay chúng ta may mắn gặp gỡ Phật pháp, nếu có thể tin hiểu, y giáo phụng hành, trong khoảng thời gian ngắn ngủi trước khi đại kiếp nạn xảy tới, chúng ta còn có đủ thời gian để chuẩn bị hòng có thể tránh khỏi tai nạn này, có đủ thời gian hòng thoát khỏi! Điều cốt yếu là chúng ta có tin hay không, tức là chính mình có thiện căn, phước đức hay chăng. Đã gặp nhân duyên này, [đức Phật] bảo rõ ràng với chúng ta: Trong thời Mạt Pháp, trừ pháp môn Niệm Phật ra, không có pháp nào khác cứu được! Tu học bất cứ pháp môn nào khác đều chẳng thể thành công!
Lần này, từ Hương Cảng, tôi đem về cuốn băng thâu âm lời khai thị trong Phật Thất của lão pháp sư Đàm Hư, quý vị hãy nghe lời giảng diễn của vị lão pháp sư này, Ngài là tổ sư của tông Thiên Thai trong thời cận đại, Ngài cũng nói rõ ràng, minh bạch: Trong cả một đời Ngài, thấy người niệm Phật biết trước lúc mất, có người đứng mà mất, có người ngồi qua đời, không bệnh tật mà mất, ra đi vô cùng tự tại, Ngài thấy cả hơn hai mươi người [ra đi như thế]. Chính Ngài ngồi viên tịch năm chín mươi mấy tuổi, cũng chẳng có bệnh tật gì! Đấy đều là những chuyện chứng thực rõ ràng. Ngài học giáo nghĩa Thiên Thai, Thiên Thai thì phải nên tu Chỉ Quán, nhưng Ngài chẳng tu Thiền, chẳng tu Chỉ Quán, mà niệm Phật, Ngài còn đặc biệt nói rõ: Trong thời đại này, tu Thiền, học Mật, hay học gì đi nữa, đều chẳng thể thành tựu! Ngài khai thị chém đinh chặt sắt như thế, khuyên chúng ta hãy niệm Phật. Vì thế, nhân duyên thứ nhất là tâm đại bi, đại từ đại bi, nghĩ thương lũ chúng sanh chúng ta trong hiện tại, làm cầu bến cho chúng ta.
“Nhị, đặc ư vô lượng pháp môn, xuất thắng phương tiện cố” (Hai là vì đặc biệt nêu ra phương tiện thù thắng trong vô lượng pháp môn). “Thắng” (勝) là thù thắng. Pháp môn này thù thắng nhất trong tám vạn bốn ngàn pháp môn. Vì sao biết pháp môn này thù thắng nhất? Phẩm Ly Thế Gian trong kinh Hoa Nghiêm nói về tu hành, nói tới hai ngàn pháp môn, nhưng Văn Thù, Phổ Hiền, Thiện Tài đồng tử chọn lựa pháp môn Niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ. Quý vị nghĩ xem: Nếu chẳng là pháp thù thắng nhất, lẽ nào Văn Thù, Phổ Hiền chọn lựa pháp môn này? Vì thế, kinh Hoa Nghiêm có thể chứng minh cho chúng ta.
“Tam, khích dương sanh tử phàm phu, linh khởi hân yếm cố” (Ba là vì khích động, cổ vũ phàm phu sanh tử khiến họ khởi lòng ưa [Cực Lạc] chán [Sa Bà]). Chúng ta nay là phàm phu sanh tử, thấu hiểu sâu xa nỗi khổ trong đời người, nhất là sống trong thời đại này, nhìn vào thế gian rồi ngẫm lại bản thân, thế gian này chẳng có một chuyện gì đáng cho chúng ta lưu luyến. Nói thật ra, chẳng có cách nào vượt thoát, đi không được! Có thể đi thì có ai chẳng muốn ra đi? Đi không được! Đức Phật bảo chúng ta thật sự có thể ra đi, chỉ cần quý vị chịu tin tưởng, chỉ cần quý vị thật sự mong muốn, chiếu theo lý luận và phương pháp trong bộ kinh này thì sẽ có thể vượt thoát! Thế nhưng, tu học phải chuyên, đừng gián đoạn, đừng xen tạp, chúng ta nhất định thành công trong một đời này!
“Tứ, hóa đạo Nhị Thừa chấp Không, bất tu Tịnh Độ cố” (Bốn là nhằm giáo hóa, hướng dẫn hàng Nhị Thừa chấp Không, chẳng tu Tịnh Độ): Công đức của bộ kinh này rất lớn, không những là dạy phàm phu, dạy trời người, mà còn dạy Thanh Văn, Duyên Giác, tức là những bậc thánh giả trong Tiểu Thừa như A La Hán và Bích Chi Phật, khuyên lơn, khích lệ họ hồi Tiểu hướng Đại, vì sao? Chẳng tu Tịnh Độ sẽ chẳng thể viên mãn Bồ Đề, kinh Hoa Nghiêm đã nói rất rõ ràng như thế. Nhất là trong đạo tràng của chúng ta, tham chiếu kinh Di Đà lẫn kinh Hoa Nghiêm thì Sự và Lý này càng vô cùng rõ ràng.
“Ngũ, miễn tấn Sơ Tâm Bồ Tát, thân cận Như Lai cố” (Năm là vì khuyến khích hàng Sơ Tâm Bồ Tát thân cận Như Lai). “Miễn” (勉) là “miễn lệ” (勉勵: khuyến khích, cổ vũ), “tấn” (進) là khuyên lơn, sách tấn. Sách tấn chúng ta, khuyên chúng ta là hạng Sơ Tâm Bồ Tát; bao nhiêu đồng tu thọ Bồ Tát Giới đều là Sơ Phát Tâm Bồ Tát. Nếu Sơ Phát Tâm Bồ Tát chẳng thân cận đức Phật, sẽ bị thoái chuyển, đi sai đường! Trong các thiện tri thức, Như Lai là vị thiện tri thức tốt lành nhất, là chân thật nhất, chẳng cầu Phật thì cầu ai đây? Nếu vị Phật ấy rất xa, có cầu cũng chẳng cầu được thì chẳng biết làm sao, không có cách nào hết! Nay bảo cho quý vị biết: Vị Phật [A Di Đà] này hễ cầu liền cầu được, chẳng xa, chắc chắn có thể cầu được! [Vì thế, Thích Ca Mâu Ni Phật] dạy chúng ta phải thân cận thiện tri thức, phải thân cận A Di Đà Phật.
“Lục, tận nhiếp lợi độn chư căn, tất giai độ thoát cố” (Sáu là vì nhiếp trọn lợi căn và độn căn, khiến họ đều được độ thoát). Bất luận căn tánh của quý vị là lợi căn hay độn căn, lợi căn là người thông minh, độn căn là kẻ ngu đần. Người căn tánh nhạy bén nhất, hay người căn tánh ngu ngốc nhất đều có thể vãng sanh. Nay chúng tôi giảng đến đoạn này, phía sau còn có bốn đoạn nữa, đến lúc ấy sẽ giảng tiếp. Đã biết những nguyên do trong phần trước, hôm nay chúng tôi có thể tiếp tục giảng từ đoạn này.
“Duy thử Niệm Phật pháp môn” (Chỉ có pháp môn Niệm Phật này), “duy” (惟) là duy nhất, chỉ có một mình pháp môn này, “tam bối cửu phẩm, tất giai độ thoát” (ba bậc, chín phẩm, thảy đều độ thoát). Câu này là nói tổng quát. “Tam bối” là nói về căn tánh của người ấy, căn tánh bậc thượng, căn tánh bậc trung, và căn tánh bậc hạ, đó là “tam bối”. “Cửu phẩm” là phân chia tỉ mỉ hơn, căn tánh bậc thượng có thượng thượng, thượng trung, thượng hạ; căn tánh bậc trung có trung thượng, trung trung, trung hạ; căn tánh bậc hạ có hạ thượng, hạ trung, hạ hạ. Chín phẩm này vẫn là nói đại lược, bao gồm toàn bộ căn tánh của tất cả chúng sanh trong đó.
Tiếp đó, đoạn kinh văn này lại nêu sự thật cụ thể. “Triệt thượng” là nói đến căn tánh cao nhất, hạng người nào vậy? “Tam tâm viên phát, trực nhập Vô Sanh” (phát trọn ba tâm, nhập thẳng vào Vô Sanh), đó là người tối thượng thượng căn. Từ Đàn Kinh, chúng ta thấy Lục Tổ đại sư tiếp dẫn chúng sanh, học trò của Ngài đều là bậc thượng thượng thừa, họ thuộc loại này, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Người như vậy, luận về địa vị trong Phật giáo, dùng Viên Giáo của Hoa Nghiêm để nói, thì phải là từ Sơ Trụ Bồ Tát trở lên. Nếu nói theo Biệt Giáo phải là Sơ Địa Bồ Tát trở lên, chẳng phải là phàm phu, phải cao hơn A La Hán và Bích Chi Phật rất nhiều. Lời nói này có căn cứ gì hay không? Kinh Hoa Nghiêm là căn cứ! Trong kinh Hoa Nghiêm, đến cuối cùng, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, đối tượng là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong thế giới Hoa Tạng. Đấy là chứng minh, thật đấy, chẳng giả một chút nào! Từ Sơ Trụ Bồ Tát đến Đẳng Giác Bồ Tát không một ai chẳng phát tâm cầu sanh về Tịnh Độ. Do điều này có thể thấy sự thù thắng của pháp môn này.
Ở đây, [lời Sớ] nêu ra mấy danh từ, “tam tâm viên phát”: Tam tâm là Bồ Đề tâm. Theo Đại Thừa Khởi Tín Luận, tam tâm là trực tâm, thâm tâm và đại bi tâm, đó gọi là “tam tâm”. Chúng ta đã phát tam tâm, nhưng chưa viên mãn, [tức là] chưa phát trọn đủ. Chẳng hạn như phải từ bi đối với người khác, nhưng phát [tâm từ bi] rồi, phát được mấy phút, thấy ai đó chẳng vừa mắt, ngay lập tức tâm từ bi chẳng còn nữa! Đủ thấy cái tâm từ bi ấy chẳng viên mãn! Tâm từ bi đã chẳng viên mãn thì thâm tâm và trực tâm chẳng cần phải nói tới nữa! Thâm tâm là tâm thanh tịnh, trực tâm là tâm bình đẳng. Tâm Phật bình đẳng, thanh tịnh, từ bi, tâm Bồ Tát là Lục Độ, tâm Thanh Văn là Tứ Đế, tâm Duyên Giác là Thập Nhị Nhân Duyên. Nay chúng ta muốn thành Phật, phải tu tâm bình đẳng, tâm thanh tịnh, tâm từ bi. Đó là Phật đạo. Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh nói [tam tâm] là chí thành tâm, thâm tâm và hồi hướng phát nguyện tâm, có ý nghĩa giống với Khởi Tín Luận. Đã phát ba tâm này, nhưng còn chưa sanh vào Tịnh Độ!
“Trực nhập Vô Sanh”: Đây là đã sanh vào Tịnh Độ, trực nhập Vô Sanh chính là sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới, hoa nở thấy Phật ngộ Vô Sanh. Thử hỏi: Chúng ta có thể làm được hay không? Thưa quý vị, thật sự có thể làm được! Chẳng giả tí nào! Nếu công phu này là Lý nhất tâm bất loạn thì sẽ có thể làm được. Nếu chưa làm được, phải trách chính mình, tự mình phải chịu trách nhiệm. Quý vị suốt ngày từ sáng đến tối sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, trong cảnh giới tu cái tâm bình đẳng, oán thân bình đẳng, tu tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là chẳng chấp tướng. Tâm bình đẳng là Quán Huệ, là trí huệ. Tâm thanh tịnh là Thiền Định; ngoài chẳng chấp tướng, trong chẳng động tâm. Lại còn tu tâm đại từ, đại bi, lợi ích trọn khắp hết thảy các chúng sanh, bỏ mình vì người, đó gọi là “tam tâm”.
Tách lìa chúng sanh thì tu cái gì? Ta thấy ưa thích người này, chán ghét người kia, thường thân cận kẻ ưa thích, tránh xa kẻ chán ghét thì còn tu cái gì nữa? Đó là tu cái tâm luân hồi trong lục đạo, vẫn là gây tạo lục đạo luân hồi! Phải nên tu bằng cách nào? Người thân ái và kẻ oán gia đối đầu đều phải đối xử bình đẳng, chẳng có hai thứ cảnh giới [yêu và ghét] hiện diện, thử hỏi quý vị cách tu như thế nào? Quý vị phải biết tu hành là tu ở chỗ nào? Tu nơi thân của hết thảy các chúng sanh. Hết thảy các chúng sanh là Tăng Thượng Duyên giúp chúng ta tu hành. Trong Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm có tỷ dụ sánh ví Phật như quả và hạt trên cây, ví hoa như Bồ Tát, hoa quả do đâu mà có? Do rễ mà có! Rễ là gì? Rễ là hết thảy chúng sanh. Vì thế, đức Phật nói phải dùng nước đại từ bi tưới bón chúng sanh. Tưới bón chúng sanh là thừa sự, cúng dường Như Lai. Nếu quý vị chẳng tu nơi chúng sanh, mà muốn tu Phật, tu Bồ Tát, chắc chắn chẳng thể thành tựu. Nói cách khác, ta muốn khai hoa kết quả mà không cần rễ, hoa quả sẽ do đâu mà có? Cũng có! Cắm trong bình hoa, hai ngày bèn úa tàn, chẳng còn tươi nữa!
Quý vị tu Lục Độ vạn hạnh, tu nơi đâu? Tu nơi thân chúng sanh, tu cái tâm bình đẳng đối với hết thảy chúng sanh, tâm thanh tịnh tu từ nơi hết thảy chúng sanh. Tách lìa hết thảy cảnh giới, “tâm ta thanh tịnh lắm”, đó là giả, thanh tịnh kiểu đó có ích gì đâu? Tiếp xúc hoàn cảnh phức tạp, tâm vẫn thanh tịnh, đó mới là thanh tịnh thật sự, tu hành thật sự! Giúp đỡ chúng sanh là giúp đỡ chính mình, thành tựu chúng sanh là thành tựu chính mình, thành tựu sự “thanh tịnh, bình đẳng, từ bi” của chính mình, đó là Phật pháp. Chúng ta thật sự tu theo cách như vậy, trong một đời này, chắc chắn có thể Thượng Phẩm Thượng Sanh, có thể tu đắc Lý nhất tâm bất loạn. Lý nhất tâm bất loạn là tâm địa thanh tịnh, bình đẳng, từ bi. “Vô duyên đại từ, đồng thể đại bi”, lòng từ bi ấy từ bi vô điều kiện, vì sao? Sanh từ cái tâm thanh tịnh. Quý vị phải nhớ: Chỉ cần quý vị có phân biệt, chấp trước, có ưa ghét, cái tâm ấy là tâm sanh tử, là tâm luân hồi. Dùng cái tâm như vậy để niệm Phật thì có được hay chăng? Cũng được! Nếu quý vị niệm đến mức công phu thành phiến, sẽ đới nghiệp vãng sanh, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Vì vậy, Tịnh Độ quả thật chẳng thể nghĩ bàn!
Nhưng đến thế giới Tây Phương, chúng ta phải từ cõi Phàm Thánh Đồng Cư vượt lên cõi Phương Tiện Hữu Dư, rồi lại vượt lên cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Trong kinh nói phải trải qua bao nhiêu đại kiếp mới có thể thành công. Nếu quý vị biết tu, bèn tu ngay trong thế giới này, trong một đời có thể viên mãn, có thể vượt thoát. Do duyên cớ nào? Thật ra, chúng tôi nghĩ chuyện này cũng chẳng khó hiểu! Tây Phương Cực Lạc thế giới là thuận cảnh, chẳng có nghịch duyên. Vì thế, quý vị tu hành tiến bộ rất chậm; còn nơi đây gió to sóng lớn, thuận cảnh lẫn nghịch cảnh đều to lớn, biến đổi quá mạnh. Kinh dạy: Chúng ta tu hành ở nơi đây một ngày bằng tu hành một trăm năm trong thế giới Cực Lạc. Chỗ tốt đẹp của thế giới Cực Lạc là không có duyên thoái thất, còn ở nơi đây, chúng ta tiến rất nhanh mà lui sụt cũng rất lẹ. Hễ tiến thì trong một đời có thể đắc Lý nhất tâm bất loạn, sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Hễ thoái bèn vào trong địa ngục A Tỳ. Ở bên đó là giong thuyền khi nước lặng, tiến từ từ, chỉ có tiến lên, chẳng bị tụt lùi; do vậy, sang bên đó sẽ ổn thỏa, thích đáng. Quý vị phải biết đạo lý này, biết sự thật này. Chúng ta sống trong thế giới Sa Bà chẳng phải là không tốt đẹp, mà là rất tốt, cảnh giới trước mắt quá tốt đẹp, có thể giúp cho chúng ta thành tựu quá lớn trong một thời gian cực ngắn, không thể tìm điều này ở nơi nào khác được! Vì thế, quý vị phải biết lợi dụng hoàn cảnh. Biết lợi dụng hoàn cảnh thì chẳng những chính mình đạt thành tựu thù thắng trong tu hành, mà còn thành tựu nhanh chóng hơn nữa!
Kinh nói đến Lý nhất tâm bất loạn, nếu chúng sanh trong thế giới Sa Bà chẳng làm được, đức Phật sẽ chẳng nói, vì nói ra điều này chẳng có ý nghĩa gì hết! Đức Phật nói ra là vì mỗi cá nhân chúng ta đều có thể làm được. Vấn đề là quý vị có chịu làm hay không? Quý vị có thật sự chịu tu hành hay không? Vì thế, nói tới “tu hành”, nói bao nhiêu lượt, mỗi lượt đều có những đồng tu mới đến đây, nên chẳng thể không nói những lời này, hết sức quan trọng! “Tu” là sửa đổi cho đúng, “hành” là hành vi; hành vi của chúng ta có lầm lỗi, phải sửa đổi những lỗi lầm ấy cho đúng, đó là tu hành. Chúng ta thường có quan niệm sai lầm, cách nghĩ sai lầm khiến chúng ta bị đọa lạc, khiến chúng ta đi trật đường lối. Tư tưởng, kiến giải như thế nào mới là chính xác? Hãy nhớ, chỉ cần tâm quý vị thanh tịnh, bình đẳng, từ bi; hễ tư tưởng và kiến giải tương ứng với ba điều ấy thì là chính xác. Nếu tư tưởng và kiến giải chẳng bình đẳng, chẳng thanh tịnh, chẳng từ bi, đấy là sai lầm!
Chúng ta thấy sắc, nghe tiếng, “thấy sắc” là thấy cảnh giới bên ngoài, “nghe tiếng” là nghe người khác nói, chúng ta có thể tương ứng với tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm từ bi hay chăng? Nếu có thể tương ứng thì những tiếng và sắc ấy đều là Phật pháp. Nếu chúng chẳng tương ứng, chúng phá hoại cái tâm bình đẳng, tâm thanh tịnh, tâm từ bi của chúng ta, quý vị phải lập tức giác ngộ, đó là ma thuyết pháp, ma đang gây chướng ngại, ma đang phá hoại, phá hoại ai? Phá hoại chính mình, chẳng liên can đến ai khác! Quý vị phải hiểu: Chướng đạo là tự mình chướng ngại chính mình. Nếu quý vị có năng lực phản tỉnh, có năng lực quán sát, yêu ma quỷ quái nào cũng chẳng thể làm gì quý vị được! Quý vị phải có trí huệ. “Triệt thượng” (thông trên) thì những nhân vật bậc nhất sẽ trực tiếp nhập Vô Sanh Pháp Nhẫn, hoa nở thấy Phật, ngộ Vô Sanh, đó là bậc thượng thượng thừa.
“Triệt hạ” (thấu dưới) là kẻ ngu si nhất, “thập niệm thành công, diệc sanh bỉ quốc” (mười niệm thành công, cũng sanh về cõi ấy). Kẻ ngu si nhất, cả đời không điều ác nào chẳng làm, một niệm hồi đầu cũng có thể vãng sanh, loại vãng sanh này là Hạ Phẩm Hạ Sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Đối với “thập niệm”, từ xưa đến nay có hai cách giải thích:
– Một cách giải thích là dùng tâm chí thành, chí thành đến cùng cực, cứ niệm một câu Phật hiệu thì tính là một niệm, niệm mười câu Phật hiệu sẽ gọi là “thập niệm”.
– Một cách giải thích khác là cứ hết một hơi tính là một niệm, bất kể Phật hiệu nhiều hay ít. Ví như chúng ta niệm bốn chữ A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, hết một hơi thì gọi là một niệm, niệm mười hơi. Thông thường, tu pháp môn Thập Niệm thì quá nửa coi hết một hơi là một niệm.
Lại còn có Lâm Chung Thập Niệm, trường hợp nổi tiếng nhất trong Vãng Sanh Truyện là ông Trương Thiện Hòa đời Đường. Ông này suốt đời giết trâu, sát nghiệp vô cùng nặng. Khi lâm chung, thấy rất nhiều người đầu trâu đến đòi mạng, lòng sanh sợ hãi, lớn tiếng cầu cứu. Khéo sao, có một vị pháp sư đi qua cửa nhà ông ta, nghe ông ta kêu cứu mạng trong nhà, bèn hỏi ông ta vì lẽ nào? Ông ta thưa: “Cả đống người đầu trâu đến đòi mạng”. Pháp sư bèn thắp một nắm hương đưa cho ông ta, bảo: “Hãy nhanh chóng niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới”, ông ta bèn lớn tiếng niệm A Di Đà Phật. Niệm mười tiếng, ông ta nói: “Người đầu trâu không còn nữa, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn tôi!” Ông ta bèn theo A Di Đà Phật ra đi. Đó là người suốt đời chưa hề nghe Phật pháp, khi lâm chung gặp pháp sư dạy ông ta niệm một câu Phật hiệu, khi ấy là lúc liên quan khẩn thiết đến tánh mạng nên niệm rất khẩn thiết. Bình thường chúng ta chẳng thể niệm theo cách này được, ông ta dốc hết tánh mạng, chẳng niệm sẽ ngay lập tức bị lũ người đầu trâu kéo đi báo thù, trong tâm ông ta hết sức khẩn thiết, chuyên tâm nhất trí chẳng có vọng niệm. Vì thế, mười niệm bèn thành công.
Cổ nhân có người suốt đời dùng cách Thập Niệm để tu hành, tụng niệm khóa tối khóa sáng, chẳng gián đoạn ngày nào, cũng có thể thành tựu, nhưng quý vị phải nhớ một sự thật: Học Phật phải dùng chân tâm, phải dùng thành tâm. Nếu dùng cái tâm cầu may, chụp giựt thời cơ lươn lẹo để học Phật, chắc chắn chẳng thành công! Có một số người nẩy sanh hiểu lầm, nghe nói lâm chung mười niệm vẫn được, bèn nghĩ chẳng quan trọng lắm, hiện thời làm chuyện ác nhiều một chút cũng chẳng sao, đến khi lâm chung vẫn còn kịp mà! Nói theo lý luận thì cũng xuôi tai, đến khi lâm chung vẫn kịp! Nhưng quý vị hãy nghĩ xem: Quý vị có bảo đảm là khi lâm chung đầu óc tỉnh táo hay chăng? Còn có thể nhớ niệm Phật hay không? Không sao cả! Lâm chung có người giúp tôi trợ niệm, tôi chẳng nhớ sẽ có người nhắc nhở tôi! Quý vị có đảm bảo chẳng bị tai nạn xe cộ hay không? Chẳng nẩy sanh tai nạn bất ngờ hay chăng? Đến khi ấy, tìm người cũng tìm chẳng ra, làm cách nào đây? Vì thế, chớ nên cầu may! Phải thật thà nghiêm túc tu học, người giống như ông Trương Thiện Hòa tuy đời này chẳng học Phật, nhưng nghe pháp sư vừa nói liền tin ngay, thật sự phát nguyện, thật sự niệm, chuyên tâm như vậy, thiện căn ấy phải do tu nhiều đời nhiều kiếp mà có. Hiện thời, trong bệnh viện, người bệnh sắp chết rất đông, quý vị bảo họ niệm Phật, họ có làm theo hay chăng? Họ chẳng thể tiếp nhận, chẳng nghe lọt tai!
Lúc tôi xuất gia tại chùa Lâm Tế ở Viên Sơn, trong chùa Lâm Tế có hội niệm Phật. Thuở ấy, ông phó hội trưởng hội niệm Phật là cư sĩ Lâm Đạo Khải, khi ông ta vãng sanh, một mực hồ đồ. Ông ta bị ung thư, đau khổ khó kham, đồng tu trợ niệm cho ông ta, ông ta cự tuyệt, nghe tiếng niệm Phật bèn chán ghét. Chúng tôi thấy tình hình ấy mới giác ngộ: Lúc lâm chung vốn chẳng phải là chuyện đơn giản! Phàm là người có thể thật sự vãng sanh, khi lâm chung nhất định tỉnh táo, sáng suốt. Nếu bệnh đến nỗi bất tỉnh nhân sự, ngay cả người trong nhà cũng chẳng nhận biết một ai thì không có cách nào hết, trợ niệm cũng chẳng đảm bảo! Vì thế, bình thời phải tu phước, phải làm lành, nhưng đừng nên hưởng phước, phước báo dành cho lúc lâm chung, chính mình tỉnh táo, sáng suốt, đó là đại phước báo. Người Trung Quốc nói Ngũ Phước, phước cuối cùng là “khảo chung mạng” tức là chết tốt lành, chết trong tỉnh táo, sáng suốt. Phàm là người khi chết tỉnh táo, sáng suốt, dẫu chẳng học Phật cũng chẳng đọa ác đạo. Quý vị hãy nghĩ xem: Có người đầu óc tỉnh táo, sáng suốt nào muốn làm súc sanh hay muốn làm ngạ quỷ? Chẳng thể nào! Phàm là kẻ sắp đọa súc sanh, sắp biến thành ngạ quỷ đều là hồ đồ đi vào đó. Vì thế, lúc lâm chung chớ nên hồ đồ! Hồ đồ quá nguy hiểm! Chết tốt lành là đại phước báo; khi luân hồi chắc chắn sanh vào chỗ tốt đẹp. Người học Phật công đức lớn, nếu lâm chung niệm Phật, chắc chắn vãng sanh.
Lần này, tôi sang Hương Cảng giảng kinh, có đồng tu nêu câu hỏi: Trong Vãng Sanh Truyện có chép nhiều người niệm Phật ba năm bèn vãng sanh, có phải là do niệm xong ba năm, thọ mạng vừa đúng lúc chấm dứt hay không? Tôi bảo người ấy: Chẳng phải vậy! Thọ mạng của người [niệm Phật] ấy vẫn còn rất dài; đương nhiên cũng có trường hợp tuổi thọ chỉ còn vừa đúng ba năm, nhưng cũng có người tuổi thọ rất dài. Đã rất dài vì sao lại ra đi? Người ấy đã thành công rồi! Sau khi thành công, sống trong thế giới Cực Lạc là cung điện bảy báu, đường đi lót bằng vàng ròng, hoàn cảnh tốt đẹp dường ấy, người ấy không ra đi mà còn lưu luyến căn nhà rách nát trong thế giới tả tơi này hay sao? Chẳng muốn! Ra đi cho sớm! Có năng lực thì ai chẳng muốn đi cho sớm? Ai chịu ở lại nơi này thêm một ngày? Vì thế, tuyệt đối chẳng phải là do người ấy thọ mạng đã hết, mà do người ấy muốn đi sớm. Chỉ trừ trường hợp người ấy có duyên phận độ chúng sanh, vì giúp đỡ chúng sanh bèn trụ thêm mấy năm nữa, tuy có năng lực mà chẳng ra đi. Nếu không có duyên phận ấy, đương nhiên sẽ ra đi sớm, càng sớm càng tốt. Vì thế, ta thấy trong Vãng Sanh Truyện có nhiều người niệm Phật sau ba năm bèn ra đi. Đối với chuyện này, có những kẻ sơ học tâm mong vãng sanh nhưng chẳng nỡ rời bỏ thế giới này, chuyện này quả thật khó khăn đôi bề! Nghe nói sốt sắng tu học ba năm sẽ đi được, kẻ ấy chẳng dám học nữa. Học pháp này không xong rồi! Ba năm sẽ chết! Thật ra, quý vị chưa thấy! Nếu quý vị thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới, cách nghĩ, cách nhìn của quý vị sẽ thay đổi do đã thấy rõ cảnh giới ấy. Người thành tựu sanh tử tự tại, muốn ra đi trước [khi thọ mạng chấm dứt] bèn có thể ra đi, muốn ở thêm mấy năm cũng được; khi ấy, đích xác là thuận theo nguyện vọng, tùy lòng mong muốn của chính mình. Người niệm Phật có thể làm được như vậy, chứ học những pháp khác sẽ chẳng dễ gì [làm được chuyện này].
(Sớ) Sở vị: Bất ly nhất pháp, xảo bị chư căn, hào kiệt vô hạ ức chi tu, dung ngu hữu ngưỡng phan chi ích, cái vô cơ bất thâu, hữu tình giai nhiếp giả dã.
(疏) 所謂不離一法 , 巧被諸根 , 豪傑無下抑之羞,庸愚有仰攀之益,蓋無機不收,有情皆攝者也。
(Sớ: Đó gọi là chẳng lìa một pháp mà khéo phù hợp khắp các căn, bậc hào kiệt chẳng thẹn vì bị dìm xuống thấp, kẻ tầm thường ngu muội cũng được lợi ích vói lên cao; bởi lẽ, pháp này không căn cơ nào chẳng thâu gồm, các hữu tình đều được nhiếp thọ).
“Nhất pháp” là phương pháp niệm A Di Đà Phật, tức phương pháp chấp trì danh hiệu. Phương pháp này thiện xảo tột bậc. Chữ “căn” chỉ căn tánh, tức là “tam bối cửu phẩm” như đã nói trong phần trên. “Hào kiệt” là thượng thượng phẩm, “dung ngu” (tầm thường, ngu độn) là hạ hạ phẩm. Người thượng phẩm là Đẳng Giác Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, các Ngài cũng cầu sanh Tịnh Độ, trọn chẳng hổ thẹn vì niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Nếu có cái tâm [hổ thẹn] như thế thì tâm quý vị chẳng thanh tịnh. Kẻ hạ hạ căn tầm thường, ngu muội quả thật cũng được lợi ích vói lên cao. Do vậy, pháp môn Tịnh Độ “tam căn phổ bị, lợi độn toàn thâu” (thích hợp trọn khắp ba căn, gồm thâu lợi căn lẫn độn căn).
Chỗ thù thắng nhất trong pháp môn này là hết thảy hữu tình chúng sanh chỉ cần tin tưởng, chỉ cần chịu phát nguyện, không một ai chẳng thể sanh về Tịnh Độ. Đây là đại pháp chân thật bình đẳng trong Phật pháp.
(Sớ) A Già Đà giả, Tây Vực dược danh, năng dĩ nhất dược tổng trị chư tật.
(疏) 阿伽陀者,西域藥名,能以一藥總治諸疾。
(Sớ: A Già Đà là tên một loại thuốc ở Tây Vực, có thể dùng một loại thuốc để trị chung các thứ bệnh).
Giống như vạn linh đan, loại thuốc này bệnh gì cũng đều trị được. Những thứ thuốc khác chỉ trị được căn bệnh tương ứng, chẳng đúng bệnh [mà uống vào] sẽ hại người. Chỉ mình loại thuốc này chẳng sao hết, bất kể bệnh gì, quý vị dùng nó chỉ có lợi, chẳng có hại. Thuốc A Già Đà (Agada) ví như pháp môn Niệm Phật.
(Sớ) Dụ đản trì Phật danh.
(疏) 喻但持佛名。
(Sớ: Ví như chỉ trì danh hiệu Phật).
Chỉ cần niệm A Di Đà Phật.
(Sớ) Ngũ dục tam độc, vô lượng phiền não, nãi chí thiên thừa ngoại đạo, nhất thiết kiến bệnh, tất đoạn trừ cố.
(疏) 五欲三毒 ,無量煩惱 , 乃至偏乘外道 ,一切見病,悉斷除故。
(Sớ: Ngũ dục, tam độc, vô lượng phiền não, cho đến những thừa lệch lạc, ngoại đạo, hết thảy các kiến giải sai lầm đều đoạn trừ).
Mấy câu này cũng hết sức quan trọng. “Ngũ dục” là tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Trong kinh, đức Phật gọi chúng là “địa ngục ngũ điều căn” (năm cội gốc của địa ngục). Nếu quý vị tham đắm ngũ dục quá mức, rất phiền! Đấy là nghiệp nhân của ba ác đạo. Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta rất khó rời khỏi ngũ dục, chẳng thể không cần đến chúng, nhưng trong tâm phải nhạt bớt một chút, đừng nên ghim chúng trong lòng. Ghim những chuyện này trong lòng sẽ chẳng lìa khỏi tam đồ. Người học Phật đối với nhu cầu ngũ dục hãy tùy duyên, tùy phận, chẳng cưỡng cầu, chẳng nắm níu, sống cho qua ngày là đủ rồi. Hãy nên ghim một câu Phật hiệu trong lòng, nói cách khác, thay đổi những nắm níu ngũ dục lục trần hằng ngày trong tâm chúng ta, đổi chúng thành A Di Đà Phật, như vậy thì mới được, niệm niệm đều là A Di Đà Phật. Trong ngũ dục, ta dấy lên tâm tham, bèn A Di Đà Phật, nhanh chóng thay đổi nó. Trong nghịch duyên khởi lên tâm sân hận, hãy nhanh chóng đổi thành A Di Đà Phật, tuyệt đối chẳng để cho tham, sân, si tăng trưởng. Ý niệm tham, sân, si thứ nhất vừa khởi lên, đừng cho ý niệm thứ hai tiếp nối, ý niệm thứ hai sẽ là A Di Đà Phật, thưa quý vị, đó gọi là niệm Phật, đó gọi là thật sự tu hành!
Cổ đức thường nói: “Bất phạ niệm khởi, chỉ phạ giác trì” (Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm). “Niệm” là ý niệm, những ý niệm tham, sân, si, mạn dấy lên, đừng sợ! Vì sao? Tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay, làm sao nó chẳng dấy lên được? Đương nhiên sẽ dấy lên! Khi dấy lên, quý vị liền nhận biết, ngay lập tức nhận ra, chẳng cho nó tiếp tục phát triển, lập tức chuyển nó thành Phật hiệu, cũng chẳng cần phải đoạn nó, chẳng cần quan tâm đến nó, lập tức khởi lên Phật hiệu, dùng Phật hiệu thay thế nó. Quý vị có thể niệm Phật như vậy thì gọi là “công phu”, niệm Phật sẽ đắc lực. Niệm Phật đắc lực thì mới có thể niệm đến mức công phu thành phiến, mới có thể niệm đến nhất tâm bất loạn. Suốt ngày từ sáng đến tối cầm xâu chuỗi, niệm một vạn tiếng, hai vạn tiếng, mà tham, sân, si, mạn vẫn dấy lên y như cũ, vô ích. Cổ nhân bảo phương cách niệm Phật ấy là “rách toạc cuống họng cũng uổng công”, chẳng thể vãng sanh! Vì sao? Tuy quý vị niệm Phật hiệu nhiều, mà chẳng đắc lực, chẳng chế phục phiền não, phiền não là tham, sân, si, mạn, không chế phục được! Vì thế, phải biết niệm! “Tam độc” là tham, sân, si, ngũ dục là tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. “Vô lượng phiền não” là nói về pháp thế gian, [chúng là] căn bản của sanh tử luân hồi trong lục đạo. Quý vị có thể chế ngự chúng thì sẽ vượt thoát lục đạo.
Không chỉ có thể vượt thoát lục đạo, mà còn vượt thoát Nhị Thừa.
Chữ “thiên thừa” (偏乘: thừa lệch lạc) chỉ Thanh Văn và Duyên Giác, tức Tiểu Thừa giáo, so với Bồ Tát mà nói thì họ là thiên lệch. “Ngoại đạo”: Có ngoại đạo trong Phật môn và ngoại đạo ở ngoài Phật pháp. Ngoại đạo ở ngoài Phật môn quý vị dễ biết, chứ ngoại đạo trong Phật môn quý vị chẳng dễ nhận biết! Thấy họ thuộc nhà Phật, nhưng thật ra là ngoại đạo. Phân biệt như thế nào? Phàm những gì chẳng tương ứng với tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm từ bi của chính mình đều là ngoại đạo, dẫu học Phật vẫn là ngoại đạo, đó gọi là “môn nội ngoại”, tức là ngoại đạo trong Phật môn. Hết thảy đều có thể tương ứng với ba tâm thì là Phật đạo. Quý vị nhớ nguyên tắc này, sẽ chẳng đọa vào ngoại đạo, chẳng đọa lạc trong “môn nội ngoại”. Chính mình biến thành ngoại đạo, mà chính mình chẳng hiểu, vẫn chửi người khác là ngoại đạo, vẫn nói người khác chẳng đúng pháp, thật ra là tự mình lầm lẫn! Những chỗ này chớ nên không biết, chớ nên không phân biệt. Vì chúng ta chẳng có nhiều thời gian, tháng ngày còn lại chẳng là bao! Quý vị nhìn vào tình hình thế sự, nhìn vào lòng người trong thế giới này, đại nạn sẽ xảy tới, thật sự chẳng tầm thường! Do vậy, phải nhanh chóng nắm lấy tuổi thọ hữu hạn, đừng phí uổng thời gian, phải nghiêm túc học tập.
Phật pháp gọi là Nội Học, tu học Phật pháp là tu học Giác – Chánh – Tịnh. Sở cầu của Phật pháp là Vô Thượng Bồ Đề, tức Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, phải luôn nhớ điều này! Chúng ta niệm một câu A Di Đà Phật cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, tu Giác – Chánh – Tịnh, tức là cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong hội Hoa Nghiêm còn phải phát tâm đến Tây Phương Cực Lạc thế giới để làm gì vậy? Văn Thù, Phổ Hiền là bậc Đẳng Giác trong Viên Giáo, các Ngài sang đó để làm gì? Đến cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì thế, chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới nhằm cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Niệm một câu A Di Đà Phật là Giác – Chánh – Tịnh. Câu A Di Đà Phật này là tâm bình đẳng, ta coi hết thảy mọi người đều là A Di Đà Phật, coi hết thảy sự đều là A Di Đà Phật, bình đẳng! Một câu A Di Đà Phật là tâm thanh tịnh, sáu căn thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, trong tâm thứ gì cũng đều chẳng có, chỉ có A Di Đà Phật. A Di Đà Phật là đại từ đại bi. Vì thế, niệm một câu Phật hiệu, phát trọn vẹn ba tâm! Mấy ai biết công đức của câu Phật hiệu này? Mấy ai biết niệm? Hằng ngày niệm như ca hát, đó chẳng phải là biết niệm. Biết niệm thì nhất định sẽ tương ứng với công đức trong tự tánh.
“Nhất thiết kiến bệnh” (Hết thảy các sai lầm về mặt kiến giải): “Kiến” (見) là kiến giải; nói thật thà thì chỉ cần có kiến giải bèn là sai lầm. Chỉ cần có tư tưởng thì đều gọi là vọng tưởng. Trong tâm thanh tịnh chẳng có tư tưởng, mà cũng chẳng có kiến giải, Lục Tổ đại sư nói: “Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai” (Vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần). Đây chính là bổn tánh, là chân tâm của chúng ta. Biến hết thảy tư tưởng và kiến giải thành A Di Đà Phật thì là đúng, tư tưởng và kiến giải của quý vị đều chính xác. Người khác chửi quý vị ngu, chửi quý vị ngốc nghếch, chửi quý vị thiếu hiểu biết, quý vị đều “A Di Đà Phật”. Niệm một câu A Di Đà Phật đến cuối cùng vãng sanh Tây Phương, còn những kẻ vừa hiểu biết vừa chẳng ngu ngốc lại luân hồi trong lục đạo, rốt cuộc ai chiếm tiện nghi? Quyết chẳng bị lời ngon tiếng ngọt bên ngoài lay động cái tâm, [nếu động tâm] là hỏng mất rồi! Cảnh giới gì cũng chẳng động tâm, đó gọi là “tám gió thổi chẳng động”.
Tám gió thổi chẳng động là công phu vừa mới đắc lực, chứ không nói là “cảnh giới trọn chẳng dấy lên”. Phàm là gió cảnh giới vừa thổi, quý vị bị động ngay. Nói cách khác, quý vị trọn chẳng có mảy may công phu nào, uổng công niệm Phật hiệu. Người ta chửi quý vị mấy câu, quý vị liền nổi đóa, uổng công niệm Phật hiệu rồi! Khen ngợi quý vị mấy câu, rất hoan hỷ, niệm Phật hiệu vô ích! Mỗi ngày niệm mười vạn tiếng cũng là niệm uổng công, cũng là uổng phí! Phải niệm sao cho khi người ta khen ngợi mình bèn A Di Đà Phật; khi mình bị hủy báng cũng A Di Đà Phật. Một lòng đãi người, một vẻ mặt tươi cười tiếp vật; đó là niệm Phật thật sự đắc lực, thật sự có công phu.
(Sớ) Cự dã giả.
(疏) 巨冶者。
(Sớ: Lò luyện to là…)
“Dã” là “dã lô” (冶爐), giống như lò luyện thép vậy.
(Sớ) Nhất dã chi trung, đào chú vạn vật, các thành kỳ khí.
(疏) 一冶之中,陶鑄萬物,各成其器。
(Sớ: Trong một cái lò luyện, nung đúc vạn vật khiến mỗi món đồ đều thành hình).
Giống như lò luyện thép, thép được luyện thành có thể chế thành các món đồ khác nhau. Đây cũng là tỷ dụ niệm Phật, một câu A Di Đà Phật có tác dụng chẳng thể nghĩ bàn, vô lượng vô biên.
(Sớ) Dụ đản trì Phật danh, tùy bỉ căn hạnh, cửu phẩm vãng sanh, giai bất thoái cố.
(疏) 喻但持佛名,隨彼根行,九品往生,皆不退故。
(Sớ: Ví như chỉ trì danh hiệu Phật, tùy theo căn cơ, công hạnh của từng người mà chín phẩm vãng sanh đều là bất thoái).
Công phu niệm Phật sâu hay cạn chẳng do niệm Phật nhiều hay ít. Mỗi ngày tôi niệm Phật mười vạn tiếng, người khác niệm chín vạn tiếng, tôi cao hơn kẻ ấy, đâu phải vậy! Tôi niệm mười vạn tiếng mà chẳng chế ngự phiền não, vô ích! Người ta mỗi ngày chỉ niệm mười tiếng mà mười tiếng niệm ấy tâm bình khí hòa, niệm đến mức chế phục ngũ dục, tam độc, vô lượng phiền não, thiên thừa (Nhị Thừa), ngoại đạo và hết thảy các kiến giải sai lầm, thì công phu mười niệm ấy cao hơn và có ích hơn mười vạn tiếng! Công phu sâu hay cạn phải nhìn từ chỗ này, chứ không phải do nhiều hay ít, phải nhìn xem Phật hiệu có đắc lực hay không, có thể chế phục phiền não hay không, có thể đoạn phiền não hay không!
Nếu người ta niệm đoạn được phiền não thì công phu lại cao hơn chế phục phiền não. Nếu niệm đến mức kiến tánh thì công phu lại cao hơn đoạn phiền não. Niệm đến kiến tánh là Lý nhất tâm, niệm đến đoạn phiền não là Sự nhất tâm, niệm đến mức chế phục phiền não là công phu thành phiến. Chẳng thể chế phục phiền não sẽ chẳng thể vãng sanh. Có thể chế phục phiền não sẽ có thể đới nghiệp vãng sanh, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Quý vị nhất định phải chú ý điều này, ngàn vạn phần đừng coi thường! “Tùy bỉ căn hạnh”, “căn” là căn khí, “hạnh” là thành tựu, thành quả tu hành. Quả báo là “cửu phẩm vãng sanh”, phẩm vị cao hay thấp hoàn toàn tùy thuộc quý vị niệm câu Phật hiệu này có đắc lực hay không!
Nho gia nói “nhân giả vô địch”, [nghĩa là] một người nhân từ thì trong tâm không có oán gia đối đầu, đó là pháp thế gian. Phật, Bồ Tát đại từ đại bi, lẽ đâu thấy có kẻ chẳng thuận mắt? Chúng ta cảm thấy người khác chẳng vừa mắt mình, thật ra là do cái tâm của chính mình giở trò, do tự mình tạo thành. Lục Tổ đại sư thường răn dạy người khác: Người tu hành nhất định phải nội tỉnh, phải phản tỉnh. Sở dĩ Ngài có thể thành công là vì Ngài chẳng thấy lỗi của người khác, chỉ thấy lỗi của chính mình, nên có thể thành Phật, thành Tổ.
Tại Trung Quốc, vì sao vua Đại Thuấn[13] có thể trở thành bậc đại thánh nhân? Ngài chỉ thấy lỗi mình, chẳng thấy lỗi người khác. Quý vị đọc lịch sử sẽ thấy cha Ngài, mẹ kế của Ngài, cả em trai do mẹ kế sanh ra, cả nhà ngược đãi Ngài, luôn nghĩ cách hại chết Ngài. Trong hoàn cảnh ấy, bất cứ ai cũng chẳng có cách nào chịu đựng được, vì sao vua Thuấn có thể chịu đựng? Ngài thường nghĩ, Ngài chẳng cảm thấy ba người kia không đúng, chỉ cảm thấy chính mình chưa xử sự đúng, vì sao chẳng thể khiến người khác vui lòng? Vì sao chẳng thể khiến người khác bằng lòng? Ngài chuyên nghĩ về mình, quên bẵng người khác. Ngài nghĩ cha, mẹ kế, em trai đều là người tốt, còn chính mình luôn sai trái. Vì thế, đến cuối cùng, cả nhà đã bị Ngài cảm hóa.
Thuở ấy, hoàng đế Nghiêu vương nghe chuyện này, vời Ngài đến gặp. Người [ngang ngược] như vậy đều bị cảm hóa, nếu [ông Thuấn] làm hoàng đế, há chẳng thể cảm hóa cả nước ư? Do vậy, vua gả hai người con gái cho ông Thuấn, nhường ngôi hoàng đế cho. Công phu ấy là công phu tu hành của Bồ Tát. Lục Tổ nói: “Chân chánh tu đạo nhân, bất kiến tha nhân quá” (người thật sự tu đạo, chẳng thấy lỗi người khác). Vì sao chẳng thấy? Vì người ấy nội tỉnh, sự nội tỉnh ấy tuyệt diệu lắm! Thành tựu Nhẫn Nhục Ba La Mật của chính mình, thành tựu cái tâm thanh tịnh, tâm từ bi, tâm bình đẳng của chính mình. Vì thế, những điều này làm Tăng Thượng Duyên lẫn nhau. Nếu trong nhà vua Thuấn không có ba người ấy, Ngài chẳng thể trở thành thánh nhân. Vì sao Ngài có thể trở thành thánh nhân? Ba người ấy giúp đỡ Ngài.
Chúng ta đọc phẩm Đề Bà Đạt Đa trong kinh Pháp Hoa, Đề Bà Đạt Đa là người ác, chẳng phải là người tốt! Kinh nói Đề Bà Đạt Đa là oán gia đối đầu của Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng phải trong một đời, mà là đời đời kiếp kiếp; nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật hết sức cảm kích ông ta. Nếu chẳng do Đề Bà Đạt Đa, Ngài chẳng thể thành Phật. Vì có oán gia đối đầu như thế, Phật giống như Đại Thuấn, luôn luôn có thể nội tỉnh, thành tựu đạo tâm và đạo nghiệp của chính mình. Do vậy, Đề Bà Đạt Đa giúp Thích Ca Mâu Ni Phật sớm thành Phật, đấy cũng là vô lượng công đức. Đề Bà Đạt Đa đọa địa ngục vì đã hại Phật, làm thân Phật chảy máu, ôm lòng toan mưu hại Thích Ca Mâu Ni Phật, tội nghiệp ấy đáng đọa địa ngục. Đức Phật phái vị [đệ tử] thần thông bậc nhất là Mục Kiền Liên vào địa ngục tìm kiếm ông ta. Sau khi [ngài Mục Liên] trở về, Thích Ca Mâu Ni Phật hỏi: “Ông ta ở trong địa ngục như thế nào?” [Ngài Mục Liên thưa]: “Sung sướng khôn sánh, giống như ở thiên cung!” Ông ta giúp Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật; tuy ở trong địa ngục A Tỳ, nhưng chốn địa ngục ấy đặc biệt, sự hưởng thụ giống như trên thiên cung, phước báo quá lớn! Mỗi thứ đều có quả báo, ác có ác báo, phước có phước báo. Trong địa ngục A Tỳ còn có phước báo, điều này chẳng thể nghĩ bàn! Nếu quý vị thật sự thông đạt đạo lý này, trong thuận cảnh hay nghịch cảnh sẽ tự nhiên tâm bình khí hòa, công phu mới đi theo đúng đường lối, mới có thể đạt được lợi ích!
(Sớ) Quảng đại giả, Châu Dịch Càn viết đại sanh, Khôn viết quảng sanh, kim vô sở bất độ, dụ như thiên phú địa tải, tịnh dục kiêm dung, chí Từ vô trạch, danh Phổ Môn dã.
(疏) 廣大者 ,周易乾曰大生 ,坤曰廣生 。 今無所不度,喻如天覆地載,並育兼容,至慈無擇,名普門也。
(Sớ: “Quảng đại”: Sách Châu Dịch gọi Càn là đại sanh, gọi Khôn là quảng sanh[14]. Nay không gì chẳng độ, ví như trời che đất chở, cùng nuôi dưỡng và bao dung, lòng Từ tột bậc không phân biệt, nên gọi là Phổ Môn).
Kinh Hoa Nghiêm có nói đến Thập Phổ[15]. Phổ Môn rộng lớn, sánh ví một câu A Di Đà Phật, không gì chẳng bao gồm, không gì chẳng chứa đựng, chắc chắn chẳng có chọn lựa. Đấy là như cổ đức đã bảo chúng ta: “Vạn tu, vạn nhân khứ” (vạn người tu, vạn người đến). Câu này là sự thật ngàn vạn phần xác đáng. Sở dĩ, có tu mà chẳng thể vãng sanh là vì tu chẳng đúng pháp. Nếu hợp lý, hợp pháp thì chẳng có một ai tu học mà không vãng sanh, ngay cả lâm chung mười niệm cũng vãng sanh! Vì thế, pháp môn này được gọi là Phổ Môn, pháp môn này rộng lớn khôn sánh. Từ hơn hai ngàn pháp môn trong kinh Hoa Nghiêm, đặc biệt chọn lấy pháp môn này là vì pháp môn này rộng lớn, là vì pháp môn này triệt để, là vì pháp môn này đơn giản, là vì pháp môn này dễ dàng, là vì pháp môn đáng tin cậy, ổn thỏa, thích đáng. Do đó, Văn Thù, Phổ Hiền, Thiện Tài và bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong hội Hoa Tạng thảy đều kiên quyết chọn lựa pháp môn này. Nếu quý vị hiểu rõ chuyện này, chính mình tin tưởng pháp môn này, cái tâm niệm Phật chắc chắn không bị dao động, thì người ta nói Thiền cũng được, Mật cũng được, một đời thành Phật cũng được, ngay lập tức thành Phật cũng được, [chúng ta] như như bất động, một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng, tuyệt đối chẳng lay động.
Những sách vở do người hiện thời viết, tri kiến chẳng chánh đáng, đọc những thứ đó, tâm địa bị ô nhiễm. Có thời gian để đọc những thứ đó, vì sao chẳng xem Di Đà Kinh Sớ Sao? Vì sao chẳng niệm danh hiệu A Di Đà Phật? Hiện nay tôi chỉ đọc hai cuốn sách là Di Đà Kinh Sớ Sao và kinh Hoa Nghiêm, những kinh khác tôi đều chẳng xem, vì sao vậy? Đối với tôi, những kinh sách ấy không cần thiết, tôi chẳng lãng phí thời gian. Khi chẳng đọc sách bèn niệm Phật, còn khi đọc sách thì đọc hai cuốn ấy. Bản thân tôi chắc chắn thành công, chắc chắn vãng sanh, tôi nắm rất vững, đắc tự tại. Quý vị đồng tu chịu tin, chịu hành, ai nấy đều có thể thành công, hy vọng mọi người ai nấy đều nỗ lực. Hôm nay đã hết thời
gian, chúng tôi giảng tới chỗ này.
— o0o —
Tập 64
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang tám mươi lăm:
(Huyền Nghĩa) Thất, hộ trì đa chướng hành nhân bất tao đọa lạc giả.
(玄義) 七、護持多障行人不遭墮落者。
(Huyền Nghĩa: Bảy là vì hộ trì hành nhân nhiều chướng ngại khiến cho người ấy chẳng bị đọa lạc).
Đây là nhân duyên thứ bảy khiến Liên Trì đại sư chú giải bộ kinh này. Vì sao phải chú giải bộ kinh này? Vì sao phải giảng bộ kinh này? Nói cách khác, vì sao phải tu học pháp môn Di Đà? Điều thứ bảy là nói “hộ trì đa chướng hành nhân”, “hành nhân” là người tu hành. Chúng ta thấy đề mục này liền lập tức suy nghĩ: Hiện thời, chúng ta thật sự có quá nhiều chướng ngại. Lắm chướng ngại, dễ bị đọa lạc, tu hành chẳng dễ gì thành tựu. Chướng ngại càng ít càng hay, dễ thành tựu; pháp môn này có ích rất lớn đối với người nhiều chướng ngại.
(Huyền Nghĩa) Mạt thế tu hành, đa chư chướng nạn, nhất khuy chánh kiến, tức hãm quần tà.
(玄義) 末世修行,多諸障難,一虧正見,即陷群邪。
(Huyền Nghĩa: Tu hành trong đời Mạt có nhiều chướng nạn, hễ thiếu chánh kiến bèn bị vây hãm trong các thứ tà kiến).
Hiện tượng này đặc biệt rõ ràng trong hiện thời, có thể nói phát tâm tu hành đều là thiện hạnh, đều là hảo tâm, nhưng chính mình thường đọa trong tà đạo, mà chính mình trọn chẳng hay biết. Nếu biết chính mình đi vào đường tà, đương nhiên kẻ ấy cũng quay lại. “Nhất khuy chánh kiến”: Chánh kiến vừa thiếu hụt đôi chút bèn biến thành tà tri tà kiến. Hiện thời, thiếu sót chánh kiến quá nhiều, đương nhiên do rất nhiều nhân tố: Thứ nhất là ít người thật sự hoằng dương chánh pháp, đó là ngoại duyên. Ngoại duyên quá ít! Những thứ chúng ta tiếp xúc, gặp gỡ, đúng như kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Thời kỳ Mạt Pháp, tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”. Tà sư quá nhiều, đó là ngoại duyên không tốt. Trừ ngoại duyên ra, bản thân chúng ta cũng chẳng tốt lành gì! Ưa chuộng kỳ quái, ham lạ chuộng quái! Theo đúng quy củ giảng kinh cho quý vị, [quý vị bèn chê] không có gì hiếm hoi, lạ lùng! Biến [việc giảng kinh] thành trò ảo thuật, hiển lộ một chút thần thông, [nâng thân] rời khỏi mặt đất ba thước, tuyệt diệu quá! Chính mình ưa thích thần thông, ham kỳ chuộng lạ! Do vậy, yêu ma quỷ quái liền biến hiện các thứ thần thông để dụ dỗ, mê hoặc quý vị. Nội duyên lẫn ngoại duyên đều bất hảo, nội duyên là không có chánh tri chánh kiến. Quý vị nhất định phải hiểu rõ: Phật pháp là sự giáo dục của đức Phật. Đã là giáo dục, nhất định phải theo quy củ dạy học, chẳng thể hằng ngày biến hiện trò ảo thuật, diễn trò xiếc cho chúng ta xem, không có kiểu cách ấy! Đúng quy củ lên lớp dạy học! Yêu ma quỷ quái mới làm ảo thuật, dùng trò xiếc để dụ dỗ, mê hoặc quý vị, chẳng lên lớp nghiêm túc. Chúng ta phải hiểu rõ điều này. Sau khi hiểu rõ, chánh kiến của chúng ta mới được dấy lên. Tri kiến của chính mình đã chánh đáng thì bất luận lũ yêu ma quỷ quái bên ngoài biến hóa những trò ảo thuật gì, quý vị chẳng bị chúng nó dụ dỗ, mê hoặc!
Ở Los Angeles, tôi đã từng gặp không ít các đồng tu học Phật rất kiền thành, từng có một vị Thượng Sư Mật Tông đến đó mở đỉnh đầu (khai đảnh) cho họ, cắm cọng cỏ vào đó[16]. Những đồng tu học Phật như ong vỡ tổ kéo đến, đến cắm cọng cỏ [vào đỉnh đầu] vẫn phải nộp lệ phí, thâu mỗi người hai mươi Mỹ kim. Đã thế, vị Thượng Sư bảo họ: “Đỉnh đầu đã mở, tương lai chắc chắn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới”. Tôi đến Los Angeles, các đồng tu đem chuyện này kể với tôi, tôi nói: “Nếu có pháp môn ấy trong thời Thích Ca Mâu Ni Phật, mà đức Phật chẳng truyền lại, Phật chẳng từ bi! Cớ sao chúng ta phải khổ sở niệm Phật nhiều năm như thế, cắm cọng cỏ vào đỉnh đầu là sang Tây Phương được rồi, đơn giản ngần đó! Pháp này chưa hề được truyền rộng khắp trong thiên hạ, đức Phật chẳng từ bi! Cắm cọng cỏ [vào một huyệt trên đỉnh đầu] bèn có thể vãng sanh, tôi chẳng tin tưởng!”
Sau đó, tôi đến Nữu Ước, ở Nữu Ước có một vị pháp sư tuổi còn rất trẻ, lại còn có một tỳ-kheo-ni rất trẻ, đại khái chưa đến ba mươi tuổi, chúng tôi nhắc đến chuyện ở Los Angeles, bọn họ nói: “Chuyện này rất đơn giản, chúng tôi đều có thể cắm”. Tôi hỏi: “Chuyện này là như thế nào?” Bọn họ đã học châm cứu, họ nói: “Trên thân người có các huyệt đạo. Huyệt đạo trên đỉnh đầu lớn nhất, chỉ cần tìm đúng huyệt đạo thì sẽ có thể cắm được, cũng chẳng cần phải tác pháp[17], cũng chẳng cần phải niệm chú”. Tôi nói: “Công phu của các vị còn cao hơn công phu của vị Thượng Sư đó!” Đủ thấy tánh con người ưa chuộng kỳ quái, tà sư bên ngoài dùng cách mầu mè để lừa gạt. Hắn cắm cọng cỏ kiếm được không ít tiền mang về; quý vị chẳng thể vãng sanh, hắn đâu có chịu trách nhiệm! Do vậy, hễ thiếu tri kiến bèn bị lừa, bị người khác gạt gẫm. Tôi thấy quá nhiều người bị gạt, bị lừa. Quý vị giảng chánh pháp, bảo họ bỏ ra một ít tiền để làm công đức họ chẳng làm, tiếc tiền! Lừa gạt họ, họ ngoan ngoãn mắc lừa, hết sức ngu si! Tri kiến chẳng chánh, “hãm nhập quần tà” (bị vây hãm trong các thứ tà kiến). “Quần tà” là như kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Tà sư thuyết pháp nhiều như cát sông Hằng”, bị kẻ khác gạt gẫm!
(Huyền Nghĩa) Bỉ Phật nguyện lực oai thần gia bị hành nhân, đại quang minh trung, bất tao ma sự, năng vị hộ niệm, trực chí đạo tràng.
(玄義) 彼佛願力威神加被行人 , 大光明中 , 不遭魔事,能為護念,直至道場。
(Huyền Nghĩa: Nguyện lực và oai thần của đức Phật ấy gia bị hành nhân, trong đại quang minh chẳng gặp ma sự, được hộ niệm mãi cho đến khi ngồi đạo tràng).
Pháp môn này trước hết là kiến lập tín tâm thanh tịnh. Cổ đức từng nói: Nếu chính Thích Ca Mâu Ni Phật đích thân đến bảo quý vị: “Ta có một pháp môn còn dễ dàng, còn ổn thỏa, còn thích đáng, còn nhanh chóng [hơn pháp môn Tịnh Độ], ta sẽ truyền dạy cho ngươi”. Chúng ta cũng phải nên có thái độ kiên định chẳng thay đổi đối với Thích Ca Mâu Ni Phật, thưa: “Bạch Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Con đã tiếp nhận pháp môn niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ này. Dẫu Phật có pháp môn nào khác con cũng chẳng học, con chỉ học pháp môn này là đủ rồi!” Như vậy thì mới có thể thành công, tín tâm của quý vị mới thật sự kiên cố, trong ba món tư lương Tín – Nguyện – Hạnh quý vị mới có Tín. Nếu đức Phật nói có một pháp môn nào khác: “Hay quá! Con lại học theo Ngài”, đủ thấy là về căn bản, quý vị chẳng có tín tâm!
Tín là điều thứ nhất, không có Tín đương nhiên sẽ chẳng có Nguyện, mà Hạnh cũng khỏi cần bàn tới nữa! Vãng sanh Tịnh Độ là do ba điều kiện này, thiếu một điều cũng không được. Vì thế, điều thứ nhất là phải kiến lập tín tâm. Tín tâm thanh tịnh là do oai thần của A Di Đà Phật gia trì. Tín tâm của chúng ta chẳng thanh tịnh, thần lực của Phật có muốn gia trì cũng chẳng được! Chính quý vị có chướng ngại. Quý vị có lắm chướng ngại mà! Tín tâm thanh tịnh, chướng ngại bèn bị trừ khử, có thể được gia trì bởi thần lực của Phật. Chúng ta thường nói là “A Di Đà Phật bảo hựu, Quán Thế Âm Bồ Tát bảo hựu quý vị”, yêu ma quỷ quái chẳng thể đến tìm quý vị, mà tìm người khác. Đây là sự thật ngàn vạn phần xác đáng!
Vì thế, Phật, Bồ Tát thật sự hộ niệm, đặc biệt là trong phần Lưu Thông của bộ kinh này, tức phần nói về chư Phật trong sáu phương có nói “nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”, tức là bộ kinh này được mười phương ba đời hết thảy chư Phật hộ niệm. Chúng ta chiếu theo bộ kinh này mà tu hành, đương nhiên cũng là người được mười phương ba đời hết thảy chư Phật hộ niệm, hộ niệm đến khi nào? “Trực chí đạo tràng” (mãi cho đến khi ngồi nơi đạo tràng), đạo tràng ấy chính là đạo tràng Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhất định bảo hựu quý vị vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
(Huyền Nghĩa) Cố tri trạch đồ tỵ quái, bảo kính độn yêu.
(玄義) 故知澤圖辟怪,寶鏡遁妖。
(Huyền Nghĩa: Cho nên biết quỷ quái tránh né hình vẽ con Bạch Trạch, yêu tinh trốn lánh gương báu).
Ở đây nêu lên hai công án.
(Huyền Nghĩa) Chánh niệm phân minh, vô năng nhiễu giả.
(玄義) 正念分明,無能嬈者。
(Huyền Nghĩa: Chánh niệm phân minh, chẳng thể nhiễu loạn).
“Nhiễu” (嬈) là nhiễu loạn. Đối với người niệm Phật, quan trọng nhất là “chánh niệm phân minh”. Chánh niệm là gì? Trong phần sau của kinh này sẽ nói đến Sự Trì và Lý Trì. Các đồng tu sau khi nghe pháp môn này, thật sự tin tưởng, thật sự phát nguyện, giống như Ấn Quang đại sư đã nói: “Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn” (Biển khổ không ngằn mé, quay đầu là bờ). “Lạc bang hữu lộ” (cõi Cực Lạc có nẻo), “Lạc bang” là Tây Phương Tịnh Độ, “năng nguyện tức sanh” (phát nguyện bèn vãng sanh), quý vị phát nguyện bèn vãng sanh, đúng là “vạn người tu, vạn người đến”. Quý vị thật sự tin tưởng, thật sự phát nguyện, từ hôm nay trở đi, trong tâm giữ kỹ một câu Phật hiệu chẳng gián đoạn, thời thời khắc khắc khởi lên. Câu Phật hiệu ấy từng chữ phân minh, câu trước câu sau liên tục chẳng gián đoạn, suốt ngày từ sáng đến tối là một niệm này, A Di Đà Phật, không có niệm thứ hai. Đó gọi là “chánh niệm phân minh”. Nếu trong khi niệm Phật mà vẫn còn nghĩ đến chuyện khác, vẫn khởi vọng tưởng, tuy là chánh niệm, nhưng trong chánh niệm xen tạp vọng niệm thì chánh niệm cũng chẳng phân minh. Đủ thấy đạt được chánh niệm phân minh là công phu thật sự!
Chánh niệm phân minh, ý nghĩ tà vạy chẳng xen vào được, đấy là “đại quang minh trung, trực chí đạo tràng” (ở trong đại quang minh mãi cho tới khi ngồi đạo tràng). Không có bất cứ kẻ nào mà hòng nhiễu loạn quý vị được! Niệm như vậy, chúng ta thấy trong Vãng Sanh Truyện từ xưa đến nay, bao nhiêu người có thể niệm trong vòng ba năm bèn thành công, biết trước lúc mất, khi mất, có tướng lành vô cùng tốt đẹp, bảo người nhà, quyến thuộc: Lúc nào ta sẽ ra đi. Đến khi ấy thật sự ra đi, đó là tướng lành đẹp đẽ nhất. Tôi lại nói với quý vị, chết rồi thiêu được rất nhiều xá-lợi, tuy là tướng lành, nhưng chẳng phải là tướng lành tốt nhất. Xá-lợi giả rất nhiều! Chúng ta đừng bị lừa gạt bởi những thứ ấy! Ở Hương Cảng, tôi đã gặp người đem thiêu có xá-lợi, đem xá-lợi đến, quẹt một que diêm đốt thử, “xá-lợi” cháy mất tiêu, chẳng còn nữa! Dùng búa gõ nhẹ một cái, xá-lợi vỡ nát. Thứ đó chẳng thật! Sức mạnh của ma rất lớn, biến hiện những thứ đó để gạt người. Vì thế, quý vị thấy những thứ phóng quang, hiện ra này nọ, chẳng đáng coi là lạ! Chỉ có trước lúc lâm chung, bảo với người nhà, quyến thuộc, bạn bè, ngày hôm nào tôi ra đi, đến khi ấy thật sự ra đi, cũng chẳng đổ bệnh. Đó là tướng lành thật sự!
Ở Hương Cảng có một vị lão cư sĩ tám mươi mấy tuổi, cụ thường đọc Đại Tạng Kinh, cụ đã vãng sanh rồi. Cụ mượn Đại Tạng Kinh từ Trung Hoa Phật Giáo Đồ Thư Quán về nhà xem, lần mượn kinh cuối cùng, cụ nói với pháp sư Sướng Hoài sau một tháng nữa, định rõ ngày giờ, [pháp sư hãy] sai người đến nhà cụ lấy Đại Tạng Kinh về, cụ nói cụ sắp đi rồi! Pháp sư Sướng Hoài nghe nói ngạc nhiên, chẳng lẽ cụ sắp vãng sanh? Nhìn chẳng giống, rất hoài nghi, hay là cụ dọn nhà? Rốt cuộc là chuyện như thế nào? Thời gian đúng là còn một tháng nữa, đến khi ấy sẽ sai người đến xem thử. Đến đúng ngày lão nhân gia đã ước định, Đồ Thư Quán sai người đến nhà cụ lấy Đại Tạng Kinh, khi đến nơi, cụ đang ngồi xem kinh, thấy người từ Đồ Thư Quán đến, bảo: “Anh đến làm gì?” “Chẳng phải là cụ bảo cháu hôm nay đến lấy Đại Tạng Kinh đó sao?” “Đúng! Phải rồi! Nhưng tôi không bảo anh đến lúc này”. Người trẻ tuổi ấy đương nhiên chẳng tranh cãi với cụ già: “Thôi! Hai hôm nữa cháu lại đến”. Lúc trở lại, người nhà nói: “Lão cư sĩ đã vãng sanh rồi!” Anh ta hỏi: “Vãng sanh khi nào?” “Sau khi anh đi khỏi hai tiếng”. “Vãng sanh như thế nào?” “Vãng sanh trong khi xem kinh. Đang xem kinh thì cụ vãng sanh”. Pháp sư Sướng Hoài nghe chuyện này, nhanh nhảu quay đầu niệm A Di Đà Phật, Sư nói chuyện này là thật đấy, chẳng giả đâu. Một tháng trước đó, cụ đã nói với người trong Đồ Thư Quán, cụ cũng chẳng ngã bệnh, hết thảy đều rất bình thường, đấy là tướng lành thật sự.
Trong cuốn Niệm Phật Luận, pháp sư Đàm Hư giảng khai thị, Ngài có nêu ra một người là pháp sư Tu Vô. Vị pháp sư này cũng chưa từng đi học, chẳng có kiến thức gì, tuy đã xuất gia rất lâu, nhưng giáo lý cũng chẳng thông, mọi người cũng coi thường Sư, Sư cũng niệm một câu A Di Đà Phật. Pháp sư Đàm Hư lập chùa Cực Lạc tại Trường Xuân, pháp sư Định Tây làm Đương Gia chùa ấy, Ngài (pháp sư Đàm Hư) làm Trụ Trì. Đạo tràng ấy dựng xong, bèn [tổ chức] truyền giới một lần, thỉnh lão pháp sư Đế Nhàn làm Đắc Giới Hòa Thượng[18]. Sư Tu Vô đến chùa ấy kiếm lão pháp sư Đàm Hư, lão pháp sư Đàm Hư bảo pháp sư Định Tây tiếp đãi Sư, hỏi: “Thầy đến làm gì?” Sư thưa: “Con nghe nói ở đây truyền giới, con muốn giúp đỡ”. “Thầy có thể làm việc gì?” Sư thưa: “Con phát tâm chăm sóc bệnh nhân”. [Thời gian cử hành pháp hội] truyền giới ở Đại Lục là năm mươi ba ngày, người bị trúng gió cảm mạo chẳng ít, Sư phát tâm tới chăm sóc người bệnh. Pháp sư Định Tây nói: “Tốt lắm! Tôi cũng hết sức hoan nghênh”, giữ Sư lại, mời Sư chăm sóc người bệnh. Lễ truyền giới còn chưa bắt đầu, Sư lại đến tìm lão hòa thượng, thưa: “Bạch lão hòa thượng! Con phải ra đi!” Pháp sư Định Tây rất bực bội, quở: “Ông là người xuất gia mà chẳng có cái tâm dài lâu! Ông phát tâm đến đây giúp đỡ, ông muốn đi thì cũng phải đợi kỳ hạn truyền giới xong mới đi được!” Sư thưa lão pháp sư: “Chẳng phải là con sang nơi khác, mà là về Tây Phương Cực Lạc thế giới”. Hai vị pháp sư nghe xong, sững sờ: “Ông về Tây Phương Cực Lạc thế giới? Khi nào sẽ đi?” Sư thưa: “Trong vòng mười hôm nữa!” “Đây là đại sự, chúng ta phải phái người trợ niệm cho ông ta, giúp ông ta chuẩn bị. Trong vòng mười ngày sẽ có đủ thời gian để lo liệu”. Hôm sau, Sư lại tới kiếm lão hòa thượng, thưa: “Không được rồi! Ngày mai con sẽ ra đi”. Pháp sư Định Tây vội vàng kê giường cho Sư tại một gian nhà ở phía sau chùa, tìm mấy người chăm sóc Sư. Đến ngày hôm sau, Sư ngồi xếp bằng trên giường, có mấy người trợ niệm giúp Sư. Niệm chưa đầy mười lăm phút, Sư viên tịch. Pháp sư Đế Nhàn hết sức tán thán Sư: “Vị này chẳng hiểu kinh giáo, chẳng có thân phận, địa vị, mọi người đều coi thường Sư. Thành tựu này của Sư, nói thật thà thì các đại pháp sư giảng kinh thuyết pháp, hàng Phương Trượng của các ngôi chùa báu tại các danh sơn đều chẳng bằng Ngài”. Ngài về Tây Phương làm Phật, đấy mới là tướng lành chân chánh.
Lão nhân gia nêu lên ba người, một người là xuất gia, một người là nam cư sĩ tại gia, một người là nữ cư sĩ tại gia, đều ra đi tự tại ngần ấy. Ngài nêu lên vị nam cư sĩ có học vấn một chút, bình thường cũng giảng kinh thuyết pháp ở bên ngoài. Vị nữ cư sĩ làm nội trợ trong gia đình, chuyện gì cũng không biết, cũng là niệm một câu A Di Đà Phật, cuộc sống trong nhà hết sức khốn khổ, chồng làm thuê, ngày nào không làm việc, ngày đó chẳng có cơm ăn. Bà ta niệm Phật thành công, đó mới là tướng lành thật sự.
Chúng ta niệm Phật cầu điều gì? Cầu ra đi giống như thế! Những trường hợp như thế rất nhiều! Đừng bị bệnh, phải vào nằm bệnh viện, khi ấy cũng chẳng đảm bảo sẽ kiếm được người trợ niệm! Phải nên đừng bị bệnh, hoan hỷ sung sướng ra đi, đấy mới là niệm Phật thật sự thành công!
(Sớ) Đa chư chướng nạn giả.
(疏) 多諸障難者。
(Sớ: “Lắm thứ chướng nạn” là…)
Đây là giải thích [đoạn Huyền Nghĩa] trong phần trước, đời Mạt Pháp tu hành có lắm thứ chướng nạn.
(Sớ) Hành nhân ư Thiền Quán trung, kích phát Ấm Ma.
(疏) 行人於禪觀中,擊發陰魔。
(Sớ: Trong Thiền Quán, hành nhân đã kích động Ấm Ma biến hiện).
“Kích” là kích động, “phát” là hiện ra. Kích động các loài ma, ma liền hiện ra. Quá nửa là nói về tu Thiền, Thiền và Mật đều rất dễ bị ma dựa. Ma trong Thiền có thể nói phần nhiều là Nội Ma, tức Ngũ Ấm Ma, giống như kinh Lăng Nghiêm đã nói năm mươi thứ Ấm Ma, quá nửa là biến hiện trong cảnh giới Thiền Định. Đối với Mật, phần nhiều là ma do chiêu vời từ bên ngoài. Vì sao? Quá nửa Mật chú là danh hiệu của quỷ thần. Trì Mật chú là giao tiếp với quỷ thần, nếu quý vị xử lý không khéo, họ đều biến thành chướng ngại! Thiên ma, yêu ma, quỷ quái đông lắm. Ma bên ngoài đông lắm! Tham Thiền thì ma cảnh bên trong nhiều lắm. Kinh Bát Đại Nhân Giác nói có bốn loại ma: Ngũ Ấm Ma, Phiền Não Ma, Tử Ma, và Thiên Ma. Mật có quan hệ mật thiết với Thiên Ma. Thiền Quán phần nhiều dính tới Ngũ Ấm Ma, còn phàm phu thì gặp Phiền Não Ma và Sanh Tử Ma.
(Sớ) Như Lăng Nghiêm khai ngũ thập chủng.
(疏) 如楞嚴開五十種。
(Sớ: Như kinh Lăng Nghiêm nêu ra năm mươi thứ Ma).
Đây là dẫn kinh Lăng Nghiêm để nói. Cảnh giới ma hiện tiền, thường là loài ma lớn, thật sự có thần thông to, nó hiện ra cảnh giới từa tựa cảnh giới của Phật. Về căn bản, chúng ta không có năng lực phân biệt rốt cuộc là Phật hay ma. Dẫu quý vị niệm kinh Lăng Nghiêm nhuyễn nhừ, khi cảnh giới ấy hiện tiền, chưa chắc đã có thể nhận biết rõ ràng, chúng ta phải đặc biệt chú ý điều này!
Thiền Quán: Thiền có thế gian Thiền, xuất thế gian Thiền, và xuất thế gian thượng thượng Thiền; Quán có Tích Không Quán, Thể Không Quán, Thứ Đệ Tam Quán và Nhất Tâm Tam Quán. Thông thường, người tham Thiền đắc Tứ Thiền Bát Định thì nhiều, đó là Thiền Định thế gian. Đắc loại Thiền Định này, họ sẽ sanh về đâu? Sanh lên Tứ Thiền Thiên. Tứ Thiền Thiên không ra khỏi tam giới! Dẫu sanh vào Đệ Tứ Thiền, công phu rất cao, cổ đức bảo chúng ta: Vẫn chẳng bằng Sơ Quả Tu Đà Hoàn của Tiểu Thừa. Vì sao? Tiểu Thừa Sơ Quả Tu Đà Hoàn chẳng đọa vào tam ác đạo, nhưng người trong Tứ Thiền Thiên và Tứ Không Thiên khi hết tuổi thọ, Định mất đi, thường đọa địa ngục.
Tiểu Thừa Tu Đà Hoàn có năng lực gì? Các Ngài đã đoạn sạch tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới; vì thế, chẳng đọa tam đồ, tri kiến chánh đáng, tri kiến chẳng tà. Người đắc Tứ Thiền Bát Định chỉ chế phục phiền não, chưa đoạn phiền não, một phẩm Kiến Tư phiền não cũng chẳng đoạn, chỉ là “phục trụ” (chế ngự, khuất phục phiền não), ở trong Định, do Định lực chế ngự phiền não, cho nên họ có thể sanh vào cảnh giới cao dường ấy, nhưng sau khi Định lực mất đi, Kiến Tư phiền não lập tức hiện tiền. Đó gọi là “trèo cao, ngã đau”, chúng ta phải hiểu rõ, phải giác ngộ.
Ma cảnh hiện tiền, kinh Lăng Nghiêm dạy chúng ta một phương pháp: Chính mình phải thật sự giữ vững chánh niệm phân minh, đừng sợ hãi, ma cảnh hiện tiền ta chẳng bị lay động. Kinh dạy chúng ta như thế này…
(Sớ) Giai vân bất tác thánh tâm, danh thiện cảnh giới, nhược tác thánh giải, tức thọ quần tà.
(疏)皆云不作聖心,名善境界,若作聖解,即受群邪。
(Sớ: Đều nói: “Tâm chẳng nghĩ [chính mình] đã đắc thánh cảnh thì gọi là cảnh giới tốt đẹp. Nếu nghĩ là mình đã chứng thánh quả, liền vướng vào các thứ tà kiến).
Hai câu này chúng ta phải nhớ kỹ trong lòng. Vì sao? Quý vị mới chẳng gặp nạn! Cảnh giới hiện tiền thì như thế nào? Như như bất động. Quý vị hãy nhớ hai câu kinh Kim Cang: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng” (phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng). Khi cảnh giới hiện tiền, chẳng sanh lòng hoan hỷ, thấy mà như chẳng thấy, cảnh giới ấy sẽ là cảnh giới tốt đẹp. Vừa thấy liền động tâm, quý vị bị lừa rồi; ngay lập tức bị cảnh giới xoay chuyển! Trong quá trình chúng ta tu hành, dẫu thấy tướng hảo cũng đừng chấp trước, cũng chẳng cần phải nói với ai. Khi thật sự dụng công, sẽ có cảm ứng, có [trường hợp là] cảm ứng thật sự, mà cũng có trường hợp ma đến thử thách, tức là ma đến nhiễu loạn. Ma biến hiện thành một vị Phật ở trước mặt quý vị, quý vị thấy Phật, tâm bị ma lôi đi. Quý vị tu tập thì phải tu nhất tâm bất loạn, hễ ma hiện tiền, tâm hoan hỷ thì tâm bị loạn mất rồi, ma đến phá hoại nhất tâm, đoạn mất công phu của quý vị. Nếu quý vị thấy cảnh giới ấy, thấy mà như chẳng thấy, trong lòng bất động, vĩnh viễn bảo vệ được mình, đó là chánh niệm phân minh, chắc chắn chẳng có ý niệm ham chuộng quái lạ nào!
Vừa nghe nói cắm cọng cỏ [xuyên qua đỉnh đầu đảm bảo sanh về Cực Lạc], liền vội ùa đến, hạng người niệm Phật ấy làm sao niệm thành công cho được? Chẳng thể nào có chuyện ấy! Ở nơi kia nói pháp sư giảng kinh phóng quang tại đó, họ bèn vội hùa nhau kéo đến, ở nơi đây nói [pháp sư thuyết pháp] lìa khỏi [mặt đất] ba thước, họ lại chạy đến. Tâm luôn bị cảnh giới xoay chuyển, đến năm nào mới có thể đắc nhất tâm bất loạn? Đây là chuyện chẳng thể nào có được! Thật sự có công phu, niệm đến mức nhất tâm bất loạn, nhất định chẳng bị xoay chuyển bởi bất cứ cảnh giới nào, chỉ có khi sắp mất mới nói ra, cáo từ mọi người: “Hôm ấy tôi sẽ ra đi”. Chẳng phải là trong tình cảnh đó thì bất cứ cảnh giới nào cũng chẳng nói ra! Sơ Tổ Tịnh Độ Tông là Huệ Viễn đại sư khi còn tại thế đã ba lần thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới, trước nay chưa hề kể với ai, đến lúc sắp vãng sanh mới tuyên bố với mọi người thấy Tây Phương Tam Thánh, thanh tịnh hải hội đại chúng đến nghênh tiếp Ngài. Ngài bảo đại chúng: “Trong quá khứ, tôi đã từng thấy cảnh giới này ba lần. Lần này tôi sắp theo A Di Đà Phật ra đi”. Đó là cổ đức chánh niệm phân minh. Vì thế, hai câu kinh trên đây của kinh Lăng Nghiêm rất quan trọng, phải thường gìn giữ cái tâm thanh tịnh của chính mình.
(Sớ) Cố tri chánh kiến sảo khuy, tà ma toại xí.
(疏) 故知正見稍虧,邪魔遂熾。
(Sớ: Cho nên biết: Chánh kiến hơi thiếu, tà ma liền lừng lẫy).
Do người học Phật chánh kiến suy giảm, thiếu khuyết, nên yêu ma, quỷ quái bèn lừng lẫy trong thế gian.
(Sớ) Vô ích cánh tổn.
(疏) 無益更損。
(Sớ: Đã vô ích lại càng thêm tổn hại).
Đối với chúng ta trọn chẳng có mảy may lợi ích gì, chỉ tăng thêm tổn hại.
(Sớ) Cầu thăng phản trầm.
(疏) 求升反沈。
(Sớ: Cầu thăng lên, đâm ra bị chìm xuống).
Chúng ta vốn mong thành Phật mau một tí, kết quả bị đọa lạc. Con người hiện thời cái tâm mong thành tựu nhanh chóng quá tha thiết, lại còn ưa cầu may: Tốt nhất là khỏi phải chịu khổ sở gì hết, ngay cả một câu A Di Đà Phật cũng chẳng muốn niệm, mà cứ mong đến lúc ấy sẽ vãng sanh, trong thế gian đâu có chuyện tiện nghi dường ấy?
(Sớ) Diêu thử thiển căn bố đạo bất học.
(疏) 繇此淺根怖道不學。
(Sớ: Do lẽ này, kẻ căn cơ nông cạn sợ hãi chẳng học đạo).
Nói chung là sợ phải chịu khổ! Nói chung là chẳng nghiêm túc học đàng hoàng. Vì sao hiện thời Mật Tông thịnh hành dường ấy? Mọi người luôn ấp ủ tâm lý cầu may. Học các tông thuộc Hiển Giáo của Trung Quốc phải trì giới, ăn chay, chẳng thể sát sanh, học Mật Tông khoẻ ru! Mật Tông có thể ăn thịt, chẳng bó buộc quý vị ăn chay, cũng chẳng ràng buộc nghiêm ngặt, mọi người như ong vỡ tổ ùa theo. Đã thế, lại còn đề xướng những thuyết rất êm tai, “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay trong cái thân này). Thành Phật như thế nào? Mỗi ngày ăn thịt cá no kềnh cũng thành Phật, đâu có lẽ ấy! Ở Los Angeles, tôi gặp cư sĩ Hạ Kinh Sơn, sau khi ông ta đến Mỹ bèn học Mật với các lạt-ma pháp vương Tây Tạng hay Nê Bạc Nhĩ (Nepal). Tôi giảng pháp môn Tịnh Độ ở Los Angeles, ông ta cũng đến nghe, nghe xong cũng hoan hỷ. Có người hỏi ông ta: “Nghe cảm thấy như thế nào?” “A! Tôi cũng phải niệm Phật”. Có người hỏi ông ta: “Ông còn học Mật hay chăng?” “Tạm thời vẫn chưa buông bỏ Mật! Để xem [Mật] có linh hay không?” Ông ta vẫn chưa buông xuống được. Năm nay, ở Los Angeles, tôi lại gặp ông ta, ông ta nêu ra một câu hỏi, vì gần đây có ba người vãng sanh là thầy Lý ở Đài Trung, pháp sư Quảng Khâm, và Sử cư sĩ ở Los Angeles, tướng lành vãng sanh đều rất tốt, chẳng bị bệnh khổ, hết sức an tường. Cho nên ông ta hỏi: “Vì sao các lạt-ma hay Hoạt Phật trong Mật Tông lúc chết đều đau khổ dường ấy? Đều bị bệnh ung thư, khổ chẳng thể kham, hình dáng cũng chẳng tốt đẹp!” Ông ta hỏi tôi: “Vì lẽ nào vậy? Dường như nhìn từ những điều này thì Mật Tông chẳng bằng niệm Phật!” Chúng tôi cũng chẳng thể mích lòng Mật Tông, ông ta hỏi như thế, tôi chỉ đành đáp: “Nói chung là những vị đại đức trong Mật Tông phước báo quá lớn, hưởng hết phước rồi, còn những vị trong Hiển Tông cả đời đều chẳng hưởng phước, suốt đời tu khổ hạnh”. Tôi chỉ có thể trả lời ông ta như vậy, ông ta nghe xong cũng cười xòa!
Phàm những ai tin vào tôn giáo đều thừa nhận có đời sau, trong đời này chết rất tốt đẹp, đời sau nhất định sống rất tốt đẹp. Đời này chết chẳng tốt lành, đại khái là đầu thai vào đời sau làm sao có thể tốt đẹp được! Con người vì sao đầu thai trong đường súc sanh, biến thành ngạ quỷ, hay đọa địa ngục? Ai muốn đi vào đó? Quý vị phải biết: Vào trong ba ác đạo đều là vì hồ đồ mà vào, người lúc chết tỉnh táo, sáng suốt, chắc chắn người ấy chẳng đọa trong ba đường ác. Phàm ai khi chết mê hoặc, điên đảo, bất tỉnh nhân sự, sẽ không thể đảm bảo, quá nửa là đọa trong ba ác đạo. Vì thế, con người nhất định phải tu phước. Người Trung Quốc nói tới Ngũ Phước, phước cuối cùng trong Ngũ Phước cũng là điều quan trọng nhất: Mong được chết tốt lành. Chết tốt lành là khi mất tỉnh táo, sáng suốt, khi chết chẳng mê hoặc, quả báo trong đời sau sẽ thù thắng, chẳng đọa trong ba ác đạo. Vì thế, những điều này đều là chuyện trước mắt, mà cũng là những chứng cứ sống động trước mắt, chúng ta phải tự biết nhìn ra. Nhìn nhiều, tâm quý vị sẽ minh bạch, trong hết thảy các pháp môn sẽ tự nhiên biết lấy hay bỏ như thế nào, biết phải nên tu pháp môn nào, phải nên tu theo cách nào. Người ta có thành tựu như thế đó, chúng ta cũng có thể làm được. Ai nấy đều có thể làm được!
(Sớ) Kim niệm Phật giả, dĩ Phật đại nguyện nhiếp thọ, đại lực
khuông trì, oai mạc cảm can, thần bất khả trắc, tuy hữu ma sự, hành tương tự tiêu.
(疏) 今念佛者 , 以佛大願攝受 ,大力匡持 ,威莫敢干,神不可測,雖有魔事,行將自消。
(Sớ: Nay kẻ niệm Phật do được đại nguyện của Phật nhiếp thọ, được đại lực gìn giữ, oai thần chẳng ai dám quấy phá, chẳng thể suy lường được, tuy có ma sự nhưng rồi nó sẽ tự tiêu diệt).
Dẫu có những ma sự, người niệm Phật được oai đức và thần lực của Phật, Bồ Tát gia trì, hết thảy ma gặp phải quý vị đều lùi tránh, chẳng dám xâm phạm, chẳng dám nhiễu loạn quý vị. Tự mình đã chánh tâm, chánh niệm phân minh, bên ngoài có oai thần của Tam Bảo gia trì, cho nên người ấy chẳng gặp ma sự. Nếu quý vị thật sự dụng công, thật sự tu học đúng pháp, chỉ cần nửa năm sẽ có cảm giác, có thể nhận biết Tam Bảo thời thời khắc khắc bảo vệ, gìn giữ quý vị.
(Sớ) Hựu kinh vân: Niệm Phật chi nhân, hữu tứ thập lý quang minh chúc thân, ma bất năng phạm.
(疏)又經云:念佛之人,有四十里光明燭身,魔不能犯。
(Sớ: Lại nữa, kinh dạy: “Thân người niệm Phật có quang minh soi sáng bốn mươi dặm, ma chẳng thể xâm phạm”).
Trong kinh, đức Phật dạy: Người thật sự niệm Phật, đi, đứng, nằm, ngồi, trong mười hai thời, một câu Phật hiệu chẳng gián đoạn sẽ có sức mạnh lớn dường ấy. Vì thế, nay chúng ta nói: Phát tâm từ bi muốn cứu độ hết thảy chúng sanh thì cứu như thế nào? Chúng ta giảng kinh thuyết pháp có cứu được hay chăng? Thưa quý vị, chẳng cứu được! Người thật sự niệm Phật thì cứu được. Quang minh của người ấy chiếu xa bốn mươi dặm, trong vòng bốn mươi dặm ma chẳng thể xâm phạm. Chúng sanh ở trong bốn mươi dặm ấy cũng được hưởng lây; một người có phước, cả nhà người ấy đều có phước, mọi người đều được hưởng lây, thật đấy, chẳng giả đâu! Hòn đảo Đài Loan của chúng ta không lớn, có được dăm ba người tu hành chân chánh, hòn đảo này sẽ chẳng gặp kiếp nạn. Dăm ba người tìm ở đâu ra? Hy vọng người khác tu hành, ta được hưởng lây, mỗi người đều nghĩ như vậy thì kết quả chẳng có ai tu hành, chúng ta vẫn phải gặp nạn! Chính mình phải thật sự phát tâm. Thật sự phát tâm thì nơi đây chẳng gặp tai nạn.
Phát tâm là niệm niệm vì chúng sanh, chẳng vì chính mình. Ta niệm một câu A Di Đà Phật này vì hết thảy chúng sanh mà niệm, ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là vì hết thảy chúng sanh mà vãng sanh. Vì sao phải vãng sanh? Vì chính mình hiện thời không có năng lực hóa độ chúng sanh. Năng lực lẫn học vấn đều chẳng đủ, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới cầu học để vun bồi cho chính mình được trọn đủ; sau khi học thành tài sẽ thả chiếc bè Từ trở lại hóa độ chúng sanh. Đủ thấy niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ là vì chúng sanh, chứ không vì chính mình. Vì chúng sanh, chúng ta phải sốt sắng niệm, vì chính mình thì giải đãi cũng không sao, chuyện cá nhân mà! Ta vì chúng sanh, ta không niệm, chúng sanh phải chịu khổ nạn thêm một ngày, ta sốt sắng niệm thì chúng sanh được hưởng phước báo sớm thêm một ngày. Đó là sức mạnh không gì lớn hơn, thúc đẩy chúng ta nghiêm túc niệm Phật, nghiêm túc cầu sanh Tịnh Độ. Nếu quý vị thật sự hiểu rõ đạo lý này, quý vị sẽ có thể buông xuống vạn duyên, dấy lên chánh niệm. Một câu A Di Đà Phật là chánh niệm, là chánh tri chánh kiến, là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ta không chỉ buông xuống hết thảy các pháp thế gian, mà Phật pháp cũng phải buông xuống. Hết thảy kinh luận, hết thảy pháp môn đều buông xuống! Vì sao phải buông xuống? Chẳng buông xuống, sẽ chẳng thể niệm tốt đẹp câu Phật hiệu! Chẳng buông xuống, câu Phật hiệu này sẽ xen tạp rất nhiều thứ táp nham!
Hôm qua, tôi gặp cư sĩ Châu Gia Lân, chúng tôi nói đến chuyện giảng kinh. Tôi bảo ông ta: Hiện thời tôi chẳng phải là giảng kinh, tôi cũng không biết giảng kinh, khuôn mẫu quy củ giảng kinh tôi đều bỏ sạch. Hiện thời trên bục giảng là giảng gì vậy? Cầm kinh sách để đối chiếu xem hành vi và tư tưởng của chính mình có tương ứng với Phật hay không; hễ tương ứng thì gìn giữ, chẳng tương ứng bèn sửa đổi ngay lập tức. Hằng ngày niệm kinh, hằng ngày giảng nơi đây, đều là tu hành. Vì thế, chẳng phải là giảng kinh, mà là đang tu hành. Ví như ở chỗ này, chúng ta đọc đến câu “chánh niệm phân minh”, chúng ta suy nghĩ: Chính mình có phải là chánh niệm phân minh hay không? Có phải là trong mười hai thời chỉ có một câu A Di Đà Phật hay chăng? Trừ A Di Đà Phật ra, có tạp niệm nào hay chăng? Tôi phải suy nghĩ chuyện này, nếu thật sự chẳng có tạp niệm, bản thân tôi biết ngay: Tôi thành tựu rất nhanh, tôi nắm chắc Tây Phương Tịnh Độ. Nếu còn có những tạp niệm táp nham xen lẫn trong ấy, tôi biết chúng là chướng nạn, là chướng ngại, đó là “gặp nạn”. Vì vậy, tôi bỏ sạch hết thảy các pháp.
Nay chúng ta chỉ đọc một bộ kinh này. Kinh Hoa Nghiêm nhằm dấy lên lòng tin, pháp môn này là pháp khó tin, người khác nghĩ pháp này dành để dạy cho mấy bà cụ già! Đối với kinh Hoa Nghiêm, mọi người ca ngợi khôn cùng. Vì thế, tôi dùng Hoa Nghiêm để khởi lên lòng tin. Quý vị chẳng rất bội phục kinh Hoa Nghiêm hay sao? Kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng dạy quý vị niệm A Di Đà Phật, quý vị còn nói gì được nữa! Tôi giảng kinh Hoa Nghiêm cũng chẳng phải là giảng kinh, mà là mở kinh ra để đối chiếu với điều tâm mình suy nghĩ, việc thân mình làm có giống như đức Phật đã dạy trong kinh Hoa Nghiêm hay chăng? Cầm lấy tấm gương ấy để sửa đổi cho đúng hành vi của chính mình. Giảng kinh phải đọc từng đoạn, giải thích văn tự, giải thích từng chữ, phải giải thích ý nghĩa. Đó là tuân theo quy củ, tôi đều không có [những bước ấy], vì thế, chẳng phải là giảng kinh!
Người thật sự tu hành thân tâm thanh tịnh, đại từ, đại bi, thân người ấy thật sự tỏa quang minh chiếu xa bốn mươi dặm. Thân này phóng quang, chúng ta là phàm phu mắt thịt chẳng thể thấy, nhưng yêu ma quỷ quái chẳng dám đến gần quý vị; bởi lẽ, quang minh ấy có thể nói là quang minh chánh đại, “ma bất năng phạm”, tà ma chẳng dám xâm phạm quý vị!
(Sớ) Dĩ A Di Đà Phật, cập thập phương Phật, thường hộ niệm cố.
(疏) 以阿彌陀佛,及十方佛,常護念故。
(Sớ: Do A Di Đà Phật và mười phương Phật thường hộ niệm).
Đây là một nhân tố bên ngoài. Bản thân quý vị nội tâm thanh tịnh, chánh niệm phân minh, tương ứng với Tây Phương Tịnh Độ. Do vậy, cảm được A Di Đà Phật hộ niệm và mười phương chư Phật hộ niệm quý vị, ma làm sao dám dính đến quý vị, dính chẳng được!
(Sớ) Tùng kim phát tâm, trực chí đạo tràng, tự thỉ tự chung, cát vô bất lợi.
(疏) 從今發心,直至道場,自始自終,吉無不利。
(Sớ: Từ lúc phát tâm trong hiện thời mãi cho đến khi ngồi đạo tràng, từ đầu đến cuối là tốt lành, chẳng có điều gì bất lợi).
Đại cát đại lợi, chuyện gì cũng đều chẳng cần phải lo âu, chuyện gì cũng chẳng cần phải bận lòng. Dẫu là nơi hiểm nạn, quý vị đến đó cũng được bình an, gặp điều dữ hóa lành. Quý vị chẳng đến thì nơi ấy có thể gặp phải tai nạn. Quý vị là người có đại phước đức, đến đó, chư Phật, Bồ Tát phải bảo vệ quý vị, yêu ma quỷ quái tránh xa, nơi ấy bèn cát tường. Chúng ta muốn cầu cát tường thì niệm Phật là cát tường nhất.
(Sớ) Lương diêu chánh niệm phân minh, túng ma lai giả, dị thức dị khiển, phi tỷ đam tĩnh trước không, trung vô chủ tể, phùng ma bất giác, toại chí nhập tâm giả dã.
(疏)良繇正念分明,縱魔來者,易識易遣,非比耽靜著空,中無主宰,逢魔不覺,遂至入心者也。
(Sớ: Ấy là vì chánh niệm phân minh, dẫu ma có đến cũng dễ biết, dễ xua đuổi ma. Chẳng giống như kẻ đắm đuối trong sự an tĩnh, chấp trước Không, trong tâm chẳng có chủ tể, gặp ma mà chẳng hay biết đến nỗi ma nhập tâm).
Đoạn này nói rất hay! Chúng ta phải ghi nhớ thật kỹ trong lòng. Đây là nói quả báo của người tu pháp môn Niệm Phật và người tu các pháp môn khác chẳng giống nhau. Nói thật thà, xét theo lý luận để nói, tám vạn bốn ngàn pháp môn bình đẳng, nhưng xét theo sự tu học của lũ chúng sanh chúng ta ngày nay, thì trừ niệm Phật là chánh niệm phân minh ra, những pháp môn khác đều chẳng phải là chánh niệm phân minh! Nghiên cứu Giáo sẽ tăng trưởng Sở Tri Chướng. Đó là nói rất dễ nghe; chứ nói khó nghe thì là tăng trưởng tà kiến. Học Thiền, học Mật, hễ gặp phải cảnh giới thì chính mình chẳng thể làm chủ tể. Chữ “đam tĩnh” (đắm đuối nơi tịch tĩnh) chỉ kẻ học Thiền, chữ “trước Không” (chấp vào Không) chỉ người tu học Tam Luận[19] hay Bát Nhã, quả thật họ gặp phải những cảnh giới, bèn chẳng thể làm chủ tể, bất tri bất giác lọt vào ma cảnh. Chỉ có người chánh niệm phân minh, dẫu ma thật sự hiện đến, người ấy nhận biết. Nhận biết nó, sẽ rất dễ dàng đuổi nó đi, chẳng gặp nạn, chẳng bị ma lừa gạt. Đó là người niệm Phật công phu đắc lực, người ấy có thể thấu hiểu sâu xa ý nghĩa này.
(Sớ) Trạch đồ bảo kính giả, dĩ thử nhị dụ, minh phi đản Phật lực, tức thị tự kỷ niệm lực dã.
(疏) 澤圖寶鏡者 ,以此二喻 , 明非但佛力 ,即是自己念力也。
(Sớ: “Hình con Bạch Trạch, gương báu”: Dùng hai tỷ dụ này để chỉ rõ: Chẳng phải chỉ có Phật lực, mà còn có niệm lực của chính mình).
“Niệm lực” là chính mình, Phật lực là bên ngoài. Pháp môn này gọi là pháp môn Nhị Lực, chính mình có niệm lực, bên ngoài có Phật lực gia trì. Không chỉ là thần lực của A Di Đà Phật gia trì, mà còn được sức mạnh của mười phương ba đời hết thảy chư Phật đều cùng gia trì. Đích xác là rất ít người biết chỗ tốt lành của pháp môn Niệm Phật. Người ta coi thường kinh Di Đà, ngày nay tuyên dương pháp môn Tịnh Độ, nói thật ra, trong thời đại này là thời đại yêu ma quỷ quái hoành hành, nếu chẳng thâm nhập Sớ Sao, nghiên cứu cặn kẽ Sớ Sao, quả thật sẽ chẳng biết chỗ hay trong kinh Di Đà. Điều thật sự khó có là Liên Trì đại sư đã giới thiệu tỉ mỉ thâm nhập như thế, khiến cho chúng ta thật sự nhận thức pháp môn này. Lại còn có kinh Hoa Nghiêm, có thể nói là kinh Hoa Nghiêm từ đầu đến cuối nhằm giới thiệu pháp môn Niệm Phật. Đọc kinh Hoa Nghiêm xong, sẽ chết sạch so đo, khắng khít nơi pháp môn Niệm Phật, chẳng còn ngờ vực nữa, biết chính mình quyết định vãng sanh trong một đời này! Hai bộ kinh này có công đức chẳng thể nghĩ bàn! Đối với người chân chánh học Phật, hai bộ kinh này là đủ rồi, chẳng cần phải học nhiều nữa!
Thế nhưng kinh Hoa Nghiêm quá lớn, rất khó đọc. Có một lần, cư sĩ Trịnh Thạch Nham và tôi có bàn đến vấn đề này, ông ta nói làm cách nào để đơn giản hóa bộ kinh ấy, giới thiệu một cách đơn giản, trọng yếu, tường tận, rõ rệt cho các đồng tu sơ học. Tôi bảo ông ta: “Tôi đã từng suy nghĩ chuyện này hết nửa năm. Làm thế nào để đơn giản hóa những bộ kinh lớn, quả thật là chuyện tất yếu. Bộ Toản Yếu[20] đã đơn giản hóa hai tác phẩm Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao và Hoa Nghiêm Kinh Hợp Luận, nhưng vẫn chưa đủ, chẳng qua là mới đơn giản hóa một nửa mà thôi. Chúng ta hy vọng có thể đơn giản hóa đến một phần mười, tốt nhất là một phần trăm. Khi ở Mỹ quốc, tôi đã suy xét vấn đề này: Sau khi trở về Đài Loan sẽ giảng kinh này theo cách nào để có thể giảng viên mãn kinh này rất mau chóng. Thế nhưng bộ kinh này từ đầu đã giảng từng chữ từng câu như thế thì hiện thời cũng chỉ đành tiếp tục giảng từng câu từng chữ như thế. Phương pháp được chọn lựa là những chỗ nào có quan hệ thụ dụng mật thiết với chúng ta thì chúng tôi sẽ giảng cặn kẽ, những chỗ nào chúng ta chưa thể dùng được thì đọc lướt qua. Đó gọi là “giảng nhanh”, làm như vậy tốc độ sẽ tăng nhanh hơn!
Trong tương lai, giảng lần thứ hai, tôi sẽ không theo cách giảng này mà giảng gì? Tôi giảng trích yếu sớ luận của kinh Hoa Nghiêm. Chẳng hạn như trong một phẩm kinh, tôi chỉ chọn lấy mười câu hay tám câu, tức những câu quan trọng nhất, tôi chỉ giảng những câu đó là được rồi, những câu kinh văn khác tôi đều lược qua. Chú giải, Sớ Sao, Hợp Luận cũng đều giảng như thế, mỗi thứ chọn lấy vài điều, biên tập như thế thành một bài giảng nghĩa. Một bộ kinh Hoa Nghiêm có thể giảng hai mươi lần, ba mươi lần là giảng viên mãn. Giảng như vậy sẽ được hết sức hoan nghênh, chẳng giống như hiện thời tôi đã giảng bộ kinh Hoa Nghiêm đến hơn hai ngàn giờ mà mới giảng được một nửa, quả thật là dài quá! Thầy Lý giảng ở Đài Trung hai mươi năm, bắt đầu giảng từ năm Dân Quốc 55 (1966) đến năm nay thầy vừa vãng sanh mới giảng được một phần ba. Vì thế, nhất định phải đơn giản hóa thì mới có thể khế hợp căn cơ của con người trong thời đại hiện tại. Dưới đây là lời giải thích hai tỷ dụ ấy.
(Sớ) Hữu thần thú danh Bạch Trạch[21], năng nhân ngôn.
(疏) 有神獸名白澤,能人言。
(Sớ: Có con thú thần kỳ tên là Bạch Trạch có thể nói tiếng người).
Bạch Trạch là tên của một con thú thần diệu, nó có thể nói tiếng người.
(Sớ) Biện vạn vật chi tình, chư tà vọng ảnh nhi tỵ. Cố viết: “Gia hữu Bạch Trạch chi đồ, tất vô như thị yêu quái”.
(疏)辨萬物之情,諸邪望影而避。故曰家有白澤之圖,必無如是妖怪。
(Sớ: Nó có thể biện định rành rẽ tình huống của muôn vật, các thứ tà vạy vừa thấy bóng nó từ xa liền tránh né, nên nói: “Trong nhà có hình Bạch Trạch, ắt chẳng có các loài yêu quái như thế”).
Đây là một truyền thuyết vào thời cổ ở Trung Quốc.
(Sớ) Hựu sơn tinh dã mị, năng biến hình chủng chủng, cuống hoặc ư nhân, nhi bất năng biến kính trung chi hình.
(疏)又山精野魅,能變形種種,誑惑於人,而不能變鏡中之形。
(Sớ: Lại như loài tinh mị trong núi non đồng vắng có thể biến ra các thứ hình dạng dối gạt, mê hoặc con người, nhưng chúng chẳng thể biến đổi hình bóng của chúng trong gương).
Yêu ma quỷ quái có thể biến hiện thành hình dạng con người, nhưng chẳng thể thay đổi bóng của nó trong gương. Nếu đem gương báu soi nó, nó không có cách gì biến hóa được, nó phải hiện nguyên hình. Đối với chuyện này, trong thời cổ có truyền thuyết như sau: Xưa kia có một người tên Vương Độ, nhà ông ta có một tấm gương báu gia truyền, có thể soi nguyên hình yêu ma quỷ quái. Gần nhà ông ta có một cái cây, yêu tinh nơi cây ấy tác quái. Do vậy, ông ta đem kính treo lên cây, kết quả, cái cây ấy bị sét đánh, có một con rắn to chết cứng dưới gốc cây. Có lần, ông ta đem tấm gương ấy soi vào một bé gái, đứa bé gái ấy van nài ông ta hãy cất gương đi, xin cho ăn no một bữa, uống rượu đã đời một bữa. Uống say xong, nó nằm chết trên giường, hiện nguyên hình là một con hồ ly. Đó là chuyện “bảo kính độn yêu” (yêu tinh trốn tránh gương báu). “Sơn tinh dã mị” có thể biến thành hình người để lừa gạt con người, nhưng chẳng thể hiện hình trước gương báu.
(Sớ) Dụ niệm Phật giả, chánh niệm hiện tiền, trí chiếu tinh lãng, nhất thiết thiên ma tâm ma bất đắc tiện cố.
(疏) 喻念佛者 ,正念現前 ,智照精朗 , 一切天魔心魔不得便故。
(Sớ: Ví như người niệm Phật, chánh niệm hiện tiền, trí chiếu tinh tường, rạng rỡ, hết thảy thiên ma và tâm ma chẳng có cơ hội giở trò).
Đủ thấy chánh niệm phân minh rất quan trọng. Quý vị phải nhớ kỹ “chánh niệm” là ba điều kiện Tín – Nguyện – Hạnh đầy đủ, chẳng thiếu một điều nào, đó gọi là “chánh niệm”. Chánh niệm kiến lập từ chỗ nào? Kiến lập từ Phật hiệu. Trong mười hai thời, một câu A Di Đà Phật chẳng dứt, người ấy nhất định đầy đủ ba điều kiện. Nếu người ấy chẳng nguyện vãng sanh, chẳng tin tưởng pháp môn này, làm sao người ấy chịu niệm Phật? Làm sao chịu niệm Phật chẳng gián đoạn? Ngẫu nhiên niệm một tiếng Nam-mô A Di Đà Phật, chẳng thấy có tín, có nguyện, nhưng suốt ngày từ sáng đến tối niệm chẳng gián đoạn, nhất định đầy đủ tín nguyện, ba điều kiện thảy đều đầy đủ. Đó là ý nghĩa chính xác của “chánh niệm phân minh”. Đấy cũng là điều chúng ta hy vọng làm được. Không chỉ hy vọng làm được, mà nhất định phải làm được, vì sao? Nếu quý vị làm được, sẽ liễu sanh tử, thành Phật trong một đời, thành Phật ngay trong thân này, điều này rất quan trọng! Nếu quý vị chẳng làm được, dẫu đời này tu hành tốt đẹp đến đâu đi nữa, đời sau chỉ được hưởng phước báo nhân thiên, hưởng hết phước này sẽ “hưởng” mê hoặc, “hưởng” hồ đồ, lại còn chẳng thể sốt sắng tu hành!
Cố nhiên Phật pháp dạy quý vị phải hành nhiều thiện sự, nhưng quý vị phải biết: Hảo sự chẳng bằng vô sự! Chuyện tốt nhất là thật thà niệm Phật, chẳng có gì tốt hơn! Làm chuyện tốt hãy tùy duyên mà làm, đừng phan duyên, phan duyên là gì? Bới chuyện ra để làm thì là phan duyên. Sự việc đưa đến, chúng ta chẳng thoái thác mà tận tâm tận lực làm cho tốt, đó gọi là “tùy duyên mà làm”, đừng bới chuyện ra để làm. Bới chuyện ra làm sẽ là “hiếu sự” (ham chuyện) sẽ chẳng phải là “hảo sự”[22]. Phan duyên thì làm sao tâm quý vị thanh tịnh cho được? Ấn Quang đại sư suốt đời chẳng lập đạo tràng, chẳng truyền giới, chẳng thâu nhận đệ tử xuất gia, suốt đời Ngài chẳng có chuyện gì! Vì thế, Ngài niệm Phật hiệu rất tốt đẹp, niệm thành công.
Thư viện này của chúng ta chẳng phải do phan duyên mà có, đây là do các đồng tu hoàn toàn tự động tự phát mua chỗ này rồi đến kiếm tôi. Tuy chúng ta có cái đạo tràng nhỏ chừng này, mãi cho đến bây giờ chúng ta chẳng phan duyên, chúng ta làm rất tròn bổn phận. Vì thế, ở nơi đây chúng ta tâm an lý đắc, một câu Phật hiệu cũng niệm rất tốt đẹp, nguyên nhân là ở chỗ này. Nếu thường xuyên phan duyên, thường muốn đề cao mở rộng Phật giáo như thế nào thì chẳng những không thể giúp đỡ chúng sanh mà chính mình cũng bị hủy hoại. Chuyện hoằng pháp lợi sanh có cần phải làm hay không? Phải làm! Chúng ta tận tâm tận lực thì công đức viên mãn, niệm niệm công đức viên mãn, tự tại lắm! Hướng ra ngoài phan duyên thì công đức ấy vĩnh viễn chẳng viên mãn. Từ trong nội tâm của chính mình, tận hết tấm lòng ta, tận hết sức ta, công đức của ta sẽ viên mãn. Nay tôi có một đồng thì làm chuyện công đức chừng một đồng, công đức của tôi viên mãn, tôi chẳng cần kiếm người khác, chẳng cần phải cầu cạnh người khác. Nếu tôi đi kiếm người khác, cầu cạnh người ta thì có thể làm nhiều hơn một chút, nhưng chẳng viên mãn vì tâm chẳng thanh tịnh. Do vậy, học Phật dẫu là lợi khắp chúng sanh, nhất định phải nghĩ đến thân tâm của chính mình thanh tịnh viên mãn. Điều này rất quan trọng!
Chánh niệm phân minh cũng là pháp môn tốt nhất để xa lìa yêu ma quỷ quái, kinh Lăng Nghiêm có tỷ dụ như sau:
(Diễn) Chủ nhân nhược mê, khách đắc kỳ tiện.
(疏) 主人若迷,客得其便。
(Diễn: Nếu chủ nhân mê, khách thừa dịp lợi dụng).
“Chủ nhân” là chính mình, bản thân chúng ta đã mê rồi, người bên ngoài sẽ dùng phương cách mầu mè gạt gẫm chúng ta. Bản thân chúng ta chẳng mê, bất cứ yêu ma quỷ quái nào cũng chẳng làm gì chúng ta được, chúng nó chẳng có một tí biện pháp nào hết! Vì thế, đừng sợ ma mà hãy sợ chính mình tà tâm, sợ ý niệm của chính mình bất chánh. Đó là điều đáng sợ nhất! Kinh Lăng Nghiêm còn có mấy câu như sau:
(Diễn) Đương xử Thiền Na, giác ngộ vô hoặc.
(疏) 當處禪那覺悟無惑。
(Diễn: Hãy nên trụ trong Thiền Na, giác ngộ, không mê hoặc).
Tổng cương lãnh tu hành trong Phật môn là Tam Quy Y. Tam Quy Y, khóa sáng khóa tối hằng ngày quý vị đều niệm, khi niệm phải nhắc nhở chính mình: Tự quy y Phật chẳng phải là ai khác quy y, mà là tự mình quy y! Quy y tự tánh Phật, Phật là giác. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ giảng Tam Quy Y cho người khác, sợ chúng ta mê hoặc, nên Ngài chẳng dùng [danh xưng] Phật, Pháp, Tăng mà nói “quy y Giác, quy y Chánh, quy y Tịnh”, chúng ta vừa nghe liền hiểu ngay. Hiện thời nói “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng” khiến chúng ta mê hoặc, hồ đồ, rốt cuộc Phật là gì? Pháp là gì? Tăng là gì? Mấy ai hiểu rõ ràng? Lục Tổ trực tiếp nói ra ý nghĩa này: “Phật là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh”, Ngài bảo chúng ta quy y Giác, quy y Chánh, quy y Tịnh, giác chứ không mê, chánh chứ không tà, tịnh chứ không nhiễm, hết thảy ma sự đều chẳng thể nhiễu loạn. Đây là nhân duyên thứ bảy: Hộ trì chướng nạn, chúng tôi giảng tới đây!
— o0o —
Tập 65
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản trang tám mươi tám:
(Huyền Nghĩa) Bát, đích chỉ tức hữu niệm tâm đắc nhập vô niệm giả.
(玄義) 八、的指即有念心得入無念者。
(Huyền Nghĩa: Tám là chỉ bày đích xác: Dùng ngay cái tâm hữu niệm để nhập vô niệm).
Đây là nói về nhân duyên thứ tám vì sao [đức Phật] giảng bộ kinh này. Cảnh giới cao nhất trong Phật pháp là vô niệm. Kinh Phật thường gọi “vô niệm” là “chánh niệm”. Vô niệm là không có niệm gì? Không có tà niệm! Không có tà niệm bèn gọi là “chánh niệm”. Tà và chánh khác nhau ở chỗ nào? Chúng ta nhất định phải hiểu rõ điều này! Lục Tổ nói rất hay: “Bổn lai vô nhất vật” (vốn chẳng có một vật); vốn chẳng có một vật nào chính là vô niệm. Đủ thấy chỉ cần dấy lên một niệm, một niệm ấy sẽ là vô minh. Trong hội Lăng Nghiêm, tôn giả Phú Lâu Na hỏi Thích Ca Mâu Ni Phật: “Vô minh do đâu mà có? Vì sao có vô minh?” Đây là một câu hỏi lớn. Đức Phật chỉ nói bốn chữ đã giải thích rõ ràng vấn đề này. Đức Phật nói: “Tri kiến lập tri, thị vô minh bổn” (trên tri kiến lại lập ra một cái biết nữa, đó là cái gốc của vô minh). [“Tri kiến lập tri” là] cội gốc của vô minh. Vô minh là từ trên tri kiến lại lập ra một cái biết nữa, kinh Pháp Hoa gọi “tri kiến” là “Phật chi tri kiến”. Mỗi người chúng ta đều là Phật, trong kinh Hoa Nghiêm và kinh Viên Giác, đức Phật đã nói rất rõ ràng: “Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật”. Đã vốn sẵn thành Phật thì có tri kiến của người nào chẳng phải là Phật tri Phật kiến? Từ trong tri kiến lại lập ra một cái tri kiến nữa, đó chính là vô minh. Vô minh do nhân tố này mà có!
Ý nghĩa này chẳng dễ gì thấu hiểu, chúng tôi nêu một thí dụ. Tôi lắc tay một cái, quý vị đều thấy rất rõ ràng, đó là tri kiến của Phật. Nếu quý vị phân biệt: Cái thẻ kẹp sách trong tay pháp sư bị lay động, đó là “tri kiến lập tri”, đấy là gốc vô minh. Đủ thấy khi sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, thấy rõ ràng, nghe rõ ràng, nếm rõ ràng, thứ gì cũng đều rõ ràng, trong ấy không có phân biệt, không có chấp trước, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, khi ấy chính là Phật tri Phật kiến, chẳng khác gì tri kiến của Như Lai. Phàm phu luôn cậy mình thông minh, khăng khăng thêm vào những danh tướng ấy khá nhiều danh từ. Lão Tử đã hiểu “danh khả danh, phi thường danh”, danh từ ấy là giả. Con người hiện tại coi giả danh là thật, quên khuấy chân tướng sự thật; đó là vô minh. Hễ có vô minh, sẽ sanh ra vô lượng vô biên phiền não.
Chỗ khác nhau giữa Phật và chúng sanh là Phật không có vô minh, phàm phu có vô minh. Chúng ta trừ khử vô minh bằng cách nào? Vô minh không còn, chúng ta sẽ thành Phật. Vô minh hoàn toàn chẳng còn thì là Phật. Phá được mấy phần, còn chưa thể phá hết sạch thì gọi là Bồ Tát. Phật, Bồ Tát và phàm phu sai biệt ở chỗ này. Chúng ta dấy lên vô minh, chẳng phải là bây giờ mới dấy lên, chẳng phải là đời này mới dấy lên, mà là đã nhiều đời nhiều kiếp bị vô minh che lấp chân tánh. Vì thế, sanh tử, tử sanh, vĩnh viễn luân hồi trong lục đạo chẳng thể thoát lìa. Nay nói đến vô minh đâm ra dễ hiểu hơn đối với chúng ta; nói tới vô niệm, nói tới bổn tánh, hóa ra chúng ta chẳng hiểu! Học Phật nhằm khôi phục bổn tánh, tức là khôi phục vô niệm. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, chẳng có một pháp môn nào ra ngoài lệ này, hoàn toàn là tu điều này!
Nay chúng ta dùng phương pháp niệm Phật, niệm Phật là cái tâm hữu niệm. Chúng ta có cái tâm niệm Phật, dùng phương pháp này, dùng cái tâm hữu niệm để chứng nhập chân tánh vô niệm. Vô niệm là Chân Như bổn tánh. Nhân duyên thứ tám nhằm thảo luận chuyện này. Quý vị hiểu rõ đạo lý này, mới biết niệm Phật có công đức chẳng thể nghĩ bàn. Thiền Tông tham Thiền có thể minh tâm kiến tánh, Mật Tông trì chú có thể “tức thân thành Phật”; vô niệm là minh tâm kiến tánh, vô niệm là tức thân thành Phật. Nay chúng ta chẳng cần phải tham cứu, cũng chẳng cần trì chú, mà minh tâm kiến tánh, tức thân thành Phật, dùng phương pháp gì vậy? Dùng phương pháp hữu niệm tâm. Chúng ta lại xem lời khai thị tiếp theo của đại sư.
(Huyền Nghĩa) Tâm bổn vô niệm.
(玄義) 心本無念。
(Huyền Nghĩa: Tâm vốn vô niệm).
Tâm này là chân tâm, chân tâm vốn “vô niệm”, Lục Tổ bảo là “vốn chẳng có một vật”. Chỉ cần quý vị hữu niệm đều gọi là vọng niệm. Vì sao đều gọi là vọng niệm? Vì trong chân tâm không có niệm, cho nên hữu niệm đều là vọng! Lại thưa cùng quý vị, hữu niệm là có phiền não, hữu niệm là có chướng ngại. Trong kinh Hoa Nghiêm nói tới Sự vô ngại, Lý vô ngại, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại; vì sao đối với Ngài hết thảy đều không có chướng ngại? Vì Ngài vô niệm, vô niệm thì chân tánh hoàn toàn hiển lộ; bởi lẽ, trong chân tâm vốn chẳng có vọng niệm.
Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát nói rất rõ ràng:
“Bổn Giác vốn có, Bất Giác vốn không”. Bổn Giác là vô niệm, vô niệm mới giác. Hữu niệm là Bất Giác, Bất Giác là vô minh. Trên thực tế, hai câu nói ấy của Mã Minh Bồ Tát hoàn toàn có cùng một ý nghĩa với câu “tri kiến lập tri” của kinh Lăng Nghiêm; đó là hai cách diễn tả [khác nhau] của cùng một chuyện. Nói như vậy thì chúng ta khởi tâm động niệm để niệm A Di Đà Phật có phải cũng là vọng niệm hay chăng? Trong Chân Như bổn tánh tuyệt đối không có một vị A Di Đà Phật! Nếu có A Di Đà Phật, lời của Lục Tổ đại sư đã nói sẽ chẳng thông! [Tổ nói] “vốn chẳng có một vật”, ai nói không có vật gì? Có A Di Đà Phật mà! Vì vậy, phải hiểu: Trong Chân Như bổn tánh, A Di Đà Phật cũng chẳng có!
(Huyền Nghĩa) Niệm khởi tức quai.
(玄義) 念起即乖。
(Huyền Nghĩa: Niệm dấy lên bèn trật).
“Quai” (乖) là trái nghịch, trái nghịch chân tánh, cũng có nghĩa là trong chân tánh của quý vị dấy lên vô minh, chỉ cần hữu niệm thì vô minh bèn dấy lên.
(Huyền Nghĩa) Nhi chúng sanh vô thỉ dĩ lai, vọng tưởng quán tập, vị dị tốt khiển.
(玄義) 而眾生無始以來,妄想慣習,未易卒遣。
(Huyền Nghĩa: Nhưng chúng sanh từ vô thỉ đến nay đã quen thói vọng tưởng, chưa dễ gì trừ sạch).
Từ vô thỉ kiếp đến nay quý vị mê muội, khởi vọng niệm, đời đời kiếp kiếp chẳng có cách nào khôi phục. Vọng niệm biến thành thói quen, quý vị muốn chẳng khởi vọng niệm cũng không được. Suốt ngày từ sáng đến tối vọng niệm chưa hề gián đoạn, ngay cả ngủ nghê cũng chẳng thật thà, vẫn còn nằm mộng. Nằm mộng là dấy vọng niệm; chẳng dấy vọng niệm sẽ không nằm mộng. Vì thế, vọng niệm rất khó thể trừ. “Khiển” (遣) là gạt bỏ.
(Huyền Nghĩa) Kim giáo niệm Phật.
(玄義) 今教念佛。
(Huyền Nghĩa: Nay dạy [hành nhân] niệm Phật).
“Giáo” là dạy bảo. Dạy bảo quý vị phương pháp niệm Phật, phương pháp ấy chính là gì vậy?
(Huyền Nghĩa) Thị nãi dĩ độc công độc.
(玄義) 是乃以毒攻毒。
(Huyền Nghĩa: Là dùng độc trị độc).
Dùng phương pháp như thế đó.
(Huyền Nghĩa) Dụng binh chỉ binh.
(玄義) 用兵止兵。
(Huyền Nghĩa: Dùng quân dẹp quân).
Đây là tỷ dụ, vọng niệm tổn hại Pháp Thân và huệ mạng của chúng ta, đó là chất độc. Bản thân chúng ta phải hiểu: Suốt ngày từ sáng đến tối có vọng tưởng nhiều ngần ấy, tồn tại vọng niệm nhiều ngần ấy. Chính mình biết đó là bệnh, bệnh rất nặng! Niệm Phật là dùng một niệm để ngăn dứt hết thảy vọng niệm, đó gọi là “dùng độc trị độc”. Một câu A Di Đà Phật này cũng là chất độc, cũng là vọng niệm mà! Nếu suốt ngày từ sáng đến tối chỉ khởi lên một vọng niệm thôi, khá lắm! Chẳng đến nỗi dấy lên rất nhiều vọng niệm; vì thế, trừ được tất cả các vọng niệm, chỉ giữ lại một vọng niệm này. Dùng một niệm để dứt hết thảy vọng niệm; lý luận của niệm Phật là như vậy. Nếu chẳng dùng phương pháp này, quý vị hãy nghĩ xem còn có phương pháp tốt đẹp nào khác để đoạn trừ vọng niệm hay chăng? Phương pháp thì có, thường gọi là “tám vạn bốn ngàn pháp môn”, có thể có tới tám vạn bốn ngàn thứ, có vô lượng vô biên thứ, nhưng trong vô lượng vô biên phương pháp ấy, nói tới phương pháp hiệu quả nhất, dễ dàng đoạn vọng niệm nhất, không chi hơn niệm Phật!
Niệm Phật thì quý vị phải biết niệm, chưa thể dứt vọng niệm tức là quý vị chưa biết niệm. Người biết niệm thì Phật hiệu có thể ngăn dứt vọng niệm. Chỉ cần quý vị có thể ngăn dứt vọng niệm, công phu sẽ đắc lực, nắm chắc vãng sanh. Nếu Phật hiệu chẳng thể ngăn dứt vọng niệm, dẫu mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, cổ nhân bảo “rách toạc cuống họng cũng uổng công”, quý vị vẫn sanh tử luân hồi trong lục đạo! Chúng ta thật sự tu pháp môn Niệm Phật, thật sự muốn vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng thể không biết điều này! Như thế nào mới là biết niệm? Bất luận ý niệm nào, thiện niệm cũng vậy, mà vọng niệm cũng thế, ý niệm vừa dấy lên, ngay lập tức đổi nó thành Phật hiệu, dùng Phật hiệu để thay thế. Nói cách khác, chẳng dấy niệm thì thôi; hễ dấy niệm bèn A Di Đà Phật, đó là biết niệm! Chẳng biết niệm thì khóa tụng sáng tối niệm mấy câu A Di Đà Phật, trừ những lúc ấy ra, toàn là khởi vọng tưởng, tạo thị phi, nhân ngã, vậy là không được rồi! Đó gọi là “công phu chẳng đắc lực”. Khi niệm Phật khởi vọng tưởng, lúc nghe kinh cũng khởi vọng tưởng, tu hành như thế thì tu suốt đời cũng chẳng có cách nào thoát khỏi lục đạo luân hồi, đó là sự thật!
Mỗi vị đồng tu trong đạo tràng này, quý vị học Phật tuyệt đối chẳng phải là mới bắt đầu từ hôm nay trở đi, tuyệt đối chẳng phải là bắt đầu từ một đời này. Nếu đời này quý vị mới nghe Phật pháp, sẽ chẳng thể ngồi ở đây một tiếng rưỡi được! Quý vị có thể nghe kinh Di Đà ở nơi đây, đúng như kinh Kim Cang đã nói: Trong đời quá khứ, quý vị tuyệt đối chẳng phải đã gieo thiện căn nơi ba, bốn, năm đức Phật, mà là trong đời quá khứ, quý vị thân cận Phật, Bồ Tát, nghe pháp tu hành đã nhiều đời nhiều kiếp. Do vậy, quý vị mới có nhân duyên gặp được bộ kinh này. Quý vị ngồi nghe ở đây, nghe rồi trong tâm sanh hoan hỷ, chẳng phải là chuyện dễ. Đã là đời đời kiếp kiếp đều nghe pháp, nghe kinh, tu hành, vì sao chẳng thành tựu? Vì công phu của quý vị chưa có cách gì đè nén phiền não. Nếu trong đời quá khứ, công phu niệm Phật của quý vị thật sự đè nén phiền não, quý vị đã sớm về Tây Phương Cực Lạc thế giới rồi, chẳng còn đến nơi này nữa! Trong đời quá khứ, chúng ta đã coi thường, dụng công chẳng đúng pháp, một câu Phật hiệu chẳng niệm cẩn thận. Nay lại gặp gỡ, đã gặp thì phải giác ngộ, nhất định phải niệm tốt đẹp một câu Phật hiệu này!
Cái tâm hữu niệm là một câu A Di Đà Phật, nhớ Phật, niệm Phật, tâm ta tưởng Phật, miệng ta niệm Phật. “Vô niệm” là không có hết thảy tạp niệm, không có hết thảy vọng niệm, như vậy thì mới thành công. Mức độ thấp nhất là quý vị có thể sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, là công phu thành phiến, không có tạp niệm. Phật hiệu quả thật có thể đè nén và khuất phục vọng tưởng và tạp niệm, đương nhiên công phu càng giỏi hơn nữa là khi chẳng còn vọng niệm, đoạn rồi! Chẳng còn vọng tưởng, đoạn hết rồi thì gọi là nhất tâm bất loạn. Nhà Thiền gọi nhất tâm bất loạn là Thiền Định, Mật Tông gọi là “tương ứng”; vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, mà thuộc địa vị cao hơn, sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư. Những điều này đều do bản thân chúng ta dụng công trong lúc bình thường.
Nhất định phải hiểu lý luận, phải hiểu phương pháp. Vận dụng phương pháp này trong cuộc sống thường nhật của chúng ta để cuộc sống thường nhật của chúng ta sẽ là Sự Sự vô ngại giống như kinh Hoa Nghiêm đã nói, tức là bảo quý vị trong cuộc sống đừng quên một câu A Di Đà Phật. Có người hỏi: “Tôi niệm A Di Đà Phật trong phòng vệ sinh có được hay chăng? Có thể niệm trong buồng tắm hay không? Có thể niệm trong khi ngủ nghỉ hay chăng?” Có người nói chớ nên niệm ở những chỗ ấy, chớ nên niệm thì chẳng phải là gián đoạn ư? Chẳng phải là có trở ngại ư? Quý vị phải hiểu: Phật hiệu quyết định chớ gián đoạn, hễ gián đoạn sẽ khởi vọng tưởng. Ở những nơi như vậy, chúng ta thường nói tới cái tâm cung kính. Tâm cung kính là chúng ta niệm trong tâm, miệng đừng niệm ra tiếng, hãy niệm thầm. Trong Ấn Quang Đại Sư Văn Sao có nói: Trong tình huống hết sức đặc biệt phải niệm lớn tiếng, khi có người bệnh khổ, nhất là phụ nữ trong khi sanh nở, phải niệm lớn tiếng, niệm to giọng. Ngài nói: Niệm lớn tiếng, niệm to giọng, chẳng những sanh nở không đau đớn, mà còn sanh rất nhanh, mẹ và con đều bình an. Nói như vậy rất hợp lý, Phật pháp rất hợp tình người. Có những kẻ chẳng hiểu, bảo ở nơi này chẳng được, nơi nọ cũng không nên, hễ chẳng nên sẽ khởi vọng tưởng, khởi vọng tưởng bèn tạo tội nghiệp. Phật đại từ đại bi, lẽ nào khiến quý vị tạo nhiều tội nghiệp? Chẳng có lẽ ấy! Vì thế, phải biết: Một câu Phật hiệu này có thể giữ càng lâu càng hay, một ngày hai mươi bốn giờ đồng hồ đừng để nó gián đoạn. Khi ngủ say, quên phứt thì không có cách gì; hễ tỉnh giấc, ngay lập tức tiếp tục niệm.
(Huyền Nghĩa) Bệnh dũ khấu bình, tắc xả bệnh thể cánh vô tự thân, tức khấu đạo nguyên ngô xích tử.
(玄義) 病愈寇平 , 則捨病體更無自身 , 即寇盜原吾赤子。
(Huyền Nghĩa: “Bệnh lành, giặc yên”: Bỏ cái thân bệnh sẽ trọn chẳng có tự thân, giặc cướp vốn là con thơ của ta).
“Bệnh dũ, khấu bình” tỷ dụ vọng tưởng chẳng còn nữa. Quý vị sử dụng phương pháp này thuần thục, tự nhiên vọng niệm chẳng còn nữa. Khi vọng tưởng chẳng còn nữa, quý vị mới hoảng nhiên đại ngộ, vọng vốn là chân! Cớ sao vọng là chân? Vọng tưởng vẫn do chân tánh khởi dụng, [tức là] chân tánh phát sanh tác dụng, nhưng là chân tánh khởi tác dụng khi mê. Chư Phật, Bồ Tát vì chúng ta giảng kinh, thuyết pháp, nếu chúng ta hỏi các Ngài, các Ngài có khởi niệm hay chăng? Nếu các Ngài chẳng khởi niệm, làm sao có thể nói ra đạo lý nhiều dường ấy? Nói ra phương pháp nhiều dường ấy? Các Ngài có khởi niệm hay chăng? Thưa quý vị, các Ngài chẳng khởi niệm. Chẳng khởi niệm thì vì sao có thể nói pháp nhiều ngần ấy? Quý vị hãy tự mình suy nghĩ: Khi quý vị từ sáng đến tối nói chuyện, trong tâm có phải suy nghĩ trước, ta nên nói câu này như thế nào, phải soạn nháp trước, có hay không? Có ai khi nói, vừa mở miệng thì phải chuẩn bị soạn nháp sẵn: Câu đầu tiên ta nói như thế nào? Chữ thứ hai dùng như thế nào? Có hay không?
Trong cuộc sống thường nhật, khi nói năng, chúng ta đều chẳng cần phải soạn nháp. Đức Phật nói năng chẳng khởi niệm. Chẳng khởi niệm thì làm sao Ngài nói ra? Nói thật ra, đức Phật chẳng có pháp nào để có thể nói. Chẳng những là không có pháp nhất định để nói, mà quả thật đức Phật chẳng có pháp nào để nói. Ngài nói như thế nào? Thấy chúng sanh mê, Ngài bèn nói giác. Giác nhằm đối trị mê, mê là bệnh, giác là thuốc. Quý vị tham, đức Phật bèn nói vô tham. Quý vị nóng giận, đức Phật nói pháp không nóng giận. Hết thảy các pháp do đức Phật đã nói đều nhằm hoàn toàn đối lập, tương phản với tập khí phiền não vô minh của chúng sanh, đưa ra những cách nhằm đối trị tập khí phiền não vô minh của quý vị mà thôi! Bản thân đức Phật chuyện gì cũng chẳng có; do vậy, đức Phật thuyết pháp là vì chúng sanh mà thuyết. Rời khỏi chúng sanh, tâm Phật thanh tịnh, một câu pháp cũng chẳng có. Nếu chúng sanh đã lành bệnh, đức Phật cũng chẳng có một câu pháp nào! Vì thế, trong tâm đức Phật không có pháp, chẳng lập một pháp nào!
Đức Phật cũng chưa từng nói một câu pháp; trong kinh Kim Cang, đức Phật đã nói rất rõ ràng chuyện này. Giống như một thầy lang, trong tâm thầy lang không có toa thuốc. Nếu trong tâm ông ta có toa thuốc [cố định], nhất định sẽ hại chết cả đống người! Vì sao? Trong tâm ông ta có toa thuốc, bất luận người khác bị bệnh gì, [ông ta cứ khăng khăng]: “Ông phải uống loại thuốc này mới được”. Nếu quý vị rất may mắn, bệnh của quý vị khớp với toa thuốc ấy, [uống vô không sao]. Nếu quý vị uống vô bị chết thì nói cách khác là quý vị chẳng mắc bệnh khớp với toa thuốc! Ông ta chẳng chịu trách nhiệm! Trong tâm thầy lang không có toa thuốc, khi chẩn đoán sẽ xét xem quý vị bị bệnh gì, cắt cho quý vị những loại thuốc nào, châm chước phân lượng, mỗi người khác nhau!
Đức Phật thuyết pháp nhằm trị bệnh cho chúng ta. Vì thế, thuở đức Phật tại thế, chỉ cần có người đến gặp Phật, hướng về đức Phật nói ra nỗi đau khổ, sự phiền não, mê hoặc của chính mình, đức Phật ngay lập tức khai thị, quý vị sẽ hoảng nhiên đại ngộ, khai ngộ, chứng quả. Quý vị thấy trong kinh thường có chuyện như vậy. Nay chúng ta rất bất hạnh, đức Phật chẳng trụ thế, chúng ta muốn học Phật hết sức khó khăn, giống như thân chúng ta đang bệnh mà chẳng có thầy thuốc. Tuy thầy thuốc chẳng hiện diện, trước kia, Ngài đã kê cả đống toa thuốc cho người khác, tức là kinh điển Tam Tạng gồm mười hai thể loại. Nay chúng ta lấy toa thuốc để trị bệnh của chính mình, quý vị nghĩ xem toa thuốc nào đúng với chứng bệnh của chúng ta? Do vậy, chiếu theo kinh điển nào để tu hành cũng đều chẳng thể thành tựu, nguyên nhân là vì những toa thuốc ấy chẳng phải kê cho chúng ta, thuở ấy, đức Phật kê toa cho người khác. Nay chúng ta mắc bệnh khác hẳn họ, mức độ nặng nhẹ cũng chẳng như nhau. Trong quá khứ người ta uống một tiền[23] thuốc là khỏi bệnh rồi, hiện thời ta uống tới một cân vẫn chưa lành bệnh. Vì sao? Quá nặng! Nếu hiểu đạo lý này thì chính quý vị mới chẳng mê tín!
Nhưng đức Phật cũng hết sức từ bi, biết trong tương lai khi Ngài chẳng trụ thế, có thời kỳ Tượng Pháp, lại còn có thời kỳ Mạt Pháp, chúng sanh hết sức đáng thương, tập khí phiền não hết sức nặng nề, nên đặc biệt lưu lại một toa thuốc cho người đời sau, dành cho người trong thời Mạt Pháp, toa thuốc ấy chính là kinh A Di Đà, là pháp môn Niệm Phật. Rất đáng tiếc, những chúng sanh học Phật trong thời kỳ Mạt Pháp cứ khăng khăng coi thường, chẳng tôn trọng pháp môn này, chẳng chịu sử dụng, chớ trách đức Phật chẳng từ bi, hãy trách chính mình ngu si chẳng chịu nghe lời. Đức Phật đã thọ ký phổ biến cho hết thảy đại chúng trong đời vị lai: “Thời kỳ Chánh Pháp, Giới Luật thành tựu”, chiếu theo giới luật tu hành, có thể chứng quả A La Hán. “Thời kỳ Tượng Pháp, Thiền Định thành tựu”, chiếu theo giới luật tu hành chẳng thể chứng quả A La Hán. “Thời kỳ Mạt Pháp, Tịnh Độ thành tựu”, tức là niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Nói cách khác, Thiền cũng chẳng thể thành tựu. Trong thời kỳ Mạt Pháp, người tham Thiền có thể đắc Thiền Định, nhưng chưa thể kiến tánh. Đắc Thiền Định, trong tương lai, công phu cao nhất cũng chẳng qua là sanh vào Tứ Thiền Thiên mà thôi, chẳng thể vượt thoát tam giới, chẳng thể liễu sanh thoát tử! Chúng ta suy nghĩ kỹ càng những lời ấy sẽ thấy hoàn toàn chính xác, chẳng sai tí nào!
Niệm Phật thành tựu, niệm Phật có phải là minh tâm kiến tánh hay không? Chưa phải! Chưa phải thì làm sao có thể coi là thành tựu? Người ấy vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng ở trong thế giới Sa Bà nữa, đã thoát ra rồi, giống như nay chúng ta nói “đã di dân” vậy. Thân phận gì? Vẫn là thân phận trời người, trọn chẳng phải là chứng A La Hán, cũng chẳng phải là chứng Bích Chi Phật, cũng chẳng phải là Bồ Tát, mà là thân phận con người! Thân phận trời người, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn là người. Trong kinh nói rất rõ ràng: Thế giới Tây Phương không có ba ác đạo, đương nhiên chỉ có hai nẻo trời người. Vì thế, chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn là người. Nếu cao hơn một bậc so với người thì là trời, mang thân phận trời hay người từ thế giới Sa Bà di dân sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, chuyện là như vậy đó. Phương pháp này quả thật quá xảo diệu! Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái, thành Phật trong một đời. Pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn! Mầu nhiệm chẳng thể diễn tả được!
Tuần sau, chúng ta tổ chức đại chuyên giảng tòa ở nơi đây, trong vòng bảy ngày chúng tôi sẽ giới thiệu kinh Di Đà với các đồng học. Phải thảo luận cặn kẽ chuyện to lớn này, nếu quý vị thật sự hiểu rõ thì đối với pháp môn này, sẽ chết sạch lòng mong ngóng, khăng khăng tu học, chắc chắn quý vị sẽ thành công trong một đời này. Phải hiểu rõ lý luận và phương pháp thì tín tâm của quý vị mới đầy đủ. Quý vị chẳng hoài nghi, công phu đừng nên gián đoạn, quyết định thành tựu. Trong tương lai, nếu có phước báo, chúng tôi tạo dựng đạo tràng tu hành này giống như một giảng đường nhằm tiếp dẫn, kiến lập tín tâm cho quý vị, khuyên quý vị phát nguyện. Thật sự tu hành thì phải là Niệm Phật Đường. Bước vào Niệm Phật Đường, một câu Phật hiệu chẳng gián đoạn, giống như lần này chúng tôi giảng về Tinh Tấn Phật Thất. Trong Tinh Tấn Phật Thất chỉ có một câu danh hiệu, “A Di Đà Phật”.
Trong mười hai thời là một câu Phật hiệu. Trừ một câu Phật hiệu ra, thứ gì cũng chẳng có, chẳng có tạp niệm! Niệm một câu “A Di Đà Phật thân kim sắc” vẫn là vọng niệm, có thêm một vọng niệm. Vì thế, Tinh Tấn Phật Thất, “tinh” là thuần chứ không tạp, ngay cả Nam-mô cũng chẳng cần. Nam-mô là có xen tạp trong ấy, đấy là một câu A Di Đà Phật. Kinh dạy chúng ta chấp trì danh hiệu, danh hiệu là bốn chữ. Trong mười hai thời [chấp trì danh hiệu] chẳng gián đoạn. Xưa kia, khi Ấn Quang đại sư ở chùa Báo Quốc núi Linh Nham, Niệm Phật Đường của Ngài là như vậy, trong mười hai thời, tức là một ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ, Phật hiệu chẳng gián đoạn. Ban đêm thì làm như thế nào? Ban đêm mọi người luân phiên niệm, trong Niệm Phật Đường nhất định có người niệm Phật. Bốn người một ban luân phiên niệm, ngày đêm chẳng gián đoạn, suốt cả năm chẳng gián đoạn, cũng chẳng nghỉ phép, đó gọi là đạo tràng tu hành.
Đạo tràng ấy chẳng giảng kinh, giảng kinh là xen tạp. Đạo tràng ấy chẳng thể giảng kinh, cũng chẳng thể giảng khai thị. Giảng khai thị cũng là xen tạp, một câu Phật hiệu niệm đến cùng. Nếu có đạo tràng như thế, chẳng biết sẽ giúp cho bao nhiêu người thành Phật, công đức vô lượng vô biên. Hiện thời vì sao không có đạo tràng như vậy xuất hiện, quý vị có biết vì sao hay chăng? Nếu có một đạo tràng như thế, chẳng ai đến cả! Đương nhiên đạo tràng ấy chẳng thể xuất hiện, không có ai đến mà! Quý vị đến ở trong đó ba ngày sẽ mệt mỏi khôn kham, nơi này không được rồi, nơi này suốt ngày từ sáng đến tối niệm Phật, tôi chịu không nổi! Quý vị chẳng đến đó. Người tu hành như vậy, thưa quý vị, chẳng phải là đạo tràng pháp hội thông thường, chẳng phải là đạo tràng cần rất nhiều tín đồ tìm đến, không có!
Quý vị thấy Sơ Tổ Tịnh Độ Tông là Huệ Viễn đại sư đời Tấn, Ngài là người kiến lập liên xã đầu tiên tại Trung Quốc, tức Đông Lâm Liên Xã. Mọi người ở cùng một chỗ niệm Phật cộng tu, bao nhiêu người? Một trăm hai mươi ba người, ai nấy đều vãng sanh. Đạo tràng nhỏ nhoi, mười mấy người, bảy tám người, có cùng chí hướng cộng tu đều vãng sanh. Chúng ta đọc Tây Phương Xác Chỉ, thấy những người được Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát một phen khai thị chỉ có tất cả mười hai người, mười hai người ai nấy đều vãng sanh. Đạo tràng tu hành chân chánh nhất định chẳng phan duyên, nếu chẳng phải là người chí đồng đạo hợp, chớ nên cho họ gia nhập, vì sao? Họ đến gây rối, nhiễu loạn mọi người, đến phá hoại đạo tràng. Vì thế, nhất định chẳng chấp thuận họ.
Nay chúng ta muốn cầu được pháp duyên thù thắng như Viễn Công đại sư chẳng dễ dàng. Tìm hơn một trăm người chẳng dễ! Có thể tìm được mười mấy, hai mươi người đã tuyệt lắm rồi! Mười mấy, hai mươi người thật sự phát nguyện, lấy cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ làm mục đích, có được mấy vị hộ pháp, chẳng phải lo gì về lương thực, chi dụng. Thưa quý vị, trong đạo tràng giống như vậy, niệm Phật ba năm là xong rồi, quyết định vãng sanh, đầy đủ điều kiện vãng sanh Tịnh Độ. Đại sự này là chuyện thù thắng nhất trong Phật môn, phải đợi các đồng tu chúng ta phát tâm cùng nhau nỗ lực. Nhân duyên ấy chẳng phải là nhân duyên thông thường, mà là nhân duyên thù thắng khôn sánh. Chỉ cần chúng ta có nguyện ấy, tôi tin tưởng đạo tràng ấy sớm muộn gì cũng sẽ xuất hiện.
Câu cuối cùng mang ý nghĩa “chân – vọng bất nhị, tánh – tướng nhất như”. Chúng ta đọc lời chú giải.
(Sớ) Khởi Tín Luận vân: “Tâm thể ly niệm”.
(疏) 起信論云:心體離念。
(Sớ: Khởi Tín Luận viết: “Tâm thể ly niệm”).
“Tâm” là nói đến chân tánh. “Thể” là bản thể. Chân tâm là bản thể của hết thảy vạn pháp. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã giảng rất rõ ràng: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Hãy nên quán tánh pháp giới, hết thảy đều do tâm tạo). Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Bản thể của tâm đích xác là chẳng có niệm.
(Sớ) Nhi khởi niệm niệm Phật, khởi bất phản nhiễu kỳ tâm?
(疏) 而起念念佛,豈不反擾其心。
(Sớ: Nhưng dấy lên ý niệm niệm Phật, há chẳng phải là ngược ngạo nhiễu loạn cái tâm ư?)
Đây là một đoạn vấn đáp giả định. Nay chúng ta khởi tâm động niệm muốn niệm A Di Đà Phật, nhưng tâm thể chẳng có niệm; thật ra, đối với câu nói này, chúng ta phải suy nghĩ, câu trả lời ở ngay chỗ này. Nếu tâm chúng ta không có niệm, chúng ta cần gì phải niệm A Di Đà Phật? Niệm A Di Đà Phật có phải là tăng thêm vọng niệm hay chăng? Hiện thời, vì trong tâm chúng ta vọng niệm không ngừng, nên mới phải niệm A Di Đà Phật. Nếu thật sự vô niệm thì niệm Phật hiệu để làm gì? Do vậy, phải hiểu đạo lý này! “Niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”. Đây là nói về tu nhân, trong tương lai khi chứng quả sẽ là “sanh mà vô sanh, vô sanh mà sanh”. Chúng ta hãy tìm cơ hội để nghiên cứu thảo luận kỹ lưỡng bộ sách Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận. Vì sao? Quý vị sẽ chẳng hoài nghi Tây Phương thế giới, thật sự hiểu rõ, thấu triệt, biết vãng sanh là chuyện như thế nào, hiểu rõ ràng, rành rẽ. Lần này tôi mang từ Hương Cảng về một cuốn chú giải tác phẩm Sanh Vô Sanh Luận, chú giải hết sức hay do cư sĩ Quý Thánh Nhất viết vào đầu thời Dân Quốc. Đây là một vị đại đức rất lỗi lạc vào đầu thời Dân Quốc. Tác phẩm của ông ta nội dung rất sâu, nhưng ngôn từ dễ hiểu, đơn giản hơn cổ nhân, viết rất cặn kẽ. Khi có cơ duyên, chúng ta có thể cùng nhau nghiên cứu, thảo luận.
(Sớ) Phật Tạng Kinh vân.
(疏) 佛藏經云。
(Sớ: Kinh Phật Tạng dạy…)
Phật Tạng Kinh[24] là tên một bộ kinh, trong Đại Tạng Kinh có một bộ kinh như vậy.
(Sớ) “Vô giác vô quán, danh vi niệm Phật, vô tưởng vô ngữ, thị danh niệm Phật”, nhi khởi niệm niệm Phật, khởi bất phản bội ư Phật?
(疏) 無覺無觀 , 名為念佛 。 無想無語,是名念佛。
而起念念佛,豈不反背於佛?
(Sớ: “Vô giác vô quán thì gọi là niệm Phật; không suy tưởng, không nói năng, đó gọi là niệm Phật”. Vậy thì khởi lên ý niệm niệm Phật, há chẳng phải là trái nghịch Phật ư?)
Dựa theo kinh, tức Phật Tạng Kinh, để làm căn cứ lý luận thì theo ý nghĩa này, chúng ta chớ nên khởi tâm động niệm. Chẳng khởi tâm, chẳng động niệm là chánh niệm. Chẳng khởi tâm, chẳng động niệm là niệm Phật chân chánh. Vì sao trong kinh này (kinh A Di Đà), đức Phật lại dạy chúng ta khởi tâm động niệm niệm Phật? Chúng ta xem lời thuyết minh dưới đây sẽ biết.
(Sớ) Kim vị diệt chư giác quán, Thật Tướng Niệm Phật, Lý tắc thành nhiên.
(疏) 今謂滅諸覺觀,實相念佛,理則誠然。
(Sớ: Nay nói diệt các giác quán là Thật Tướng Niệm Phật, về Lý thì đúng là như vậy).
Đây là câu trả lời cho hai câu hỏi phía trên. Chiếu theo [những điều đã hỏi trong] phần trước để nói, xét theo lý luận chẳng sai một tí nào! Cảnh giới được nói trong phần trên là cảnh giới cao nhất trong pháp môn Niệm Phật. Chúng ta thường nói niệm Phật gồm có bốn loại lớn, còn như chúng ta nay đang đề xướng Trì Danh Niệm Phật, suốt ngày từ sáng đến tối một câu A Di Đà Phật chẳng gián đoạn, đó là Trì Danh Niệm Phật, là pháp được đề xướng phổ biến trong Tịnh Độ. Ngoài pháp này ra, còn có Quán Tượng Niệm Phật. Người có phước báo kha khá mới tu Quán Tượng Niệm Phật được! Vì sao? Quý vị rất rảnh rỗi, chẳng phải đi làm, suốt ngày từ sáng đến tối có người hầu hạ. Trong Phật Đường của chính mình bốn phía đều treo hình A Di Đà Phật, bất luận quý vị đi tới đâu, mắt đều thấy tượng Phật, khiến cho tượng Phật bầu bạn với quý vị, khiến cho ấn tượng về Phật in đậm trong A Lại Da Thức, đó gọi là Quán Tượng Niệm Phật. Nếu quý vị rời khỏi Phật Đường, chẳng thấy tượng Phật nữa, sẽ quên phứt. Quý vị suốt ngày từ sáng đến tối chẳng thể rời khỏi Phật Đường, chẳng thể rời khỏi hình tượng Phật thì phải là người rất rảnh rỗi, phải rất có phước báo thì mới được, chẳng giống như Trì Danh Niệm Phật, vừa làm việc vừa có thể niệm Phật, chẳng bị trở ngại gì!
Phương pháp niệm Phật thứ ba còn rắc rối hơn loại này, đó là Quán Tưởng Niệm Phật. Tuy có thể chẳng cần phải đối trước tượng Phật, nhưng quý vị phải quán thành tựu những phương pháp đã dạy trong Thập Lục Quán Kinh; nếu quán chẳng thành sẽ vô ích. Chẳng hạn như phép Quán thứ nhất là “lạc nhật huyền cổ” (mặt trời lặn giống như cái trống treo). Quý vị thấy mặt trời lặn xuống sau núi, lặn về phía Tây, khi mặt trời lặn xuống sau núi, đỏ rực, như thế nào mới là quán thành? Sau khi quý vị đã quán thành tựu, bất luận ở chỗ nào, khi mở mắt, mặt trời luôn ở trước mặt, khi nhắm mắt, mặt trời vẫn hiện diện, đó mới gọi là “quán thành”. Quý vị mở mắt mà trước mặt chẳng có mặt trời, tức là chưa quán thành. Cách này còn khó hơn quán tượng! Phép Quán thứ hai là “đại hải kết băng” (biển cả đóng băng), thấy băng trong suốt, tưởng là lưu ly. Sau khi quán thành, nếu quý vị ở trong giảng đường này, hiện thời chúng ta thấy nền lót bằng đá mài[25], quý vị thấy đất này là đất lưu ly, phỉ thúy. Nếu quý vị thấy nền bằng đá mài giống như chúng tôi tức là quý vị chưa quán thành công phép Quán ấy, chẳng dễ đâu, rất khó! Vì thế, đối với Thập Lục Quán Kinh, chúng ta có thể nghiên cứu lý luận, chứ thật ra, những phương pháp trong ấy chúng ta chẳng thể làm được, tuyệt đối chẳng phải là kẻ tầm thường mà có thể thực hiện thành công!
Cách thứ tư là Thật Tướng Niệm Phật, là phương pháp được nói đến ở đây: Vô niệm mà niệm chính là Thật Tướng Niệm Phật. Lìa hết thảy các tướng thì gọi là Thật Tướng, “trực tâm chánh niệm Chân Như” chính là cảnh giới này. Khởi Tín Luận và Phật Tạng Kinh nói tới cảnh giới này, là [cảnh giới] Thật Tướng Niệm Phật cao nhất trong pháp môn Niệm Phật. Do vậy, xét theo lý luận thì chẳng sai, “Lý tắc thành nhiên” (về Lý, đúng là như vậy), nhưng hiện thời chúng ta chưa làm được, chúng ta chưa đạt cảnh giới cao như thế được!
(Sớ) Đản dĩ tâm tuy ly niệm, nhi vô minh nhiễm tâm, niệm niệm tương tục.
(疏) 但以心雖離念,而無明染心,念念相續。
(Sớ: Nhưng vì tâm tuy lìa niệm, tâm lại bị nhơ bởi vô minh, niệm niệm nối tiếp).
Đây là nói về cảnh giới của chúng ta trong hiện tại, tức cảnh giới phàm phu. Nói theo Lý thì [“tâm thể ly niệm”] không sai, về Sự thì chẳng được! Chúng ta bị vô minh ô nhiễm, ô nhiễm chính là tham, sân, si, mạn, là vô lượng vô biên phiền não. Chúng ta chưa thể đoạn tập khí phiền não, niệm niệm tiếp nối, vọng tưởng này tiếp nối vọng tưởng kia, ngày đêm chẳng gián đoạn, phiền quá! Tiếp theo đó, Ngài nêu ra một tỷ dụ.
(Sớ) Như thất niên chi bệnh.
(疏) 如七年之病。
(Sớ: Như bệnh đã bảy năm).
Bệnh đã quá lâu, thân thể suy nhược, không dậy nổi.
(Sớ) Cửu loạn chi dân.
(疏) 久亂之民。
(Sớ: Dân trong thời loạn lạc đã lâu).
Thời cuộc chẳng ổn định, đã trải qua thời chiến tranh loạn lạc quá lâu.
(Sớ) Cố viết “quán tập”.
(疏) 故曰慣習。
(Sớ: Nên nói là “đã quen thói”).
Vì thế, nay chúng ta khởi tâm động niệm suốt ngày từ sáng đến tối khởi vọng tưởng, đã biến thành thói quen, biến thành tự nhiên, muốn đoạn cũng chẳng đoạn được!
(Sớ) Tư dục miễn cưỡng át nại, lập sử không tịch, nhi chỉ động quy chỉ, chỉ cánh di động.
(疏) 茲欲勉強遏捺 , 立使空寂 ,而止動歸止 ,止更彌動。
(Sớ: Nay muốn dồn ép đè nén cho tâm không tịch ngay lập tức, dứt động để trở về lặng lẽ thì càng dứt lại càng động).
Nói rõ phàm phu vọng niệm dấy lên, chìm xuống, chúng ta muốn ép cho nó khuất phục, sẽ chèn ép không được, càng chèn ép [vọng niệm] càng nhiều! Khi quý vị chẳng mong thanh tịnh, dường như vọng niệm còn ít, quý vị vừa nghĩ đến thanh tịnh thì vọng niệm đặc biệt nhiều! Nếu quý vị không tin, có thể thử xem. Nay quý vị ngồi ở đây nghe kinh, cảm thấy dường như chẳng có vọng niệm gì. Nếu bảo quý vị tịnh tọa, bảo quý vị ngồi xếp bằng ở đó, niệm Phật được mười phút, chẳng biết có bao nhiêu vọng niệm dấy lên! Bèn niệm Phật mong chèn ép nó, càng ép, càng nhiều! Thật ra, vọng niệm nhiều ngần ấy do đâu mà có? Thưa với quý vị, nó vốn sẵn có. Lúc bình thường, quý vị không chú ý, chẳng nhận biết nó có nhiều dường ấy! Nay trong lúc tâm vừa mong tịch tĩnh, chợt phát hiện vọng niệm vốn nhiều ngần ấy, tuyệt đối chẳng phải do ta muốn tĩnh lặng nên mới có vọng niệm. Xong rồi! Tĩnh tọa không được! Hễ tĩnh tọa vọng niệm luôn dấy lên; chẳng tĩnh tọa thì không có! Quý vị phải biết: Khi chẳng tĩnh tọa, vọng niệm vẫn thường như thế, nhưng quý vị không nhận biết. Nếu quý vị thật sự hiểu rõ đạo lý này, quý vị sẽ biết tĩnh tọa là tốt, vì sao? Khi tĩnh tọa, phát hiện [tâm có quá nhiều vọng niệm], đã phát hiện thì càng phải nên tĩnh tọa! Chỉ cần quý vị có thể tĩnh tọa niệm Phật cho khéo, những vọng niệm ấy sẽ dần dần giảm ít, công phu đắc lực! Nếu quý vị sợ hãi “hễ ta ngồi sẽ có vọng niệm; thôi! Ta chẳng ngồi nữa” thì những vọng niệm ấy vĩnh viễn chẳng đoạn. Vì thế, chớ nên sợ nó!
(Sớ) Túng thô niệm tạm tức, tế niệm do tồn, tiện vị tương ứng, thác mậu phi tiểu.
(疏) 縱粗念暫息,細念猶存,便謂相應,錯謬非小。
(Sớ: Dẫu thô niệm tạm dứt, tế niệm vẫn còn, liền nói là “đã tương ứng”, đấy là lầm lẫn chẳng nhỏ).
Chúng ta phải đặc biệt chú ý mấy câu này. Vì sao? Hiện thời có nhiều người tâm ý thô tháp, đạt được một chút cảnh giới nhỏ nhặt liền ngỡ mình ghê gớm lắm, dường như chính mình đã thành tựu rồi, lầm mất rồi! Nhất là trong xã hội hiện thời, con người thường mang tâm lý mưu mẹo, chụp giật, phần nhiều mang lòng cầu may, hy vọng chẳng cần phải tốn công sức gì, chẳng phải khổ sở tu tập chi hết mà vẫn có thể tu hành chứng quả, luôn có cái tâm tham cầu tiện nghi. Quý vị hãy nghĩ xem: Tu hành chứng quả há có thể tham cầu tiện nghi ư? Mang cái tâm ấy tức là không thật thà, chẳng phải là hảo tâm, làm sao có thể thành Phật cho được? Làm sao có thể thành chánh quả? Chúng ta phải giác ngộ điều này! Học Phật nhất định phải dùng cái tâm chân thành, đừng lừa gạt chính mình, đừng dối gạt kẻ khác, phải chân, phải thành, quyết định chớ nên có tâm lý cầu may!
Ở ngoại quốc, tôi thấy có nhiều kẻ học Thiền, học Mật luôn coi rẻ hết thảy, khinh thường người khác. Nghiễm nhiên còn có Thượng Sư xoa đầu thọ ký cho họ, nói họ đã minh tâm kiến tánh, đã đại triệt đại ngộ rồi. Tôi sang bên đó giảng kinh, những người ấy cũng đến nghe, nghe xong, cũng có người hiu hiu tự đắc tiến lên hỏi tôi, gần như là mong tôi ấn chứng cho họ có phải là bậc đại triệt đại ngộ hay không. Họ hỏi tôi, tôi bèn bảo họ: “Các ông chưa ngộ!” Bọn họ rất tức giận: “Tôi đã được thọ ký, tôi đã đại triệt đại ngộ, cớ sao thầy nói tôi chưa ngộ?” Quý vị hãy nghĩ xem, bọn họ đã ngộ hay chưa? Nếu họ đã ngộ, cớ sao còn nổi giận đùng đùng? Hễ nổi nóng, đương nhiên chưa khai ngộ! Đó là sự thật, ngay lập tức bọn họ lộ nguyên hình. Tôi bảo họ: “Nếu các ông thật sự đại triệt đại ngộ, sẽ chẳng đến hỏi tôi câu này. Các ông hỏi tôi câu ấy, tôi trả lời: Tôi còn chưa khai ngộ, làm sao các ông có thể khai ngộ? Người khai ngộ tâm bình khí hòa, lẽ đâu nổi quạu? Lẽ đâu trừng mắt? Do các ông bực bội, trừng mắt, chứng tỏ các ông hoàn toàn chưa khai ngộ. Nói cách khác, kẻ thọ ký đã lừa gạt các ông. Đó là bỡn cợt, giống như lũ con nít trong nhà trẻ (ấu trĩ viên, kindergarten), hắn ta đội cho các ông cái mũ Tiến Sĩ, hôm nay các ông đạt được học vị Tiến Sĩ, giả trất! Xã hội chẳng công nhận!”
Khi chúng ta niệm Phật đạt đến mức khinh an, thân tâm sung sướng, phiền não ít đi, trí huệ tăng trưởng, có đúng là thành tựu hay chăng? Chưa phải! “Thô niệm tạm tức, tế niệm do tồn” (thô niệm tạm dứt, tế niệm vẫn còn), vẫn còn tế niệm, vẫn chưa đoạn! Nhưng nói thật ra, hai câu này chẳng phải là nói với chúng ta, về phía chúng ta thì ngay cả tạm dứt thô niệm cũng chưa dứt được! Lời này để nói với bậc A La Hán, nói với người tham Thiền đã đắc Cửu Thứ Đệ Định, chẳng phải để nói với những kẻ tầm thường; người tầm thường không có tư cách ấy. Người tầm thường nếu chứng Tứ Thiền Bát Định bèn có thể tạm thời chế ngự thô niệm, chẳng phải là dứt. Dứt là đã đoạn hết. [Chế ngự thô niệm giống như] đá đè cỏ mà thôi! Bỏ đá đi, cỏ lại mọc dài ra. Đó là nói về Tứ Thiền Bát Định, còn ở đây là nói về A La Hán, cũng là như trong kinh Lăng Nghiêm nói: “Nội thủ u nhàn, do vi Pháp Trần phân biệt ảnh sự” (giữ lấy sự u nhàn trong nội tâm, vẫn là chuyện thuộc về bóng dáng của Pháp Trần)[26]. Thích Ca Mâu Ni Phật đã phê bình bậc Tiểu Thừa A La Hán như vậy. Đủ thấy bậc Tiểu Thừa đắc A La Hán đã đoạn Kiến Tư phiền não, đã có năng lực vượt thoát tam giới, chẳng còn luân hồi trong lục đạo nữa, họ thuộc về cảnh giới nào? Chính là cảnh giới này! Tế niệm vẫn còn. Tuy tế niệm vẫn còn, nhưng chính họ không biết. Nếu họ biết thì sẽ đoạn được!
Do vậy, điều thứ nhất là người tu hành chúng ta phải tự biết mình, phải nhận thức chính mình, vì sao? Biết chính mình có bệnh thì tự mình mới biết tìm thầy thuốc chữa trị. Cái thân mình có bệnh nhưng chính mình chẳng biết còn tự khoe là rất khỏe mạnh, chẳng tìm thầy thuốc, chẳng đi khám bệnh, không có tâm cảnh giác. Vì thế, trước hết phải nhận biết căn bệnh của chính mình, nhận thức tình trạng bệnh tật của chính mình, quý vị mới biết dùng phương pháp nào để đối trị và tự cứu chính mình như thế nào. A La Hán đạt đến cảnh giới này, chẳng biết mình vẫn còn có những Hoặc (phiền não) vi tế; do vậy, họ chẳng có tâm tiến lên, đạt đến chỗ này bèn ngưng dứt, tự cho là công đức đã viên mãn. Đó là chứng Thiên Chân Niết Bàn, người ấy ngỡ là đã chứng Đại Niết Bàn, chẳng còn cầu tiến bộ nữa. Trong hội Lăng Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật đặc biệt nói ra cảnh giới của họ: Cảnh giới của quý vị chưa phải là cảnh giới rốt ráo, công phu của quý vị chỉ thành tựu một nửa, hãy còn một nửa khác mà quý vị hoàn toàn chẳng liễu giải. Nếu quý vị nghĩ là tương ứng thì lầm mất rồi, lầm lẫn rất lớn, chẳng nhỏ đâu!
Nay chúng ta là người tu hành, có thể nói căn bệnh lớn nhất là chẳng nhận biết chính mình, cả thân đầy bệnh mà tự mình chẳng biết, cả thân đầy lỗi mà chẳng tự thừa nhận. Vì thế, cổ đức thường nói: “Thánh nhân cả thân đầy bệnh, nên gọi là thánh nhân; hiền nhân mắc bệnh đôi chút, phàm phu về căn bản là chẳng có bệnh gì!” Vì sao về căn bản chẳng có bệnh gì? Chẳng biết! Chẳng hiểu chính mình có bệnh. Hiền nhân phát hiện chính mình bị bệnh một phần, thánh nhân hoàn toàn biết rõ căn bệnh, biết lỗi liền sửa. Chẳng biết lỗi thì sửa cái gì đây? Nếu quý vị bảo người khác: “Ông có lỗi lầm này nọ”, người ấy chẳng thừa nhận, quý vị biết kẻ đó là người bình thường, chẳng phải là thánh nhân, chẳng phải là Bồ Tát. Nếu người ấy là thánh nhân, hay là Bồ Tát, sẽ biết cả thân đầy bệnh! Con người quý ở chỗ biết lỗi, biết lỗi có thể sửa đổi. Kẻ chẳng biết chính mình có bệnh, không được rồi, hết thuốc chữa! Phật chẳng có cách nào cứu kẻ ấy. Kẻ tự biết lỗi của chính mình thì Phật có thể cứu hắn được!
(Sớ) Ký cư phàm địa.
(疏) 既居凡地。
(Sớ: Đã thuộc địa vị phàm phu).
Ở đây nói đến chúng ta trong hiện thời, chúng ta hiện đang là phàm phu.
(Sớ) Vị năng tuyệt lự vong duyên.
(疏) 未能絕慮忘緣。
(Sớ: Chưa thể dứt lo nghĩ, quên duyên).
“Lự” (慮) là ý niệm. Trong tâm chúng ta, một niệm này khởi lên, niệm kia diệt mất. “Duyên” (緣) là cảnh giới bên ngoài, là hoàn cảnh vật chất và hoàn cảnh nhân sự (quan hệ giữa con người với nhau). Bên ngoài có ngoại duyên đến quấy nhiễu quý vị, bên trong tâm động chẳng ngừng, vọng niệm sanh diệt không ngớt. Đó là căn bệnh của chúng ta do Phật, Bồ Tát đã chỉ ra.
(Sớ) Hà bất tức duyên lự nhi tác tu tấn.
(疏) 何不即緣慮而作修進。
(Sớ: Sao chẳng dùng ngay duyên lự để tấn tu?)
Dạy chúng ta một phương pháp đối trị: Dùng duyên lự để tấn tu. Quý vị thấy “lự” ấy chẳng phải là vọng niệm tơi bời hay sao? Nay chúng ta niệm A Di Đà Phật thì “lự” ấy chỉ là một lự, tức là A Di Đà Phật. Duyên thì trong đạo tràng này của chúng ta, đồng tham đạo hữu ở cùng một chỗ đó là duyên lự. Chúng ta dùng duyên lự này sẽ có thể tấn tu, đấy là biện pháp “theo đường trở về nhà”.
(Sớ) Cố dĩ niệm hoàn công ư niệm.
(疏) 故以念還攻於念。
(Sớ: Vì thế, lấy niệm để trị ngược các vọng niệm).
“Dĩ niệm” là dùng một niệm A Di Đà Phật để “công ư niệm” tức là dùng niệm này để tấn công hết thảy vọng niệm, dùng một niệm này để dẹp sạch tất cả vọng niệm. Trì danh niệm Phật được kiến lập trên căn cứ lý luận như thế đó.
(Sớ) Niệm nhất Phật danh, hoán bỉ bách thiên vạn ức chi tạp niệm dã.
(疏) 念一佛名,換彼百千萬億之雜念也。
(Sớ: Niệm một danh hiệu Phật để thay thế trăm ngàn vạn ức tạp niệm).
Câu này là nói toạc ra cho chúng ta [nhận biết] vì sao chúng ta phải niệm Phật? Vẫn có những kẻ tự cậy thông minh, coi thường pháp môn Niệm Phật, nói pháp môn Niệm Phật này cứ niệm Phật có ích gì đâu? Nếu quý vị cung kính A Di Đà Phật, mà hằng ngày kêu réo Ngài, Ngài chẳng phiền lòng ư! Quý vị yêu mến Ngài cách nào đi nữa, Ngài cũng chán ngán! Ví như đứa con gọi bố, suốt ngày từ sáng đến tối nó cứ không ngớt: “Bố ơi! Bố ơi!” Bố nó có chán ghét nó hay chăng? Kẻ ấy nói: “Quý vị cứ nhất định phải niệm Phật, Phật cũng chán ghét quý vị”. Chúng ta thoạt nghe [lời biện luận ấy] cũng cảm thấy rất có lý, cho nên chẳng niệm. Thật ra, kẻ ấy chẳng biết: Niệm Phật nhằm đoạn vọng niệm của chính mình. Chúng ta hãy suy nghĩ: Chúng ta không niệm Phật, có vọng niệm hay không? Có! Có vọng niệm là không được rồi! Vọng niệm là căn bản của sanh tử trong lục đạo, chúng ta dùng câu Phật hiệu này giống như dùng thuốc nhằm chấm dứt vọng niệm, khác với người thường gọi cha. Quý vị nhất định phải hiểu rõ đạo lý này. Thường có những kẻ học Phật tự nghĩ mình cao minh, nhưng trên thực tế chẳng hề liễu giải, chính họ cũng suốt ngày từ sáng đến tối dấy vọng tưởng, mà chẳng có cách nào chế ngự, ngăn dứt! Nay chúng ta có được phương pháp này, những kẻ ấy còn hủy báng, còn phê bình, tức là mắc vô lượng vô biên tội nghiệp! Vì thế, người thật sự niệm Phật, người ta nói gì cũng đều chẳng cần nghe, vì sao? Hễ quý vị nghe, chẳng phải là tăng trưởng vọng niệm hay chăng? Vấn đề gì cũng chẳng cần phải đi khắp nơi hỏi người khác. Hỏi người khác, nếu thật sự gặp được bậc cao minh, vị ấy có thể giải đáp vấn đề; lỡ gặp phải kẻ dở dở ương ương, đâm ra họ càng khiến cho quý vị gặp rối ren thêm! Quý vị chẳng hỏi thì còn đỡ, càng hỏi càng rối beng, hỏi đến cuối cùng ngay cả Phật cũng chẳng còn tin nữa!
(Sớ) Nhi vọng tùng chân khởi, ba trục thủy sanh, tức niệm tức không, cư nhiên bản thể.
(疏) 而妄從真起,波逐水生,即念即空,居然本體。
(Sớ: Nhưng vọng từ chân khởi, sóng từ nước sanh, niệm chính là không, không chính là niệm, bản thể rành rành).
“Vọng tùng chân khởi”: Vọng ở đây là nói niệm Phật. Niệm Phật cũng là vọng niệm. Tuy niệm Phật là vọng niệm, nhưng vọng niệm ấy nếu lìa khỏi chân tánh thì còn có vọng niệm ấy hay chăng? Vì thế, vọng niệm sanh khởi từ chân tánh, giống như sóng, sóng do nước sanh ra. Lìa khỏi nước, đâu còn sóng mòi! Coi nước là chân, coi sóng là vọng, hoàn toàn là nói theo Lý. “Tức niệm tức không, cư nhiên bản thể”: Chữ “tức niệm tức không” có hai ý nghĩa, chính là nói “chân – vọng bất nhị”.
1) Ý nghĩa thứ nhất là “niệm cực nhi không”, tức là quý vị niệm đến mức công phu thuần thục, vọng niệm chẳng còn nữa. Vọng niệm chẳng còn, câu Phật hiệu này cũng chẳng còn, kinh gọi cảnh giới này là nhất tâm bất loạn. Đó chính là cảnh giới Lý nhất tâm bất loạn. Vì thế, phương pháp Niệm Phật này có thể niệm đến mức đắc Định giống như Thiền Tông, niệm đến mức đắc Định là Sự nhất tâm bất loạn, thành tựu Niệm Phật tam-muội. Cao hơn nữa là có thể phá vô minh, có thể chứng Pháp Thân, có thể thấy bổn tánh, kinh gọi đó là Lý nhất tâm bất loạn. Dùng phương pháp này để niệm đến mức “niệm cực nhi không”.
2) Ý nghĩa thứ hai là quán sát từ bản thể, “niệm thể bổn không” (bản thể của niệm vốn là Không). Trong chân tánh vốn chẳng có một vật nào; nếu quý vị có thể hiểu rõ đạo lý này, sẽ suốt ngày niệm Phật mà suốt ngày vô niệm. Sự niệm Phật ấy chẳng chấp tướng. Tuy chẳng chấp tướng, Phật hiệu chẳng gián đoạn. Phương pháp niệm như vậy cao minh, lại còn thụ dụng lớn nhất, tương ứng với Bát Nhã, tam luân thể không, “niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”. Phật hiệu có đoạn hay chăng? Quyết định chẳng đoạn! Trong mười hai thời, Phật hiệu chẳng dứt. Bởi lẽ, người ấy hiểu niệm và vô niệm chẳng có chướng ngại, trên mặt Lý thì vô niệm, trên mặt Sự là có niệm. Lý chẳng trở ngại Sự, Sự chẳng trở ngại Lý, Lý Sự vô ngại. Cách niệm này rất cao minh, thụ dụng vô cùng, rất dễ đạt đến thân tâm thanh tịnh, đắc nhất tâm bất loạn; lại còn có thể vận dụng lý luận và sự thụ dụng ấy vào cuộc sống thường ngày. Chúng ta từ sáng đến tối ăn cơm, mặc áo, đãi người, tiếp vật, đều có thể là niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm. Kinh Hoa Nghiêm bảo đó là “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”. Cuộc sống hiện tại đã thuộc vào cảnh giới giải thoát, đắc đại tự tại, đó là nói ở mức độ cao. Vì thế, pháp môn này tuyệt đối chẳng đơn giản!
Cũng chính vì như vậy, người niệm Phật chúng ta chẳng thể không thâm nhập, nghiên cứu, thảo luận A Di Đà Kinh Sớ Sao và Yếu Giải, vì sao? Nếu quý vị không thâm nhập, nghiên cứu, thảo luận, sẽ chẳng hiểu nhiều đạo lý vi diệu trong ấy, chẳng biết thật sự thụ dụng. Nếu quý vị chẳng hiểu lý luận, phương pháp, cảnh giới này, niệm một câu A Di Đà Phật lâu ngày sẽ niệm uể oải, sẽ niệm đến mức chán ngán, niệm đến cuối cùng chẳng thích niệm nữa: “Ta niệm đã bao nhiêu năm, chỗ tốt đẹp gì cũng chẳng có! Cảm ứng gì cũng chẳng có”. Xong luôn! Kẻ ấy chẳng niệm nữa. Nguyên nhân là do không hiểu lý luận, không hiểu phương pháp, chẳng biết cảnh giới, cổ nhân bảo là “tu mù, luyện đui”. Nếu quý vị thật sự hiểu rõ, niệm Phật hiệu câu nào cũng đều sanh tâm hoan hỷ, câu nào cũng phấn chấn tinh thần, khi mệt nhọc, niệm mấy tiếng A Di Đà Phật, tinh thần lại khá hơn. Niệm mấy câu A Di Đà Phật mà chẳng thể phấn chấn tinh thần, tức là quý vị niệm chẳng đúng pháp!
Năm ngoái, tôi giảng kinh ở Cựu Kim Sơn (San Francisco), gặp một người từ Trung Quốc Đại Lục sang Mỹ, nói đã học võ thuật tại chùa Thiếu Lâm, công phu khá cao. Ông ta nghe tôi giảng kinh, nói với các đồng tu ở phía dưới: “Vị pháp sư này công phu cao, công phu thuộc mức độ cao”. Người ta nói: “Nhìn từ chỗ nào?” “Nhìn vào tinh thần, nhìn vào khí sắc, là một cao thủ cao lắm”. Người khác đến hỏi tôi: “Bạch pháp sư, thầy có luyện võ công hay chăng?” Tôi đáp: “Không có!” “Ông ta nói công phu của thầy thuộc mức độ cao!” Đến cuối cùng, ông ta đến nói chuyện với tôi, nói đến lúc hỏi [tại sao thầy không luyện võ mà công phu] cao như vậy? [Tôi trả lời] tôi niệm A Di Đà Phật. Ông ta phải tu bao nhiêu năm mới có thể đạt đến cảnh giới như thế, tôi chỉ niệm A Di Đà Phật mà cũng chẳng thua kém ông ta, quả thật là như thế. Vì thế, một câu A Di Đà Phật là chất dinh dưỡng tốt nhất. Thật sự biết niệm, trường sanh bất lão! So với bất cứ đồ bổ nào trong hiện thời đều hữu hiệu hơn, linh hơn bất cứ linh dược tiên đan nào! Quý vị chẳng biết niệm, có cách nào hay chăng? Biết niệm, sẽ có thể đạt được thụ dụng như vậy. Vì thế, nhất định phải nghiêm túc nghiên cứu, thảo luận bộ kinh này.
(Sớ) Phi ư niệm ngoại biệt đắc Bồ Đề, cố vân: “Vạn pháp hư ngụy, duy thị nhất tâm, liễu ngộ tự tâm, xúc mục Bồ Đề hỹ”.
(疏) 非於念外別得菩提 。 故云萬法虛偽 , 唯是一心,了悟自心,觸目菩提矣。
(Sớ: Chẳng phải là đắc Bồ Đề ở ngoài niệm, cho nên nói: “Muôn pháp hư dối, chỉ là nhất tâm. Liễu ngộ tự tâm thì những gì chạm vào mắt đều là Bồ Đề”).
Đây là thật sự nhập cảnh giới, thật sự chỗ nào cũng là đạo, pháp nào cũng đều thật. Bài thơ du ngoạn Lô Sơn của Tô Đông Pha có câu: “Khê thanh tận thị quảng trường thiệt, sơn sắc vô phi thanh tịnh thân” (Tiếng suối là tướng lưỡi rộng dài, sắc núi không gì chẳng phải là thân thanh tịnh). Đấy là nói vận dụng phương pháp Niệm Phật hòng chứng đắc Pháp Thân.
(Sớ) Dụ như bệnh thể sưu thời.
(疏) 喻如病體瘳時。
(Sớ: Ví như khi cái thân bệnh tật đã lành).
Bệnh ấy đã khỏi.
(Sớ) Tiện danh kiện thể.
(疏) 便名健體。
(Sớ: Bèn gọi là thân thể khỏe mạnh).
Người đã khôi phục sức khỏe.
(Sớ) Loạn dân định hậu, tức thị lương dân.
(疏) 亂民定後,即是良民。
(Sớ: Dân làm loạn sau khi đã dẹp yên bèn là dân lành).
Cái thân bị bệnh và cái thân đã lành mạnh là cùng một thân, chẳng phải là hai thân thể. Vọng niệm và chánh niệm cũng là một tâm, chẳng phải hai tâm.
(Sớ) Khử niệm nhi cầu tâm, thị y tất diệt thân nhi liệu bệnh, tướng tất đồ quốc nhi an dân dã, khởi lý dã tai?
(疏) 去念而求心 , 是醫必滅身而療病 , 將必屠國而安民也,豈理也哉。
(Sớ: Trừ khử niệm để cầu tâm là như thầy thuốc ắt phải diệt cái thân để chữa bệnh, như ông tướng phải tàn sát cả nước để an dân, há có lẽ ấy chăng?)
Đây là chứng minh, nếu dùng sai cái tâm, dùng sai phương pháp, lầm lẫn quá đỗi! Nếu quý vị nói: Nếu tôi trị bệnh, muốn chữa cho lành
bệnh, làm thế nào mới trị lành bệnh được? Hủy diệt thân thể này, bệnh sẽ chẳng còn nữa! Quý vị hãy nghĩ xem: Phương pháp ấy có tốt đẹp hay chăng? Làm thế nào để bình định dân làm loạn và ổn định cõi đời loạn lạc? Giết sạch hết mọi người! Đó là cách suy nghĩ sai lầm, cách làm sai quấy. Vì thế, Phật, Bồ Tát, bậc quân tử có lòng nhân, thấy kẻ ác bèn khởi tâm niệm gì? Làm thế nào để cảm hóa hắn, khiến hắn trở thành một người tốt, quyết chẳng thấy kẻ ác bèn không màng tới, đuổi hắn đi, hoặc giết chết hắn, đó chẳng phải là biện pháp đúng. Phật pháp nói tam thế nhân quả báo ứng, đời này quý vị giết kẻ khác, đời sau kẻ ấy giết quý vị, oán cừu càng kết càng sâu, đời đời kiếp kiếp vĩnh viễn chẳng xong! Vì thế, nhất định phải dùng [biện pháp] cảm hóa, quyết định chẳng thể dùng bạo lực. Hôm nay chúng tôi giảng đến đoạn này.
— o0o —
Tập 66
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang chín mươi:
(Huyền Nghĩa) Cửu, xảo thị nhân ư vãng sanh thật ngộ Vô Sanh giả.
(玄義) 九、巧示因於往生實悟無生者。
(Huyền Nghĩa: Chín là khéo léo chỉ dạy: Do vãng sanh mà thật sự ngộ Vô Sanh).
Đây là nhân duyên thứ chín trong các nhân duyên. “Xảo” (巧) là vô cùng hay khéo, cũng có nghĩa là chỉ dạy rất hay khéo: Chính vì vãng sanh thì mới có thể thật sự ngộ nhập Vô Sanh. Có thể nói là nhân duyên này khiến cho người ta cảm thấy rất hào hứng. Mọi người học Phật đều đặt mục tiêu là cầu đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Trong bài Kệ Hồi Hướng chúng ta niệm hằng ngày, có câu: “Hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh”. “Ngộ Vô Sanh” là một thành tựu thật sự trong quá trình tu học của Bồ Tát. Vô Sanh cũng là “sống đời đời” (vĩnh sanh) như các tôn giáo khác thường mong tưởng. Nói thật ra, các tôn giáo khác nói đến sự sống đời đời đều chẳng phải là thật, Thiên Đường trọn chẳng phải là sống đời đời, hiểu lầm rồi! Thật sự sống đời đời là trong Đại Thừa Phật pháp. A La Hán và Bích Chi Phật của Tiểu Thừa đều chưa đạt đến địa vị này. Do vậy, “ngộ Vô Sanh” là chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, là một thứ thành tựu mang tánh chất quyết định, là sự thành tựu chân thật.
(Huyền Nghĩa) Thất Địa cẩn danh hiện tướng, Bát Địa nãi đắc Vô Sanh.
(玄義) 七地僅名現相,八地乃得無生。
(Huyền Nghĩa: Thất Địa chỉ gọi là “hiện tướng”. Bát Địa mới đắc Vô Sanh).
Quý vị nghĩ xem: Vô Sanh Pháp Nhẫn là địa vị như thế nào? Địa vị Thất Địa Bồ Tát khá cao, được coi là đã chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vô Sanh Pháp Nhẫn có ba phẩm: Thượng phẩm, trung phẩm và hạ phẩm. Thất Địa Bồ Tát chứng đắc hạ phẩm Vô Sanh Pháp Nhẫn, Bát Địa là trung phẩm, Cửu Địa là thượng phẩm. Đến Đệ Thập Địa là Pháp Vân Địa, chẳng gọi là Vô Sanh Nhẫn mà gọi là Tịch Diệt Nhẫn, nhập cảnh giới của Phật, thanh tịnh tịch diệt. Thập Địa Bồ Tát là hạ phẩm Tịch Diệt Nhẫn, Đẳng Giác Bồ Tát là trung phẩm Tịch Diệt Nhẫn, Như Lai quả địa là thượng phẩm Tịch Diệt Nhẫn. Đạt đến Pháp Vân Địa thì có thể nói cảnh giới chẳng khác gì Phật.
“Thất Địa cẩn danh hiện tướng” (Thất Địa chỉ gọi là hiện tướng): Đây là tỷ dụ, trước hết, thấy phương Đông có sắc trắng, đấy là mặt trời sắp mọc, nhưng vẫn chưa mọc. Thất Địa Bồ Tát chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn có tình trạng giống như vậy, chưa thật sự đạt được, nhưng hết sức gần gũi. Đã thấy phương Đông tỏa sắc trắng, nhưng mặt trời chưa mọc, trong chốc lát sẽ mọc, dùng chuyện này để sánh ví cảnh giới của Thất Địa. Tuy Thất Địa Bồ Tát tu Vô Tướng Quán đã thành tựu, đã lìa khỏi phân biệt, chấp trước, nhưng những gì do thức hiện vẫn chưa trừ hết, chưa thể đại tự tại, chỉ gọi là “hiện tướng” mà thôi!
“Bát Địa nãi đắc Vô Sanh” (Bát Địa mới đắc Vô Sanh), Bát Địa Bồ Tát còn gọi là Bất Động Địa. Bất luận trong cảnh giới nào, tâm địa vẫn thanh tịnh, quyết chẳng bị cảnh giới bên ngoài lay động, tự mình thật sự làm chủ tể trong hết thảy cảnh giới nên gọi là Bất Động Địa. Khi ấy, Ngài đã chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, giống như sớm mai mặt trời đã mọc. Tánh bình đẳng hiện tiền, nếu chúng ta dùng lý luận của Duy Thức để nói cho dễ hiểu hơn thì: Chuyển thức thứ bảy thành Bình Đẳng Tánh Trí, thật sự chuyển được. Vì thế, thật sự đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Do chỗ này, chúng ta cũng có được một khái niệm rất rõ ràng, Thất Địa Bồ Tát chuyển thức thứ sáu, tức Ý Thức, thành Diệu Quán Sát Trí, thức thứ bảy, tức Mạt Na Thức, cũng chuyển thành Bình Đẳng Tánh Trí, nhưng chưa thể chuyển hoàn toàn, đến Bát Địa mới là chuyển hoàn toàn. Quý vị phải hiểu: Hai thứ Trí này đã chuyển được thì thức thứ tám chuyển thành Đại Viên Kính Trí, năm thức trước (Nhãn Thức, Nhĩ Thức v.v…) chuyển thành Thành Sở Tác Trí, đồng thời chuyển! Chuyển Thức thành Trí là “lục, thất nhân địa chuyển, ngũ bát quả thượng chuyển” (thức thứ sáu và thức thứ bảy chuyển trong khi tu nhân, năm thức trước và thức thứ tám sẽ chuyển khi chứng quả). Hễ thức thứ sáu và thức bảy đã chuyển thì năm thức trước và thức thứ tám cũng đồng thời chuyển theo. Nói cách khác, đạt đến Bát Địa Bồ Tát mới thật sự chuyển tám thức thành bốn trí, đấy mới thật sự là chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Trong bài kệ Hồi Hướng có câu: “Hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh”, tức là chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, đến khi ấy mới triệt để liễu giải hết thảy các pháp bất sanh bất diệt, quý vị bèn thấy đó chính là tướng chân thật của hết thảy các pháp, hết thảy các pháp không có sanh diệt. Nay chúng ta thấy hết thảy các pháp có sanh, có diệt, thấy động vật có sanh, già, bệnh, chết, thấy thực vật có sanh, trụ, dị, diệt (mọc lên, tăng trưởng, biến đổi, diệt mất), khoáng vật và quả địa cầu này có thành, trụ, hoại, không. Đấy đều là tướng sanh diệt! Đức Phật dạy chúng ta: Tướng sanh diệt ấy là huyễn tướng, chẳng phải là chân tướng. Chúng ta thấy huyễn tướng, chẳng thấy tướng chân thật của vạn pháp trong vũ trụ. Tướng chân thật của vạn pháp trong vũ trụ là bất sanh bất diệt. Lời nói này quá huyền diệu, nói thật ra, đây chẳng phải là cảnh giới của chúng ta, cũng chẳng phải là điều chúng ta có thể lãnh hội bằng kiến thức thông thường! Đây là cảnh giới Hiện Lượng của Phật và các vị đại Bồ Tát, phải là từ Bát Địa Bồ Tát trở lên, những vị ấy đích thân thấy hết thảy các pháp bất sanh, bất diệt.
Phải như thế nào thì mới có thể chứng đắc? Có nhiều pháp môn, tông phái đều có rất nhiều lý luận và phương pháp tu hành. Người niệm Phật chúng ta có thể chứng đắc hay không, đó là chuyện chúng ta rất quan tâm. Nếu niệm Phật chẳng thể chứng đắc thì còn phải tu pháp môn khác. Ở đây, đại sư bảo chúng ta: Người niệm Phật có thể chứng đắc. Không chỉ có thể chứng đắc, mà còn chứng đắc dễ dàng hơn các pháp môn khác, vì sao? Hễ quý vị vãng sanh liền chứng đắc. “Nhân ư vãng sanh thật ngộ Vô Sanh” (Do vãng sanh bèn thật sự ngộ Vô Sanh), ngộ Vô Sanh chính là chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.
(Huyền Nghĩa) Nhi cực dục diệt sanh dĩ cầu Vô Sanh, di cầu di viễn.
(玄義) 而亟欲滅生以求無生,彌求彌遠。
(Huyền Nghĩa: Nhưng muốn cực lực diệt sanh để cầu Vô Sanh thì càng cầu càng xa).
Có những người nôn nóng muốn chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, họ chứng bằng cách nào? Đoạn trừ sanh, sanh đoạn trừ thì dường như là Vô Sanh; thật ra đã phạm sai lầm! Nhưng cách suy nghĩ, quan niệm ấy, nói thật ra, kể từ khi Phật pháp chưa truyền đến Trung Quốc, người Trung Quốc đã có kẻ nghĩ theo cách ấy rồi, giống như Lão Tử đã nói: “Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân”, [nghĩa là] ta có mối lo âu lớn là vì ta có thân. Nếu không có thân sẽ tốt hơn nhiều lắm, không có thân sẽ tự tại lắm! Không có thân thì tối thiểu là quý vị chẳng cần phải bươn chải vì cơm áo. Thân cần phải ăn cơm, thân cần phải mặc áo, thân cần phải sống trong nhà. Quý vị không có thân thì những phiền não, ưu lự đều chẳng có; làm thế nào để bỏ được cái thân này? Trước kia, đã có chẳng ít người có cách suy nghĩ giống như vậy!
Trong tam giới, Vô Sắc Giới thiên không cần thân, vô sắc mà! Họ suy nghĩ như vậy. Trong Sắc Giới, [chư thiên thuộc] mười tám tầng trời trong Tứ Thiền có thân, nhưng chư thiên trong Tứ Không Thiên không có thân, đấy là cảnh giới tối cao của phàm phu. Quý vị phải hiểu: Phàm phu cao cấp chẳng cần thân thể, họ được tự tại! Nhưng đây chẳng phải là biện pháp [giải quyết rốt ráo], tuy chẳng cần thân, thần thức vẫn tồn tại (người Hoa gọi “thần thức” là “linh hồn”). Trong Thiền Định rất sâu như thế, quả thật vọng niệm chẳng sanh, vì họ có công năng định lực. Công năng định lực hoàn toàn khống chế phiền não, thời gian duy trì công năng định lực của họ rất dài, tám vạn đại kiếp! Đấy cũng là thọ mạng của chư thiên trong Tứ Không Thiên, nhưng khi tám vạn đại kiếp đã hết, họ bị thoái chuyển công lực, sau khi thoái chuyển vẫn phải luân hồi trong lục đạo, đủ thấy đây chẳng phải là rốt ráo! Cách cầu như thế là “di cầu di viễn”, [tức là] càng cầu càng xa, chẳng phải là thật, giả trất!
(Huyền Nghĩa) Kim dĩ cầu sanh Tịnh Độ, nãi ngộ Vô Sanh, nhập Hữu đắc Không, tức phàm thành thánh, khả vị thông huyền bí quyết, hoán cốt thần đan.
(玄義) 今以求生淨土 , 乃悟無生 , 入有得空,即凡成聖,可謂通玄秘訣,換骨神丹。
(Huyền Nghĩa: Nay do cầu sanh Tịnh Độ bèn ngộ Vô Sanh, nhập Hữu mà đắc Không, từ phàm trở thành thánh, có thể nói là bí quyết để thông đạt lẽ u huyền, là thuốc thần để thay xương).
Quý vị tu Tịnh Độ thật sự chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, “cầu sanh Tịnh Độ” là từ Hữu môn mà tiến nhập. Kinh dạy rất rõ ràng, “hữu thế giới danh viết Cực Lạc, hữu Phật hiệu A Di Đà, kim hiện tại thuyết pháp” (có thế giới tên là Cực Lạc, có Phật hiệu A Di Đà, nay còn đang thuyết pháp). Đấy là từ Hữu môn mà tiến nhập. Từ Hữu môn tiến vào chỗ ấy nghe pháp tu hành, chắc chắn có thể ngộ Vô Sanh. Vì thế, nói là “đắc Không”. Đắc Không là đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. “Nhập Hữu” là phàm phu, “đắc Không” là chứng thánh quả. Vì thế, “tức phàm thành thánh”. Hai câu cuối cùng là lời tán thán; quả thật có thể nói là “thông huyền bí quyết”, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, “huyền” là Vô Sanh. Chúng ta cũng mong chứng đắc Vô Sanh, thông đạt Vô Sanh. Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, niệm Phật là bí quyết chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. “Hoán cốt thần đan”, thoát thai hoán cốt[27], chữ “thần đan” tỷ dụ niệm Phật. Niệm Phật sanh về Tịnh Độ; thoát thai hoán cốt là giống như siêu phàm nhập thánh, chúng ta sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới là phàm phu, sau khi sang nơi đó bèn thành thánh nhân. Viên chứng ba thứ Bất Thoái, lẽ nào chẳng thành thánh nhân?
(Sớ) Cẩn danh hiện tướng giả.
(疏) 僅名現相者。
(Sớ: Chỉ gọi là “hiện tướng”).
Đây là cảnh giới của bậc Bồ Tát trụ nơi Thất Địa.
(Sớ) Hoa Nghiêm địa địa giai viết Vô Sanh, nhi chánh đắc nãi quy Bát Địa.
(疏) 華嚴地地皆曰無生,而正得乃歸八地。
(Sớ: [Các địa vị Bồ Tát trong Thập Địa của] kinh Hoa Nghiêm, địa nào cũng đều gọi là Vô Sanh, nhưng thật sự đắc Vô Sanh phải là Bát Địa).
Mỗi một Địa từ Sơ Địa trở đi đều có thể nói là chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, nhưng thật sự chứng đắc là Đệ Bát Địa. Sơ Địa Bồ Tát giống như phương Đông ửng sắc trắng, mãi cho đến Thất Địa đương nhiên độ sáng ngày càng rõ hơn, nhưng mặt trời chưa mọc, đến Bát Địa mặt trời mới ló dạng. Đây là tỷ dụ Đăng Địa Bồ Tát (chứng nhập từ Sơ Địa Bồ Tát trở lên) đã thấy phương Đông ửng sắc trắng, trời sắp sáng, Thất Địa và Bát Địa hết sức gần gũi.
(Sớ) Kỳ Thất Địa vân: “Tịnh vô lượng thân khẩu ý, đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn quang minh”.
(疏) 其七地云:淨無量身口意,得無生法忍光明。
(Sớ: [Kinh Hoa Nghiêm] giảng về Thất Địa như sau: “Thanh tịnh vô lượng thân, miệng, ý, có được ánh sáng của Vô Sanh Pháp Nhẫn”).
Kinh dạy như vậy. “Tịnh vô lượng thân khẩu ý” là Thất Địa Bồ Tát dùng thâm tâm (“thâm tâm” trong ba thứ Bồ Đề tâm), có thể nói thâm tâm ấy là cái tâm thanh tịnh rất sâu, thành tựu thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp. Thân thanh tịnh, ngữ thanh tịnh, ý thanh tịnh, đó gọi là “tịnh vô lượng thân khẩu ý”. Đạt đến cảnh giới này, có thể nói là tất cả hết thảy các ác nghiệp, bất thiện nghiệp đạo thảy đều đã tách lìa, đều không còn nữa. Phàm là hết thảy những nghiệp bất thiện như đức Phật đã nói trong kinh điển, hàng Thất Địa Bồ Tát chắc chắn chẳng có. Phàm là hết thảy những thiện nghiệp như trong kinh điển đã dạy, hàng Thất Địa Bồ Tát nhất định trọn đủ. Do vậy nói là “thanh tịnh vô lượng thân khẩu ý”. Nói cách khác, Bồ Tát tu hành đến trình độ và cảnh giới này, sẽ thuần thiện, không lầm lỗi; đừng nói là tội nghiệp, ngay cả sai lầm cũng chẳng có. Đấy là bậc Thất Địa Bồ Tát. “Đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn quang minh”: Vị ấy đã đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn quang minh. Lời Sớ dưới đây là do Thanh Lương đại sư chú giải, tức là lời Sớ của kinh Hoa Nghiêm.
(Sớ) Sớ vị: Vô Sanh Pháp Nhẫn, Bát Địa sở đắc.
(疏) 疏謂:無生法忍,八地所得。
(Sớ: Hoa Nghiêm Kinh Sớ viết: “Vô Sanh Pháp Nhẫn là sở đắc của Bát Địa”).
Thanh Lương đại sư giải thích: Bát Địa mới thật sự đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.
(Sớ) Kim tư Thất Địa, ư bỉ Pháp Nhẫn minh tướng hiện tiền, vị vi chân đắc.
(疏) 今玆七地,於彼法忍明相現前,未為真得。
(Sớ: Nay đối với bậc Thất Địa, tướng sáng của môn Pháp Nhẫn ấy đã hiện tiền, chưa phải là thật sự đắc).
“Minh tướng hiện tiền”, trên bầu trời hết sức sáng sủa, nhưng mặt trời chưa mọc! Cảnh giới của Thất Địa là như vậy.
(Sớ) Như Quán Kinh Sớ.
(疏) 如觀經疏。
(Sớ: Như Quán Kinh Sớ có nói).
Đây là bản chú sớ Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh do Trí Giả đại sư viết.
(Sớ) Dĩ Vô Sanh tức thuộc Sơ Trụ.
(疏) 以無生即屬初住。
(Sớ: Vô Sanh thuộc vào Sơ Trụ).
Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo có thể nói là đã chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, nhưng sự chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn ấy chính là như Thất Địa Bồ Tát thấy tướng quang minh trong phần trên.
(Sớ) Ý lược đồng thử.
(疏) 意略同此。
(Sớ: Đại khái giống với ý nghĩa được nói ở đây).
Trí Giả đại sư thuộc tông Thiên Thai; tông Thiên Thai nói Sơ Trụ Bồ Tát đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, còn Thanh Lương đại sư của tông Hoa Nghiêm nói từ Sơ Địa trở lên chỉ đắc tướng sáng của Vô Sanh Pháp Nhẫn hiện tiền. [Tông Thiên Thai nói Sơ Trụ Bồ Tát đã đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn] theo ý nghĩa này, [tức là] vị ấy chưa thật sự đắc. Lời giảng của Trí Giả đại sư và thuyết của Thanh Lương đại sư có ý nghĩa giống nhau, đều là nói họ (tức hàng Bồ Tát chưa đạt đến Bát Địa) đã thấy được tướng sáng của Vô Sanh Pháp Nhẫn, trọn chẳng thật sự đạt được, chỉ có thể coi là đạt được; chứ nói nghiêm ngặt thì Đệ Bát Địa mới thật sự chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.
(Sớ) Nãi chí Bát Địa, ly nhất thiết tâm ý thức phân biệt, thỉ danh chân đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn dã. Cố tri Vô Sanh, thánh thả nan chi, huống phàm bối hồ!
(疏) 乃至八地 , 離一切心意識分別 , 始名真得無生法忍也。故知無生,聖且難之,況凡輩乎。
(Sớ: Cho đến Bát Địa, lìa hết thảy tâm ý thức phân biệt, mới gọi là thật sự đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Cho nên biết: Đối với bậc thánh, Vô Sanh còn khó, huống là lũ phàm phu ư?)
Do đây có thể biết: Chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn chẳng dễ dàng! Đối với thánh nhân mà nói thì vẫn còn khá khó khăn, huống gì phàm phu? “Thánh nhân” được nói đến ở đây là hàng Thất Địa Bồ Tát trong Viên Giáo, địa vị này cao trỗi lắm, rất cao! Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo đã phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân. Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, ba mươi địa vị ấy đã phá ba mươi phẩm trong bốn mươi mốt phẩm vô minh, vẫn còn sót lại mười một phẩm vô minh. Khi ấy, mới thấy tướng sáng của Vô Sanh Pháp Nhẫn, lại phá bảy phẩm vô minh, đạt đến Đệ Bát Địa, mới thật sự chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Do vậy, “hoa khai kiến Phật ngộ Vô Sanh” đọc lên nghe rất đơn giản, nhưng thật sự đạt đến cảnh giới ấy chẳng hề đơn giản! Quý vị biết: Quý vị tu các pháp môn khác muốn đạt đến Bát Địa Bồ Tát thì phải đến kiếp nào? Nói thật ra là quá xa xôi, quá mờ mịt! Ở đây, đại sư nói những lời này nhằm khích lệ chúng ta, chúng ta dùng pháp môn Niệm Phật này sẽ dễ dàng đạt được, sẽ nắm chắc, lại còn làm được ngay trong một đời. Tu những pháp môn khác muốn đạt đến cảnh giới này chẳng phải là chuyện dễ dàng, đúng là khó khăn!
Đoạn văn kế tiếp hay vô cùng, giảng rõ cảnh giới. Chúng ta đọc xong, trong tâm thật sự chẳng hoài nghi. “Bát Địa Bồ Tát ly nhất thiết tâm ý thức phân biệt”, hoàn toàn chuyển Thức thành Trí, bỏ Thức dùng Căn. Trong bộ Lăng Nghiêm Kinh Chánh Mạch, Giao Quang đại sư đề xướng “bỏ Thức dùng Căn”, chữ “Thức” chỉ thức thứ sáu, thức thứ bảy, và thức thứ tám, “bỏ Thức, dùng Căn” tức là dùng tánh của Căn. Ngài đề xướng biện pháp này, dạy chúng ta hãy dùng Nhãn Căn để thấy, đừng dùng Nhãn Thức để thấy, chẳng dùng thức thứ sáu là Ý Thức để thấy, mà dùng gì để thấy? Dùng tánh Thấy để thấy. Đối với Nhĩ Thức, đừng dùng Nhĩ Thức để nghe, mà dùng tánh Nghe để nghe. Nếu quý vị có thể dùng theo cách như vậy, quý vị sẽ chẳng khác gì Thất Địa và Bát Địa Bồ Tát. Phương pháp này được bậc Địa Thượng Bồ Tát sử dụng, chẳng đơn giản! Lời Giao Quang đại sư xét theo lý luận không sai, nhưng trên thực tế, có mấy ai làm được? [Giảng giải] kinh Lăng Nghiêm xưa nay có hai phái:
1) Cổ phái là tuân theo tư tưởng của Thiên Thai đại sư, tức là tuân theo Trí Giả đại sư dùng Thức, vẫn nghiễm nhiên dùng thức thứ sáu tức Ý Thức và thức thứ bảy để tu hành, tu Tam Chỉ Tam Quán.
2) Tân phái chủ trương “xả Thức, dùng Căn”, đương nhiên là hay, giống như Lục Tổ, nhưng bậc Thượng Thượng Thừa mới có thể làm được. Từ Đại Thừa trở xuống đều làm chẳng được! Vì thế, những người học kinh Lăng Nghiêm, có rất nhiều người thích bản chú giải kinh Lăng Nghiêm thời cổ vì nó hợp lý.
Chúng ta hãy bàn luận thế nào là “tâm ý thức”. Theo định nghĩa trong Duy Thức, Thức là phân biệt, “liễu biệt” (hiểu rõ, phân biệt rạch ròi) được gọi là Thức, đặc biệt chỉ thức thứ sáu, tức Ý Thức, nay chúng ta cũng gọi nó là “tâm”. Ý thức, tức thức thứ sáu, khéo phân biệt, dấy vọng tưởng, nghĩ đến quá khứ, hiện tại, vị lai, đều là do thức thứ sáu (ý thức). Thức thứ bảy là chấp trước, “trù lượng danh ý” (tính toán, so lường danh và ý) chính là thức thứ bảy. Thức thứ bảy rất cố chấp, thức thứ sáu rất thường suy tưởng, khởi vọng tưởng rất nhiều, nhưng không chấp trước. Thức thứ bảy chấp trước thật lợi hại, chấp trước điều gì? Chấp trước Ngã. Thức thứ sáu không chấp trước Ngã, thức thứ bảy chấp trước Ngã. Ngã Chấp và Pháp Chấp đều do thức thứ bảy. Chướng ngại lớn nhất đối với tu hành chứng quả là chấp trước; vì thế, thức thứ bảy gọi là Nhiễm Ô Ý. Thức thứ sáu phân biệt, suy nghĩ, chẳng tạo thành ô nhiễm; nhưng thức thứ bảy tạo thành ô nhiễm. Nói “ô nhiễm” tức là cái tâm tự tư tự lợi. Tự tư tự lợi là thức thứ bảy, trong thức thứ sáu không có điều này. Thức thứ bảy là tự tư tự lợi, cho nên biến thành ô nhiễm, ô nhiễm Chân Như bổn tánh. Vì thế, nó được gọi là Nhiễm Ô Ý, là thứ chẳng thanh tịnh. Hễ chuyển được thức thứ bảy, tâm sẽ thanh tịnh, sẽ bình đẳng. Chuyển không được thức thứ bảy, tâm quý vị chẳng bình đẳng, chẳng thanh tịnh. Đủ thấy người tu hành phải chuyển thức thứ bảy, mấu chốt trọng yếu nhất trong công phu tu hành là làm thế nào để chuyển biến thức thứ bảy.
Thức thứ tám giống như một cái kho, tất cả chủng tử thiện hay ác đều chứa trong đó. Vì thế, thức thứ tám gọi là Tạng Thức, Tạng (藏) là kho lẫm. Chúng ta thấy sắc nghe tiếng đều lưu lại ấn tượng, ấn tượng đương nhiên phải có chỗ để cất giữ. Nếu chẳng có chỗ để cất giữ, sẽ chẳng có ấn tượng. Trong Duy Thức, ấn tượng được gọi là “chủng tử” (bīja, hạt giống). Chủng tử ấy được cất giữ trong A Lại Da Thức, tức thức thứ tám. Ngày hôm qua tôi gặp anh, hôm nay gặp mặt, tôi vẫn nhận biết anh. Vì sao nhận biết? Vừa gặp mặt thì A Lại Da Thức giống như máy computer, đem dữ kiện [trong database] ra đối chiếu, đúng rồi, cái người tôi gặp hôm qua giống hệt anh, như vậy là cùng một người. Tốc độ [đối chiếu ấn tượng] rất nhanh, cho nên vừa thấy liền nhận biết. Vì sao? Giữ lại ấn tượng của ngày hôm qua, tập tin (file) ngày hôm qua đã nhập vào máy, hôm nay vừa gặp mặt lập tức hiện hành, ngay lập tức đối chiếu, không sai! Toàn bộ tập tin về anh đều có. Do vậy, A Lại Da Thức là một cái kho lớn, tốc độ [xuất nhập dữ liệu] hết sức nhanh, ấn tượng thiện hay ác đều giữ trong đó, ấn tượng đời đời kiếp kiếp cũng đều giữ trong đó.
“Ly nhất thiết tâm ý thức phân biệt” (lìa hết thảy tâm ý thức phân biệt) là nói lìa khỏi thức thứ sáu, lìa khỏi thức thứ sáu là gì? Là Diệu Quán Sát. Diệu Quán Sát Trí vốn có, thức thứ sáu tức Ý Thức vốn không, do mê nên mới có. Ngộ rồi sẽ chẳng còn nữa. Hễ ngộ, thức thứ sáu tức Ý Thức chuyển biến thành Diệu Quán Sát Trí (Pratyaveksanā-jñāna). Nói thật ra, chuyện này chỉ là thay đổi danh tự, chẳng có thay đổi gì hết! Hễ mê thì gọi là thức thứ sáu hay Ý Thức, lúc ngộ bèn gọi là Diệu Quán Sát Trí. Cùng một sự việc, chẳng phải là hai! Thức thứ bảy cũng giống như thế, hễ mê bèn gọi là Mạt Na Thức, hay thức thứ bảy; ngộ rồi thì gọi là Bình Đẳng Tánh Trí (Samatā-jñāna). A Lại Da Thức cũng giống như thế, mê thì gọi là A Lại Da, ngộ rồi bèn gọi là Chân Như bổn tánh hay Đại Viên Kính Trí (Ādarsa-jñāna), mê hay ngộ mà thôi! Nơi Phật và Bồ Tát, không gọi những thứ đó là tám thức mà gọi là Tứ Trí Bồ Đề. Bồ Đề là giác, Tứ Trí đều giác. Nơi phàm phu chẳng gọi là Tứ Trí Bồ Đề mà gọi là Bát Thức. Bát Thức là danh xưng khi mê hoặc, điên đảo, Tứ Trí là danh xưng sau khi đại triệt đại ngộ, chuyện là như vậy đó.
Lìa hết thảy tâm ý thức phân biệt, khi ấy, thức thứ sáu, thứ bảy, thứ tám tuy có thô hay tế khác nhau, mỗi thức đều có các thứ phân biệt, đạt đến Bát Địa Bồ Tát thì mới hết sạch. Vì thế, khi ấy, Đại Viên Kính Trí của Bát Địa Bồ Tát hiện tiền, chuyển [thức thành trí] nơi quả địa. Trước khi đạt đến Thất Địa, người ấy có Diệu Quán Sát Trí và Bình Đẳng Tánh Trí, nhưng Đại Viên Kính Trí vẫn chưa có, tuy đã chuyển, nhưng công phu chưa đến mức. Ắt phải đến khi công phu đã đạt mức, chứng quả, thức thứ tám mới thật sự chuyển thành Đại Viên Kính Trí, thật sự ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn. Trong chú giải của kinh Di Đà, toàn là giảng về Duy Thức học và đạo lý Duy Thức. Hơn nữa, tinh hoa của Pháp Tướng Duy Thức Tông là dạy quý vị hãy chuyển Thức thành Trí.
Cách tu của Pháp Tướng Duy Thức Tông có “ngũ chủng Duy Thức Quán”[28] rất rắc rối; nay pháp môn Tịnh Độ cũng tu điều này, cũng là chuyển Thức thành Trí, nhưng phương pháp đơn giản và mầu nhiệm hơn! Quý vị thấy một câu Di Đà tuyệt diệu hơn rất nhiều! Cũng có thể tu đạt đến cảnh giới ấy, không chỉ cũng có thể [đạt cùng một cảnh giới], mà so với Duy Thức, [trì danh trong Tịnh Tông] còn nhanh chóng hơn tu năm thứ Duy Thức Quán. Người ta tu năm thứ Duy Thức Quán, nói thật ra, chưa chắc đã tu thành trong một đời. Năm [phương pháp Quán theo] thứ tự ấy thật sự chẳng dễ dàng! Nếu quý vị thật sự tu hành pháp môn Niệm Phật này đúng lý, đúng pháp, chắc chắn sẽ thành công trong một đời này, thật sự có thể chứng đắc. Do vậy, pháp môn này thật sự chẳng thể nghĩ bàn, được hết thảy chư Phật tán thán, rất có lý vậy! Bát Địa Bồ Tát mới tính là thật sự chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, chẳng những ngay cả phiền não chẳng còn, mà tập khí cũng đều dẹp trừ. Cảnh giới này “thánh thả nan chi” (đối với bậc thánh còn khó), Sơ Địa là thánh nhân (Tam Hiền, Thập Thánh), thánh nhân còn khó thông đạt, “huống phàm bối hồ” (huống gì lũ phàm phu), hàng phàm phu chẳng dễ gì đạt đến cảnh giới này!
(Sớ) Di viễn giả, yếm sanh vi hoạn, cực dục diệt sanh dĩ quy ư vô, nhi diệt phi chân diệt, chỉ ích cù lao, chung thành luân chuyển, như ngưu hoại xa, cổ hữu minh dụ.
(疏) 彌遠者 ,厭生為患 , 亟欲滅生以歸於無 ,而滅非真滅,祇益劬勞,終成輪轉,如牛壞車,古有明喻。
(Sớ: “Càng xa”: Chán ngán sanh mạng là nỗi lo sầu, cực lực muốn diệt sanh mạng để trở về Không, nhưng diệt chẳng phải là thật sự diệt, chỉ càng thêm nhọc nhằn, rốt cuộc trở thành luân chuyển, như bò phá xe, cổ nhân đã có tỷ dụ rành rành).
Chẳng biết tu thì càng cầu càng xa, mong được kết quả, đâm ra càng thêm rối beng, đấy là vì tu hành chẳng đúng pháp! Có một hạng người cảm thấy cái thân này là mối lo sầu lớn nhất, liền nghĩ không cần tới nó nữa! Chư thiên trên Tứ Không Thiên nghĩ như vậy, có rất nhiều vị A La Hán đã thành tựu cũng nghĩ như vậy, nên gọi là “hôi thân diệt trí” (thân như tro bụi, trí tịch diệt), chẳng cần đến thân nữa, “dĩ quy ư vô” (để trở về với Không), làm như vậy có phải thật sự là trở về với Không hay chăng? Không hề!
“Nhi diệt phi chân diệt” (nhưng diệt chẳng phải là thật sự diệt): Người ấy chẳng thật sự diệt; trong Phật pháp nói sự diệt của người ấy là Đoạn Diệt. Phật pháp nói đến “diệt” thì phải là Tịch Diệt, Tịch Diệt chẳng phải là Đoạn Diệt. Cảnh giới Tịch Diệt là Sự Sự vô ngại, còn Đoạn Diệt là chuyện gì cũng có chướng ngại; bởi lẽ, người ấy cảm thấy cái thân này có chướng ngại cho nên mới diệt trừ nó. Nếu thân không có chướng ngại, quý vị cần gì phải diệt nó? Đủ thấy đúng là công phu chưa đến mức! Người ấy thấy điều gì cũng đều có chướng ngại, [luôn cảm thấy] cần phải đoạn trừ chướng ngại, chẳng biết trong Phật pháp Đại Thừa chân chánh thì thứ gì cũng đều chẳng có chướng ngại. Đối với ý nghĩa này, quý vị đã nghe suốt mấy hôm trong khóa giảng, nói chung cũng phải hiểu được mấy phần. Quý vị thấy Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, hiển thị thứ gì cũng đều chẳng chướng ngại, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, thành tựu trí huệ viên mãn của chính mình. Thiện Tài đồng tử chẳng cần diệt trừ thân thể, chẳng làm chuyện ngốc nghếch ấy, [làm chuyện ấy] vô ích!
Diệt là mục tiêu tu học tối cao trong Phật pháp, Diệt là diệt phiền não, diệt vô minh, diệt sanh tử, diệt những thứ đó, chứ không phải là diệt thân! Quý vị quán sát cặn kẽ cái thân này: Trong thân chẳng có phiền não, cũng chẳng có sanh tử, cũng chẳng có vô minh. Nếu quý vị không tin, hãy tìm trong thân thể, hiện thời khoa học phát triển, quý vị phân tích, mỗi một tế bào trong thân thể của chúng ta có thể tách thành nguyên tử, điện tử; quý vị hãy quan sát, trong nguyên tử, điện tử nào có phiền não, có vô minh? Quý vị có thể tìm thấy hay chăng? Tìm chẳng ra! Trong lạp tử cơ bản nhỏ nhất đã không có vô minh, mà cũng chẳng có sanh tử, chẳng có phiền não! Cái thân này bất quá do vật chất cơ bản tích tụ mà thành, quả thật chẳng có! Đã chẳng có thì không bị chướng ngại!
Ví như thuở Đạt Ma Tổ Sư của Thiền Tông đến Trung Quốc, tìm chẳng được đồ đệ nào, không ai học theo Ngài, bèn trụ tại chùa Thiếu Lâm chín năm, ngồi nhìn vách chín năm. Sau này, gặp được Huệ Khả, Huệ Khả hướng về Ngài thỉnh giáo. Thỉnh giáo điều gì? Tâm Huệ Khả chẳng an, cho nên đến tìm Đạt Ma Tổ Sư, cầu Đạt Ma Tổ Sư an tâm cho. Chuyện cầu pháp ấy chẳng dễ dàng, chặt tay cầu pháp. Là vì Ngài gặp mặt Đạt Ma Tổ Sư, Đạt Ma Tổ Sư chẳng đoái hoài. Đến cuối cùng, không còn cách nào, bèn chặt một cánh tay, cầm cánh tay cúng dường Đạt Ma Tổ Sư. Đạt Ma Tổ Sư thấy Ngài làm như vậy, đúng là kiền thành, hỏi: “Ông cần gì phải làm thế? Rốt cuộc ông đến kiếm tôi để làm gì?” Ngài mới thưa: “Tâm con bất an, cầu đại sư an tâm cho con”. Đạt Ma Tổ Sư xòe tay: “Ông đem cái tâm lại đây, ta sẽ an nó cho ông”. Ngài nghĩ cả nửa ngày rồi nói: “Con tìm tâm chẳng thể được! Con tìm tâm không ra”. Tâm rốt cuộc ở nơi đâu? Trong não chẳng có tâm, quả tim cũng chẳng phải là tâm, tìm thế nào cũng chẳng được, giống như tôn giả A Nan, tìm bên trong chẳng được, tìm bên ngoài chẳng được, ở chính giữa tìm chẳng được, đến nơi đâu cũng chẳng tìm được, Ngài mới thưa với Tổ Sư: “Ngã mịch tâm liễu bất khả đắc” (Con tìm tâm trọn chẳng thể được!) Tìm tâm không ra! Đạt Ma Tổ Sư nói: “Ngã dữ nhữ an tâm cánh!” [tức là] ta đã làm cho cái tâm ông được an rồi đó! Ngài bèn hoảng nhiên đại ngộ. “Ông nói tâm ông không an, nhưng về căn bản tìm chẳng được cái tâm, ông còn muốn an nó để làm gì?” Ngài bèn lập tức đạt được thanh tịnh.
Quý vị nói quý vị có phiền não, phiền não nhiều khôn xiết, nếu tôi
duỗi tay: “Quý vị đưa phiền não cho tôi, sẽ chẳng còn phiền não nữa”. Quý vị tìm xem, phiền não ở chỗ nào? Tìm không ra! Về căn bản là không có! Đấy là tự sanh phiền não, về căn bản, quý vị chẳng có phiền não. Quý vị không tin cứ đi tìm, phiền não ở trong đầu, hay ở trên tay, ở dưới chân? Tìm không được! Nếu quý vị hoảng nhiên đại ngộ, phiền não vốn là vọng tưởng của ta, chẳng có vọng tưởng sẽ chẳng có phiền não, phiền não lập tức bị tiêu trừ. Sự thật xác thực là như vậy!
Bởi thế, Phật pháp cầu Tịch Diệt, chẳng cầu Đoạn Diệt. Nhất định phải hiểu rõ ràng điều này! Đoạn Diệt chẳng phải là Chân Diệt, Tịch Diệt là Chân Diệt. Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Sanh diệt ký diệt, Tịch Diệt hiện tiền” (Sự sanh diệt đã diệt mất thì Tịch Diệt hiện tiền), đó là cảnh giới của Như Lai, là Tịch Diệt Nhẫn, còn cao hơn Vô Sanh Pháp Nhẫn một bậc; đấy là cảnh giới của Thập Địa Bồ Tát trở lên. Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Thập Địa, Đẳng Giác, Như Lai quả địa là Tịch Diệt Nhẫn. Do Đoạn Diệt chẳng phải là Chân Diệt, nên nếu tu Đoạn Diệt thì Phật pháp thường bảo đó là khổ hạnh vô ích, rất khổ, chẳng có ích gì! Đấy chẳng phải là thật sự tu hành chánh pháp đúng như pháp, mà là khổ hạnh vô ích. “Chỉ ích cù lao” (chỉ càng thêm nhọc nhằn), tăng thêm phiền toái, tăng thêm mệt nhọc, tu kiểu này chẳng có ích gì cả!
“Chung thành luân chuyển, như ngưu hoại xa, cổ hữu minh dụ” (Rốt cuộc biến thành luân chuyển, như bò phá xe, cổ nhân đã có tỷ dụ rành rành). Đây là nêu tỷ dụ để nói. “Chung thành luân chuyển” (rốt cuộc biến thành luân chuyển): Chẳng hạn như ta thường nói tu Vô Tưởng Định là dùng cách tu Đoạn Diệt để đoạn trừ hết thảy vọng tưởng, tu thành quả báo là Vô Tưởng Thiên trong Đệ Tứ Thiền, thọ mạng năm trăm kiếp, thời gian ấy khá dài, nhưng năm trăm kiếp cũng phải qua đi, công phu định lực mất đi; sau khi mất đi, người ấy vẫn phải đọa lạc. Vì thế, rốt cục biến thành luân chuyển, người ấy vẫn phải luân hồi! Khổ hạnh tu Vô Tưởng Định thành tựu, chẳng dễ dàng! Sự khổ hạnh ấy chẳng thể đạt đến kết quả rốt ráo, vô giá trị! “Như ngưu hoại xa” (như bò phá xe), đây là tỷ dụ, bò kéo xe rất mệt mỏi, rất khổ sở, lòng nó nghĩ như thế nào? Ta phá tan cái xe này, sẽ chẳng phải kéo nữa! Đó là cách suy nghĩ rất ngốc nghếch. Quý vị đều biết, bò phá tan cái xe thì chủ nhân lại đóng cái xe mới, lại chế cái xe to hơn, bò vẫn phải kéo! [Phá xe] chẳng phải là biện pháp [thoát khổ].
“Cổ hữu minh dụ” (cổ nhân có tỷ dụ rành rành): Tỷ dụ rất rõ rệt, tỷ dụ ấy chính là con người chán ngán cái thân khổ sở, nghĩ muốn nhanh chóng diệt trừ cái thân này, chẳng biết sau khi diệt thân, lại phải thọ thân. Nếu quý vị thật sự hiểu rõ đạo lý này, quý vị sẽ biết: Trong thế gian này, có rất nhiều kẻ cảm thấy cuộc đời đau khổ quá, sống không được bèn tự sát. Tự sát là ta chẳng cần đến cái thân này nữa, cứ ngỡ chết rồi thì chuyện gì cũng xong xuôi! Đâu có chuyện tiện nghi như vậy? Chết rồi chưa đầy bốn mươi chín ngày lại đầu thai, lại tái sanh, khổ sở đáng phải chịu như thế nào thì vẫn khổ sở như thế ấy, không có cách nào thoát ly. Nếu quý vị hiểu rõ chân tướng sự lý này, nhất định đừng đi tìm cái chết! Có chết cũng không xong, phiền phức lớn lắm!
Nay chúng ta gặp gỡ pháp môn này, nói thật ra là đừng chết thì quý vị sẽ thành công, hễ chết bèn bị luân hồi. Vì sao nói là chẳng chết? Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là ra đi trong lúc còn sống, không phải là chết rồi mới đi. Trong trạng thái hết sức bình thường, hết sức tỉnh táo, quý vị thấy A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, theo Ngài ra đi. Đấy đâu phải là chết, ra đi trong khi còn sống đấy chứ! Quý vị phải hiểu rõ đạo lý này. Nói chết rồi mới có thể vãng sanh thì trong Mật Tông có cách cứu độ Trung Ấm, họ nói rất hay, có thể độ thân Trung Ấm của người đã chết về Tây Phương Cực Lạc thế giới, trong Mật Tông có cách nói như thế. Thưa quý vị, kiểu nói này có rất nhiều vấn đề! Có thể độ thân Trung Ấm của người đã chết về Tây Phương Cực Lạc thế giới thì khi còn sống chúng ta chẳng cần tu hành, tu hành để làm gì? Chết rồi, thỉnh mấy vị lạt-ma đến siêu độ vãng sanh Tây Phương! Quý vị tra duyệt khắp các kinh điển Tịnh Độ xem có đạo lý ấy hay chăng? Chẳng thể nào!
Quý vị xem Lương Hoàng Sám, phi tử của Lương Vũ Đế chết rồi, thỉnh ngài Bảo Chí Công đến siêu độ, ngài Bảo Chí Công là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. Quán Thế Âm Bồ Tát là hậu bổ Phật của A Di Đà Phật bên Tây Phương Cực Lạc thế giới, Ngài cũng chẳng thể độ phi tử của Lương Vũ Đế về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chỉ có thể độ cho bà ta sanh lên trời Đao Lợi. Nhìn từ trường hợp này, chúng ta thật sự hiểu rõ: Cái gọi là siêu độ Trung Ấm, đích xác là có thể siêu độ, nhưng chỉ có thể siêu độ lên Đao Lợi Thiên! Nếu nói là siêu độ cao hơn cõi trời Đao Lợi, siêu độ về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chắc chắn chẳng có lẽ ấy! Nếu quý vị nghe lời họ nói, sẽ bị mắc lừa thật to! Xét về lý, nói chẳng suông, chẳng tìm thấy căn cứ [của việc siêu độ Trung Ấm Thân về Tịnh Độ] trong kinh điển, không có cách nói ấy!
Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, trong mấy hôm nay chúng ta cũng bàn không ít những nguyên tắc trọng yếu. Thứ nhất là quý vị phải phát Bồ Đề tâm, Trung Ấm Thân có thể phát Bồ Đề tâm hay không? Điều thứ hai, quý vị phải đầy đủ ba món tư lương, Trung Ấm Thân có thể đầy đủ hay chăng? Nhiều vấn đề quá! Quá ư là nhiều! Trung Ấm so với khi chúng ta mang thân người còn mê hoặc nhiều hơn; khi quý vị còn sống, đầu óc tỉnh táo mà còn chưa thể phát Bồ Đề tâm, chưa thể đầy đủ ba món tư lương, thì khi mê hoặc, điên đảo quý vị có thể làm được hay chăng? Trung Ấm Thân còn tệ hơn mộng cảnh, còn mê hoặc hơn nữa; nếu chẳng mê hoặc thì cớ sao người ấy lại đi vào tam ác đạo? Vì thế, vào trong ba ác đạo là hồ đồ đi vào. Người mê hoặc điên đảo làm sao có thể đến Tây Phương Cực Lạc thế giới cho được? Làm sao A Di Đà Phật tiếp dẫn người ấy được? Chắc chắn là chẳng thể nào! Nếu là có thể, chắc chắn là trong thuở ấy, ngài Bảo Chí Công đã độ phi tử của Lương Vũ Đế về Tây Phương Cực Lạc thế giới! Nếu là như vậy thì chúng ta mới tin tưởng vẫn có thể siêu độ Trung Ấm Thân vãng sanh Tây Phương, chúng ta sẽ tin tưởng.
Từ xưa đến nay, phàm là siêu độ người sau khi đã chết, kinh Địa Tạng cũng nói như thế, chỉ có thể siêu độ lên Đao Lợi Thiên là cao nhất, vì sao? Đó là phước báo. Kinh Địa Tạng dạy: Người nhà quyến thuộc tu phước cho vong nhân thì người đã khuất chỉ có thể hưởng một phần bảy [phước ấy], người tu phước tự được sáu phần bảy. Trong kinh [Địa Tạng], đã có kinh văn nói rõ ràng, rành rành như thế. Vì thế, quý vị phải biết, phải hiểu, phải thật sự giác ngộ! Ngàn vạn phần đừng nhẹ dạ tin theo những lời đồn đại của kẻ khác, chớ nên dễ dãi tin tưởng. Nghe người ta nói kiểu đó, trong lòng chúng ta quyết định chẳng bị lay động!
Nay pháp môn này của chúng ta có căn cứ lý luận chắc chắn, vững vàng, thế mà hiện thời còn có người nói như thế nào? Hủy báng Tịnh Độ hết sức dữ dội, nói kinh Di Đà là giả, nói A Di Đà Phật là thần Thái Dương, quý vị nói xem còn có cách gì hay không? Rất nhiều năm trước đây, khi tôi dạy học tại Phật Quang Sơn. Ở Phật Quang Sơn có học sinh trong buổi học đã nêu ra câu hỏi, anh ta nói: Có một vị pháp sư cũng đang dạy bọn họ tại đó nói Tây Phương Tịnh Độ là giả, là một cõi nước lý tưởng của Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng phải là thật! Còn nói: “A Di Đà Phật là hóa thân của thần mặt trời”. Anh ta hỏi tôi, tôi trả lời: “Rất đáng tiếc, trình độ của tôi quá nông cạn, tuy có coi sơ qua Đại Tạng Kinh một lần, chưa coi kỹ, không biết điều đó xuất phát từ bộ kinh hay bộ luận nào! Các anh nên biết: Tốt nhất là hãy hỏi vị thầy nói câu đó!” Bịa đặt, đồn thổi, hết cách nói!
Sau đấy, tôi quay về Đài Bắc, đặc biệt ấn hành lưu thông bộ
Thông Tán Sớ của Khuy Cơ đại sư nhằm tạo bằng chứng đanh thép cho kinh Di Đà trong pháp môn Tịnh Độ, chứng minh pháp môn này là thật. Ngài Khuy Cơ là học trò của Huyền Trang đại sư, Huyền Trang sang Ấn Độ ở lại đó suốt mười bảy năm. Đích thân ngài Huyền Trang cũng dịch kinh Di Đà sang tiếng Hán, bản dịch của Ngài hiện còn lưu trong Đại Tạng Kinh, không được lưu hành riêng. Ngài Khuy Cơ là truyền nhân của Huyền Trang đại sư, là đại đệ tử của ngài Huyền Trang, là người truyền pháp, lại còn là tổ sư khai sơn của Pháp Tướng Duy Thức Tông, Ngài chú giải kinh Di Đà, dùng bản nào? Dùng bản của Cưu Ma La Thập đại sư, dụng ý quá sâu! Con người chúng ta hiện thời luôn dùng tình cảm; từ chỗ này, quý vị có thể thấy đại sư đã ban cho chúng ta một lời giáo huấn rất lớn, “y pháp, bất y nhân”.
Nếu nói như chúng ta hiện thời thì Khuy Cơ đại sư là học trò của ngài Huyền Trang, bản dịch của ngài Huyền Trang đã được dịch xong, người khác chẳng lưu thông thì lẽ ra kẻ làm học trò phải dốc hết tánh mạng lưu thông. Viết chú giải kinh Di Đà, lẽ ra phải dùng bản dịch của thầy, cớ sao lại chọn bản dịch của Cưu Ma La Thập đại sư? Đấy chẳng phải là không thông hiểu phép xử sự đúng lẽ tình người hay sao? Nếu là như hiện thời thì chắc chắn sẽ là như thế. Hiện thời thì thầy ta là bậc nhất, người khác đều không bằng! Thế nhưng Khuy Cơ đại sư vẫn y như cũ dùng bản dịch của Cưu Ma La Thập đại sư, nói cách khác, hai thầy trò Ngài đều công nhận bản dịch của Cưu Ma La Thập đại sư (hiện thời chúng ta tụng bản dịch này) chắc chắn chẳng sai lệch ý nghĩa so với Phạn bản. Nếu có sai lầm, Huyền Trang đại sư nhất định nói ra vì Ngài đã đọc bản tiếng Phạn. Đây là nhằm chứng minh cho chúng ta, tạo chứng cớ đanh thép: Bản dịch kinh này [của ngài La Thập] dịch khá lắm. Khuy Cơ đại sư soạn chú giải, chọn lấy bản của La Thập đại sư để chú giải, trọn chẳng phải là nghịch thầy, phản đạo! Huyền Trang đại sư thấy ngài Khuy Cơ làm như vậy, chẳng dùng bản dịch của thầy để chú phải, mà lại dùng bản dịch của người xưa, Ngài cũng chẳng nghĩ học trò phản thầy. Đủ thấy cổ nhân đối với Phật pháp quả thật đã theo đúng Tứ Y Pháp, “y pháp, bất y nhân; y nghĩa, bất y ngữ”.
Bản dịch của La Thập đại sư đã dịch hay như thế, đã được lưu thông, người ta có thể bỏ mình vì người, đương nhiên bản dịch của chính mình cũng chẳng kém bản dịch của Cưu Ma La Thập đại sư, nhưng bản dịch của ngài La Thập đã được lưu thông phổ biến, có thể thâu bản dịch của chính mình lại, hoằng dương bản của cổ đức, tâm lượng ấy rất phi phàm, thật sự đã thể hiện “đại công vô tư”, vì Phật pháp, vì chúng sanh, chẳng vì tiếng tăm, lợi dưỡng của chính mình. Vì thế, cuốn Thông Tán Sớ là một chứng cớ đanh thép cho kinh luận Tịnh Độ và pháp môn tu hành Tịnh Độ. Kinh Di Đà chắc chắn là chân thật, chẳng giả, vì đã được Huyền Trang và Khuy Cơ chứng minh. Do điều này, bất luận là ai, nếu nói kinh này là giả thì gã đó là ma, đều là bịa đặt, rêu rao, đều muốn diệt pháp, chúng ta nhất quyết chớ bị những gã đó lường gạt. Chúng ta quả thật có chứng cớ đanh thép, chứng minh kinh này là chân thật, chẳng hư vọng.
(Sớ) Kim chuyên niệm Phật, phát nguyện vãng sanh, sanh bỉ quốc dĩ, hoa khai kiến Phật, thức tự bổn tâm, bổn tự bất sanh, sanh diệc hà ngại? Sở vị: Xí nhiên cầu sanh, nhi bất quai ư Vô Sanh chi lý, chung nhật sanh nhi vị thường sanh giả, nãi sở dĩ vi chân Vô Sanh dã.
(疏) 今專念佛 ,發願往生 ,生彼國已 , 華開見佛,識自本心,本自不生,生亦何礙。所謂熾然求生,而不乖於無生之理,終日生而未嘗生者,乃所以為真無生也。
(Sớ: Nay chuyên niệm Phật, phát nguyện vãng sanh, sanh về cõi ấy xong, hoa nở thấy Phật, nhận biết bổn tâm vốn tự bất sanh, có sanh cũng chẳng ngăn ngại gì? Đó gọi là náo nức cầu sanh mà chẳng trái nghịch lý Vô Sanh, suốt ngày sanh mà chưa hề sanh. Đấy mới chính là Vô Sanh thật sự vậy).
Đây là nói với chúng ta là những người tu học pháp môn này; nay chúng ta chuyên niệm Phật hiệu, hoàn toàn nhờ vào bốn chữ ấy để vượt thoát lục đạo luân hồi trong tam giới, hoàn toàn dựa vào bốn chữ ấy để chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đáng quý là “phát nguyện vãng sanh”, đúng như Ngẫu Ích đại sư đã nói “phát nguyện vãng sanh là phát Vô Thượng Bồ Đề Tâm”. Sau khi sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, “hoa khai kiến Phật”, đấy là Thượng Phẩm Thượng Sanh. Hễ sanh về Tây Phương, hoa sen liền nở, thấy Phật. Từ Trung Phẩm trở xuống, thời gian [hoa sen nở] dài hay ngắn khác nhau. Nếu quý vị hỏi: “Sanh về đó, phải mất bao lâu hoa sen mới nở, thấy Phật?” Mỗi cá nhân có tình hình khác nhau, mấu chốt là do chính mình siêng năng hay lười nhác. Nếu quý vị tinh tấn chẳng lười, hoa nở thấy Phật rất nhanh chóng; nếu quý vị giải đãi, biếng nhác, thời gian sẽ kéo dài. Vì thế, thời gian sớm hay trễ phải hỏi chính mình, chẳng cần hỏi ai khác!
Đến khi hoa nở thấy Phật bèn ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn. Nói thông thường thì khi nào hoa nở thấy Phật? Sơ Địa là hoa nở thấy Phật, khi ấy, tuy đã ngộ Vô Sanh, nhưng chỉ là tướng sáng của Vô Sanh Pháp Nhẫn mà thôi, vẫn phải tu đến Đệ Bát Địa mới thật sự chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn. Thế nhưng Sơ Địa Bồ Tát đã thấu lộ tin tức Vô Sanh Pháp Nhẫn rồi, đã biết tin tức rồi! Vì thế, nói “thức tự bổn tâm, bổn tự bất sanh” (tự biết bổn tâm vốn tự bất sanh). Đã vốn tự bất sanh, lẽ nào có diệt? Hết thảy các pháp đều bất sanh, bất diệt, đấy là chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đến khi ấy, “sanh diệc hà ngại” (có sanh cũng chẳng trở ngại gì), Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, đấy là cảnh giới Nhất Chân pháp giới của Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Cõi Thật Báo Trang Nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chính là Nhất Chân pháp giới trong thế giới Hoa Tạng, tức là [nhờ vào] một câu A Di Đà Phật, hễ vãng sanh liền có thể đạt được [Nhất Chân pháp giới], công đức chẳng thể nghĩ bàn!
“Sở vị xí nhiên cầu sanh, nhi bất quai ư Vô Sanh chi lý” (Đó gọi là náo nức cầu sanh mà chẳng trái nghịch lý Vô Sanh). Hăm hở cầu vãng sanh là tình hình của chúng ta trong hiện thời. Trong hiện tại, chúng ta có tâm trạng hết sức nóng bỏng muốn được sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, đó là “xí nhiên cầu sanh”. [Mong cầu ấy] có trái nghịch lý Vô Sanh Pháp Nhẫn hay không? Chẳng trái nghịch tí ti nào! Chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, đại sư vì sao phải nói với chúng ta như vậy? Vì sợ các tông, các giáo khác dụ dỗ, mê hoặc quý vị: “Ở bên đó, quý vị chẳng thể ngộ Vô Sanh, sanh về đó là sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư”. Sợ quý vị nghe những lời lẽ ấy sẽ dao động, chẳng niệm Phật nữa, mà đi học các pháp môn khác, thật sự lỡ làng đại sự của chính mình. Sau khi hiểu rõ đạo lý này, đối với học thuyết của các tông phái khác, quý vị nghe xong chắc chắn chẳng dao động, quyết định niệm một câu Di Đà đến tột cùng, chắc chắn quý vị sẽ thành công. Đó là “cầu sanh bất quai ư Vô Sanh chi lý” (cầu vãng sanh mà chẳng trái nghịch lý Vô Sanh). Trong Chứng Đạo Ca, ngài Vĩnh Gia đã viết: “Thùy vô niệm, thùy vô sanh, nhược thật vô sanh vô bất sanh. Hoán thủ cơ quan mộc nhân vấn, cầu Phật thi công tảo vãn thành” (Ai vô niệm? Ai vô sanh? Thật sự vô sanh, vô bất sanh, thay đổi cơ quan hỏi người gỗ, cầu Phật thi công sớm muộn thành). Đó là nói đến đạo lý này, là phương pháp trong Thiền Tông. Chúng ta dùng phương pháp niệm một câu A Di Đà Phật chắc chắn sẽ chứng đắc. Dùng phương pháp của nhà Thiền để đạt đến quả thật khá khó khăn! Dùng phương pháp Niệm Phật ai nấy đều có thể thành tựu.
“Chung nhật sanh nhi vị thường sanh giả, nãi sở dĩ vi chân Vô Sanh dã” (suốt ngày sanh mà chưa hề sanh chính là chân Vô Sanh vậy). “Chung nhật sanh” là chúng ta niệm niệm đều mong cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, trọn chẳng biết cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ chính là thật sự chứng đắc Vô Sanh. Nói như vậy quá viên mãn, quá thấu triệt. Bộ sách Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận chuyên môn thảo luận vấn đề này, “sanh” là chúng ta cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, “vô sanh” là chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Bộ luận này được đưa vào tác phẩm Tịnh Độ Thập Yếu, chuyên môn thảo luận lý luận vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, là một tác phẩm vô cùng hay. Nay đã hết thời gian rồi, tôi giảng đến chỗ này.