A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa – Quyển 5 – Tập 142 – 147

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA

QUYỂN 5 – Tập 142-147

Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong

— o0o —

Tập 142

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bổn, trang ba trăm lẻ năm:

 

(Sao) Bị chư công đức giả, tự tánh vô nhiễm, tức trừng tịnh đức. Tự tánh vô phiền, tức thanh lương đức. Tự tánh vô ác, tức cam mỹ đức. Tự tánh vô ngã, tức khinh nhuyễn đức. Tự tánh vô kiệt, tức nhuận trạch đức. Tự tánh vô bạo, tức an hòa đức. Tự tánh vô phạp, tức trừ cơ khát đức. Tự tánh xuất sanh nhất thiết vạn thiện, tức trưởng dưỡng đức.

() 備諸功德者,自性無染,即澄淨德;自性無煩,即清涼德;自性無惡,即甘美德;自性無我,即輕軟德:自性無竭,即潤澤德;自性無暴,即安和德;自性無乏,即除飢渴德;自性出生一切萬善,即長養德。

(Sao: “Trọn đủ các công đức”: Tự tánh vô nhiễm là phẩm đức “lắng sạch”. Tự tánh vô phiền là phẩm đức “trong mát”. Tự tánh vô ác, tức là phẩm đức ngon ngọt. Tự tánh vô ngã, tức phẩm đức mềm, nhẹ. Tự tánh chẳng cạn kiệt, tức là phẩm đức nhuận trạch. Tự tánh chẳng bạo liệt, tức là phẩm đức an hòa. Tự tánh chẳng thiếu, tức là phẩm đức trừ đói khát. Tự tánh sanh ra hết thảy vạn thiện, tức là phẩm đức trưởng dưỡng).

Đoạn văn này giải thích câu “bị chư công đức” trong lời Sớ. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư khi khai ngộ, đã trần thuật kiến địa như Ngài đã thấy: “Nào ngờ tự tánh, vốn sẵn trọn đủ”, đó chính là ý nghĩa của đoạn kinh văn ở đây. Tám công đức đều sẵn có trong tự tánh, “bị” (備) là vốn sẵn trọn đủ. Nói thật ra, công đức trong tự tánh vô lượng vô biên, ở đây, nêu đại lược tám thứ mà thôi. Do vậy, ta có thể biết: Sáu trần thuyết pháp trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều nhằm khai hiển công đức trong tự tánh của chúng ta; vì vậy, thế giới ấy mới là thế giới viên mãn trang nghiêm rốt ráo.

Trong tám thứ ấy, trước hết nói đến “tự tánh vô nhiễm”. Trong bộ [chú giải] kinh này, Liên Trì đại sư đã giảng rất tỉ mỉ, tu hành tuyệt đối không phải là chúng ta niệm câu Phật hiệu này, hoặc niệm quyển kinh Di Đà này bèn có thể thành công. Người nương theo phương pháp này tu tập rất nhiều, vì sao những người đó không vãng sanh? Thường nói là “trong một vạn người niệm Phật, chỉ có mấy người vãng sanh”, vì sao không phải là ai nấy đều vãng sanh? Nguyên nhân là do họ chẳng hiểu rõ giáo lý. Nói cách khác, “miệng có, tâm không”. Niệm tám công đức ấy, niệm tám công đức chẳng sai lầm, nhưng công đức trong nội tâm của chính mình chẳng hiển lộ, chẳng tương ứng với tám thứ công đức ấy. Vì vậy, khi niệm thì phải tương ứng. Cổ đức thường nói: “Một niệm tương ứng một niệm Phật”, một niệm ấy của quý vị chẳng tương ứng thì chẳng phải là Phật, mà cũng chẳng thể vãng sanh! Do vậy, niệm phải tương ứng. Niệm một câu “nước tám công đức” bèn tương ứng với tám đức trong tự tánh thì mới hữu dụng! Do vậy, kinh là một tấm gương, đọc kinh là soi gương, dùng kinh đối chiếu với tâm hạnh của bản thân chúng ta, mang ý nghĩa ấy! Cách nghĩ và cách nhìn của chúng ta giống hệt như kinh đã dạy thì gọi là “tương ứng”. Cách nghĩ và cách làm của chúng ta chẳng giống như kinh đã dạy bèn là chẳng tương ứng. Chẳng tương ứng thì dù có niệm nhiều cách mấy vẫn uổng công, cổ nhân bảo: “Gào toạc cổ họng vẫn uổng công”!

Do điều này, có thể biết tương ứng là trọng yếu! Tương ứng là chuyển biến cảnh giới của chính mình. Muốn chuyển biến cảnh giới của chính mình, đương nhiên, trước hết là phải biết chính mình đã lầm lỗi. Kẻ chẳng chịu nhận lỗi thì hạng người như thế chắc chắn chẳng thể thành tựu, Phật cũng chẳng thể giúp kẻ ấy được! Người nào thành tựu nhanh nhất? Người nào thành tựu thù thắng nhất? Người mạnh mẽ nhận lỗi. Vì thế, nói đến tín tâm thì cơ bản nhất là nói tới hai chuyện:

– Thứ nhất, phải tin tưởng sâu xa chính mình tội nghiệp sâu nặng. Từ vô thỉ cho đến đời này, mỗi ngày đều tạo tội nghiệp, tội nghiệp sâu nặng! Quý vị thừa nhận điều này thì mới có thể sửa lỗi.

– Thứ hai, phải tin tưởng nguyện lực, trí huệ, và công đức của A Di Đà Phật chẳng thể nghĩ bàn, Ngài quyết định có thể cứu bạt chúng ta. Tin tưởng Phật lực có thể giúp đỡ chúng ta. Người như vậy thì mới có thể vãng sanh, người như vậy thì tự tánh mới có thể hiển lộ.

Tám câu ấy rất trọng yếu, chớ nên coi nhẹ lướt qua, [tám câu ấy] đều nói về tự tánh. Tự tánh vốn chẳng bị nhiễm ô, hiện thời có bị nhiễm ô hay không? Hiện thời vẫn chẳng bị nhiễm ô! Nếu tự tánh bị nhiễm ô, sẽ chẳng thể gọi là “chân tánh”. Trong kinh Phật thường nói tới nhiễm ô, sự nhiễm ô ấy “chẳng nhiễm mà nhiễm”, thứ gì bị nhiễm? Mê! Mê nên bèn nhiễm. Giác bèn khai ngộ, giác là phá mê! Phá mê, quý vị bèn kiến tánh. Khi quý vị mê bèn chẳng kiến tánh; do đó, hoàn toàn chẳng biết tới trí huệ và đức năng trong tánh. Khi mê, Tánh Đức bị chuyển biến thành phiền não. Nghiệp chướng là gì? Phiền não là nghiệp chướng, phiền não là chướng ngại. Nay chỉ cần quý vị có phiền não, chắc chắn là mê; đã giác ngộ bèn chuyển phiền não thành Tánh Đức. Bồ Đề là Tánh Đức, nói thật ra, Tánh Đức chẳng biến đổi, mà là mê hay ngộ. Do mê hay ngộ bèn khởi tác dụng khác nhau; khi ngộ, phiền não là Bồ Đề, trọn đủ vô lượng vô biên đức dụng. Khi mê, Bồ Đề biến thành phiền não, nếu tạo tội nghiệp nhiều thì phải thọ báo, tạo tác lục đạo luân hồi. Mê và ngộ có mối quan hệ to tát dường ấy!

Chư vị còn phải hiểu, mê hay ngộ là do chính mình, chẳng do ai khác, chẳng ở bên ngoài, mà là ở bên trong. Phật pháp đặc biệt được gọi là Nội Học, chẳng phải là bên ngoài. Cảnh giới bên ngoài chẳng có mê hay ngộ. Cảnh giới bao gồm cảnh giới nhân sự và cảnh giới vật chất, giống như chúng ta nằm mộng, mê hay ngộ trong mộng cũng đều là chính mình, tất cả hết thảy người và vật trong mộng đều chẳng có mê hay ngộ, mê hay ngộ là một mình ta, chư vị dễ dàng thấu hiểu điều này. Quý vị hãy chú tâm lãnh hội, lại lắng lòng quan sát cảnh giới trước mắt chúng ta, cảnh giới trước mắt là mê hay ngộ vẫn là một mình ta, chẳng dính dáng gì đến ngoại cảnh! Do chẳng liên quan đến ngoại cảnh, nên đối với cõi Phàm Thánh Đồng Cư trong thế gian này, phàm phu ở nơi đây thấy [cõi này] là uế độ, nhưng thánh nhân ở trong thế giới này lại thấy là Tịnh Độ, hai người hai cách nhìn khác nhau, khác nhau như thế nào? Một người tự tánh thanh tịnh, người kia tự tánh chẳng thanh tịnh; do vậy, cách nhìn khác nhau. Do vậy, có thể biết: Tu hành là tu tự tâm, chẳng phải là tu cho người khác!

Vì sao phàm phu chúng ta tu hành khó  khăn  dường  ấy? Nói  thật thà, đó gọi là “tâm chuyển theo cảnh”. Cảnh giới vốn chẳng xoay chuyển quý vị, mà chính quý vị cam tâm vâng chịu để cho nó xoay chuyển, quý vị nói xem có cách gì hay không? Cảnh chẳng mê người, mà người tự mê, chẳng có cách nào, chính quý vị chấp mê, nó chẳng đến làm mê quý vị, đây là chỗ chúng ta phải tỉnh ngộ. Có người khai ngộ thì ngộ từ chỗ nào? Ngộ từ chỗ này. Người ngộ chẳng bị cảnh giới chuyển, kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Nếu có thể chuyển cảnh, ắt giống như Như Lai”, giống như Phật! Phật có bản lãnh gì? Phật là chẳng bị ngoại cảnh xoay chuyển. Không bị ngoại cảnh xoay chuyển, quý vị sẽ tự tại trong cảnh giới. Bị ngoại cảnh chuyển thì quý vị chẳng tự tại, chẳng tự tại thì sao? Phiền não trói buộc, chẳng được tự tại! Những chỗ giống như thế này là chỗ để chúng ta thật sự dốc sức dụng công tu hành.

Tự tánh vô nhiễm, vô nhiễm là “trừng tịnh”; vì vậy, tự tánh có phẩm đức trừng tịnh. Phải biết trừng tịnh là chân thật, là vĩnh hằng chẳng thay đổi. Nhiễm ô là giả, vì sao? Khi mê mới có, khi giác bèn chẳng có, nên có thể thấy được nhiễm ô chẳng phải là thật. Do đó, phiền não là giả, Bồ Đề là chân thật. Người học Phật phải trừ bỏ giả, phải dùng chân thật. Có lẽ, sẽ có kẻ nói: “Chúng ta hết thảy đều dùng chân thật thì sẽ bị thua thiệt, bị lường gạt trong xã hội”. Quý vị hãy nghĩ xem, kẻ ấy nói lời ấy đúng hay sai? Kẻ nói lời ấy đang mê, vì sao? Kẻ ấy còn có bị lừa, còn bị thua thiệt, còn có sợ hãi, quý vị nói xem có hỏng bét hay là không? Vì sao sợ bị thua thiệt, bị lừa dối? Kẻ ấy ngỡ hết thảy cảnh giới trước mắt là thật, đó là mê! Kẻ ấy chẳng hiểu “phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”.

Phát khởi ý viên thành, công đức viên mãn, đừng nói là quý vị làm, quý vị chẳng làm, nhưng phát khởi một tâm niệm ấy, công đức đã viên mãn. Sự phát tâm ấy hễ có điều còn phải kiêng dè, sẽ chẳng có công đức, vì sao? Vì công đức là tâm thanh tịnh, tuy làm chuyện tốt, nhưng tâm chẳng thanh tịnh, bèn chẳng phải là công đức, mà là phước đức, quý vị tu phước đức chứ chẳng phải là công đức. Chư vị phải biết: Công đức là tu tâm thanh tịnh, đó là công đức. Bồ Tát tu các công đức, trong cảnh giới thuận hay nghịch đều có thể thành tựu viên mãn. Ngài tu công đức trong thuận cảnh, mà trong nghịch cảnh vẫn tu công đức, vì sao? Tâm Ngài thanh tịnh, thuận hay nghịch đều chẳng nhiễm ô, thuận lẫn nghịch đều không mê! Không mê, bất nhiễm, tự tánh hiện tiền, đó chẳng gọi là công đức thì gọi là gì? Do vậy, kẻ mê dẫu làm việc thiện to tát đến mấy, vẫn là phước đức, chẳng có công đức.

Kinh Phật chỗ nào cũng đều nói tới chuyện hồi hướng công đức, hồi hướng có tác dụng hay không? Nếu hồi hướng chẳng có tác dụng thì trong kinh luận, Phật, Bồ Tát sẽ chẳng đặc biệt nhấn mạnh chuyện hồi hướng. Điều cuối cùng trong mười đại nguyện vương của kinh Hoa Nghiêm là “phổ giai hồi hướng”, có thể thấy hồi hướng rất trọng yếu! Phải hồi hướng như thế nào? Niệm bài văn hồi hướng một lượt chẳng phải là hồi hướng, như thế thì hồi chẳng được, mà hướng không xong! Thưa cùng quý vị, hồi hướng là chẳng chấp tướng; tâm chẳng chấp tướng mới thanh tịnh! Hồi hướng có nghĩa là “làm mà chẳng làm”, ta làm những chuyện ấy vô tâm, tức là coi giống như chẳng làm. Nếu ta làm chuyện tốt, thường nghĩ ta đã làm bao nhiêu chuyện tốt đẹp, thế thì công đức lại chẳng còn nữa, lại mê rồi, mê càng sâu hơn, chẳng giác ngộ! Hồi hướng nhằm giúp quý vị giác ngộ, hết thảy các công đức đã làm đều không cần tới, thảy đều quên sạch. Hồi hướng Thật Tế, Thật Tế là Chân Như bổn tánh. Chân Như bổn tánh chẳng lập một pháp, thanh tịnh vô vi. Hồi hướng Bồ Đề, Bồ Đề là giác, hồi hướng Bồ Đề là không mê; hồi hướng chúng sanh là chẳng nhiễm! Phước báo thiện hạnh là của hết thảy chúng sanh, chẳng phải là của ta, quên mất ta, đó là hồi hướng. Tuyệt đối chẳng phải là nói hiện thời chúng ta niệm kinh, đối với người đã chết, chúng ta mới hồi hướng cho họ, chẳng cần hồi hướng cho người sống, vậy thì quý vị nay đang còn sống nhăn, mỗi ngày niệm kinh đều chẳng cần hồi hướng ư?

Đối với pháp môn Niệm Phật này, trong kinh còn gọi nó là “pháp môn chẳng hồi hướng”, trong quá khứ, thầy Lý thường bảo chúng tôi điều này. Vì sao gọi là “pháp môn không hồi hướng”? Trong chú giải kinh Vô Lượng Thọ, Hoàng lão cư sĩ đã giảng đoạn này rất cặn kẽ, chư vị hãy tự xem. Không hồi hướng là đại hồi hướng, không hồi hướng là hồi hướng khôn sánh. Vì người niệm Phật chỉ có một mục tiêu, ta niệm câu Phật hiệu này để làm gì? Nhằm cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ! Nói cách khác, tuy người ấy chẳng hồi hướng, niệm niệm đều là hồi hướng. Ta vì điều này mà niệm, niệm niệm cầu sanh Tịnh Độ.

Nhưng chư vị nhất định phải ghi nhớ, niệm Phật nhằm mục đích cầu sanh Tịnh Độ, vì sao niệm Phật có thể sanh về Tịnh Độ? Trong ấy là nhị lực pháp môn, một là Phật có nguyện lực, khuyên bảo chúng ta, chúng ta niệm Phật, lão nhân gia đến tiếp dẫn chúng ta. Nếu quý vị chỉ có một kiến giải đơn giản như thế, vậy thì tôi hỏi quý vị, tất cả người niệm Phật lẽ ra đều nên vãng sanh, người cả đời chỉ niệm Phật hiệu một tiếng cũng phải vãng sanh, vì kinh đã dạy: “Một niệm hay mười niệm, nhất định vãng sanh”. Người ấy khi còn sống đã niệm mười câu hoặc một câu Phật hiệu, đáng lẽ nên vãng sanh, cớ sao chẳng vãng sanh? Nhất định là đoạn kinh văn ấy còn có ý nghĩa sâu xa trong đó. Chúng ta nhìn vào văn tự suy đoán ý nghĩa, chẳng phải là đức Phật nói sai, mà là chúng ta nghe lời Phật dạy bèn hiểu sai. Đức Phật chẳng giảng sai! Lỗi ở nơi bản thân chúng ta.

Câu Phật hiệu phải dùng nhất tâm để niệm, nhất tâm xưng niệm, nhất tâm là tâm gì? Tâm thanh tịnh. Nhất tâm là chẳng có nhị niệm, chẳng có tạp niệm. Tâm chẳng có tạp niệm là gì? Là tự tánh. Vì vậy, chớ nên dùng loạn tâm để niệm, chẳng phải là dùng tâm vọng tưởng để niệm, chẳng phải là dùng tâm thức thứ sáu là ý thức để niệm, vì sao? Dùng tâm thức thứ sáu tức là tâm ý thức để niệm Phật, chẳng thể đoạn phiền não. Nhất tâm xưng niệm, có thể đoạn phiền não, có thể phá vô minh. Trong chú giải, Liên Trì đại sư đã giảng rất tỉ mỉ, đến phần sau, trong chương “nhất tâm bất loạn”, lão nhân gia đã chú giải bốn chữ “nhất tâm bất loạn” rất nhiều. Sớ Sao có tổng cộng bốn quyển, [phần giảng giải] một câu ấy chiếm hết nửa cuốn. Nói cách khác, nó chiếm đến một phần tám cả bộ chú giải, phần ấy giảng về “nhất tâm bất loạn” rất đặc sắc.

Đối với cách niệm, nhất niệm là nhất tâm niệm. Nhất tâm [ở đây] là loại nhất tâm như thế nào? Liên Trì đại sư đặc biệt nhấn mạnh “Lý nhất tâm”, loại nhất tâm này hoàn toàn tương ứng với tự tánh. Vì thế, đích xác là chẳng còn bàn cãi gì nữa, thật sự là “một niệm tương ứng một niệm Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm Phật”. Lão nhân gia dẫn lời kinh Đại Bổn: “Niệm một tiếng A Di Đà Phật, diệt trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử”, cách niệm là như thế đó! Không phải là như chúng ta nay đang ca xướng ngoài miệng, ca xướng đôi chút bèn diệt trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử! Chẳng có đạo lý ấy! Có lúc, không chỉ là khi niệm chẳng thể diệt tội, mà ngược lại còn tăng trưởng tội nghiệp! Đó là vì chẳng biết niệm, chưa hiểu rõ! Do vậy, ta biết: Niệm Phật chẳng thể không biết giáo nghĩa cơ bản. “Giáo nghĩa cơ bản” chỉ tam kinh, nay chúng ta nói là năm kinh. Bởi vậy, quý vị nhất định phải đọc bộ Ngũ Kinh Độc Bổn do chúng tôi mới biên tập cho nhiều thì mới có thể thật sự hiểu rõ.

Vì vậy, phải hiểu ý nghĩa của hồi hướng ở chỗ nào! Tại Trung Quốc lẫn ngoại quốc, người cầu tiêu tai, miễn nạn, tiêu trừ nghiệp chướng rất nhiều; tâm cầu nguyện rất khẩn thiết, nhưng tai nạn và nghiệp chướng của họ đều chẳng thể tiêu tan! Ở chỗ này, tôi đặc biệt nhắc nhở các đồng tu, quý vị ít phiền não thì nghiệp chướng sẽ ít. Quý vị ít tri kiến thì chướng ngại sẽ ít. Quý vị lắm phiền não, phiền não nặng nề, tri kiến quá nhiều, nghiệp chướng và tai nạn của quý vị chẳng có cách gì tiêu trừ! Vì sao đọc kinh, niệm Phật có thể tiêu tan nghiệp chướng? Vì lúc quý vị niệm kinh, niệm Phật, tâm thanh tịnh, trong tâm thanh tịnh chẳng có nghiệp chướng. Nếu quý vị thường gìn giữ tâm thanh tịnh, nghiệp chướng tự nhiên tiêu trừ, đạo lý là như vậy đó! Vì thế, niệm kinh, niệm Phật, tham Thiền, trì chú đều có thể tiêu tan nghiệp chướng. Phương pháp nào tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất? Chẳng nhất định. Phương pháp nào có thể khiến cho tâm quý vị thanh tịnh, đó là phương pháp tốt nhất.

Người chuyên tu pháp môn Niệm Phật không nói tới hồi hướng, chỉ sợ là chúng ta vẫn chưa thể làm được [chuyện ấy], vì sao? Chúng ta niệm kinh, niệm Phật vẫn chưa thể mười phần tương ứng với chân tánh. Không chỉ chẳng thể mười phần tương ứng, mà sợ rằng một hai phần tương ứng vẫn chưa làm được. Vậy thì làm cách nào? Nhất định phải tu thêm pháp môn hồi hướng, phải hồi hướng. Chúng ta hồi hướng thay cho người khác cũng được, người nhà của tôi ở Đại Lục, tôi ở đây niệm kinh, niệm Phật hồi hướng cho họ, có hiệu quả hay không? Chắc chắn có hiệu quả; hiệu quả do Tu Đức của chính mình, từ chỗ này mà cảm quả. Nếu chính mình chẳng có Tu Đức, dẫu mỗi ngày quý vị niệm nhiều đến mấy đi nữa, đều chẳng được, cổ nhân bảo: “Gào toạc cổ họng cũng uổng công”. Bản thân quý vị thật sự tu, hằng năm, hằng tháng cảnh giới đều khác nhau, mỗi ngày tiếp cận Phật, Bồ Tát, hồi hướng bèn có sức mạnh này. Hồi hướng hết thảy chúng sanh, tự nhiên có thể xoay chuyển kiếp vận. Chư vị nghĩ xem, kiếp vận cũng có thể xoay chuyển thì có việc nhỏ nhặt nào mà chẳng thể chuyển được?

Ở đây, tôi kể cho quý vị nghe một câu chuyện cũ. Thuở ấy, tôi đang học trong nhà trường, lúc đó tôi mười mấy tuổi, trong thời Kháng Chiến, học tại trường Trung Học Quốc Lập thứ ba, hiệu trưởng là tiên sinh Châu Bang Đạo. Chúng tôi gọi vợ ông ta là Châu sư mẫu. Nhà ông ta ở ngay sau trường, trường ấy thu nhận toàn là học sinh lưu vong, đều chẳng có nhà để về, nên chánh phủ thu nhận, lập ra trường học ấy. Vì thế, học trò trong trường ấy đều được chánh phủ trợ cấp, cơm áo và chỗ ở đều do quốc gia [đài thọ], giống như quân đội, cấp phát lương thực và tiền tiêu vặt cho chúng tôi. Con gái ông ta cũng học trong trường chúng tôi, người con thứ tư của ông ta là bạn học cùng lớp với tôi. Phàm có những thứ gì cần phải chia cho học sinh, [chẳng hạn như] cái ăn, cái mặc thì những đứa con trong nhà ông ta [đang theo học trong trường ấy] được xếp cuối cùng, học trò được ưu tiên hàng đầu. Chia cho học trò xong, hễ còn thừa thì họ (con ông ta) mới được nhận. Tâm địa đại công vô tư, khiến cho mỗi đứa học trò chúng tôi đều cảm động, ông chăm nom học sinh còn hơn con ruột của chính mình. Vì thế, chúng tôi thật sự cảm ơn đội đức vị thầy ấy, coi trọng ông ta hơn cha mẹ, ông ta thật sự chiếu cố chúng tôi.

Từng có một bạn học ngã bệnh, bệnh rất nặng, bác sĩ ở nơi ấy khám xong đều nói chẳng thể cứu được; nhưng đứa nhỏ ấy là con một, trong nhà nó, [cha nó] có đến mấy vợ mà chỉ có một đứa con trai như vậy. Khi đó, Châu sư mẫu còn chưa học Phật, bà ta nói: “Đứa nhỏ này chẳng thể chết, nó chết thì nhà nó tuyệt hậu. Mấy bà mẹ mà chỉ có một đứa con!” Khi chẳng thể cứu, bà ta miếu nào cũng đến lễ, miếu nào cũng tới hứa nguyện. Bà nói: “Tôi thà chết thay cho nó, chứ chẳng để cho nó chết”. Phát tâm như thế đó! Tâm ấy là tâm chân thành. Đến cuối cùng, bệnh viện chẳng nhận nữa, bà đem đứa học trò ấy đến miếu Quan Đế, phát trọng thệ ở đó: “Tôi bằng lòng chết thay cho nó”. Một hai ngày sau, đứa học trò ấy tỉnh lại, bà ta phi thường hoan hỷ! Nó kể lại: Giống như nó gặp ác mộng, bị người ta nhốt trong một căn nhà nho nhỏ, tối đen, chẳng có một tia sáng nào, chỉ nghe Châu sư mẫu gọi nó, nó nghe âm thanh ấy, sau đấy, thấy một chút ánh sáng, bèn chạy ra khỏi đó. Thưa quý vị, đó là hồi hướng! Đúng là thọ mạng của nó đã hết rồi, bà ta dùng sức mạnh tinh thần của chính mình để kéo nó lại, kéo dài thọ mạng cho nó, chẳng dễ dàng! Vì vậy, bọn học sinh chúng tôi thấy tấm gương ấy, [nhận biết] sư mẫu có thể bỏ mình để cứu đứa học trò ấy.

Bà ta đến Đài Loan mới học Phật. Sau khi đã học Phật, bà niệm chú Đại Bi vô cùng có cảm ứng, nước Đại Bi của bà hết sức linh, quả thật có thể trị bệnh, cậy vào đâu? Tâm từ bi chân thật! Tâm chân thành, tâm đại từ đại bi lưu lộ nên có sức mạnh như vậy. Nếu quý vị đọc Liễu Phàm Tứ Huấn nhiều lượt, sẽ hiểu, trong Phật pháp đã nói: Tuy thọ mạng của con người là nhất định, [thọ mạng dài hay ngắn là kết quả của nghiệp] do quý vị đã tu trong đời trước, nhưng nếu trong kiếp này, chính quý vị chịu tu, sẽ có thể kéo dài thọ mạng. Nếu quý vị tạo ác nhiều, thọ mạng cũng có thể bị rút ngắn. Vì thế, nhà Phật nói đến vận mạng, chẳng nói theo kiểu “định mạng luận” (số mạng nhất định), [mà nói] vận mạng do chính mình điều khiển, nhất định phải biết điều này!

“Tự tánh vô phiền”, Phiền (煩) là phiền não. Nói đại lược thì phiền não là tham, sân, si, mạn, nghi, đó là năm món Tư Hoặc nặng nhất. “Nghi” ở đây là hoài nghi giáo huấn của Phật, Bồ Tát, cũng có nghĩa là đối với kinh luận và giáo huấn của Phật, quý vị không tin, chẳng thể tin nhận, vâng hành. Tổn thất ấy quá lớn, vì sao? Vì giáo huấn của Phật là cơ hội để chúng ta đắc độ trong một đời này, hễ quý vị hoài nghi bèn bỏ sót cơ hội này, quá đáng tiếc! Bỏ lỡ lần này, lần sau gặp lại chẳng biết là đời nào, kiếp nào? Tuyệt đối chẳng phải là đời sau ta vẫn có thể gặp gỡ! Đời sau quý vị có được làm thân người hay không? Vô cùng khó khăn! Được làm thân người rất khó, mất thân người hết sức dễ dàng! Trong kinh Phật có rất nhiều khai thị và tỷ dụ, giảng rõ thân người khó được, dễ mất, được làm thân người lần nữa chẳng dễ dàng! Được làm thân người lại còn có thể nghe Phật pháp, càng khó khăn hơn!

Trong thế gian này, lúc có Phật pháp ít ỏi lắm! Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trên thế gian thì thế gian này mới có Phật pháp. Huống chi Phật pháp còn có kỳ hạn nhất định, Chánh Pháp, Tượng Pháp, Mạt Pháp, tổng cộng một vạn hai ngàn năm. Sau một vạn hai ngàn năm, Phật pháp chẳng còn nữa, sau đấy phải sống rất lâu thì vị Phật kế tiếp mới lại xuất hiện trong thế gian này. Trong kinh Phật có nói, tính theo năm tháng trên địa cầu này, sau năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm, Di Lặc Phật xuất thế, thế gian này lại có Phật pháp. Quý vị thấy thời gian chẳng có Phật pháp trong khoảng giữa [sự xuất hiện của hai vị Phật] dài bao nhiêu? Năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm, [thời gian] có Phật pháp chỉ là một vạn hai ngàn năm. Quý vị được làm thân người là chuyện phù hợp khéo léo dường ấy, chẳng phải là chuyện dễ dàng! Chúng ta lần này có thể được làm thân người, sanh nhằm thời Mạt Pháp của đức Phật, đích xác là chẳng dễ dàng! Giống như tỷ dụ trong kinh Phật: “Manh quy đại hải thân đầu” (con rùa mù vươn đầu trong biển cả), con rùa đen mù mắt, trong biển cả chỉ có một khối gỗ, con rùa đen vừa vươn cổ khéo sao liền chui lọt vào bộng rỗng trong khối gỗ ấy, cơ hội ấy quá khó có! Nay chúng ta được làm thân người, gặp gỡ Phật pháp giống như cơ hội ấy, đúng là chẳng dễ gì đạt được! Nếu quý vị bỏ lỡ, quá đáng tiếc! Vì thế, phải biết: Gặp được [Phật pháp, nhất là pháp môn Tịnh Độ] rất khó khăn. Do vậy, đã gặp thì phải trân quý, quyết định chớ nên hoài nghi Phật pháp!

Phải nghiêm túc phản tỉnh, đoạn trừ Tam Độc phiền não, nói thông tục là “sửa lỗi, đổi mới”. Nghiệp chướng là gì? Tam Độc là nghiệp chướng, là căn bản to lớn của sự tạo nghiệp chướng ngại, tham, sân, si, mạn. Trong kinh, đức Phật dạy những phiền não ấy là “dữ sanh câu lai” (sanh ra đã có), chẳng phải là học [những thứ ấy] trong đời này, quý vị đời đời kiếp kiếp tích lũy, ai nấy đều có. Nếu quý vị chẳng có, sẽ chẳng đến nhân gian. Nếu quý vị chẳng có, chẳng thể nào luân hồi trong lục đạo, mà đã sớm thoát khỏi tam giới. Chẳng thoát khỏi tam giới; nói cách khác, quý vị nhất định có những phiền não này. Chúng ta phải thừa nhận chuyện này, phải giác ngộ, phải sửa đổi. Do vậy, Bồ Tát tu Lục Độ, độ gì? Độ Tam Độc phiền não, Bố Thí độ xan tham, độ tham phiền não, Nhẫn Nhục độ sân khuể, Bát Nhã độ ngu si, ngạo mạn cũng thuộc trong sân khuể. Do vậy, phiền não được quy nạp lại bèn gọi là Tam Độc.

Trong Tam Độc, đặc biệt nêu ra ngạo mạn, điều này rất có lý, vì sao? Con người chỉ cần có kiêu căng, ngã mạn thì điều gì cũng đều học chẳng thành. Nếu quý vị muốn học thành công pháp thế gian lẫn xuất xuất thế gian, đều phải khiêm hư, đều phải cung kính! Do vậy, điều thứ nhất trong mười đại nguyện vương là “lễ kính chư Phật”, câu đầu tiên trong sách Lễ Ký của Nho gia là: “Khúc Lễ viết, vô bất kính” (Khúc Lễ nói: “Không gì chẳng kính trọng”). Giáo học pháp thế gian và xuất thế gian thì điều thứ nhất là dạy gì? Điều thứ nhất dạy về kính, Kính là gì? Là đoạn ngã mạn. Trước hết là phá trừ ngã mạn, quý vị mới có thể trở thành pháp khí, mới có thể học thứ này, thứ nọ. Chỉ cần có ngã mạn tồn tại, dẫu Phật, Bồ Tát làm thầy quý vị, quý vị vẫn chẳng thể thành tựu một điều gì, chẳng thể học được gì, [nguyên nhân là vì] tự cho mình là đúng, chẳng để ai vào mắt! Hạng người như vậy ai có thể dạy dỗ được? Vì vậy, đây là đại chướng ngại trong sự cầu học thế gian và xuất thế gian. Vì thế, khi dạy học, trước hết, phải phá ngã mạn, rồi phá tham, sân, si. Do vậy, Lục Độ nhằm độ phiền não! Trì giới nhằm độ ác nghiệp, Tinh Tấn nhằm độ giải đãi, Thiền Định nhằm độ tán loạn.

Do lẽ đó, quý vị tu những pháp môn này, quý vị nói xem rốt cuộc chính mình có thành tựu hay không? Quý vị có thể kiểm thảo từ thành quả. Ta tu bố thí đã nhiều năm ngần ấy, còn có tâm tham hay chăng? Nếu chẳng có tâm tham, quý vị đã tu Bố Thí Độ rất thành công. Có kẻ chẳng biết tu, càng tu, tâm tham càng tăng trưởng, vì lẽ gì mà kẻ ấy tu bố thí? Vì tham mà tu bố thí. Vì sao nói “vì tham mà tu bố thí”? Nghe trong Phật môn dạy “xả nhất, đắc vạn báo” (bỏ một, được quả báo cả vạn), [bèn hớn hở, nghĩ bố thí đúng là] “một vốn, vạn lời”, nên kẻ ấy mới bố thí. Bố thí là gì? Giống như ta làm kinh doanh, đầu cơ, ta bỏ ra một món tiền vốn, sẽ tóm về một món tiền lớn. Mục đích của kẻ ấy là tâm tham, cho nên không chỉ chẳng thể đoạn tâm tham, mà tâm tham còn tăng trưởng, hỏng bét! Phật, Bồ Tát thấy tình cảnh ấy đều phải ứa lệ, kêu oan! Hoàn toàn hiểu lầm ý nghĩa. Bố thí là bỏ tâm tham, trì giới là bỏ ác nghiệp, “đừng làm các việc ác, vâng làm các điều lành”, đó là Giới.

Nhẫn Nhục độ sân khuể, quả báo của sân khuể là địa ngục, hết sức đáng sợ! Tuy kinh Kim Cang nói đến Lục Độ, chỉ có Bố Thí và Nhẫn Nhục là được giảng nhiều nhất, những Độ khác chỉ nói sơ lược, có thể thấy trong Lục Độ, hai Độ này vô cùng trọng yếu, nhằm độ tham sân. Nhất định phải học nhẫn nhục! Huống chi kinh còn dạy: “Nhất thiết pháp đắc thành ư Nhẫn” (hết thảy các pháp do Nhẫn mà thành tựu), nếu quý vị muốn thành tựu hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian thì làm thế nào mới có thể thành tựu? Nhẫn bèn có thể thành tựu. Cổ đại đức của Phật giáo Trung Quốc giáo học, quý vị đọc bộ Thiền Lâm Bảo Huấn sẽ hiểu rõ. Trong Thiền Lâm Bảo Huấn có rất nhiều vị chuyên môn dạy học trò tu nhẫn nhục, chứ chẳng dạy gì khác! Quý vị theo vị sư phụ ấy mười năm hay tám năm, đúng là chẳng dạy gì hết, mỗi ngày vị sư phụ ấy kiếm chuyện, vô duyên vô cớ đánh chửi quý vị, luôn chường ra bản mặt hầm hừ. Đó là gì? Đó là giáo học, là lên lớp. Dạy điều gì? Nhẫn! Dạy quý vị nhẫn nại, cảnh giới gì cũng đều có thể nhẫn! Mười năm hay tám năm sau, người ấy học Nhẫn Nhục Ba La Mật thành công, đắc Định, trí huệ tự nhiên khai. Lão hòa thượng truyền pháp bèn truyền cho người ấy, cử hành nghi thức, trao y bát cho người ấy: “Ông làm Đương Gia hoặc Trụ Trì chùa này”, giao phó như thế. Sư huấn luyện người ta chẳng có gì khác, chuyên môn huấn luyện sự nhẫn nại. Điều này rất có lý!

Thường có kẻ thưa: “Bạch lão hòa thượng! Con theo học với thầy đã lâu năm ngần ấy, thứ gì con cũng đều chẳng học thành”. Lão hòa thượng cười cợt: “Ông còn chưa học thành ư?” Đã học thành, nhưng chính người ấy chẳng biết. “Ở [trong chùa này] lâu năm ngần ấy, ông có thể chịu đựng được, vẫn chưa bỏ đi, đó là thành công!” Vừa chỉ điểm như vậy, người ấy liền nghĩ, quả nhiên chẳng sai, hoát nhiên đại ngộ, lúc bình thường [thầy] vui, giận, mắng nhiếc vốn là đang dạy bảo [học trò]. Cách dạy dỗ vốn là như vậy đó! Đặc biệt là trong Thiền Tông Trung Quốc, Giáo Hạ đương nhiên là phải giảng kinh, chẳng rời khỏi sách vở, biện pháp của Thiền Tông rất đặc thù, thường dùng phương pháp này để thành tựu Giới, Định, Huệ cho học trò. Do vậy, phiền não chẳng còn, đức thanh lương của tự tánh bèn hiển lộ.

“Tự tánh vô ác, tức cam mỹ đức” (tự tánh chẳng ác, tức là phẩm đức ngon ngọt). Ác, chẳng phải chỉ là nói tới ác nghiệp hay ác hạnh, mà còn vi tế hơn một chút là nói tới ác ý, ác niệm, những thứ này đều chẳng có. Do vậy, chân chánh tu hành thì phải dốc sức ở chỗ này. Chúng ta tu Bồ Đề tâm, chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi của chính mình, tu như vậy, quý vị sẽ đi theo Bồ Tát đạo. Bất luận làm chuyện gì, đều phải dùng tâm chân thành để làm. Các đồng tu trong đạo tràng nghe kinh đã nhiều, có thể nói là trong toàn bộ thế giới hiện thời, đã có trình độ rất cao, trình độ khá, nguyên nhân là do được huân tập trong một thời gian dài. Tuy là như vậy, người thật sự thành tựu vẫn rất ít, nguyên nhân ở chỗ nào? Tuy hiểu rõ Lý, vừa nói liền hiểu ngay, nhưng không chuyển cảnh giới được! Hễ gặp cảnh giới lại mê, đó là do những ác tập khí trong quá khứ quá sâu, chẳng thể chuyển được, đó gọi là “biến hóa khí chất”, [tức là] biến đổi một phần, vẫn chưa thể biến đổi triệt để, nên vẫn còn mang theo tập khí. Tập khí ấy là phiền não, chướng ngại của quý vị. Nay quý vị hiện tại tu hành vẫn có phiền não, vẫn có chướng ngại. Tuy so với quá khứ thì tốt hơn một tí, nhưng vẫn có. Điều này nói rõ: Chúng ta vô ác, [có nghĩa là] không chỉ chẳng có ác hạnh và ác ý, mà ác ý và ác niệm cũng chẳng có. Đó là phẩm đức “ngon ngọt” trong tự tánh.

“Tự tánh vô ngã”, lần này chúng ta đọc Đại Kinh mới biết thế giới vô ngã là như thế nào. Tây Phương Cực Lạc thế giới là thế giới vô ngã, người đông như thế, nhưng đều chẳng có tên, chẳng có họ, đúng là vô ngã, đích xác là coi hết thảy đều như nhau. Bên cõi ấy, thân thể cũng giống nhau, tướng mạo cũng như nhau, thật sự là một thế giới chẳng thể nghĩ bàn. Thế giới của hết thảy chư Phật trong mười phương đều chẳng có tình hình này! Thành Phật mới hoàn toàn giống nhau, Phật Phật đạo đồng, nên diện mạo của mỗi vị Phật đều giống nhau. Nào ngờ trong Tây Phương Cực Lạc thế giới ai nấy đều giống nhau. Nói cách khác, ai nấy trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều thành Phật! Đây là nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn của A Di Đà Phật, nên mười phương chư Phật tán thán là có lý! Tự tánh vô ngã là phẩm đức “khinh nhuyễn”.

“Tự tánh vô kiệt” là như trong năm câu do Lục Tổ đại sư thốt ra khi khai ngộ đã có những ý nghĩa này: “Nào ngờ tự tánh vốn trọn đủ”, “nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp”, câu cuối cùng là “xuất sanh hết thảy muôn điều thiện”, đó là phẩm đức có thể sanh ra vạn pháp. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới vốn trọn đủ trong tự tánh. Trí huệ, đức năng, và tài nghệ của người ấy (người đã khai ngộ) vĩnh viễn dùng chẳng hết, đó là nói về Tánh Đức! Thật sự là vô lượng trong vô lượng, vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, vô lượng tài nghệ. Chính vì như vậy, trong Phật pháp, bất luận tu học pháp môn nào, đều nhằm mục đích mong cầu kiến tánh. Đối với pháp môn Niệm Phật, Lý nhất tâm bất loạn là kiến tánh. Chỉ có kiến tánh mới thật sự là viên mãn công đức, mới thật sự chẳng có tơ hào khiếm khuyết trong cuộc sống, thật sự đạt đến rốt ráo viên mãn. Nếu quý vị chẳng kiến tánh, sẽ luôn có khuyết hãm, nói chung là chẳng viên mãn. Điều này đúng là giống như phẩm đức “nhuận trạch” của nước.

“Tự tánh vô bạo, tức an hòa đức” (tự tánh chẳng bạo ác, chính là phẩm đức an hòa). “Bạo” (暴) là tánh tình hung bạo, dữ dằn, trong tự tánh chẳng có [khuyết điểm ấy]. Tự tánh thanh tịnh, bình đẳng, bạo ác ở chỗ nào? Chẳng có! Vì thế, tự nhiên là an và hòa. An hòa được pháp thế gian lẫn xuất thế gian cùng coi trọng, hiện thời chánh phủ cũng đề xướng “an hòa, lợi lạc”. Nhưng nếu tâm bất an, sẽ chẳng thể hòa. An là nhân, Hòa là quả; Hòa là nhân, Lạc là quả; Lạc là nhân, lợi ích là quả. An hòa, Lạc và lợi ích làm nhân và quả lẫn nhau. Như thế nào thì mới có thể an? Quý vị thấy trước chữ An có chữ Bình, bình an! Kẻ nào tâm bất bình thì làm sao có thể an cho được? Tâm con người như thế nào thì mới có thể bình? Chuyện này phiền phức khá lớn!

Chư vị phải hiểu giáo học trong Phật pháp và Nho gia nhắm đến mục đích nào? Mục đích là cầu Bình, tức là cầu bình an, hòa lạc (hòa thuận, vui vẻ), cầu điều này. Như thế nào thì mới đạt đến mục tiêu giáo học ấy? Thưa cùng quý vị, pháp thế gian và xuất thế gian đều giảng về nhân quả, quý vị thật sự hiểu rõ nhân quả, tâm bèn bình. Đó gọi là “phú quý yên vui phú quý, nghèo hèn an phận nghèo hèn”, đã hiểu rõ Lý. Trong Phật pháp nói “quả báo ba đời”. Đời này, ta được phú quý là do đời trước đã tu, nên đời này phải nên đạt được. Đời này ta nghèo hèn là do đời quá khứ chẳng tu, nay bị nghèo hèn là đúng rồi! Vì vậy, đối với kẻ phú quý cũng chẳng hâm mộ, mà cũng chẳng ganh ghét, chẳng oán hận. Chúng ta thường nói là “tâm an, lý đắc”, tâm vì sao an? Đã hiểu rõ đạo lý, tâm ta bèn an. Vì thế, đọc sách nhằm hiểu rõ Lý.

Báo chí hai bữa nay đăng cả nửa trang báo, đăng tải về Tài Thần Pháp[45] của Mật Tông, chuyên nhấn mạnh chuyện cầu phát tài. Nếu [người theo] Mật Tông hễ tu pháp Tài Thần bèn phát tài, quốc gia nên thỉnh họ làm Bộ Trưởng Tài Chánh, nhân dân cả nước chẳng cần phải làm việc, hễ tu liền có tiền bạc đưa đến, còn phải làm lụng chi nữa? Khoa trương rùm beng! Vì thế báo chí đăng tải những bài quảng cáo ấy đều mắc tội lỗi, vì sao? Đề xướng mê tín, mê hoặc lòng người, phá hoại sự an định và hòa bình trong xã hội, tội ấy rất nặng! Báo chí nhận lệ phí đăng quảng cáo ấy phải gánh trách nhiệm nhân quả!

Đồng tiền xưa kia, ở giữa có lỗ thủng, gọi là “tiền nhãn” (mắt tiền), nay tôi thấy mọi người đều mê, luôn dốc sức nơi tiền nhãn, đổ công sức vào đó vĩnh viễn chẳng thoát ra được, chỉ có đường chết! Đấy chẳng phải là sanh lộ, mà là tử lộ! Dồn sức nơi đó, đúng là đáng thương! Chư vị phải hiểu: Giảng giải Mật Tông theo kiểu đó (cầu tài, cầu lộc, cầu quan vị, cầu phú quý, vinh hoa, trường thọ v.v…) là giả, chẳng phải là thật! Mật Tông là Phật pháp, Phật pháp dạy chúng ta buông xuống, Phật pháp dạy chúng ta cầu thanh lương tự tại. Phật pháp chẳng dạy chúng ta mỗi ngày cầu phát tài. Tôi nghe nói: Khi cầu chẳng được, [kẻ hành pháp ấy do tức tối] bèn bửa đầu [tượng] Bồ Tát, chặt thây, đều quăng bỏ. Nếu họ thật sự phát tài bèn cúng dường, còn có những kẻ cầu mà chẳng phát tài bèn muốn đến trả đũa, oán hận càng sâu! Xã hội này đầy ắp tham, sân, si, mạn, toàn là làm những chuyện ấy! Vì thế, chư vị phải biết là xã hội hiện thời đang xuống dốc, chẳng bằng mấy năm trước. Điều này đúng là đáng cho chúng ta kiêng dè!

Vì vậy, chúng ta phải hiểu những mối quan hệ nhân quả, làm thế nào để được bình. Để được bình thì nhất định phải hiểu lý, phải hiểu rõ nhân quả, phải thông hiểu Phật pháp. Nếu hiểu rõ ý nghĩa tinh hoa trong Phật pháp, chúng ta thật sự đạt được cơ sở của sự bình đẳng. Tự tánh của chúng ta là bình đẳng, mức độ mê hay ngộ là bất bình đẳng, nhưng tự tánh là bình đẳng. Do vậy, Lý Tức Phật trong thuyết Lục Tức Phật của tông Thiên Thai là hoàn toàn nói theo tự tánh, chúng sanh và Phật chẳng hai, vạn pháp nhất như. Đó là nói theo lý luận, quyết định là bình đẳng. Xét theo sự tướng bèn là bất bình đẳng. Xét theo sự tướng, do chúng sanh đang mê, nên họ có tướng bất bình đẳng, tác dụng bất bình đẳng; nhưng xét theo thể tánh, quyết định là bình đẳng. Vì sao Phật tôn trọng hết thảy chúng sanh dường ấy? Phật chẳng thấy tướng, chẳng nhìn vào tác dụng, chẳng chấp tướng, Phật thấy tánh, thấy hết thảy chúng sanh xét theo bổn tánh đều là Phật, nên Phật đối với hết thảy chúng sanh chẳng có một ai là không cung kính. Chỉ có kẻ mê hoặc, điên đảo thì mới chẳng cung kính. Người thật sự giác ngộ chẳng hề không cung kính người, kính sự, kính vật, quyết định là cung kính. Thế gian lấy Khổng lão phu tử làm đại biểu. Quý vị đọc các sách của Khổng lão phu tử [sẽ thấy] suốt đời, Khổng lão phu tử xử sự, đãi người, tiếp vật, có bao giờ chẳng cung kính một ai hay không? Từ sách vở, chúng ta chẳng tìm được [chứng cớ nào chứng tỏ Ngài chẳng cung kính], đối với trẻ nhỏ, Ngài cũng cung kính.

Quý vị lại nhìn đức Phật, đọc Thích Ca Phương Chí, Thích Ca Phổ, đó là những bộ truyện ký về Thích Ca Mâu Ni Phật chép từ kinh điển. Quý vị thấy: Thuở tại thế, đức Phật đối với bất cứ một người nào đều chẳng hề không cung kính. Không chỉ đối với người thông thường, mà đối với ngoại đạo Ngài cũng đều cung kính. Lý do cung kính là nhìn từ tự tánh, họ là bình đẳng, hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh, nên đều coi như Phật. Nay họ là một vị Phật mê hoặc, điên đảo, họ mê, ta chẳng mê; họ bất kính, ta phải kính trọng họ. Nếu họ bất kính ta, ta cũng chẳng cần phải kính trọng họ, vậy là họ mê mà ta cũng mê luôn, lầm mất rồi! Vì thế nói: Kẻ khác mê, ta không mê. Kẻ khác bất kính ta là chuyện đương nhiên! Nếu kẻ ấy kính trọng ta, chẳng phải là kẻ ấy đã thành Phật ư? Họ là phàm phu, chẳng kính trọng ta là đúng rồi! Mười phần chính xác, chẳng sai tí nào! Ta cũng chẳng kính trọng họ thì trật rồi, chẳng phải là ta cũng mê ư? Phật kính trọng chúng sanh là đúng, chúng sanh chẳng kính trọng Phật cũng đúng, chẳng sai! Hai đằng đều chẳng sai, tâm bèn bình. Vì thế, phải hiểu rõ chân tướng sự thật.

“Tự tánh vô phạp”: Phạp (乏) là khuyết thiếu, tự tánh chẳng khuyết thiếu, đúng là giống như “trừ cơ khát đức” (phẩm đức trừ đói khát), không thiếu khuyết là no đủ. Do vậy, tám câu này hiển thị [lý do] vì sao chúng ta nhất định phải cầu minh tâm kiến tánh, không minh tâm kiến tánh có được hay không? Quý vị mới biết điều tốt đẹp do minh tâm kiến tánh, mới biết chẳng thể không cầu những điều này. Mục đích giáo học Phật pháp nhắm ngay chỗ này, tức là dạy chúng ta minh tâm kiến tánh, dạy chúng ta khai phát Tánh Đức. Tánh Đức là cái quý vị vốn sẵn có. Vốn sẵn có thì lẽ đâu chẳng thể khai phát? Mê nhiễm vốn là Không. Do vốn là Không, nên chắc chắn có thể lìa khỏi, vốn có thì quyết định có thể đạt được. Nhưng công cụ để khai phát, trong các buổi giảng, chúng tôi thường nhắc tới, chính là hiếu kính, đó là công cụ để khai phát. Chẳng có hai chữ ấy, Tánh Đức của quý vị vĩnh viễn chẳng thấu lộ. Do đó, tu học Phật pháp khởi đầu bằng kinh Địa Tạng, Địa là đại địa, tức là tự tánh, Tạng là kho báu, tức là trí huệ và đức năng trong tự tánh, giống như đại địa ẩn tàng nhiều khoáng sản, chúng ta dùng phương pháp nào để khai thác? Công cụ là hiếu kính. Kinh Địa Tạng là Hiếu Kinh của Phật môn, hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy thì Tánh Đức mới có thể khai phát.

Cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng xếp hai chữ “hiếu kính” hàng đầu. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật giảng về phương pháp, lý luận, và nhân quả tu Tịnh Độ, giảng ba chuyện ấy. Vừa mở đầu Tịnh Nghiệp Tam Phước bèn dạy chúng ta: “Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”. Hiếu thân tôn sư được xếp hàng đầu. Không đổ công sức từ chỗ này, làm sao có thể khai phát tự tánh cho được? Cũng có nghĩa là quý vị mong nhất tâm bất loạn, mong minh tâm kiến tánh, mà chẳng đổ công sức nơi đây, sẽ vĩnh viễn chẳng đạt được. Trong quá khứ, có người hỏi pháp sư Ấn Quang, trong Văn Sao có [chép lời hỏi đáp này], người ấy hỏi: “Học Phật có bí quyết gì hay không, có thể dạy chúng con được hay không?” Ấn Quang đại sư nói: Có, đó là hai chữ Thành Kính. “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần thành kính được mười phần lợi ích”. Quý vị chẳng có thành kính thì điều gì cũng chẳng đạt được. Ngài nói hai chữ Thành Kính là “bí thược” (chìa khóa bí mật) để nhập Phật môn. Nếu quý vị thật sự làm được, sẽ có được cái chìa khóa ấy. Quý vị nhìn vào hiện thời, xem lại quá khứ, đọc lịch sử, có người nào thành tựu mà chẳng tán thán thầy, chẳng hoài niệm thầy? Thầy đã mất, người ấy vẫn tán thán, vẫn hoài niệm, ta có thể suy ra khi thầy còn sống, sẽ có thái độ [tôn kính, luyến mộ thầy] như thế nào. Điều này có ý nghĩa rất sâu, hiếu thảo cha mẹ, kính trọng thầy là cửa ngõ để nhập đức. Vì thế, tự tánh hiển hiện, đấy mới là đại viên mãn (Mật Tông nói là “đại viên mãn”), còn ở đây nói là “trừ cơ khát đức”.

“Tự tánh xuất sanh nhất thiết vạn thiện, tức trưởng dưỡng đức” (tự tánh sanh ra hết thảy muôn điều thiện chính là phẩm đức trưởng dưỡng). Trưởng dưỡng chư căn, chính là như Lục Tổ đã nói: “Nào ngờ tự tánh, có thể sanh ra vạn pháp”, hết thảy các pháp đều do tự tánh biến hiện. Nay chúng ta bị khuyết thiếu, hãy cầu ở nơi đâu? Cầu nơi tự tánh, đừng cầu từ bên ngoài, cầu bên ngoài chẳng đạt được. Nhà Phật thường nói: “Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”. Có thể cầu của cải hay không?

 

Có thể. Cầu của cải ở nơi đâu? Cầu từ trong tâm, chẳng phải cầu từ bên ngoài. Hễ là cầu pháp ngoài tâm bèn là ngoại đạo. Phật pháp gọi là Nội Học, chúng ta muốn cầu của cải, đức Phật dạy chúng ta, đoạn tâm tham thì của cải trong tự tánh sẽ lưu lộ. Hiện tại của cải trong tự tánh của quý vị chẳng tỏ lộ vì quý vị có tâm tham ngăn lấp, nên của cải trong tự tánh chẳng thể lưu xuất. Những gì quý vị thụ dụng là bên ngoài, là làm việc vặt vãnh tạm thời, hôm nay ta làm việc kiếm một chút tiền mỗi ngày, rất khổ! Chẳng phải là vật báu trong nhà chính mình. Vật báu trong nhà lấy ra chẳng hết, dùng chẳng cạn, nhưng kẻ ấy chẳng biết! Đóng lấp rồi, chẳng lấy được, chỉ đành làm việc vặt vãnh bên ngoài, khổ chẳng thể nói nổi!

Do vậy, đức Phật dạy chúng ta khai phát bảo tạng trong tự tánh. Đối với tài, xả tài thì của cải tự nhiên hiển lộ viên mãn, chúng thuộc về tự tánh, chẳng đến từ bên ngoài. [Để cầu] trí huệ thì tu pháp bố thí, chẳng tiếc pháp, những gì ta biết đều rất hoan hỷ chỉ dạy người khác, chẳng giấu nghề. Sợ người khác trong tương lai vượt trội ta, quý vị có ý niệm ấy thì pháp quý vị đã học cũng là pháp tạm thời học ở bên ngoài, chẳng phải là pháp trong tự tánh, pháp bảo trong tự tánh chẳng thấu lộ. Xác thực là “trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”, câu này nói chẳng sai tí nào! Nếu quý vị cầu đúng lý, đúng pháp, chẳng có gì không ứng. Nếu quý vị trái nghịch lý luận, dùng sai phương pháp, chắc chắn là chẳng cầu được! Do vậy, phải thật sự thâm nhập Kinh Tạng, thông đạt sự lý, tu học đúng giáo, đúng lý, một đời này quý vị nhất định hạnh phúc vô cùng mỹ mãn, đời sau viên thành Phật đạo, quý vị xem như vậy sẽ tự tại biết bao! Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

— o0o —

Tập 143

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bổn, trang ba trăm lẻ sáu:

 

(Sao) Hựu tự tánh thuận vạn vật nhi vô tình, thượng hành tắc nhập thánh lưu, thánh vô sở tăng, hạ hành tắc nhập phàm lưu, phàm vô sở giảm, bất biến tùy duyên, châu biến pháp giới, sở vị “lưu chú hoa gian, cập chư lương đống” giả dã.

() 又自性順萬物而無情,上行則入聖流,聖無所增;下行則入凡流 ,凡無所減。不變隨緣,周遍法界,所謂流注華間,及諸梁棟者也。

(Sao: Lại nữa, tự tánh thuận theo vạn vật nhưng vô tình. “Chảy lên trên” tức là nhập dòng thánh, thánh chẳng hề tăng. “Chảy xuống” là vào dòng phàm, phàm chẳng bị giảm. Bất biến nhưng tùy duyên, trọn khắp pháp giới. Đó gọi là “chảy luồn trong hoa và các kèo cột” vậy!)

Một chương kinh văn này giảng về “vô tình thuyết pháp”, hiển thị sự thù thắng của thế giới Tây Phương, hữu tình và vô tình cùng tuyên diệu pháp. Đoạn này nói theo lý luận. Có Lý thì mới có Sự. Hễ có Sự, nhất định có căn cứ lý luận. Có thể nói: Trong thế giới Tây Phương, Lý và Sự đều viên dung tột bậc, nên cổ đức thường bảo cảnh giới của kinh Di Đà và cảnh giới trong kinh Vô Lượng Thọ hoàn toàn là cảnh giới Hoa Nghiêm, tức là “tứ vô ngại pháp giới”, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, là một pháp giới trọn đủ thập huyền và tứ vô ngại giống như kinh Hoa Nghiêm. Trong quá khứ, cư sĩ Bành Tế Thanh đã gọi kinh Vô Lượng Thọ là Trung Bổn Hoa Nghiêm, điều này rất có lý!

“Thuận vạn vật nhi vô tình giả” (thuận theo vạn vật, nhưng vô tình), “tình” (情) là nói tới hữu tình chúng sanh, tức là động vật, “vô tình” là thực vật và khoáng vật. Đây là cách phân chia của con người hiện thời. Nếu quý vị vạch một giới tuyến thật rõ ràng giữa hữu tình và vô tình sẽ khá khó khăn! Trong thực vật và khoáng vật cũng có hữu tình. Chúng ta phân chia theo các phương diện dễ thấy, bèn gọi những thứ dễ biểu lộ “mừng, giận, buồn, vui” là hữu tình. Đối với những thứ tuy có thể biểu hiện [những cảm xúc ấy], nhưng chẳng rõ rệt cho lắm, chúng ta bèn quy nạp chúng vào vô tình. Nếu chư vị học Duy Thức, sẽ hiểu rõ đạo lý này. Vì sao khó tách rời? Vì hữu tình và vô tình vốn là một Thể, nên khó tách bạch. Dẫu là hữu tình, kinh Kim Cang cũng nói rất hay: “Phàm những gì có hình tướng, đều là hư vọng”, “hết thảy các pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Nói xuyên suốt, hữu tình lẫn vô tình đều chẳng chân thật, chúng ta nhất định phải hiểu điều này. Thứ gì chân thật? Tự tánh của chúng ta là chân thật, nơi hữu tình chúng sanh, nó được gọi là Phật Tánh, đó là thật, vĩnh viễn chẳng bị biến đổi. Nơi vô tình, nó được gọi là Pháp Tánh. Tuy danh xưng khác nhau, nhưng trên thực tế là cùng một chuyện. Phật Tánh và Pháp Tánh là một tánh, chẳng phải là hai tánh, đó gọi là “nhất tánh, vô nhị tánh”. Nói theo kiểu hiện thời, nó chính là Bản Thể như trong triết học đã nói. Trong Phật pháp, bản thể của vạn hữu trong vũ trụ được  gọi  là  Tánh. Hết  thảy  các  pháp đều biến hóa từ Tánh.

Ở nơi ấy (Cực Lạc), tuy là vô tình, nhưng nước có thể chảy lên trên, mà cũng có thể chảy xuống dưới. Trong thế giới này của chúng ta, nước chỉ chảy xuống, chẳng chạy ngược lên. Nước trong cõi kia có thể chảy vòng quanh kèo cột, chẳng cần dùng đến sức mạnh của máy móc, nó tự mình chảy ngược lên trên. Ở đây, Liên Trì đại sư giải thích, nước chảy lên trên giống như chúng ta nhập bốn thánh pháp giới, dự vào hàng thánh nhân, đó gọi là “thượng hành tắc nhập thánh lưu”. “Chân Như tùy tịnh duyên, tắc vi tứ thánh” (Chân Như thuận theo tịnh duyên bèn trở thành bốn thánh pháp giới). Ở đây có ý nghĩa biểu thị pháp. Vì sao có lục phàm và tứ thánh? Do Chân Như bổn tánh của chúng ta tùy duyên, tùy thuộc quý vị thuận theo duyên nào. Quý vị thuận theo tịnh duyên bèn là thánh nhân, thuận theo nhiễm duyên bèn là phàm phu. Trong nhiễm duyên có thiện và ác; thuận theo thiện duyên bèn là ba thiện đạo, thuận theo ác duyên thì là ba ác đạo. Có thể thấy Phật pháp nói hết thảy các pháp được gọi là “duyên sanh”, điều này rất có lý. Trên thực tế, mấu chốt của mười pháp giới là duyên, tức là “tùy duyên”. Bất luận quý vị tùy thuận duyên nào, Chân Như bổn tánh bất biến. Quý vị tùy thuận thánh duyên, “thánh vô sở tăng”, [nghĩa là] Chân Như bổn tánh của quý vị trọn chẳng tăng thêm một chút gì. Quý vị thuận theo nhiễm duyên, bèn đọa lạc, trở thành phàm phu, nhưng Chân Như bổn tánh của quý vị cũng chẳng giảm chút nào!

Nhìn từ bổn tánh, Phật và chúng sanh quyết định là bình đẳng, bổn tánh của Phật chẳng nhiều hơn chúng ta chút nào, mà bổn tánh của bọn phàm phu chúng ta cũng chẳng ít hơn Phật tí nào, hoàn toàn như nhau! Bổn tánh của chúng sanh trong địa ngục A Tỳ và bổn tánh của Thích Ca Mâu Ni Phật hay A Di Đà Phật cũng là chẳng hai, chẳng khác, giống hệt như nhau. Vì thế, Phật thành Phật, thành Phật là kiến tánh, thấy tự tánh của hết thảy vạn pháp. Nói theo [phương diện] kiến tánh, hết thảy chúng sanh cùng thành Phật đạo. Ta đã thành Phật, mọi người đều thành Phật, vì sao mọi người đều thành? Vì ta thấy tự tánh của mọi người hoàn toàn như nhau; tôi đã thành Phật, vậy thì quý vị cũng thành Phật. Nếu nói “tôi thành Phật, quý vị chưa thành Phật”, [tức là] vẫn chưa kiến tánh. Trong Thiền Tông thường nói “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, thành Phật là kiến tánh, kiến tánh là thành Phật. Đấy là thấy bổn lai diện mục của hết thảy chúng sanh, chẳng còn thấy giả tướng nữa!

Sau khi kiến tánh, tướng cũng biến.  Nói thật ra, trọn chẳng phải là thật sự biến, mà là người kiến tánh biết trạng huống chân thật của hết thảy các tướng, nên gọi là “thấy Thật Tướng”. Có tướng nào chẳng phải là Thật Tướng? Đều là Thật Tướng! Khi chưa kiến tánh, “phàm những gì có tướng đều là hư vọng”, tướng hư vọng. Sau khi đã kiến tánh, “phàm những gì có tướng đều là Thật Tướng”, lạ lùng thay! Đều là Thật Tướng. Nói xuyên suốt thì chẳng có chút kỳ quái nào! Vì sao chẳng kỳ quái? Vì Thật Tướng chính là tướng hư vọng, tướng hư vọng mới là Thật Tướng. Thay đổi danh từ, chứ Thể, Tướng, Dụng (tác dụng) đích xác là hoàn toàn chẳng đổi khác. Đó là một đằng đang mê, khi quý vị mê, bèn bảo quý vị “tướng là hư vọng”. Nếu quý vị đã ngộ, đã ngộ tướng thì tướng vẫn là hình trạng như vậy. Vì lẽ đó, tướng cũng là bất tăng, bất giảm, cũng chẳng bị biến đổi; nhưng cách nhìn giữa mê và ngộ khác nhau! Kẻ mê chấp trước, kẻ mê tạo nghiệp, rất khổ sở, có phiền não, có ưu lự, có vướng mắc, rất khổ sở! Người giác ngộ thì hết thảy phiền não, ưu lự, vướng mắc, thảy đều chẳng có, nên người ấy biết hết thảy các tướng. Hết thảy các tướng có cùng một hình trạng, nên gọi là Thật Tướng.

“Bất biến tùy duyên, châu biến pháp giới” (bất biến nhưng tùy duyên, trọn khắp pháp giới) là nói về Chân Như bản thể. Bản thể vĩnh viễn không thay đổi; bất luận quý vị thành Phật, hay thành Bồ Tát, hoặc đang luân hồi trong lục đạo, [Chân Như bản thể] quyết định chẳng biến đổi. Không chỉ chẳng biến đổi, mà trước nay chẳng động, trước nay chẳng nhiễm. Khi Lục Tổ kiến tánh đã nói: “Nào ngờ tự tánh vốn thanh tịnh”, “nào ngờ tự tánh vốn chẳng lay động”. Chẳng có đến, đi, chẳng có sanh diệt, đó là thật. Đúng là bất động! Phàm những gì động thì đều là hư vọng. Chân tâm bất động! Cái tâm của chúng ta có niệm; hễ tâm có niệm bèn là vọng tâm, chẳng phải là chân tâm. Định là chân tâm, tâm đã định. Trong tâm chẳng có niệm, tâm liền định, định là chân tâm. Nó có thể tùy thuận hết thảy các duyên nhiễm hay tịnh, lại còn trọn khắp mười phương thế giới, quý vị thấy tự tánh to cỡ nào!

Nếu quý vị hiểu rõ chuyện này, thế giới Tây Phương cách xa chúng ta mười vạn ức cõi Phật há thấm vào đâu? Thế giới Tây Phương chẳng ở ngoài tự tánh, đều ở trong tự tánh. Trong tự tánh, quý vị chỉ động một niệm, toàn thể tự tánh chẳng có mảy may “cách chướng”, [nghĩa là] chẳng có gián cách (gián đoạn, ngăn cách), chẳng có chướng ngại! Vì thế, quý vị vừa động một niệm bèn tới mười phương hằng sa chư Phật quốc độ. Quý vị nói xem: Tốc độ nhanh chóng ngần ấy! Nói thật ra, nói tốc độ như thế vẫn là lời lẽ gạt người, [vì] căn bản là chẳng có tốc độ! Nó là chuyện trong tự tâm của chính quý vị, chẳng phải là chuyện ở ngoài tâm. Đây là nói rõ [ý nghĩa biểu thị pháp của chuyện] “lưu chú hoa gian, cập chư lương đống” (chảy vòng quanh trong hoa và các kèo cột), tức là nước chảy lên trên.

 

(Sao) Vĩnh Minh vân: “Thủy hữu thập đức, đồng chân tánh cố”, ý chánh như thị. Định thủy trạm nhiên mãn, dục thử vô cấu nhân, vô cấu, diệc vô tịnh, thị danh “bát công đức”.

() 永明云:水有十德,同真性故,意正如是。定水湛然滿,浴此無垢人,無垢亦無淨,是名八功德。

(Sao: Ngài Vĩnh Minh nói: “Nước có mười đức vì có cùng một tánh với Chân Như”, chính là ý nghĩa này. Nước Định lắng trong, tràn đầy, người tắm nước ấy bèn chẳng có trần cấu, mà cũng chẳng nhơ, chẳng sạch, nên gọi là “tám công đức”).

Vĩnh Minh đại sư bảo “thủy hữu thập đức”, tức là [nước trong cõi Cực Lạc] có mười loại công đức. Trong phần trước, chúng ta nói tám công đức, tức là tám thứ, lão nhân gia tăng thêm hai thứ, đó là ý nghĩa viên mãn. “Mười” tượng trưng cho sự viên mãn. Kinh Hoa Nghiêm thường dùng “mười” để biểu thị sự viên mãn, tức là công đức viên mãn. “Đồng chân tánh cố” [nghĩa là] giống như Chân Như bổn tánh, chẳng bị khiếm khuyết mảy may. [Do lời ngài Vĩnh Minh] có ý nghĩa tương đồng [với những điều đang được trình bày ở đây, nên bảo là] “ý chánh như thị”.

“Định thủy trạm nhiên mãn, dục thử vô cấu nhân”, hai câu này trích từ kinh Duy Ma. “Định thủy” là nước tám công đức, nói đến chuyện người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới tắm rửa trong ao bảy báu. Kinh Vô Lượng Thọ đã giảng rất rõ ràng, người trong thế giới Tây Phương là “thanh hư chi thân, vô cực chi thể” (thân thanh hư, thể vô cực), thân thể há có dơ bẩn? Chẳng thể nào có chuyện đó! Không chỉ là thân chẳng dơ bẩn, mà quần áo cũng chẳng bị dơ bẩn, chẳng nhiễm mảy trần, chắc chắn chẳng cần giặt quần áo. Không chỉ Tây Phương Cực Lạc thế giới là như vậy, mà chư thiên cũng như thế. Y phục của chư thiên Dục Giới chẳng bị dơ bẩn. Trong kinh, đức Phật đã dạy: Trong năm tướng suy của Dục Giới Thiên, có tướng quần áo dơ bẩn. Chư thiên Dục Giới thấy y phục của chính mình dơ bẩn liền đau khổ tột bậc, khổ não xảy tới liền. Ở nơi đây, quần áo chúng ta bị bẩn chẳng sao cả, nhưng quần áo của họ bị bẩn là điềm báo họ sắp chết, thọ mạng sắp chấm dứt, nên họ hết sức đau đớn, lo nghĩ! Trời và người trong thế giới Cực Lạc thọ vô lượng. Thọ mạng ấy là vô lượng chân thật, chẳng phải là vô lượng hữu hạn!

Phải niệm kinh Vô Lượng Thọ nhiều lượt thì quý vị mới nhận biết, mới liễu giải Tây Phương Tịnh Độ, chúng ta phải thật sự phát nguyện cầu sanh, quyết định thành tựu trong một đời này, chẳng có mảy may hoài nghi. Chúng ta phát tâm ở nơi đây, A Di Đà Phật liền biết. Không chỉ A Di Đà Phật biết, mà mỗi người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều biết. Họ đều có Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông, chúng ta khởi tâm động niệm họ đều biết. Nếu ý niệm của chúng ta kiên quyết, tới lúc đó, họ nhất định đến tiếp dẫn vãng sanh. Vì sao có lòng tự tin kiên cường ngần ấy? Dựa vào chuyện này: Chúng ta khởi tâm động niệm, người ta liền biết rành rẽ. Do đó, chỉ cần quý vị thật sự phát tâm, Phật chẳng khi nào không đến tiếp dẫn, chẳng có chuyện Phật, Bồ Tát không gia trì. Trừ khi quý vị chẳng trọn đủ tín tâm, vừa niệm Phật, vừa mong vãng sanh, vừa sợ “do nghiệp chướng sâu nặng, nên chẳng thể vãng sanh”, [hoặc hoài nghi] Tây Phương Cực Lạc thế giới rốt cuộc là thật hay giả? Vấn đề bèn to lớn! Gần đây, trong các trước tác của người Nhật, họ có cách nhìn hoài nghi đối với kinh điển Tây Phương Tịnh Độ. Đọc những tác phẩm của họ, tín tâm của chúng ta bị dao động toàn bộ. Vì thế, chớ nên đọc [những tác phẩm ấy]. Trước tác của con người hiện thời toàn là bịa đặt, đồn thổi; đọc những thứ ấy, chắc chắn bị hại. Có thời gian [rảnh rỗi], hãy đọc sách của cổ nhân. Trong sách của cổ nhân cũng là chuyên tu Tịnh Độ. Quý vị đọc năm kinh là đủ rồi, chẳng cần đọc những thứ khác, quyết định vãng sanh! Thậm chí, kinh gì ta cũng đều chẳng muốn xem, mà cũng chẳng muốn nghe, ta niệm một câu A Di Đà Phật đến cùng, vẫn được! Quý vị cũng quyết định vãng sanh. Những trường hợp như vậy rất nhiều! Có thể thấy điều này chắc chắn chẳng phải là giả!

Theo cách giải thích thông thường, nước có tác dụng thanh khiết. Nước trong mát, và cũng có tác dụng tiêu trừ nắng gắt. “Cổ thích vân: Thủy chi vi dụng, trừ cấu, khử nhiệt, giải thoát chi tánh diệc nhiên” (Cổ nhân giải thích: “Nước có tác dụng trừ dơ, khử nóng, tánh của giải thoát cũng giống như thế”), cũng có điểm giống nhau. Trong bổn tánh có ba đức là Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát. Giải Thoát là tự tại. “Giải thoát chi trung, Định Huệ ý túc, trạm nhiên mãn hĩ” (trong Giải Thoát, ý Định Huệ trọn đủ, nên lắng trong, đầy tràn). Trong Giải Thoát nhất định là “Định Huệ ý túc”. Quý vị chẳng có Định, chẳng có Huệ, làm sao đạt được tự tại? Đó là đạo lý nhất định. Tiểu Thừa A La Hán có Cửu Thứ Đệ Định. Tuy chúng ta nói họ chưa khai trí huệ, tức là trí huệ Bát Nhã chưa khai, nhưng trí huệ của A La Hán cao hơn chúng ta rất nhiều, chúng ta đừng mong bén gót họ! Họ có sáu món thần thông; nói thật ra, nói “thần thông” là nói tới tác dụng của trí huệ. Họ có Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ, Túc Mạng, biết năm trăm đời quá khứ, biết năm trăm đời vị lai. Chuyện ngày hôm qua có khi chúng ta quên bẵng, chuyện ngày mai hoàn toàn không biết, nhưng họ biết quá khứ và vị lai, [do tác dụng của] trí huệ đấy mà! Trí huệ sanh từ trong Định, cũng chính là tác dụng của Định, nên nhất định là “Định Huệ ý túc”. “Định thủy trạm nhiên mãn”, “trạm nhiên” (湛然) nghĩa là thanh tịnh, “mãn” “mãn túc” (滿足: trọn đủ, thỏa thích).

“Dục thử vô cấu nhân”, người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới thanh tịnh, đều là Bồ Tát, vì sao vẫn phải thường xuyên đến tắm gội trong ao bảy báu? Đại Kinh đã giảng rất rõ ràng, công đức của nước ấy vô cùng to lớn. Tuy các vị Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới trọn chưa đoạn hết vô minh phiền não, nước ở cõi này chỉ có công đức gột sạch những thứ dơ bẩn trên thân chúng ta, chẳng thể gột trừ phiền não trong bổn tánh. Nước trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là “tánh thủy”, có thể gột sạch mê hoặc, điên đảo, tà tri, tà kiến trong tự tánh, có thể gột sạch những thứ ấy. Chúng ta là kẻ đới nghiệp vãng sanh, Trần Sa, Kiến Tư thảy đều còn nguyên, một phẩm Vô Minh cũng chẳng đoạn, sang bên đó, nhất định phải thường xuyên tắm gội, đạo lý là như thế đó. Đẳng Giác Bồ Tát cũng tắm rửa trong ấy, vì sao? Ngài còn có một phẩm Sanh Tướng Vô Minh chưa đoạn, nguyên nhân là ở chỗ này! “Vô cấu, diệc vô tịnh”: Cấu và Tịnh cùng mất, đó mới là công đức chân thật. Đoạn này bàn luận xứng tánh, nghĩa lý hết sức sâu xa. Có những đạo lý này để duy trì những sự thật đã nói trong phần trước, chúng ta rất dễ thấu hiểu. Lại xem tiếp khoa thứ hai.

 

Nhị, giai các.

二、階閣。

(Hai, thềm bậc, lầu gác).

“Các” là lầu gác, “giai” là giai đạo (階道: thềm bậc và lối đi), nói tới những thứ ở bên cạnh ao bảy báu.

 

(Kinh) Tứ biên giai đạo, kim, ngân, lưu ly, pha lê hợp thành. Thượng hữu lâu các, diệc dĩ kim, ngân, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não nhi nghiêm sức chi.

(Sớ) Tứ biên giả, trung vi trì thủy, châu vi tứ biên vi giai đạo dã.

() 四邊階道。金銀琉璃玻璃合成。上有樓閣,亦以金銀琉璃。玻璃硨磲。赤珠瑪瑙。而嚴飾之。

() 四邊者,中為池水,周圍四邊為階道也。

(Kinh: Bốn bên là bậc lên xuống, đường đi, do vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Phía trên có lầu gác, cũng dùng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não để trang hoàng.

Sớ: “Bốn bên”: Chính giữa là nước ao, vây quanh bốn bên là bậc lên, lối đi).

 Chính giữa là ao bảy báu. Vây quanh bốn phía ao bảy báu là bậc lên xuống và lối đi.

 

(Sớ) Kim giả, Phạn ngữ Tô Phạt La. Ngân giả, Phạn ngữ A Lộ Ba.

() 金者,梵語蘇伐羅。銀者,梵語阿路巴。

 (Sớ: Vàng, tiếng Phạn là Tô Phạt La (Suvara); bạc, tiếng Phạn là A Lộ Ba (Rūpya).

Những thứ này được người Trung Quốc phiên dịch là “kim, ngân”.

 

(Sớ) Lưu ly giả, thử vân Thanh Sắc Bảo.

() 琉璃者,此云青色寶。

(Sớ: Lưu ly, cõi này dịch là Thanh Sắc Bảo).

“Lưu ly” (Vaidūryaṃ) nay được gọi là ngọc Phỉ Thúy (Jadeite), loại ngọc này mầu xanh, là một loại bảo thạch rất quý giá, nổi tiếng.

 

(Sớ) Pha lê giả, thử vân Thủy Ngọc.

() 玻璃者,此云水玉。

(Sớ: “Pha lê”, cõi này dịch là Thủy Ngọc).

Nay chúng ta gọi Pha Lê (Sphaṭikaḥ) là thủy tinh.

 

(Sớ) Xa cừ giả, thử vân Đại Bối.

() 硨磲者,此云大貝。

(Sớ: “Xa cừ”(Musaragalva), cõi này dịch là Đại Bối).

 Đây là vỏ [của một loại] sò. Vỏ sò cũng có thể làm thành vật trang sức rất quý giá, nổi tiếng.

 

(Sớ) Xích châu giả, Phạn ngữ Bát Ma La Già. Mã não giả, Phạn ngữ Bát Ma La Già Lệ.

() 赤珠者,梵語缽摩羅伽。瑪瑙者,梵語缽摩羅伽隸。

(Sớ: “Xích châu”, tiếng Phạn là Bát Ma La Già (Padmarāga), “mã não”, tiếng Phạn là Bát Ma La Già Lệ).

 Xích Châu là một thứ xích trùng châu[46]. Mã Não tương đối phổ biến, ở Trung Hoa cũng có thứ này. Kinh thường gọi những thứ này là “thất bảo”.

 

(Sớ) Dĩ tư thất bảo trang nghiêm hiệu sức dã.

() 以斯七寶莊嚴較飾也。

 (Sớ: Dùng bảy thứ báu ấy để trang hoàng đẹp đẽ).

 Bậc lên, lối đi, lầu gác đều trang hoàng bằng bảy báu.

 

(Sao) Giai đạo giả, ly địa viết Giai, thản đồ viết Đạo.

() 階道者,離地曰階,坦途曰道。

(Sao: “Giai đạo”, nhô lên khỏi mặt đất là Giai (bậc thềm), đường phẳng gọi là Đạo).

“Giai” là cầu thang, bậc cấp.

 

(Sao) Lâu các giả, trùng ốc viết Lâu, sầm lâu viết Các.

() 樓閣者,重屋曰樓,岑樓曰閣。

(Sao: “Lâu các”: Nhà nhiều tầng là Lâu, lầu cao ngất là Các).

Nói thật ra, Các và Lâu giống nhau, chỉ là cách thức xây dựng khác nhau.

 

(Sao) Như Quán Kinh ngôn: “Hoàng kim địa thượng, nhất nhất bảo trung, ngũ bách sắc quang, kỳ quang như hoa, thành quang minh đài, lâu các thiên vạn, bách bảo hợp thành”. Đại Bổn vân: “A Di Đà Phật, giảng đường, tinh xá, cung điện, lâu các, giai dĩ thất bảo, thắng ư thử giới đệ lục thiên thượng Thiên Đế sở cư, bách thiên vạn bội. Bồ Tát sở cư, diệc phục như thị. Chư thiên cập nhân, cung vũ, lâu các, xứng kỳ hình sắc cao, hạ, đại, tiểu, hoặc dĩ nhất bảo, nhị bảo, chí vô lượng bảo”.

() 如觀經言:黃金地上,一一寶中,五百色光,其光如華,成光明臺,樓閣千萬,百寶合成。大本云:阿彌陀佛,講堂精舍,宮殿樓閣,皆以七寶,勝於此界第六天上天帝所居,百千萬倍;菩薩所居,亦復如是;諸天及人,宮宇樓閣,稱其形色高下大小,或以一寶二寶,至無量寶。

(Sao: Như Quán Kinh nói: “Vàng ròng phủ đất, trong mỗi thứ báu, có năm trăm tia sáng có màu. Quang minh ấy giống như hoa, hợp thành đài quang minh. Lầu gác số đến ngàn vạn, do trăm thứ báu hợp thành”. Kinh Đại Bổn chép: “Giảng đường, tinh xá, cung điện, lầu gác của A Di Đà Phật đều bằng bảy báu, trỗi vượt chỗ ở của Thiên Đế trong tầng trời thứ sáu trăm ngàn vạn lần. Chỗ ở của Bồ Tát cũng giống như thế. Cung điện, lầu gác của chư thiên và nhân loại tương xứng với hình sắc của họ mà cao, thấp, lớn, nhỏ, hoặc do một thứ báu, hai thứ báu, cho đến vô lượng thứ báu [hợp thành]”).

 Những đoạn kinh văn này đều là đại sư trích dẫn kinh luận hòng giảng rõ trạng huống trang nghiêm khôn sánh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. [Phần đầu] trong đoạn này là những điều được nói trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. “Hoàng kim địa thượng”, trên mặt đất, người ta lót đường chẳng phải bằng nhựa đường mà bằng vàng ròng! Tài nguyên trong thế giới đó phong phú ngần ấy! Hiện thời, trong thế giới của chúng ta, vàng là kim loại hiếm có, mọi người thấy nó rất quý báu, nhưng trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, vàng ở khắp mọi nơi, dùng để lót đường! Kinh cho biết: Đem loại vàng tốt nhất trong thế giới này sánh với vàng trong thế giới Cực Lạc thì ngay cả đồng cũng còn chẳng bằng! Độ tinh thuần của vàng bên chỗ người ta quá tốt đẹp, quá thuần. Đất trong cõi chúng ta là bùn, cát, đá, là đất lẫn đá; đất của người ta ở bên kia là đất lưu ly. “Nhất nhất bảo trung” (trong mỗi thứ báu), trên đất bằng vàng còn khảm nhiều thứ trân bảo hiếm có, tạo thành đồ trang sức trên đường, giống như đường đi của chúng ta phải kẻ đường chia tuyến, đèn chiếu buổi tối phải tỏa ánh sáng. Người ta dùng châu bảo để làm vạch ngăn chia, tự nhiên tỏa quang minh. Trong mỗi món báu có “năm trăm ánh sáng có màu, quang minh ấy giống như hoa”. Vạch chia đường tỏa ánh sáng giống như hoa, hình dung sự đẹp đẽ tột bực, “thành quang minh đài”.

“Lâu các thiên vạn, bách bảo hợp thành” (lầu gác số đến ngàn vạn, do trăm thứ báu hợp thành), “bách bảo” là vật liệu để xây dựng lâu các. Vật liệu xây dựng ở chỗ chúng ta là xi-măng, cốt thép. Nay chúng ta có được một tí trân bảo bèn coi là rất quý báu, đeo trên thân như đồ trang sức. Người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới trông thấy sẽ [cảm thấy] rất buồn cười, đó là vật liệu xây dựng của họ. Chúng ta đeo một cái vòng vàng khá to [bèn rất hãnh diện], đó là thứ họ dùng để lót đường! Nay đức Phật dạy chúng ta phải bỏ sạch hết thảy những thứ tạp nhạp trong thế gian này, sau khi bỏ sạch sẽ đến Tây Phương Cực Lạc thế giới hưởng thụ, đó là vĩnh viễn chân thật. Xưa kia, văn nhân hình dung cung điện của đế vương là “lan điêu, ngọc thế” (lan can chạm trổ, bậc thềm bằng ngọc). Chúng ta đến Bắc Kinh viếng hoàng cung, có phải là thềm ngọc hay chăng? Chẳng có, bất quá là đá Đại Lý[47] chạm khắc, gọi hoa mỹ là “thềm ngọc”! Há có lắm ngọc dường ấy? Chẳng có! Nhưng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, [thềm ngọc, tường ngà] sẽ là thật, chẳng giả tí nào! Vì thế, từ chỗ này, quý vị thấy tài nguyên trong Tây Phương Cực Lạc thế giới phong phú. Do vậy, ở bên đó chỉ là vui sướng, chẳng có khổ sở! Mỗi người đến đó đều có thể thành tựu, vấn đề là chính quý vị có chịu đến đó hay không? Vì lẽ đó, đến thế giới Cực Lạc dễ dàng, chứ đến nước Mỹ xin được quyền cư trú vẫn chẳng dễ dàng cho lắm!

“Đại Bổn vân” (Kinh Đại Bổn nói), Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ, “A Di Đà Phật, giảng đường, tinh xá, cung điện, lâu các, giai dĩ thất bảo” (giảng đường, tinh xá, cung điện, lầu gác của A Di Đà Phật đều bằng bảy báu), đều tạo bằng thất bảo. Điều này giống hệt như Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh đã nói. Chỗ khác biệt là như dưới đây: “Thắng ư thử giới đệ lục thiên thượng Thiên Đế sở cư, bách thiên vạn bội” (Trỗi vượt chỗ ở của Thiên Đế trong tầng trời thứ sáu của cõi này trăm ngàn vạn lần), đơn giản là chẳng thể so sánh! Đệ Lục Thiên là tầng trời cao nhất trong Dục Giới, tức là Tha Hóa Tự Tại Thiên (Parinirmita-vaśavartin). Phước báo của Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương vô cùng to lớn, hết thảy chẳng cần chính mình phải tự lo liệu, hết thảy sự hưởng thụ hễ nghĩ tới bèn xuất hiện. Nghĩ tới thứ gì, nó bèn ở trước mặt; chẳng cần thì nó sẽ chẳng còn nữa. Đó là Tha Hóa Tự Tại Thiên. Tầng trời thứ năm là Hóa Lạc Thiên (Nirmāṇarati), phước báo của Hóa Lạc Thiên rất lớn, nhưng những thứ để họ hưởng thụ do chính mình biến hóa tạo ra. Họ vẫn phải biến hóa, nhưng Đệ Lục Thiên chẳng cần phải tự mình biến hóa, những thứ ấy do đâu mà có? Do Đệ Ngũ Thiên biến hóa cúng dường họ. Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng là như vậy, hết thảy chẳng cần do chính mình biến hóa, nhưng trong tâm chính mình vừa động niệm, tự nhiên liền biến hóa cho quý vị thụ dụng. Ai biến hóa cho quý vị? Tuyệt diệu thay! Chẳng phải do Đệ Ngũ Thiên biến hóa, mà do A Di Đà Phật biến hóa để cúng dường quý vị, thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Đệ Ngũ Thiên há có năng lực to như A Di Đà Phật? Đây là đạo lý nhất định! Vì thế, sự thụ dụng của họ trong cõi kia tuyệt đối chẳng phải là Tha Hóa thiên vương có thể sánh bằng!

Câu tiếp theo hết sức quan trọng: “Bồ Tát sở cư, diệc phục như thị” (chỗ ở của Bồ Tát cũng giống như thế). Câu này quan trọng như thế nào? Trong phần trước đã nói về giảng đường, tinh xá của A Di Đà Phật. Khi chúng ta đến nơi ấy, nhà cửa để chúng ta ở sẽ là như thế nào? Câu này có liên quan đến chúng ta. Hễ là người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, ai nấy đều là Bồ Tát. Từ bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ, chư vị có thể thấy điều này! Thảy đều là Bồ Tát. Đối với hàng Bồ Tát đang được nói ở đây, chúng ta có phần. Hạ hạ phẩm vãng sanh cũng là Bồ Tát! Ở bên ấy, chẳng có mười pháp giới, chỉ có một pháp giới, [tức là] Bồ Tát pháp giới. Quý vị ở trong cung điện hoặc lầu gác hoàn toàn giống như A Di Đà Phật, [kinh đã dạy rõ] “diệc phục như thị” (cũng giống như thế) mà! Bởi lẽ đó, thế giới ấy là một thế giới bình đẳng, chẳng giống các cõi nước của hết thảy chư Phật trong mười phương. Mười phương các cõi Phật do nghiệp lực biến hiện; do nghiệp lực của mỗi cá nhân khác nhau, nên hoàn cảnh y báo và chánh báo của quý vị khác hẳn. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng phải do nghiệp lực, mà là xứng tánh, do tánh đức biến hiện, tánh là bình đẳng. Phật Tánh và chúng sanh tánh bình đẳng, từ trong tự tánh hiển hiện, đương nhiên giống hệt nhau, quyết định chẳng sai khác, nguyên lý ở chỗ này! Tây Phương Cực Lạc thế giới là Pháp Tánh Độ, còn các quốc độ trong mười phương thế giới là Tướng Phần của A Lại Da Thức nên khác nhau, cảm nhận của mỗi người đều khác nhau!

“Chư thiên cập nhân, cung vũ, lâu các, xứng kỳ hình sắc cao, hạ, đại, tiểu, hoặc dĩ nhất bảo, nhị bảo, chí vô lượng bảo” (cung điện, lầu gác của chư thiên và nhân loại xứng hợp với hình sắc của họ mà cao, thấp, lớn, nhỏ, hoặc dùng một thứ báu, hai thứ báu, cho đến vô lượng thứ báu [hợp thành]). Câu này nêu rõ “trong đồng, có bất đồng”, đến nơi ấy, hết thảy sự thụ dụng tự tại giống như A Di Đà Phật, Quán Âm, Thế Chí, nhưng trong sự giống nhau, còn có đôi chút bất đồng, bất đồng ở chỗ nào? Bất đồng ở chỗ lầu gác cư trụ lớn hay nhỏ, khác nhau ở chỗ này. Chất liệu lầu gác hoàn toàn giống nhau, lầu gác A Di Đà Phật bằng bảy báu, quý vị ở trong lầu gác cũng bằng bảy báu. Có thể là lầu gác của A Di Đà Phật to hơn, lầu gác của quý vị nhỏ hơn. Còn có lầu gác của những vị đại Bồ Tát có thể thăng lên không trung, lầu gác của quý vị chẳng thăng lên được, chỉ đành ở trên mặt đất. Trừ điều đó ra, chẳng có gì khác, hoàn toàn giống nhau.

Vì sao ở chỗ này có đôi chút sai biệt? Là vì tập khí phiền não của chúng ta ở nơi đây dầy hay mỏng khác nhau. Tập khí phiền não mỏng, [tức là những người] đắc nhất tâm bất loạn trở lên, lầu gác có thể cao lớn tự tại, cao lớn thuận theo lòng muốn. Từ thế giới Sa Bà của chúng ta vừa mới sanh về đó, một phẩm phiền não còn chưa đoạn, e rằng chẳng thể cao lớn tùy ý. Đến nơi ấy, hoàn cảnh cư trụ là do công phu tu hành của chúng ta trong hiện tại [cảm vời], phải biết điều này, giống như nói tùy thuộc phẩm vị [vãng sanh] của quý vị mà [lầu gác, cung điện] lớn hay nhỏ khác nhau. Trừ điều này ra, kinh đã nói rõ ràng, tường tận “chẳng khác gì nhau”. Do vậy, hiện thời, nhất định phải nghiêm túc niệm Phật. Công phu niệm Phật của quý vị siêng năng, công phu đắc lực, nói “công phu đắc lực” tức là Phật hiệu của quý vị thật sự có thể chế phục phiền não. Có năng lực ấy, quý vị đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, hoa sen của quý vị liền to, đương nhiên cung điện và lầu gác của quý vị cũng to. Hoa to, lầu gác to; hoa bé, lầu gác nhất định cũng bé theo, chắc chắn là tuân theo tỷ lệ thuận. Do vậy, phải nghiêm túc niệm Phật, phải niệm cho hết tập khí vô minh phiền não của chính mình, đó là chân thật, chính quý vị có thể vĩnh viễn đạt được.

Trong thế gian hiện thời, tất cả hết thảy những thứ trong thế gian quý vị đều chẳng đạt được. Tục ngữ có câu: “Sanh chẳng mang gì đến, chết chẳng đem gì đi”. Không chỉ là vật ngoài thân quý vị chẳng đạt được, mà thân thể cũng chẳng phải là của chính mình, quý vị cũng chẳng đạt được! Quý vị mới hiểu: Chẳng có thứ gì trong thế gian này là của chính mình, kể cả cái thân xác thịt cũng chẳng phải, đều là giả, hư huyễn, chẳng phải là thực tại, chúng ta chớ nên coi trọng những thứ ấy! Khi nào phải nên buông xuống bèn buông xuống, giữ lấy thứ chân thật, thứ gì trong Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng đều là chân thật, vì sao? Xứng tánh, y báo và chánh báo trang nghiêm chẳng có gì không xứng tánh. Tánh là chân thật, nên cõi ấy là cõi Pháp Tánh. Người thông minh phải biết giữ lấy cõi Pháp Tánh, cũng là nhất định phải giữ lấy Tây Phương Cực Lạc thế giới. Phần kế tiếp nói về cây báu số lượng bao nhiêu, chúng đều thuận theo lòng mong muốn, quý vị thích loại trân bảo nào, nó liền hiện ra loại trân bảo ấy. Đối với điều này, Phật và hết thảy Bồ Tát đều chẳng khác nhau.

 

(Sao) Hựu Phật Địa Luận vân: “Thả thuyết thất bảo, kỳ thật Tịnh Độ vô lượng diệu bảo”. Cố tri viết “tứ bảo” giả, văn tỉnh tiện dã.

() 又佛地論云:且說七寶,其實淨土無量妙寶,故知曰四寶者,文省便也。

 (Sao: Lại nữa, Phật Địa Luận nói: “Lại nói đến bảy báu thì thật ra, Tịnh Độ có vô lượng diệu bảo”. Do đó biết: Nói “bốn báu” là lời văn giản lược cho thuận tiện vậy).

Đây là nói cho chúng ta biết tướng chân thật.  Thật ra,  Quán Kinh

và Đại Bổn Vô Lượng Thọ Kinh đã nói rất rõ ràng, các thứ báu trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là vô lượng vô biên. Đức Phật đã nói, nhân dân trong mười phương thế giới, giả sử các chúng sanh ấy đều chứng Bích Chi Phật quả, trí huệ và thần thông đều giống như Đại Mục Kiền Liên, cùng nhau tính toán, đều tính chẳng ra. Chủng loại trân bảo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là bao nhiêu? Chẳng có cách nào tính toán, quá ư là nhiều! Chủng loại nhiều, số lượng nhiều, chẳng ai có thể tính toán được. Kinh Đại Bổn đã nói như vậy.

Trong kinh, đức Phật thường nói đến bảy báu, hoặc bốn báu, đó là nói đại lược, [tức là] trong các thứ trân bảo nhiều ngần ấy, chỉ nêu tượng trưng mấy thứ để nói. Mấy thứ được nêu tượng trưng là do trong thế gian này có những thứ tương tự. Hơn nữa, người trong thế gian này hết sức quý trọng mấy thứ ấy, nên đức Phật đặc biệt kể ra mấy thứ ấy, nhằm dạy cho chúng ta biết trân bảo bên kia quá nhiều. Vì thế, [nói bảy báu hay bốn báu] là nói tỉnh lược.

 

(Sao) Hựu Hoa Nghiêm Nhập Pháp Giới phẩm vân.

() 又華嚴入法界品云。

(Sao: Lại nữa, phẩm Nhập Pháp Giới của kinh Hoa Nghiêm có nói).

Đây là trích dẫn phẩm cuối cùng của kinh Bát Thập Hoa Nghiêm, tức Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm.

 

(Sao) “Nguy lâu huýnh đới, các đạo bàng xuất, đống vũ tương thừa, song thát giao ánh, giai trì hiên hạm, chủng chủng mãn túc, nhất thiết giai dĩ diệu bảo trang nghiêm”, tức tư nghĩa dã.

() 危樓迥帶,閣道傍出,棟宇相承,窗闥交暎,階墀軒檻,種種滿足,一切皆以妙寶莊嚴,即斯義也。

 (Sao: “Lầu cao chót vót, hành lang vây quanh, điện tòa san sát, cửa sổ và cửa cái chiếu ngời lẫn nhau, bậc thềm, lan can, các thứ trọn đủ, hết thảy đều được trang nghiêm bằng diệu bảo”, chính là nói về ý nghĩa này vậy).

 Thế giới Hoa Tạng được nói trong kinh Hoa Nghiêm chẳng khác gì Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nếu quý vị muốn biết nhiều hơn về y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tốt nhất là nên đọc kinh Hoa Nghiêm. Trong Tịnh Tu Tiệp Yếu, cư sĩ Hạ Liên Cư đã bảo: “Cực Lạc chẳng khác Hoa Tạng”, giống hệt như Hoa Tạng. Quý vị thấy thế giới Hoa Tạng tức là thấy thế giới Cực Lạc. Vì thế, Liên Trì đại sư cũng trích dẫn đoạn kinh văn này trong kinh Hoa Nghiêm, dùng thế giới Hoa Tạng để nhìn Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng khác gì nhau.

“Nguy lâu huýnh đới” là nói về lầu cao[48]. “Các đạo bàng xuất, đống vũ tương thừa”[49] (hành lang vây quanh, điện tòa san sát): Chúng ta rất khó tưởng tượng cảnh giới này. Trong tương lai, nếu có dịp, quý vị đến vãn cảnh Bắc Kinh, thăm hoàng cung nhà Thanh, sẽ thấy những điều viết ở đây là nói về hoàng cung. Tuy vật liệu xây dựng hoàng cung hết sức đẹp đẽ, vẫn thua xa bảy báu! “Song thát giao ánh” (cửa sổ và cửa cái chiếu ngời lẫn nhau), Thát (闥) là cửa. “Giai trì”: Trì (墀) là “đan trì” (丹墀: thềm son)[50]. Nói thông thường, bậc thềm trong các sân trời (thiên tỉnh)[51] hoặc cung điện hết sức to. “Hiên hạm” (軒檻) là lan can. “Chủng chủng mãn túc” (trọn đủ các thứ), hết sức tương tự Tây Phương Cực Lạc thế giới, đều là “diệu bảo trang nghiêm”.

 

(Sao) Hựu Đại Bổn vân: “Thị chư lâu các, hữu tùy ý cao đại, phù ư không trung, nhược vân khí giả. Hữu bất năng tùy ý cao đại, chỉ tại địa thượng giả, dĩ cầu đạo thời, đức hữu hậu bạc sở trí”.

() 又大本云:是諸樓閣,有隨意高大,浮於空中,若雲氣者,有不能隨意高大,止在地上者,以求道時,德有厚薄所致。

(Sao:  Lại nữa, kinh Đại Bổn nói: “Các lầu gác ấy, có cái cao lớn tùy ý, nổi lơ lửng trên không như hơi mây. Có cái chẳng thể cao lớn tùy ý, chỉ ở trên mặt đất. Đó là do lúc cầu đạo, đức có dầy hay mỏng mà ra”).

Chúng ta đều đã đọc kinh Vô Lượng Thọ, đây chính là “trong tương đồng, có những điểm bất đồng nho nhỏ”, nguyên nhân là do “đức hữu hậu bạc sở trí” (do đức có dầy hay mỏng mà ra), [nguyên nhân] ở ngay trong câu này. Chữ Đức chỉ điều gì? Nói thật ra, Đức là công phu niệm Phật. Có thể niệm đến nhất tâm bất loạn thì là đức dầy; chưa đạt tới nhất tâm bất loạn thì là đức mỏng. Chư vị bèn hiểu: Trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, [lầu gác] chẳng có cách nào cao lớn tùy ý, lầu gác để cư trụ chỉ đành ở trên mặt đất. Nếu là nhất tâm bất loạn, [sẽ sanh trong] cõi Phương Tiện hoặc cõi Thật Báo, lầu gác của họ bèn cao lớn tùy ý, được đại tự tại. Nếu quý vị nói Bồ Tát trong thế giới Tây Phương bất đồng thì là một tí bất đồng như vậy; trừ điều ấy ra, chẳng có gì khác nhau!

 

(Sao) Hựu vân: “Lâu quán lan thuẫn, anh lạc phú thượng, giai tác ngũ âm”.

() 又云:樓觀欄楯,瓔珞覆上,皆作五音。

(Sao: Lại nói: “Lầu, đền, lan can, đều có chuỗi anh lạc phủ lên trên, [những chuỗi anh lạc ấy] đều vang ra [tiếng nhạc] ngũ âm”).

Đây là nói về âm nhạc, chúng ta nói là “thiên nhạc doanh không” (nhạc trời vang rền khắp hư không). “Ngũ âm”: Thời cổ, âm giai Trung Quốc chỉ có năm âm[52] là Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ, ngũ âm! Hiện thời Tây Dương dùng bảy âm (bảy notes nhạc). “Ngũ âm” [trong câu kinh văn trên đây] hiện thời gọi là “nhạc giao hưởng” (symphony). Thiên nhạc trong Tây Phương Cực Lạc thế giới không lúc nào, không chỗ nào chẳng tồn tại. Các khúc nhạc được diễn tấu đều khiến cho quý vị nghe hết sức hoan hỷ. Chúng không chỉ là âm nhạc, mà còn thuyết pháp. Nói cách khác, tất cả các kinh văn đều dùng phương thức ca xướng để xướng lên, nghe rất dễ chịu! Niệm kinh sẽ khô khan, vô vị, chẳng dễ nghe, bèn xướng lên cho quý vị nghe. Vì thế, Phật môn hết sức coi trọng âm nhạc. Nói theo cách bây giờ là hết sức coi trọng giáo học nghệ thuật; vì vậy, giáo học Phật giáo chẳng phải là cứng ngắc, vụng về, chẳng phải chỉ là giảng giải trên giảng đường. Quý vị thích nghe giảng trên giảng đường? Được rồi! A Di Đà Phật cũng biểu diễn một màn giảng kinh, thuyết pháp đúng quy củ trên giảng đường cho quý vị. Quý vị thích dạo chơi khắp nơi, A Di Đà Phật cũng có thần thông khác biệt, có thể làm cho pháp âm theo chân quý vị. Quý vị đến chỗ nào, nó theo đến đó, giống như hiện thời chúng ta mang theo máy nghe nhạc vậy. Máy nghe nhạc của chúng ta đôi khi còn bị trục trặc, có lúc hết pin (battery), hoặc chẳng phát ra tiếng; ở bên kia, chẳng cần đến những thứ ấy, nhạc trời tự nhiên vang rền không trung.

Hoàn cảnh ấy đúng là được mười phương chư Phật đều tán thán. Nơi chốn tốt đẹp như thế mà không sanh về đó, oan uổng quá! Thầy Lý bảo “[kẻ chẳng phát nguyện vãng sanh Cực Lạc] nếu chẳng phải là ngu thì cũng là cuồng”, quý vị chẳng phải là ngu si thì là cuồng vọng, nói lên ý nghĩa sau đây: Phàm là một người bình thường, chẳng có ai không mong sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Quyết định phải sanh về đó. Có lẽ quý vị cảm thấy ta sang bên ấy, đất khách, quê người, chẳng có một ai quen biết, há có ý nghĩa gì? Nếu quý vị sợ gặp cảnh đất khách, quê người, hãy khuyên thêm mấy người cùng vãng sanh! Do vậy, nhất định phải đem pháp môn này phổ biến, khuyến cáo mọi người, để mọi người đều sanh về đó; khi sang đó, người mà ta quen biết sẽ rất nhiều.

Nói thật ra, hễ sang tới bên đó, thần thông liền trọn đủ, quý vị có Thiên Nhãn, Tha Tâm, Túc Mạng Thông; thân thích, bằng hữu, quyến thuộc của quý vị trong đời quá khứ, đời đời kiếp kiếp từ vô thỉ đến nay, có chẳng ít người đã ở Tây Phương Cực Lạc thế giới, quý vị đều nhận biết: “Các vị đã đến từ sớm, nay tôi mới đến!” Còn có những kẻ luân hồi trong lục đạo, khi ấy, quý vị đều thấy, họ ở nơi đâu, quý vị đều biết. Do vậy, quý vị chẳng cần hoài nghi, đến nơi ấy lạ nước lạ cái, chẳng có ai chiếu cố, chẳng cần phải hoài nghi những điều ấy! Hễ đến nơi đó, bèn tự nhiên hiểu, nguyên lai quý vị có rất nhiều người quen!

 

(Sao) Hựu Quán Kinh vân: “Lâu các lưỡng biên, các hữu hoa tràng, vô lượng nhạc khí, dĩ vi trang nghiêm, bát chủng thanh phong, cổ thử nhạc khí, diễn thuyết Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã chi âm”.

() 又觀經云:樓閣兩邊,各有華幢,無量樂器,以為莊嚴,八種清風,鼓此樂器,演說苦空無常無我之音。

(Sao: Lại nữa, Quán Kinh nói: “Hai bên lầu gác, đều có tràng hoa, vô lượng nhạc khí dùng để trang nghiêm, tám thứ gió mát tấu các thứ nhạc khí ấy, diễn thuyết các tiếng Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã ).

 Đoạn này là nói về chuyện gió tấu các nhạc khí. “Tràng” (幢) là hình tròn, hơi giống như cây cột. Vật này vốn được dùng làm tín hiệu trong Phật môn, gọi là “phan tràng”. Phan (幡) có hình dáng dẹp, còn Tràng hình tròn, hơi giống những ống thông gió tại phi trường, ở giữa rỗng tuếch, có hình trụ. Xưa kia, truyền đạt tin tức chẳng thuận tiện, nên trong đạo tràng hễ có giảng kinh, thuyết pháp, bèn dựng cột cờ, từ nơi rất xa vẫn có thể thấy được! Nếu hiện thời chúng ta giảng kinh ở đây, liền đem cái tràng hình ống treo lên, nó giống như cờ hiệu, người ở ngoài xa thấy cột cờ treo tràng, liền biết hôm nay có giảng kinh, thuyết pháp. Giảng kinh, thuyết pháp được gọi là “cao thụ pháp tràng” (dựng cao tràng pháp) là do ý nghĩa này. Hiện thời, chúng ta đăng báo quảng cáo, in rất nhiều thông cáo gởi đi, gọi điện thoại, dùng những cách ấy để thay thế. Còn có những đạo tràng thuyết pháp quanh năm thì họ dùng đá [để làm tràng], tràng đá hơi giống như một cây cột, chung quanh đôi khi khắc tượng Phật, tượng Bồ Tát, còn có kinh văn.

Ở đây, [Quán Kinh nói] tràng được làm bằng hoa, tức là kết rất nhiều loại hoa hết sức đẹp đẽ thành “hoa tràng”. Trên hoa tràng có nhiều loại nhạc khí, chúng ta có thể tưởng tượng đó là những nhạc khí vốn có trong thế gian này. Nói thật ra, nhạc khí cũng nhiều vô lượng vô biên, có rất nhiều loại là nhạc khí trong các thế giới phương khác mà chúng ta chưa hề nghe nói tới, đương nhiên càng chưa hề thấy. Quý vị chưa nghe nói, chưa trông thấy, nên đức Phật chẳng nói, nói ra phiền thêm! Quý vị hỏi đức Phật, đức Phật giải thích nửa ngày, quý vị vẫn không hiểu, nên đức Phật chẳng nói. Đức Phật thuyết pháp là khế cơ, tức là muốn quý vị vừa nghe bèn hiểu ngay. Các đồng tu học giảng kinh phải ghi nhớ điều này! Hễ giảng mà kẻ khác nghe không hiểu, quý vị đừng giảng. Những gì chính quý vị nghi hoặc, đừng nên giảng! Những điều quý vị giảng ra phải là [những thứ] chính mình quyết định chẳng có nghi hoặc. Đó là một nguyên tắc.

Tôi có một người bạn lâu năm, là một vị tướng quân, tuổi rất cao, trong quá khứ, cụ là thị vệ của tiên sinh Tôn Trung Sơn. Cụ bảo tôi Quốc Phụ hết sức vĩ đại. Thuở ấy, Tôn tiên sinh giảng Tam Dân chủ nghĩa, tiên sinh Thái Nguyên Bồi ghi lại. Khi đó, ông Thái Nguyên Bồi là hiệu trưởng trường đại học. Sau khi ghi xong bản thảo, trong ấy có một đoạn ông Thái cũng chẳng hiểu rõ ràng cho lắm, bèn hỏi Quốc Phụ về ý nghĩa cặn kẽ, Quốc Phụ liền gạch bỏ hoàn toàn đoạn ấy trong bản thảo, chẳng cần đoạn ấy nữa! Quốc Phụ nói: “Ông là hiệu trưởng trường đại học mà nghe còn chẳng hiểu, người khác làm sao hiểu được, hãy bỏ đoạn ấy đi!” Thật vĩ đại, tuyệt vời! Ông ta nói: “Những thứ tôi nói phải khiến cho hết thảy mọi người đều có thể nghe hiểu. Phàm những thứ nào nghe không hiểu thì đều chẳng cần đến!” Người học giảng kinh phải chú ý điều này, nhất định phải khiến cho người nghe thấu hiểu, chứ nghe mà không hiểu thì có ý nghĩa gì đâu! Trong quá khứ, tôi cũng nghe [một vị] lão pháp sư giảng kinh. Sau khi giảng xong, có những vị lão cư sĩ, họ đều là đại hộ pháp, đến thưa với thầy: “Sư phụ! Thầy giảng hay lắm, nhưng con nghe không hiểu”. Sư phụ nói: “Nếu ta giảng kinh này mà nghe hiểu [dễ dàng] thì còn có giá trị gì nữa?” Sai lầm mất rồi! Nhất định phải khiến cho người khác nghe hiểu thì họ mới được lợi ích, mới đạt được điều tốt đẹp. Giảng mà khiến cho kẻ khác nghe chẳng hiểu thì gọi là “nói thừa thãi, nói uổng công”, làm mất thời gian của kẻ khác, sai mất rồi!

Nhất định phải giữ gìn tiêu chuẩn như cổ nhân Trung Quốc đã nói “giản, yếu, tường, minh” (đơn giản, ngắn gọn, cặn kẽ, rõ ràng). Giữ vững bốn nguyên tắc ấy, đơn giản, ngắn gọn, tỉ mỉ, rõ ràng, chớ nên tràn lan dây cà, dây muống! Nói cách khác, người ta phải tốn mười câu mới nói rõ, ta có thể dùng năm câu liền nói rõ ràng, quý vị cao minh hơn kẻ ấy, càng đơn giản càng hay! Do một câu liền nói rõ ràng, rất cao minh! Đó là cao minh tột bậc! Người ta nói khá lâu mà vẫn chưa nói rõ ràng được, quý vị nói mấy câu liền rõ ràng, cao minh lắm! Do đó, ăn nói hay viết văn chương đều phải tuân thủ nguyên tắc này. Tuyệt đối không phải là văn chương viết cả đống chữ mới là có giá trị. Hiện thời, điều này là thật, hiện nay [thiên hạ] luận định số chữ, chẳng luận định văn chương hay dở, tiêu chuẩn khác hẳn trước kia. Theo tiêu chuẩn trước kia, viết tràn lan cà kê dê ngỗng như vậy, căn bản là người ta chẳng đọc tác phẩm của quý vị. Đại chúng bình phàm chuộng đơn giản, ngắn gọn, cặn kẽ, rõ ràng. Hơn nữa, trong thời đại công nghiệp, phải tranh thủ từng giây, từng phút, đâu có thời gian dài ngần ấy để nghe quý vị cà kê dê ngỗng!

Chúng tôi giảng kinh trong nước khác với giảng kinh ở ngoại quốc. Trong nước có thời gian, thong thả giảng. Ở ngoại quốc, không được! Người ở ngoại quốc chặn ngay: “Pháp sư! Tốt nhất là thầy giảng xong bộ kinh này trong năm ngày”, chỉ đành năm ngày bèn giảng xong. Giống như kinh Vô Lượng Thọ, hoặc Di Đà Kinh Yếu Giải phải giảng xong trong năm ngày. Vì sao? Họ chẳng có thời gian đến nghe. Phải là có thể dài, có thể ngắn, có thể cạn, có thể sâu thì mới được, mới có thể ứng phó căn tánh bất đồng. Có thời gian nói cặn kẽ đương nhiên là hay, nói rõ ràng, giống như lần này chúng tôi giảng Di Đà Kinh Yếu Giải Đại Ý trong năm ngày tức mười tiếng đồng hồ tại Vĩnh Hòa. Trong quý vị, có người đến nghe, liền biết: Người thường nghe ở nơi đây, nghe giảng chẳng thấy thỏa mãn lắm, nhưng người chưa đến nghe [mà nghe giảng lần đầu] thì rất thỏa ý, cảm thấy rất hiếm lạ, trong thời gian ngắn ngủi ấy, họ hiểu được; nhưng người thường đến đạo tràng này liền biết: [Nghe giảng trong thời gian ngắn ngủi] chẳng được! Chẳng có thời gian để trình bày rất nhiều ý nghĩa khẩn yếu!

“Bát chủng thanh phong” (tám thứ gió mát) là tám loại gió trong thế gian: Điều phong (gió Xuân), Minh Thứ phong (gió Đông), Thanh Minh phong (gió Đông Nam), Cảnh phong (Tường phong, gió Nam), Lương phong (gió Tây Nam), Xương Hạp phong (gió Thu), Bất Châu phong (gió Tây Bắc), Quảng Mạc phong (gió Bắc, gió Bấc)[53]. “Cổ thử nhạc khí” [nghĩa là] chẳng cần người diễn tấu, các thứ nhạc khí có thể tự diễn tấu, toàn bộ là tự động. Nó còn có thể thuyết pháp, có thể “diễn thuyết Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã chi âm” (diễn thuyết âm thanh

 

Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã). Hết thảy các pháp đều được chúng diễn tấu, vô lượng vô biên pháp Tiểu Thừa và Đại Thừa, chẳng có pháp nào không được diễn tấu. Ở đây chỉ nêu vài tỷ dụ, như Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã, [các pháp này] thường được gọi là pháp Tiểu Thừa và pháp nhân thiên. Thuở ấy, trong số thính chúng hiện diện, người Tiểu Thừa chiếm đa số, đức Phật giảng kinh bèn tùy thuận thính chúng lúc ấy để giảng, nên nêu lên những thí dụ này!

 

(Sao) Dĩ thị thôi chi, tắc thử chỉ ngôn lâu các, bất phân Phật cập Bồ Tát, thiên, nhân, diệc bất phân tại không, tại địa, diệc bất ngôn nhạc âm diễn pháp, tất văn tỉnh dã.

() 以是推之,則此止言樓閣,不分佛及菩薩天人,亦不分在空在地,亦不言樂音演法,悉文省也。

(Sao: Do vậy, suy ra: Kinh này chỉ nói đến lầu gác, chẳng phân biệt là [lầu gác] của Phật, Bồ Tát, trời, người [to nhỏ khác nhau], cũng chẳng phân biệt là ở trên hư không hay trên mặt đất, cũng chẳng nói tiếng nhạc diễn thuyết pháp, tức là kinh văn nói tỉnh lược vậy).

Những điều này đều được tỉnh lược nơi văn tự, phải hợp ba kinh lại để tham chiếu, quý vị mới biết tình hình cặn kẽ, xem trọn năm kinh là lý tưởng nhất. Giống như Sớ Sao của Liên Trì đại sư, Yếu Giải của Ngẫu Ích đại sư và Viên Trung Sao của U Khê đại sư, các tác phẩm chú giải ấy trích dẫn kinh điển hòng giải thích rất nhiều điều. Vì thế, đọc Sớ Sao giống như đọc mấy trăm bộ kinh luận, Ngài trích dẫn rất nhiều. Có như vậy thì chúng ta mới liễu giải Tây Phương Cực Lạc thế giới rõ ràng, tín tâm và nguyện tâm mới có thể thật sự sanh khởi, điều này vô cùng trọng yếu. Hôm nay, chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

— o0o —

Tập 144

 Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bổn, trang ba trăm lẻ tám.

 

(Sao) Kim giả tứ nghĩa, nhất sắc vô biến, nhị thể vô cấu, tam chuyển tác vô ngã, tứ năng linh nhân phú.

() 金者四義,一色無變,二體無垢,三轉作無我,四能令人富。

(Sao:Vàng có bốn ý nghĩa: Một là màu sắc chẳng biến đổi, hai là Thể chẳng nhơ, ba là tuy lần lượt được chế biến thành các thứ khác nhau, vàng vẫn vô ngã, bốn là có thể khiến cho con người giàu có).

Bảy báu đều chú trọng sự biểu thị pháp. “Vô biến” có nghĩa là Thường. Kinh thường nói Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Vàng biểu thị ý nghĩa này. Màu sắc của vàng chẳng thay đổi, có ý nghĩa Thường (thường hằng). “Vô cấu” là ý nghĩa thanh tịnh, trong sạch. “Chuyển tác vô ngã” là ý nghĩa Ngã trong Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. “Năng linh nhân phú” (có thể làm con người giàu có) là ý nghĩa Lạc. Do vậy, nó bao hàm bốn ý nghĩa Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

 

(Sao) Ngân tứ nghĩa đồng, nhi công sảo liệt.

() 銀四義同,而功稍劣。

(Sao: Bạc có bốn nghĩa giống như vậy, nhưng công năng hơi kém hơn).

Bạc cũng có bốn ý nghĩa ấy, nhưng nói theo mặt thể chất, bạc chẳng bằng vàng!

 

(Sao) Lưu Ly thanh sắc, thị kỳ chánh dịch.

() 琉璃青色,是其正譯。

(Sao: Lưu Ly màu xanh, nên [tiếng Hán dịch là Thanh Sắc Bảo] là chính xác).

Đây là cách giải thích thông thường trong hiện thời.

 

(Sao) Hựu danh Bất Viễn giả. Bất Viễn, sơn danh, sơn xuất thử bảo, dĩ cận Ba La Nại thành cố.

() 又名不遠者,不遠,山名,山出此寶,以近波羅奈城故。

(Sao: Lại còn có tên là Bất Viễn. Bất Viễn là tên núi. Núi này sanh ra thứ báu ấy, do núi ấy gần thành Ba La Nại).

 Nó còn có tên gọi là Bất Viễn. Quả núi có quặng Lưu Ly chẳng xa thành Ba La Nại (Vārāṇasī, Benares) cho mấy. Chỗ chẳng xa [kinh thành Ba La Nại] bèn có [thứ báu ấy, nên gọi chất báu ấy là Bất Viễn] là do ý nghĩa này.

 

(Sao) Thủy ngọc giả, kim thủy tinh dã.

() 水玉者,今水晶也。

(Sao: Thủy ngọc nay được gọi là thủy tinh).

“Kim” là cận đại, “cận đại” ở đây chính là những năm cuối đời Minh. Vì Liên Trì đại sư sống vào cuối đời Minh, Ngài nói “kim” là nói về thời đó, thời ấy đã gọi [pha lê] là “thủy tinh”.

 

(Sao) Xa cừ ngôn đại bối giả.

() 硨磲言大貝者。

(Sao: “Xa cừ” là một loại sò lớn).

Tức là vỏ sò, [xa cừ là] vỏ của một loại sò lớn.

 

(Sao) Bối vi hải trung giới trùng, đại giả danh bảo, nhất vân phi Phạn ngữ, dĩ kỳ tự xa chi cừ. Cừ giả, võng dã.

()貝為海中介蟲,大者名寶,一云非梵語,以其似車之渠。渠者,輞也。

(Sao: Sò là một loài trùng có vỏ trong biển cả. Thứ to được gọi là Bảo. Có thuyết nói [xa cừ] không phải là tiếng Phạn, mà là do [vỏ của] nó giống như “vành bánh xe”. “Cừ” là cái vành bánh xe).

 “Võng” là bánh xe, ở đây là nói tới đường vằn trên vỏ sò, giống như bánh xe.

 

(Sao) Xích châu giả, Phật Địa Luận vân: “Xích trùng sở xuất. Hữu thiên xích châu, danh Nhân Đà La, phi thế sở hữu”. Đại Luận: “Chân châu hoặc xuất ngư phúc, hoặc xuất xà não, hoặc xuất bạng thai, hoặc sanh trúc trung, tắc sắc phi định xích”. Cố dĩ tiền dịch vi chánh.

() 赤珠者,佛地論云:赤蟲所出,有天赤珠,名因陀羅,非世所有。大論,真珠或出魚腹,或出蛇腦,或出蚌胎,或生竹中,則色非定赤,故以前譯為正。

(Sao: “Xích châu”, Phật Địa Luận nói: “[Xích châu] do loài xích trùng sanh ra. Có loài xích châu cõi trời tên là Nhân Đà La, trong cõi đời chẳng có”. Theo Đại Luận, chân châu sanh từ bụng cá, hoặc sanh từ óc rắn, hoặc xuất phát từ thai sò, hoặc sanh trong tre, nên màu sắc không nhất định là đỏ. Do vậy, [xích châu hiểu] theo cách dịch trước (tức cách giải thích trong Phật Địa Luận) thì đúng hơn).

“Xích châu” do loài xích trùng sanh ra. Thứ này rất hiếm, nên rất quý báu, nổi tiếng, là một trong bảy thứ báu. Đại Trí Độ Luận giảng xích châu là một loại chân châu (真珠), nhưng thông thường, trân châu (珍珠) sanh từ trai sò, cũng có loại kết tinh trong bụng cá, hoặc óc rắn, còn có loại sanh trưởng từ cây trúc, nên màu sắc không nhất định là đỏ. Vì thế, giảng [chữ “xích châu”] theo cách trước (thuyết của Phật Địa Luận) sẽ đúng hơn.

 

(Sao) Mã não giả, hoặc vân Đan Khâu chi dã, quỷ huyết sở hóa.

() 瑪瑙者,或云丹丘之野,鬼血所化。

(Sao: Mã não, có người nói là do máu của loài quỷ ở chốn đồng nội Đan Khâu[54] hóa thành).

 Đây là cách nói của cổ nhân, nay chúng ta biết nó là một loại hóa thạch.

 

(Sao) Nhất vân như mã não cố.

() 一云如馬腦故。

(Sao: Có thuyết nói nó trông giống như óc ngựa).

“Mã não”: Các loài ngựa khác nhau, óc của chúng có màu đỏ, vàng xanh, đen, trắng v.v… phân biệt, mười phần trân quý.

 

(Sao) Trang nghiêm giả, hữu chỉnh tề nghĩa. Hiệu sức giả, hữu văn thái nghĩa. Dĩ tư nghiêm sức, tắc như tiền, hoặc dĩ nhất bảo, nhị bảo, nãi chí thất bảo chi loại, thị dã.

() 莊嚴者,有整齊義。較飾者,有文彩義。以斯嚴飾,則如前或以一寶二寶,乃至七寶之類是也。

(Sao: “Trang nghiêm” có nghĩa là chỉnh tề. “Hiệu sức” có nghĩa là rực rỡ. Có nghĩa là dùng những thứ ấy để trang hoàng tôn nghiêm, rực rỡ, tức là giống như trong phần trên [đã nói], dùng một thứ báu, hai thứ báu, cho đến bảy thứ báu vân vân).

“Trang nghiêm”: “Mỹ lệ” như phàm nhân chúng ta thường nói chính là ý nghĩa “trang nghiêm” trong Phật pháp. Đẹp thì nhất định phải chỉnh tề, rối ren sẽ chẳng thể đẹp được! “Hiệu sức” là rực rỡ, lộng lẫy, “hiệu” là cân nhắc, “sức” là trang hoàng. Đã trang hoàng lại còn cân nhắc, tức là thiết kế tỉ mỉ. Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng cần người tỉ mỉ thiết kế, nó tự nhiên đẹp đẽ như vậy. “Dĩ tư nghiêm sức” là dùng bảy báu để trang nghiêm, tô chuốt.

 

(Sao) Hựu thử thất bảo, cô thủ danh đồng thử phương, thật tắc bất loại.

() 又此七寶,姑取名同此方,實則不類。

(Sao: Lại nữa, bảy thứ báu này chỉ là gọi tên giống như trong thế giới này, chứ thật ra chúng chẳng tương đồng).

 “Bảy báu” nói trong kinh là lấy những thứ hiếm có, được chúng ta coi là trân bảo trong thế gian này để nói so sánh đó thôi! Trên thực tế, thế gian chúng ta chẳng có những vật chất như trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nói cách nào thì chúng ta cũng chẳng cách nào thật sự liễu giải! Chưa từng thấy, mà cũng chưa từng nghe nói. Nói đến bảy báu trong thế gian này thì chúng ta đã từng thấy, tưởng tượng hình trạng đại khái. Thật ra, hình trạng [của các thứ báu trong cõi Cực Lạc] khác hẳn. Khác biệt ở chỗ nào? Ở đây nói:

 

(Sao) Như thiên kim, thiên ngân, dĩ phi nhân thế sở hữu, hà huống bỉ độ!

() 如天金天銀,已非人世所有,何況彼土。

(Sao: Như vàng bạc cõi trời, trong cõi người đã chẳng có, huống gì [các thứ báu] trong cõi kia!)

Đây là nói đến cõi trời.  Dục Giới Thiên cũng có vàng, bạc, nhưng vàng, bạc của họ có mức độ tinh thuần chắc chắn chẳng giống như trong thế gian này, vàng bạc của chúng ta chẳng thể sánh bằng, huống gì [những chất báu] trong thế giới Cực Lạc. Kinh Vô Lượng Thọ nói vật chất trong Tây Phương Cực Lạc phong phú, trang nghiêm, trân bảo của Lục Dục Thiên (Tha Hóa Tự Tại Thiên) so với Tây Phương Cực Lạc thế giới khác biệt ngàn vạn ức lần, chẳng có cách nào so sánh. Chúng ta phải biết điều này.

 

(Sớ) Hựu thất bảo giả, thường dụ thủ quý trọng nghĩa, như Phạm Võng trung thuyết.

() 又七寶者,常喻取貴重義,如梵網中說。

(Sớ: Lại nữa, bảy báu là thường dùng để tỷ dụ ý nghĩa quý trọng, như trong kinh Phạm Võng có nói).

Kinh Phật thường nói bảy báu là dựa theo ý nghĩa “quý trọng”, kinh Phạm Võng nói điều này.

 

(Sao) Quý trọng giả, Phạm Võng kinh Bồ Tát Tâm Địa phẩm, ngôn “khí xả Đại Thừa kinh luật bất học, nhi học ngoại đạo, Nhị Thừa, tà kiến đẳng giả, như xả thất bảo, phản thủ ngõa lịch”. Đối ngõa lịch ngôn, cố tri Bảo giả, thủ “quý trọng” nghĩa.

() 貴重者,梵網經菩薩心地品,言棄捨大乘經律不學,而學外道二乘邪見等者,如捨七寶,反取瓦礫,對瓦礫言,故知寶者取貴重義。

(Sao: “Quý trọng”, phẩm Bồ Tát Tâm Địa trong kinh Phạm Võng có nói: “Vứt bỏ kinh luật Đại Thừa để học ngoại đạo, Nhị Thừa, tà kiến v.v… giống như bỏ bảy báu để ngược ngạo giữ lấy ngói sạn”. Do so với ngói sạn để nói, nên biết [kinh nói] “bảo” theo ý nghĩa “quý trọng”).

 Nêu rõ [lý do] vì sao kinh Phật thường nói “bảy báu”, dụng ý tuyệt đối chẳng phải là khiến cho chúng ta tham cầu hưởng thụ vật chất, mà trong ấy có ý nghĩa rất sâu. Ở đây, [lời Sao] đã giảng rõ: Đây là nói hết thảy chúng sanh, nếu quý vị chẳng gặp duyên này, tức là quý vị chẳng có phước báo! Nếu gặp được duyên này, quý vị là người có phước báo. Người có phước báo gặp duyên, nay chúng ta gọi duyên là “cơ hội”, quý vị gặp cơ hội mà không thể nắm giữ, chẳng thể nắm vững cơ hội, bỏ lỡ cơ hội, thật sự quá đáng tiếc. Có thể thật sự nắm vững cơ hội, đó là ý nghĩa bảy báu, là quý trọng. Quý vị gặp gỡ Phật pháp, chẳng học pháp Đại Thừa, mà học ngoại đạo! Hiện thời, kẻ học theo ngoại đạo rất nhiều! Hoặc là quý vị học Tiểu Thừa, hai thừa Thanh Văn và Duyên Giác là Tiểu Thừa. Ngoại đạo và Tiểu Thừa đều gọi là tà kiến, vì tri kiến đều chẳng chánh. Điều này giống như bỏ bảy báu để lấy ngói sạn. “Ngõa lịch” (瓦礫) là miếng gạch, mảnh ngói, làm sao có thể sánh bằng bảy báu? Điều này giống như kẻ chẳng biết giá trị, chẳng biết sang, hèn, dùng điều này để so sánh. Nói trở lại, nay chúng ta gặp được Đại Thừa, chư vị có thật sự giữ lấy Đại Thừa hay không? Tôi cảm thấy chẳng hề! Tuy quý vị chẳng học theo ngoại đạo, chẳng học theo Tiểu Thừa, nhưng hiện thời quý vị vẫn y như cũ, do tà kiến mà học Đại Thừa, nên quý vị vẫn chưa học được Đại Thừa! Con người hiện thời nhận giả, chẳng nhận thật! Quý vị nói chuyện giả với họ, họ hoan hỷ! Quý vị nói lời thật với họ, họ bèn cự tuyệt, ngược ngạo chẳng cần, rất tệ hại! Tuy Đại Thừa phổ biến như vậy, họ chẳng thể học!

Học Phật phải có điều kiện học Phật, cổ nhân gọi [người thỏa mãn các điều kiện ấy] là “pháp khí”. Quý vị có phải là pháp khí hay không? Nếu quý vị chẳng phải là pháp khí, ban pháp ấy cho quý vị vô ích! Thí dụ như chúng ta muốn có nước, hỏi quý vị: “Có dụng cụ để đựng nước hay không?” “Tôi có một cái chén”. Cái chén ấy chính là pháp khí, ta có thể đựng nước. Quý vị đem cái bát lớn đến, tôi cho quý vị đựng được nhiều nước hơn một chút. Quý vị đem cái chén nhỏ đến, tôi cho quý vị ít nước một tí, mỗi người tương xứng với khả năng nhận lãnh. Quý vị nói: “Tôi chẳng có dụng cụ đựng nước”, vậy thì tôi cho quý vị nước, quý vị chẳng lấy được! Do vậy, quý vị phải là pháp khí thì mới có tư cách học Phật pháp. Pháp khí là gì? Tức là quý vị có điều kiện, có năng lực để nhận lãnh Phật pháp thì mới có thể thành tựu. Cổ đức thích nhất hai loại người: Một là loại người thượng trí, hai là hạng hạ ngu. Thiện tri thức chân chánh coi hai loại người này như bảo bối, vì sao? Họ là pháp khí, rất có thể thành tựu. Người thượng trí vừa nói liền thông suốt, chẳng hoài nghi, liền hiểu rõ, có thể y giáo phụng hành. Kẻ hạ ngu biết chính mình chẳng có trí huệ, biết chính mình chẳng bằng người khác, nên người ấy cũng rất khiêm hư, rất thật thà, dạy kẻ ấy làm như thế nào, kẻ ấy làm như thế ấy, rất ngoan ngoãn chịu nghe lời, kẻ ấy ham học. Hạng căn tánh nửa vời sẽ phiền lắm, tự cậy chính mình thông minh, tục ngữ gọi họ là “cao chẳng với tới, thấp chẳng bén gót”. Quý vị nói với họ, họ cũng có thể hiểu, nhưng bảo họ làm, họ có quá nhiều ý kiến! Người như vậy đâm ra chẳng thể thành tựu, tục ngữ nói: “Thông minh đâm ra bị lầm lẫn bởi thông minh”, Thế Trí Biện Thông đấy mà!

Trong thời đại hiện tại, Thế Trí Biện Thông quá nhiều. Từ bé, trẻ nhỏ xem TV mỗi ngày, đầu óc đầy ứ tà tri tà kiến, làm sao nó có thể học Phật pháp? Chẳng có [bẩm tánh] thiên chân như người thời cổ. Cổ nhân chẳng có nhiều thông tin như thế. Nếu sống ở nông thôn, mặt trời mọc bèn ra đồng làm lụng, mặt trời lặn bèn nghỉ ngơi, trừ chuyện ấy ra, chuyện gì cũng chẳng biết, đầu óc đơn thuần, học điều gì cũng đều dễ dàng. Con người hiện thời đầu óc rất phức tạp, trở thành đại chướng ngại trong việc học Phật pháp. Trong xã hội đơn thuần như trước kia, thông thường vẫn phải chịu huấn luyện năm năm. Vừa mới vào Phật môn, bất luận xuất gia hay tại gia đều phải chịu huấn luyện năm năm, trong Phật môn thường nói là “năm năm học giới”. Giới ở đây chẳng phải là giới luật trong kinh điển, mà là tuân giữ lời răn dạy của thầy, tu phước, tu huệ.

Phật là đấng Phước Huệ Nhị Túc Tôn, tức là đấng phước và huệ đều viên mãn, phước viên mãn, huệ cũng viên mãn. Học Phật là học phước, học huệ, học phước huệ như thế nào? Phải tu! Phải nghiêm túc tu phước, tu huệ. Phật pháp từ đầu tới cuối đòi hỏi chúng ta tu phước, tu huệ. Huệ học từ chỗ nào? Học từ Căn Bản Trí. Căn Bản Trí là gì? Căn Bản Trí là vô tri; kinh Đại Bát Nhã nói “Bát Nhã vô tri”, trước tiên hãy học từ đây. Nay chúng ta điên đảo, hiện thời đang học “hữu tri”, chỉ sợ chính mình chẳng biết, [luôn mong mỏi] thứ gì cũng đều phải biết, sai mất rồi! Đó chẳng phải là trí huệ chân thật, mà là gì? Vọng tưởng! Hiện thời chẳng phải là cầu trí huệ trong Phật pháp, mà là cầu vọng tưởng. Suốt ngày từ sáng đến tối dấy vọng tưởng, vẫn sợ chưa đủ vọng tưởng, dốc hết tánh mạng để học vọng tưởng, hỏng bét! Tu phước thì phải phục vụ đại chúng, phục vụ xã hội, phục vụ hết thảy chúng sanh; tu phước từ chỗ này, tối thiểu phải dùng thời gian năm năm để tu học. Tu phước thì hai mươi bốn môn oai nghi trong Sa Di Luật Nghi đều là tu phước. Tuy đức Phật nói hai mươi bốn môn oai nghi với người xuất gia, người tại gia có thể tu học giống hệt như vậy.

Đối với việc tu Căn Bản Trí, cũng có thể nói là trước hết, quý vị phải định cái tâm, khiến cho cái tâm đạt đến thanh tịnh rồi mới dùng tâm thanh tịnh để nghe pháp, đọc kinh, quý vị sẽ có thể khai ngộ. Nếu quý vị chẳng có tâm thanh tịnh, quý vị nghe kinh suốt đời, niệm kinh suốt đời, chẳng thể nào khai ngộ! Ngộ là từ trong tâm thanh tịnh phát ra, chư vị nhất định phải biết điều này. Nếu chúng ta từ đọc tụng mà đạt được trí huệ, kinh Phật gọi đó là Thế Trí Biện Thông. Người thế gian đọc sách rất nhiều, ghi nhớ rất nhiều, nói đến nỗi hoa trời rơi tán loạn, trước tác đồ sộ, trong Phật pháp gọi điều đó là Thế Trí Biện Thông, chẳng phải là trí huệ chân thật. Vì sao? Đầu óc kẻ ấy hằng ngày [bận bịu] suy tưởng, hằng ngày tư duy. Nói cách khác, tất cả sự thông minh, trí huệ của kẻ ấy đều lưu lộ từ tâm ý thức, cũng tức là từ phân biệt, chấp trước, vọng tưởng sanh ra, đó chẳng phải là trí huệ được nói trong nhà Phật! Trí huệ như trong nhà Phật đã nói lưu lộ từ Chân Như bổn tánh, sanh từ tâm thanh tịnh, lìa hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; đó là trí huệ. Hoàn toàn khác hẳn! Pháp thế gian và Phật pháp khác nhau ở chỗ này. Do đó, quyết định chẳng thể dùng phương pháp thế gian để tu học Phật pháp.

Làm thế nào mới có thể đạt đến tâm thanh tịnh? Tức là [làm thế nào] để đạt được Căn Bản Trí? Phương pháp hết sức nhiều. Các tông phái Phật giáo dùng các phương pháp khác nhau, nhưng nguyên lý giống nhau, mục tiêu như nhau! Phương pháp được dùng trong Giáo Hạ là đọc thuộc lòng kinh điển, không giảng ý nghĩa. Vì sao? Hễ giảng ý nghĩa, quý vị lại có phân biệt, chấp trước. Chẳng giảng ý nghĩa mà bảo quý vị niệm, niệm để làm gì? Niệm cho cái tâm đắc định. Niệm cho hết sạch tất cả hết thảy phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, dùng phương pháp niệm kinh [để đạt mục đích ấy]. Vì lẽ đó, phương pháp niệm kinh là tu định, tu tâm thanh tịnh. Quý vị vừa niệm kinh vừa nghĩ tưởng ý nghĩa trong kinh, tâm quý vị chẳng thanh tịnh. Vì thế, quý vị niệm một giờ là tu một giờ, niệm hai giờ bèn tu hai giờ, mọi người phải hiểu đạo lý này. Niệm kinh là tu hành. Trong các buổi giảng, chúng tôi đã nói với chư vị quá nhiều, niệm kinh là hoàn thành Tam Học Giới – Định – Huệ cùng một lúc. Không chỉ là tu Định, mà còn có Giới ở trong ấy, Huệ cũng ở trong ấy, có thể thấy niệm kinh trọng yếu lắm!

Phương pháp của Thiền Tông là chẳng dùng niệm kinh, mà dùng đả tọa (tĩnh tọa), tham cứu, hoặc dùng quán tâm, tham thoại đầu, dùng các phương pháp ấy, mục đích như nhau, cũng là khiến cho quý vị bỏ sạch phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Mật Tông dùng trì chú, thậm chí Tịnh Độ Tông dùng niệm A Di Đà Phật, phương pháp khác nhau, nhưng mục đích hoàn toàn như nhau. Mật Tông vừa nhập môn vẫn chưa trì chú, mà bảo quý vị lễ mười vạn lạy trong ba tháng, dập đầu mười vạn lần. Nếu trong ba tháng, quý vị không thể lễ mười vạn lạy, vậy thì khỏi cần học, chẳng dạy nữa! Những phương pháp này đều nhằm làm cho quý vị vứt sạch hết thảy phân biệt, vọng tưởng, chấp trước, khiến cho tâm quý vị chuyên chú. Lễ mười vạn lạy phải đếm số, khi quý vị đếm số, trong tâm chẳng thể nghĩ tới chuyện gì khác. Nghĩ tới chuyện khác sẽ đếm trật. Đếm trật bèn chẳng tính, làm lại từ đầu! Vì thế, chuyện này rất phiền, nhất định phải tập trung tinh thần để tính đếm, để khỏi bị đếm trật. Đều là dùng các phương pháp ấy để chúng ta đạt được cái tâm thanh tịnh.

Đối với Giáo Hạ, thông thường là niệm ba ngàn lần các bộ kinh có phân lượng kha khá như kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm, mỗi ngày niệm một bộ. Niệm một bộ, niệm thuần thục, nhanh nhất phải mất bốn giờ. Nếu chưa thuần thục, có thể mất đến tám tiếng. Sau khi niệm như vậy, tâm quý vị mới có nền tảng, nghe kinh có thể khai ngộ. Tôi giảng kinh ở thành phố Đài Bắc đến năm nay là ba mươi năm, chưa thấy một ai khai ngộ! Vì sao chẳng có người nào khai ngộ? Là vì chẳng có người nào tâm thanh tịnh, trong tâm đều rất loạn! Không chỉ là pháp thế gian đã khiến cho quý vị loạn, mà Phật pháp cũng khiến cho quý vị loạn! Hôm nay nghe kinh này, ngày mai nghe kinh khác; hôm nay nghe vị pháp sư này giảng, ngày mai nghe vị đại đức kia giảng, đầu óc loạn tùng phèo! Tâm chẳng thanh tịnh thì đọc kinh, nghe giảng đều là tăng trưởng tà kiến. Như vậy thì chẳng thể coi là đọc kinh, mà là nghiên cứu kinh. Nghiên cứu kinh là tăng trưởng tà kiến.

Tâm thanh tịnh đọc kinh, nghe giảng, bèn tăng trưởng trí huệ. Lục Tổ đại sư thưa với Ngũ Tổ: “Trong tâm đệ tử thường sanh trí huệ”. Vì sao thường sanh trí huệ? Tâm Ngài thanh tịnh. Vì sao chúng ta thường sanh phiền não? Tâm chẳng thanh tịnh, mấu chốt ở ngay chỗ này. Trọn chẳng phải là Ngài có sở trường đặc biệt gì, mà chúng ta chẳng có! [Nếu nghĩ như vậy] thì chẳng hợp lý! Ngài có, chúng ta cũng có, chúng ta có cái tâm giống hệt, nhưng tâm Ngài thanh tịnh, tâm chúng ta chẳng thanh tịnh. Chúng ta vứt bỏ hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tâm chúng ta cũng thanh tịnh. Ngài có thể thường sanh trí huệ, thì chúng ta cũng giống vậy, “thường sanh trí huệ”, chẳng có sai biệt! Bởi lẽ đó, tâm thanh tịnh là trọng yếu.

Đương nhiên, hiện thời chúng ta chẳng phải là kẻ mới học, nay đã là từ tuổi trung niên trở lên, chẳng thể làm học trò Tiểu Học nữa, nhưng chúng ta đã bỏ lỡ giai đoạn cầu học, nay bắt đầu làm lại. Nếu hiện thời bắt đầu làm lại thì cũng phải nghĩ đến chuyện “mất dê mới lo sửa chuồng”. Một mặt nghe kinh ở đây, một mặt phải tu từ căn bản, tu căn bản chính là phải tu tâm thanh tịnh. Nghe kinh, nghiên cứu giáo, nhà Phật có một nguyên tắc: “Nghe hiểu thì rất tốt; nghe không hiểu bèn chẳng nghiên cứu, chẳng suy lường”. Vì sao? Nghe không hiểu, nếu quý vị mong hiểu kinh, càng nghĩ càng xa, càng nghĩ càng sai bét, vì sao? Quý vị đã hiểu, tức là quý vị dùng trực tâm để trực tiếp thấu hiểu; hễ rớt vào trong phân biệt liền rơi vào ý thức. Rơi vào ý thức sẽ biến thành tà tri, tà kiến. Do vậy, chớ nên suy nghĩ, chớ nên tư duy, chớ nên nghiên cứu những thứ ấy! Không chỉ là Thiền Tông lìa tâm ý thức, mà Giáo Hạ cũng phải lìa tâm ý thức giống hệt. Tâm là vọng niệm, ý là chấp trước, thức là phân biệt. Lìa tâm ý thức; nói cách khác, quý vị chớ nên phân biệt, chớ nên chấp trước, chớ nên dấy vọng tưởng, như vậy thì quý vị mới có thể đạt được nghĩa chân thật của Như Lai. Bài kệ Khai Kinh có câu: “Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa”, quý vị mới có thể thật sự hiểu được. Quý vị dùng tư duy, suy tưởng, dùng phân biệt, chấp trước, chắc chắn là tà tri tà kiến.

Do điều này biết, người học Phật đáng quý ở chỗ trong mười hai thời (suốt ngày từ sáng đến tối) gìn giữ cái tâm thanh tịnh. Ta muốn gìn giữ, nhưng giữ chẳng được, vọng niệm tự nhiên sanh khởi. Chúng ta dùng phương pháp niệm Phật, Mật Tông dùng phương pháp trì chú, Thiền Tông dùng phương pháp tham cứu, Giáo Hạ dùng phương pháp đọc kinh, dùng những phương pháp ấy để khắc phục vọng niệm của chính mình, khiến cho cái tâm của chính mình có thể đạt tới thanh tịnh; đó gọi là “pháp môn bình đẳng, chẳng hai, chẳng khác”, đạo lý như vậy. Pháp môn thật sự bình đẳng, quý vị dùng phương pháp khác nhau, nhưng đạt tới mục đích hoàn toàn giống nhau. Còn như chọn lựa phương pháp nào thì căn tánh mỗi người mỗi khác, mỗi người có sở thích khác nhau, quý vị thích dùng phương pháp nào, bèn dùng phương pháp ấy, phương pháp chẳng có nhất định. Nhưng quý vị dùng phương pháp nào thì phải dùng đến cùng, chớ nên thường xuyên thay đổi. Thường xuyên thay đổi, công phu chẳng dễ gì đắc lực! Dùng một phương pháp đến cùng thì mới có thể đắc lực, mới có thể sanh ra tác dụng. Tác dụng là khiến cho phân biệt, vọng tưởng, chấp trước của quý vị ngày càng ít đi, trí huệ ngày càng tăng trưởng. Chư vị nhất định phải hiểu đạo lý này. Công phu tu hành chân chánh là ở chỗ nào? Ở ngay trong huấn luyện cái tâm thanh tịnh. Trong pháp môn này gọi là “huấn luyện nhất tâm bất loạn”, đây là công phu chân chánh. Công phu thuận tiện nhất là Phật hiệu, [tức là] chấp trì danh hiệu! Vọng niệm mới vừa sanh khởi, [bèn dùng danh hiệu] A Di Đà Phật để đè nén; trừ một niệm A Di Đà Phật ra, chẳng có niệm thứ hai, quý vị đạt tới nhất tâm bất loạn, đó là công phu chân chánh.

Đương nhiên đối với người sơ học rất khó khăn, vì sao khó khăn? Thành kiến của quý vị rất sâu, ý kiến quá nhiều, chẳng chịu thật thà thực hiện! Vừa mới bảo quý vị niệm kinh thì niệm kinh nhằm mục đích nào? Hai mục đích: Một là nhằm đạt tới mục đích huấn luyện cho cái tâm thanh tịnh, mục đích kia là khiến cho quý vị hiểu biết lý luận, phương pháp và cảnh giới, sau đấy quý vị mới khăng khăng một mực niệm Phật. Niệm kinh nhằm đạt tới hai mục đích trọng yếu ấy. Niệm Phật là “đơn đao trực nhập”, một mục tiêu, một phương hướng, như vậy thì mới có thể niệm thành công, niệm đến công phu thành phiến, niệm đến nhất tâm bất loạn.

Chúng ta đọc đến đoạn kinh văn này, thật sự hết sức cảm khái! Hiện thời, phương pháp học Phật sai lầm, cho nên tu học nhọc nhằn, vất vả, tu thật lâu mà chẳng đạt được kết quả, hết sức đáng tiếc. Nếu hiểu phương pháp, nương theo phương pháp ấy để hành, thưa quý vị, ba tháng sẽ hữu hiệu. Huấn luyện trong ba tháng ấy, tâm của quý vị thanh tịnh rất nhiều. Sáu tháng, quý vị nhất định sanh pháp hỷ, ba năm bèn có thành tựu, khác hẳn! Ba năm, nhân sinh quan và vũ trụ quan của quý vị khác hẳn, khí chất con người biến đổi. Nếu quý vị chẳng chịu làm như vậy, học ba mươi năm vẫn y như cũ, chẳng có biến hóa gì!

Nếu chư vị muốn thật sự thành tựu, chớ nên không chú tâm thấu hiểu lời này; đây là nói lời thật cùng quý vị. Ấn Quang đại sư suốt đời chẳng lừa ai, luôn chân thật. Theo học với Ngài, Ngài khai thị cho quý vị một lượt, bảo quý vị trở về nhà thật thà tu tập suốt một đời. Ngài quyết định chẳng bảo quý vị đến chùa miếu khắp các nơi, hoặc đi khắp nơi nghe kinh, hoặc đến khắp nơi nghiên cứu kinh điển. Ngài bảo quý vị về nhà niệm một quyển kinh, niệm A Di Đà Phật, thật thà tu tập suốt một đời. Nếu quý vị thừa dịp rảnh rỗi đến thăm lão pháp sư, quý vị đọc Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao [sẽ thấy] khi học trò đến gặp Ngài, Ngài quở kẻ đó: “Ngươi chẳng ở nhà thật thà niệm Phật, đến đây để làm gì?” Học trò thưa: “Con đến gặp sư phụ”. [Ngài mắng]: “Sư phụ đã gặp rồi, còn có gì hay ho để xem nữa?” Quở mắng, đuổi về! Khởi lên một niệm đến gặp thầy là suy nghĩ tán loạn. Không ở nhà thật thà niệm Phật, mà lãng phí thời gian, lãng phí tinh lực, lãng phí tiền tài!

Do vậy, mọi người tôn kính pháp sư Ấn Quang, nhưng chẳng có ai đề xướng. Vì sao? Đề xướng thì chùa miếu chẳng có tín đồ, ai nấy đều về nhà thật thà niệm Phật, dẫu làm pháp hội cũng chẳng có ai đến. Chùa miếu hiện thời phải cậy vào tín đồ cúng dường, nên mọi người “kính nhi viễn chi” pháp sư Ấn Quang, chẳng nhắc đến Ngài. Ngài là người nói lời chân thật, chẳng lừa người. Lôi kéo quý vị thường đến chùa tụ họp, đó là lừa người, chẳng thể có thành tựu, đó là tu một chút phước báo nhân thiên hữu lậu, làm chuyện này mà thôi, chẳng có mảy may liên quan đến Phật pháp, đến “liễu sanh tử, thoát tam giới”, đến vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới! Chư vị nhất định phải nhớ kỹ chuyện này. Nếu quý vị mong trong tương lai sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới thì những lời tôi nói ở đây rất hữu dụng!

 

(Sao) Chánh minh nhị độ tịnh uế bất đồng, linh hân yếm cố.

() 正明二土淨穢不同,令忻厭故。

(Sao: Nêu rõ hai cõi tịnh uế khác nhau, khiến [người nghe] ưa thích và chán nhàm).

Ở đây, Ngài nêu ra ý nghĩa này. Hai thế giới hoàn toàn khác nhau, chỗ khác biệt lớn nhất, thưa quý vị, là người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới vô lượng thọ. Thọ mạng của hết thảy chúng sanh trong mười phương các cõi Phật đều có hạn lượng, dẫu dài cách mấy thì vẫn là có hạn lượng. Thọ mạng của chư thiên trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng trong thế giới Sa Bà là tám vạn đại kiếp, vẫn là thọ lượng hữu hạn. Kinh Vô Lượng Thọ nói: Thuở ấy, Thế Tự Tại Vương Như Lai trụ thế bốn mươi hai kiếp, vẫn là thọ lượng hữu hạn. Chỉ riêng nhân dân trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là vô lượng thọ, thật sự vô lượng. Chẳng cần nói tới những chuyện khác, nếu quý vị thật sự hiểu rõ điều này, đương nhiên giữ lấy Tây Phương Cực Lạc thế giới. Ai muốn sanh tử luân hồi? Sanh tử luân hồi vô cùng khổ sở! Quý vị phải thấy rành rẽ hiện tượng luân hồi! Trẻ thơ được sanh ra, đứa bé ấy đến đầu thai là đến [thế giới này]. Khi chết, lại ra đi, [dẫu đến hay đi] đều ở trong luân hồi. Sống sống chết chết, chết chết sống sống, khổ khôn kể xiết, phải giác ngộ điều này!

Quý vị nói quý vị là một người sống rất sung sướng trong thế gian này, quý vị biết mình sung sướng lúc nào? Khi nào quý vị nhận biết sự sung sướng ấy đã qua đi? Thời gian rất ngắn. Coi như thọ mạng của quý vị khá lắm, có thể sống tới tám mươi tuổi, hai mươi năm đầu lo học hành, chẳng có thành tựu gì để nói tới. Hai mươi năm cuối già nua, mắt cũng hoa, tai cũng điếc, răng cũng rụng, chuyện gì cũng đều bất tiện, ngày càng khổ hơn. Tính ra trong bốn mươi năm thuộc khoảng giữa, tối ngủ mất một nửa, còn lại hai mươi năm. Hai mươi năm, quý vị mỗi ngày ăn cơm, làm lụng, nên lại phải trừ đi một nửa, trừ mất mười năm, thọ mạng của quý vị thật sự chỉ có mười năm. Nếu mười năm mà nghiêm túc làm việc thì chỉ sợ lại phải khấu trừ một nửa, quý vị chỉ còn có năm năm. Thời gian để quý vị có thể thật sự dụng công trong một đời, trên thực tế chỉ có năm năm. Coi như quý vị sống đến tám mươi tuổi, trừ qua, bớt lại, cuối cùng chỉ còn năm năm, quý vị phải giác ngộ! Vui ở chỗ nào? Đời người chẳng vui, chỉ có khổ, chẳng có vui sướng gì! Vì ăn, mặc, ở, đi lại mà bươn chải, đối với những gì quý vị đạt được, phải trả một cái giá to lớn cỡ nào thì mới được no ấm?

Quay đầu nhìn lại Tây Phương Cực Lạc thế giới, nếu muốn nhận biết và liễu giải Tây Phương Cực Lạc thế giới, ít nhất quý vị phải đọc Tịnh Độ Ngũ Kinh Độc Bổn từ đầu đến cuối ba lần. Trong tâm quý vị có sự hiểu biết đại khái về Tây Phương Cực Lạc thế giới, mới hiểu chỗ tốt đẹp trong thế giới ấy, chẳng giống như trong thế giới này. Thế giới ấy chẳng có ưu lự, chẳng có vướng mắc, chẳng có phiền não, ăn, mặc, ở, đi lại tự nhiên, không cần phải sắp đặt, lo liệu, không cần quan tâm, tâm quý vị mới có thể vĩnh viễn giữ được sự thanh tịnh quang minh. Người trong thế giới ấy thần thông quảng đại, Thiên Nhãn thấy thấu suốt, Thiên Nhĩ nghe thấu triệt, năng lực của họ do đâu mà có? Vì họ chẳng có phiền não, tâm họ thanh tịnh. Nói thật ra, chúng ta cũng có năng lực ấy, nhưng đã đánh mất. Vì sao đánh mất? Mỗi ngày lo ăn, lo mặc, mỗi ngày bụng dạ đều vướng mắc, chuyện này phiền lắm, khiến cho cái tâm thanh tịnh của chúng ta bị khuấy trộn nháo nhào, khuấy trộn đến nỗi mê hoặc, điên đảo, nên toàn bộ bản năng (năng lực sẵn có) của chính mình bị mất đi!

Nếu quý vị nói thế giới Cực Lạc tốt đẹp, nói thật ra thì là hoàn cảnh sống của họ tốt đẹp. Chúng ta ở trong thế giới này, có khi cuộc sống khổ sở, vẫn phải nghĩ trọn hết phương pháp để di dân, hòng tìm một nơi có cuộc sống tốt đẹp hơn, công việc tốt đẹp hơn, đãi ngộ cao hơn, nghĩ trọn hết mọi phương pháp để đến đó. Sao quý vị chẳng nghĩ tới chuyện về Tây Phương Cực Lạc thế giới? Di dân đến thế giới Cực Lạc mới là người thông minh nhất. Trong thế giới này, chuyển tới đâu đều chẳng sai khác cho lắm, do cộng nghiệp cảm vời mà! Thế giới này chẳng có chỗ tốt đẹp, chỗ tốt đẹp thật sự là ở Tây Phương Cực Lạc thế giới.

“Nhị độ” là thế giới Sa Bà và thế giới Cực Lạc, một là Tịnh Độ, một là uế độ. Nói thật ra, cõi nước chẳng có tịnh hay uế, mà do lòng người có tịnh hay uế. Tâm thanh tịnh cảm vời Tịnh Độ, tâm xấu ác cảm vời uế độ. “Cõi nước” là y báo, y báo chuyển theo chánh báo. Mỗi người trong thế giới Tây Phương đều là tu tâm thanh tịnh vãng sanh, cho nên cõi ấy là thuần tịnh vô uế, chẳng giống các thế giới của mười phương chư Phật do nhiễm nghiệp của chúng sanh cảm vời, là những cõi cảm vời bởi uế nhiễm.

Đối với chúng sanh trong thế giới này, quý vị bảo mọi người tu tâm thanh tịnh, có làm được hay không? Là chuyện chẳng làm được! Mọi người không chịu tu, chúng ta chỉ đành phải di dân. Trừ di dân ra, chẳng có cách nào tốt đẹp để thực hiện, chẳng có biện pháp! Ta mong thanh tịnh, họ không muốn! Ở trong đại vũ trụ này, chỉ có một thế giới vô cùng đặc thù như thế, người tu tâm thanh tịnh trong mười phương thế giới chư Phật đều đến đó. Vì vậy, chúng ta nhất định phải hiểu sự thật chân tướng này. Tiếp theo đây, đại sư nêu ra một sự so sánh nhằm tháo gỡ mối nghi hoặc có thể phát sanh.

 

(Sao) Vấn: Nghiêu xử mão từ, Cơ gián tượng ngọc, thế gian vương thần, thả sùng tố phác, Tịnh Độ Bồ Tát, hà quý bảo nghiêm?

() 問:堯處茆茨,箕諫象玉,世間王臣,且崇素樸,淨土菩薩,何貴寶嚴。

(Sao: Hỏi: Vua Nghiêu sống trong lều tranh, Cơ Tử can gián [vua Trụ] đừng dùng chén đĩa bằng ngà, bằng ngọc. Vua tôi trong thế gian còn chuộng đơn giản, chất phác, sao Bồ Tát trong cõi Tịnh Độ lại chuộng những thứ trân bảo trang nghiêm?)

 Lời hỏi này rất hay! Vì chúng ta nhìn vào Tây Phương Cực Lạc thế giới, dường như cuộc sống bên ấy quá choáng lộn, quá xa xỉ, quá phú quý. Chúng ta thấy thánh nhân trong thế giới này đều tôn trọng cuộc sống đơn giản, thuần phác, trọn chẳng chú trọng hưởng thụ cuộc sống vật chất, mà chú trọng hưởng thụ cuộc sống tinh thần. Vì thế, nêu ra câu hỏi này hay lắm.

“Nghiêu” là vua Nghiêu. Thuở vua Nghiêu tại thế, suốt đời sống trong lều tranh, đắp đất làm tường, phía trên lợp cỏ tranh. Cung điện của vua Nghiêu lợp bằng cỏ tranh, nên gọi là Mão Từ (茆茨). “Cơ” là Cơ Tử[55], là đại thần của Trụ Vương nhà Ân. Ân Trụ Vương quá chuộng hưởng thụ, chén rượu đều làm bằng vàng, ngọc, ngà voi, hết sức tìm tòi sao cho hoa mỹ, tinh xảo. Cơ Tử can gián, chê hoàng đế quá xa xỉ. Ân Trụ Vương không nghe lời, đuổi Cơ Tử ra khỏi nước. Cơ Tử trốn tới Hàn Quốc, nghe nói người Đại Hàn chính là hậu duệ của Cơ Tử. Do vậy, trong thế gian này, Nghiêu là vua, Cơ Tử là đại thần, vua tôi trong thế gian đều tôn trọng chất phác, đơn sơ. Dường như Phật, Bồ Tát trong Tịnh Độ chẳng bằng các vị vua chúa, đại thần trong thế gian, họ sống cuộc đời lộng lẫy, hoa lệ, xa xỉ như vậy, dường như chẳng phải lẽ! “Hà quý bảo nghiêm” [nghĩa là] sao lại coi trọng những thứ trân bảo trang nghiêm ấy? Liên Trì đại sư giải thích:

 

(Sao) Đáp: Thử hữu nhị nghĩa.

() 答:此有二義。

(Sao: Đáp: Ở đây có hai nghĩa).

Trong lời đáp có hai ý nghĩa, một ý nghĩa là…

 

(Sao) Nhất giả, thượng trí chi sĩ, tri tâm tịnh tắc độ tự tịnh, chánh thắng tắc y tất cường, lý cố hữu nhiên, tâm thật vô trước.

() 一者,上智之士,知心淨則土自淨,正勝則依必強,理固有然,心實無著。

(Sao: Một là bậc thượng trí, biết tâm tịnh ắt cõi nước tự tịnh, chánh báo thù thắng, ắt y báo mạnh mẽ là lẽ đương nhiên, tâm thật sự chẳng chấp trước).

Trong tâm quyết định chẳng có chấp trước. Đây là nói theo người có trí huệ cao nhất, “thượng trí”, người ấy đã thông đạt, đã hiểu rõ. Tâm đã tịnh, cõi nước nhất định thanh tịnh, y báo quyết định chuyển theo chánh báo. “Chánh thắng” là chánh báo thù thắng, “y tất cường” [nghĩa là] y báo nhất định cũng thù thắng. “Lý cố hữu” [nghĩa là]: Đây là đạo lý đương nhiên! Những sự trang nghiêm bằng bảy báu trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng phải do toan tính. Nói thật thà, vua Nghiêu thuở ấy muốn cất một cái lều tranh vẫn phải trù tính, vẫn phải có sắp đặt, tính toán để thực hiện như thế nào. Tây Phương Cực Lạc thế giới không cần! Chẳng cần thiết! Hết thảy là tự nhiên. Chúng ta ở nơi đây tôn trọng y báo, cảm thấy đó là phú quý khôn sánh. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có ý niệm ấy, phải biết điều này!

“Tâm thật vô trước”, quyết định chẳng có chấp trước. [Sách Diễn Nghĩa giảng]: “Thượng trí chi sĩ, ngộ cảnh duy tâm, tâm bất kiến tâm, vô tướng khả đắc” (Bậc thượng trí ngộ cảnh là duy tâm, tâm chẳng thấy tâm, nên không có tướng gì để đạt được). Vì vậy, trong quan niệm của họ, hết thảy trân bảo trang nghiêm hoàn toàn giống như huyễn hóa. Thật ra, nói thật sự thì cũng là huyễn hóa, vì sao? Hết thảy sự thụ dụng của họ là tùy thuận lòng ưa muốn; ta trụ trong cung điện này, muốn to một chút, nó bèn to hơn một chút; muốn nó nhỏ hơn một chút, nó bèn nhỏ đi một chút, chẳng phải là giống như huyễn hóa ư? Ta nghĩ là màu vàng ròng, sẽ thấy toàn thể biến thành màu vàng ròng. Ta không thích sắc vàng ròng; ta muốn là màu bạc, toàn bộ biến thành màu bạc, chẳng cần phải bận tâm tí nào, chẳng cần phải ra tay! Tâm tưởng gì biến ra đó, đúng là huyễn hóa tạo thành, thuận theo lòng muốn, họ chẳng có chấp trước. Họ cũng chẳng có cách nghĩ hay ý niệm quý, hèn, vì sao? Mỗi người đều thuận theo tâm nguyện của chính mình mà biến hóa thành tựu. Nhưng phàm phu chúng ta chẳng như vậy, những điều được giảng trong kinh là do Thích Ca Mâu Ni Phật vì bọn phàm phu chúng ta mà nói. Phàm phu có phân biệt, có chấp trước, chẳng biết hết thảy các pháp “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, chẳng biết y báo chuyển theo chánh báo, họ chẳng biết! Vì vậy, họ chỗ nào cũng chấp trước! Chấp tướng? Được rồi! Đối với hai tướng ấy, [phàm phu] bèn có phân biệt, liền chọn lựa, như vậy thì để cho họ hoan hỷ lìa bỏ thế giới Sa Bà, cầu lấy thế giới Cực Lạc. Đây là dụng ý thuyết pháp của đức Phật, chẳng phải nói với người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, mà là để nói với chúng ta!

 

(Sao)  Dụ như Thuấn tại khuyển mẫu,  cung hà lê sừ, nhất thừa

Nghiêu thiện, cảnh tất miện lưu, bất kỳ tự biện, Thuấn hà nhạo yên?

() 喻如舜在畎畝,躬荷犁鋤,一承堯禪,警蹕冕旒,不期自辦,舜何樂焉。

(Sao: Ví như vua Thuấn ở chốn rẫy bái, khiêng vác cày cuốc, một khi được vua Nghiêu nhường ngôi, ra vào có kẻ canh gác, dẹp đường, đội mũ miện rủ tua ngọc, chẳng mong tự đạt được, vua Thuấn há có ham thích gì!)

 Lão nhân gia nêu ra so sánh cũng vô cùng hay! Vua Nghiêu tuổi đã già, muốn truyền lại ngôi vua phải tìm một người tốt đẹp, tìm một người thật sự hiền năng. Đến đâu để tìm? Đi thăm dò khắp nơi! Thời cổ tìm hiền nhân là tìm người như thế nào? Tìm người hiếu thuận, chẳng cần xét gì khác, người ấy có thể hiếu thuận thì nhất định là người tốt. Tại Trung Quốc, từ đời Hán trở về sau; nói thật ra, cũng thực hành chuyện tuyển cử. Từ xưa đến nay, coi trọng tuyển cử, nhưng tuyển cử không nhất định là do dân chúng tuyển cử, mà do quốc vương, đại thần đi khắp nơi thăm dò để tuyển chọn, đề bạt người hiền, gọi là “cử hiếu liêm”. Cử (舉) là tuyển cử, tiến cử kẻ ấy. Người như thế nào? Hiếu liêm, liêm (廉) là liêm khiết. Người liêm khiết tuyệt đối chẳng tham ô, dẫu cuộc sống khổ sở, cũng chẳng đòi hỏi người khác một đồng nào! Người như vậy thay dân chúng làm việc mới là công chánh, nghiêm minh. Tuyển cử người như vậy.

Quan lại địa phương trước đây là tri huyện, tri phủ, giống như hiện thời chúng ta gọi là huyện thị trưởng, điều thứ nhất trong thành tích chánh trường của ông ta là vì quốc gia tiến cử, đề cử nhân tài. Tuyển chọn, đề bạt nhân tài, quốc gia có ban thưởng, [điều ấy được gọi là] “tiến hiền thọ thượng thưởng” (đề cử người hiền tưởng thưởng trọng hậu). Vinh dự cao nhất của đất nước ban thưởng cho ai? Thưởng cho người thay quốc gia đề bạt nhân tài. Người làm huyện thị trưởng, thường ra ngoài thăm dò, con cái nhà nào hiếu thuận, bèn chọn lấy, dùng kinh phí của quốc gia để lo cho nó học hành, vun bồi nó. Nếu gia cảnh nó thanh bần, quốc gia sẽ bù đắp. Cổ nhân thường nói: “Trung thần xuất thân từ hiếu tử”. Người có thể hiếu thuận cha mẹ, sẽ chẳng làm chuyện xấu. Làm chuyện xấu sợ có lỗi với cha mẹ. Vì thế, trong nền giáo dục xưa kia, mọi người có quan niệm “vinh tông diệu tổ” (rạng mày nở mặt tổ tiên), hành vi của ta trong suốt một đời luôn có thể làm cho cha mẹ, tổ tiên tăng thêm vinh dự, chẳng khiến cho tổ tiên, cha mẹ mất mặt. Hễ nghe nói kẻ nào đó làm chuyện xấu, hắn là con cái của người nào đó, cha mẹ kẻ ấy lắm nỗi sượng sùng! Vì thế, con cái ở bên ngoài quyết định chẳng dám làm sai, làm quấy. Quốc gia tuyển cử lấy điều này làm tiêu chuẩn; hiện thời, tiêu chuẩn tuyển cử chẳng còn nữa.

Vua Thuấn là bậc đại hiếu. Người Hoa hễ nói đến hiếu đạo, nhất định là nói đến vua Thuấn. Quý vị đọc Sử Ký thấy có ghi chép [tiểu truyện của vua Thuấn]. Thiên thứ nhất trong bộ Lịch Sử Cảm Ứng Thống Ký là truyện vua Thuấn. Ông ta là người thật sự hiếu thuận, đã thật sự thực hiện được chữ “thuận”. Ông ta sống trong hoàn cảnh gia đình hết sức khổ sở. Mẹ ruột ông ta mất rất sớm. Cha cưới dì ghẻ, dì ghẻ ngược đãi vua Thuấn. Cha vua Thuấn lại nghe lời dì ghẻ, điều này rất khó chịu đựng. Dì ghẻ lại sanh con trai, đương nhiên yêu thương con đẻ, coi con vợ trước như đầy tớ, dùng đủ mọi cách ngược đãi vua Thuấn. Ngược đãi vẫn chưa đủ, còn toan nghĩ cách hại chết ông ta. Vua Thuấn rất thông minh, biết họ dùng kế gì. Dì ghẻ muốn đẩy ông ta xuống giếng để dìm cho chết, vua Thuấn đã sớm khoét một cái ngách bên giếng, khoét lối thông ra ngoài. Quả nhiên, có một hôm họ đẩy ông ta xuống giếng, ông ta theo lối ngách thoát ra. Do ông ta đã sắp đặt dự phòng trước, nên giữ được tánh mạng. Cha, mẹ, anh em ngược đãi như vậy, nhưng ông ta chưa hề nói xấu họ một lời nào, luôn nói họ tốt đẹp, luôn bảo chính mình sai trái, [luôn tự vấn] vì sao chính mình chẳng thể khiến cho cha mẹ vui lòng, luôn luôn quay lại tự trách chính mình. Đến cuối cùng, cha mẹ ông ta bị cảm động, cả một nhà bị ông ta cảm động.

Vua Nghiêu nghe kể chuyện người ấy, tuyệt quá! Nếu người ấy làm vua, dân chúng cả nước sẽ đều được ông ta cảm hóa. Do vậy, vua Nghiêu cho vời ông Thuấn đến, gả hai cô con gái cho. Ông Thuấn cũng chẳng ngờ từ một kẻ bình dân, là một nông phu ở chốn ruộng nương, bỗng nhiên làm hoàng đế, nghĩ cách nào cũng chẳng nghĩ ra được. Đang vác cuốc trên đồng, vừa được vua Nghiêu nhường ngôi vua, “cảnh tất, miện lưu” (ra vào có kẻ canh gác, dẹp đường, đội mũ miện rủ tua ngọc)[56] là nói đến sự tôn nghiêm của đế vương. “Bất kỳ tự biện” [nghĩa là] chẳng phải do chính ông ta mong mỏi đạt được, mà là chuyện tự xảy đến, chẳng phải là điều ông ta mong cầu, chẳng có ý niệm ấy! “Thuấn hà nhạo yên?”: Vua Thuấn có ưa thích hay không? Vua Thuấn chẳng ham! Vì sao chẳng ham? Biết trách nhiệm quá to lớn, nặng nề, ông ta phải trọn hết sức làm tốt công việc, há còn tâm tình gì để hưởng lạc? Chẳng có! Niệm niệm suy tưởng làm thế nào để cai trị đất nước cho tốt đẹp, làm thế nào để dân chúng sống tốt đẹp. Đúng là hy sinh, dâng hiến, há có gì để hưởng lạc ư?

Thời cổ, những vị quan tham chánh trong đất nước, từ trưởng quan địa phương cho đến nguyên thủ quốc gia mang tâm thái gì? Thật sự vì dân chúng phục vụ, mang tâm thái ấy. Thường nói là “học nhi ưu tắc sĩ”, [nghĩa là] học vấn và đạo đức đều đã thành tựu rồi mới ra làm quan. Làm quan có phải là chính mình muốn ra làm hay không? Chẳng phải, nhất định là do người khác mời quý vị ra. [Do họ] thành tâm thành ý mời, nên nể tình, chẳng thể không ra. Gia Cát Lượng cũng là một người làm ruộng, đọc sách, Lưu Bị ba lượt đến thỉnh, thấy tâm ông ta rất chân thành, nên nể tình phải ra. Quý vị đọc Tam Quốc Chí, thấy khi Gia Cát Lượng sắp ra đi, bảo em trai: “Ta đi giúp Lưu tướng quân đôi chút, em hãy trông nom nhà cửa cẩn thận, ta sẽ trở về rất nhanh”. Lòng người ta đâu muốn làm quan! Đi giúp họ Lưu, khi giúp xong liền vội vã trở về, chẳng muốn làm nữa, từ chức! Tuyệt đối chẳng giống như hiện thời, “ta ngon lành cỡ nào, các ngươi phải chọn ta làm quan chức này nọ!” [Xưa kia] chẳng có, chẳng thể nào có chuyện ấy, dẫu được thỉnh vẫn bất động! Vì sao? Không làm quan thật là sung sướng! Hưởng an vui là dân chúng hưởng an vui, người giữ chức vị khổ sở phục vụ nhọc nhằn để chúng ta hưởng thụ, họ tạo phước, dân chúng hưởng phước! Đó là chuyện xưa kia, đương nhiên cũng có lúc hủ hóa, nhưng vẫn có chừng hạn… Chính mình bỏ mất những thứ tốt đẹp của Trung Quốc, học lấy những thứ trời ơi đất hỡi của ngoại quốc, nên chúng ta mới chịu tội, mới bị khổ sở!

Trước kia, tôi theo tiên sinh Phương Đông Mỹ, thầy Phương thường hết sức ca ngợi chế độ nhà Châu. Hiến pháp nhà Châu gọi là Châu Quan, còn gọi là Châu Lễ. Châu Lễ do Châu Công soạn ra, tức là lý tưởng trị quốc (cai trị đất nước) của ông ta. Thầy Phương nói nếu con cháu đời sau của nhà Châu đều có thể làm theo pháp điển ấy, chỉ sợ cho tới hiện thời [vương triều cai trị Trung Hoa] vẫn là nhà Châu, chẳng bị vong quốc! Cụ nói bộ pháp điển ấy, hiến pháp của bất luận quốc gia hay dân tộc nào trên cả thế giới đều chẳng có cách nào sánh bằng! Lúc ấy, thầy bảo tôi xem, tôi mua một bộ nhưng chưa đọc. Sau này học Phật, căn bản là chẳng xem tới sách ấy. Khi tôi theo thầy, tôi còn chưa học Phật, thầy khuyên tôi đọc sách ấy, bảo sách ấy vô cùng hay. Thầy hết sức tán thán, nói lời ấy với tôi tối thiểu mười mấy lượt. Thầy hết sức tôn sùng chế độ nhà Châu, coi đó là một pháp điển tốt nhất thế giới, là nguyên lý và nguyên tắc để trị quốc, bình thiên hạ. Từ đời Hán trở đi, tuyển cử ở Trung Quốc là chức trách của quan lại địa phương, nên điều trọng yếu nhất trong thành tích chánh trị của quan lại địa phương là tuyển cử, đề bạt nhân tài cho quốc gia. Điều này được thực hiện mãi cho đến đời Mãn Thanh, quý vị thấy nó có sức ảnh hưởng to lắm! Gần như [kéo dài] đến hai ngàn năm!

 

(Sao) Cố viết hữu thiên hạ nhi bất dữ dã.

() 故曰有天下而不與也。

(Sao: Vì thế nói: “Có thiên hạ mà chẳng màng”).

Cho nên mới có một câu nói như thế! “Có” tức là tại vị, đang ở địa vị làm vua một nước, đó là “có thiên hạ”, nói theo cách hiện thời là “có chánh quyền”. Có chánh quyền bèn giống như người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, tâm thật sự chẳng chấp trước! Tâm địa người ấy thanh tịnh, trọn chẳng coi đó là chuyện nở mày nở mặt, trọn chẳng coi đó là điều để hưởng thụ. Người ấy ở vị trí đó, biết mưu cầu hạnh phúc cho hết thảy chúng sanh. Do vậy, Phật, Bồ Tát ở địa vị Phật, Bồ Tát, trách nhiệm của các Ngài là phải phổ độ hết thảy chúng sanh, hy vọng hết thảy chúng sanh đều khai ngộ, ai nấy đều thành Phật. Vì Phật pháp là sư đạo; Phật, Bồ Tát có thân phận là thầy, đã là thân phận thầy thì phải dạy học. Do vậy, chẳng có một vị Phật, Bồ Tát nào chẳng giảng kinh, hoằng pháp; chẳng có! Tìm không ra! A La Hán có vị chẳng giảng kinh, thuyết pháp, nhưng Bồ Tát chẳng vậy, nhất định là giảng kinh, hoằng pháp. Dẫu chẳng chánh thức giảng kinh, hoằng pháp, Ngài cũng hộ trì đạo tràng giảng kinh, hoằng pháp. Giống như trong một trường học, lên lớp trong nhà trường là giáo viên, không lên lớp là các nhân viên, [những nhân viên ấy] cũng chẳng thể khuyết thiếu! Chẳng có các nhân viên, ai lo công chuyện? Bởi lẽ, cần có người lo liệu công việc!

Quý vị ai nấy đều làm giáo viên, có khi Bồ Tát cũng làm nhân viên. Xưa kia, chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai, mọi người đều dốc hết tánh mạng dụng công tu học, rốt cuộc là chân học hay giả học, chẳng biết! Cho dù là giả vờ học, vẫn khiến cho A Di Đà Phật, Văn Thù Bồ Tát, và Phổ Hiền Bồ Tát đến làm lụng trong chùa. A Di Đà Phật ở hậu viện giã gạo cúng dường đại chúng, làm việc lao dịch. Văn Thù và Phổ Hiền nấu cơm trong nhà bếp. Văn Thù, Phổ Hiền là Hàn Sơn, Thập Đắc, A Di Đà Phật là hòa thượng Phong Can. Chân tướng cũng do chính các Ngài bộc lộ. Quan đứng đầu địa phương là Lư Thứ Sử đến nhận chức, nửa đường bị bệnh nặng, rất nhiều thầy thuốc đều bó tay, ngài Phong Can đến chữa bệnh cho ông ta. Sau khi chữa khỏi, ông Lư hỏi Sư: “Pháp sư, thầy ở nơi đâu?” Sư đáp: “Tôi ở chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai”, ông Lư nói: “Đó là nơi ta cai trị”. Ông ta là trưởng quan của địa phương, quản hạt khu vực ấy, liền thỉnh giáo Sư: “Trong chùa của thầy có cao tăng hay không?” “Có! Hàn Sơn là Văn Thù Bồ Tát, Thập Đắc là Phổ Hiền Bồ Tát”.

Ông ta vừa đến nhiệm sở, ngày hôm sau liền vội vã đến chùa Quốc Thanh bái phỏng hai vị Bồ Tát. Đến chùa Quốc Thanh liền hỏi Văn Thù và Phổ Hiền, mọi người chẳng biết Văn Thù và Phổ Hiền là ai? Lại hỏi đến Hàn Sơn và Thập Đắc, họ nghĩ cả nửa ngày [cũng không biết là ai]! Có hai người điên điên, khùng khùng nhóm lửa trong nhà bếp, một gã là Hàn Sơn, gã kia tên là Thập Đắc. Ông ta đến đó, vừa gặp mặt liền sụp lạy. Hai người ấy chẳng màng đến ông ta, vội vã bỏ chạy ngay, ông ta đuổi theo sau. Đuổi tới một quả núi, núi ấy liền tách ra, hai người bọn họ bước vào đó, quay lại nói: “Di Đà lắm mồm”. “Lắm mồm” tức là đã nói toạc bí mật của bọn họ. Ông Lư mới biết Phong Can là A Di Đà Phật. Bọn họ vừa bước vào, núi bèn khép lại, chẳng thấy người đâu nữa! Sau đó, [ông Lư] đi tìm Phong Can, nhưng Phong Can cũng không thấy. Vì thế mới biết A Di Đà Phật, Văn Thù, Phổ Hiền làm việc nặng phục vụ mọi người, chuyện người ta không muốn làm, Phật, Bồ Tát bèn đến làm. Do vậy, Phật, Bồ Tát chẳng giảng kinh, thuyết pháp, bèn làm việc nặng nề hòng cúng dường đại chúng, đều là làm khuôn mẫu, nêu gương cho chúng ta thấy. Chúng ta thấy những chuyện ấy chẳng muốn làm, Phật, Bồ Tát chịu làm. Đó là giải thích mười phần cụ thể câu “có thiên hạ mà chẳng màng”.

Đây là ý nghĩa thứ nhất, nêu rõ bọn họ đạt được tự nhiên, quyết định chẳng có tâm [mong cầu, toan tính], quyết định chẳng hưởng lạc, hễ có vui sướng thì trật mất rồi. Hai bên khổ và lạc đều bỏ, tâm người ấy là thanh tịnh, tâm chẳng mê, tâm đầy ắp trí huệ, chúng ta phải hiểu điều này. Ý nghĩa thứ hai là “khúc vị độn căn phàm phu” (chiều theo phàm phu độn căn), tức là vì chúng ta mà nói. Hôm  nay  đã  hết  thời  gian  rồi, chúng tôi giảng tới đây.

 

 — o0o —

Tập 145

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bổn, trang ba trăm lẻ chín:

 

(Sao) Nhị giả, khúc vị độn căn phàm phu, tu thị khổ lạc, linh sanh hân yếm, tiên dĩ dục câu khiên, hậu linh nhập Phật trí.

() 二者,曲為鈍根凡夫,須示苦樂,令生忻厭,先以欲鉤牽,後令入佛智。

(Sao: Hai là thuận theo kẻ độn căn phàm phu, cần phải chỉ ra sự khổ và vui, khiến cho họ ưa thích và chán nhàm, trước hết là dùng dục để lôi kéo, sau đó làm cho họ nhập Phật trí).

 Đoạn trước là nói với bậc thượng căn lợi trí, đoạn này nhằm nói với hàng phàm phu. Đương nhiên, từ kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta thấy đối tượng chủ yếu của pháp môn này là lục đạo phàm phu, còn Bồ Tát và Thanh Văn là những căn cơ được độ kèm thêm. Do điều này mà biết là “khúc vị độn căn phàm phu” (nhằm tùy thuận độn căn phàm phu), quả thật lấy điều này làm chủ yếu. Phàm phu chẳng có tầm nhìn xa rộng như bậc thượng trí, trí huệ cũng chẳng cao như thế. Quý vị nói chân tướng của nhân sinh và vũ trụ với họ, họ rất khó thể lý giải, [do họ chấp] những gì họ trông thấy là hiện thực. Nếu luận định theo hiện thực, phàm phu vui thích nhất và cũng bằng lòng tiếp nhận; do vậy, phải phô bày, hiển thị. Nay chúng ta gọi Thị (示) là “triển hiện” (phô bày, chỉ rõ) hai thứ cảnh giới khổ và vui khác nhau; phàm phu trông thấy những cảnh giới ấy sẽ tự nhiên biết lấy và bỏ như thế nào!

Thế giới này thật sự rất khổ, có một người lái taxi nói với tôi: “Trong thế giới hiện tại, dường như con người chẳng thể nào sống được!” Ông ta có cảm xúc như vậy, nói thế giới dường như chẳng còn là thế giới nữa. Tôi khuyên ông ta: “Nếu ông đã biết thế giới này chẳng phải là cuộc sống của con người, vậy thì hãy nhanh chóng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Còn có một thế giới tốt đẹp, chúng ta có thể đến đó thành công”. Có cảm xúc ấy tức là bắt đầu giác ngộ, tâm “hân yếm” (ưa thích và chán nhàm) tự nhiên sanh khởi. Hân (忻) là vui thích, tức là vui thích Tây Phương Cực Lạc thế giới, sanh lòng chán ngán, nhàm lìa thế giới này. Vì lẽ này, kinh mới nói đến y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nếu không, chỉ giảng lý luận và đạo lý là được rồi, cần gì phải nói những sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới? Dụng ý đều là vì hạ căn phàm phu mà nói, nhưng những điều Ngài đã nói đều là sự thật, trọn chẳng phải là vọng ngữ, chẳng phải là lừa gạt chúng ta, những câu ấy đều là lời chân thật.

“Tiên dĩ dục câu khiên, hậu linh nhập Phật trí” (trước hết, dùng dục để lôi kéo, sau đó làm cho họ nhập Phật trí), đây là phương cách hóa độ chúng sanh của đức Phật. Nhưng trước hết dùng lạc dục để dẫn dắt quý vị, Ngài chẳng lừa dối quý vị, chẳng phải là những lời lẽ khi ấy chẳng đáng coi trọng, chẳng phải vậy! Lời đức Phật đã nói tuyệt đối là chân thật ngữ. Kinh Kim Cang dạy chẳng sai: “Như Lai là bậc chân ngữ, thật ngữ, như ngữ, chẳng nói sai khác, chẳng nói dối gạt”, chắc chắn là như vậy. Tuy nói “[dùng] dục để lôi kéo”, nhưng Ngài chẳng lừa gạt, những sự dục lạc ấy là chuyện chân thật. Đúng như trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đã nói về y báo và chánh báo trang nghiêm của thế giới Hoa Tạng; tục ngữ có câu: “Chẳng đọc Hoa Nghiêm, chẳng biết sự phú quý trong nhà Phật”. Có phải là Phật, Bồ Tát thật sự ham thích phú quý như vậy hay không? Chẳng phải! Đó là tự nhiên, phước báo của các Ngài là tự nhiên, chẳng phải giống như chúng ta phải mong cầu. Ở trong hoàn cảnh ấy, các Ngài cũng trọn chẳng biết hoàn cảnh ấy là lạc, các Ngài cũng chẳng có lạc thọ (cảm nhận vui sướng). Nếu có lạc thọ thì lạc thọ là phiền não, các Ngài há có phiền não? Các vị Phật, Bồ Tát đến thăm địa ngục, trông thấy núi đao, vạc dầu, nếu tới đó, các Ngài cũng chẳng cảm thấy khổ, năm thứ “khổ, lạc, ưu, hỷ, xả”, các Ngài đã đều lìa khỏi, đều chẳng có. Vì sao có cảnh giới ấy? Kinh đã giảng rất rành mạch, đó là do Tánh Đức tự nhiên hiển hiện, chẳng tới từ bên ngoài, mà cũng chẳng phải do chính quý vị mong mỏi như thế này, như thế nọ. Chẳng phải vậy! Hết thảy đều là tự nhiên, là Chân Như bổn tánh lưu lộ. Bởi lẽ, trong bổn tánh vốn trọn đủ vạn đức, vạn năng, Tánh Đức là như vậy đó!

Lục đạo phàm phu chúng ta, nếu nói sâu hơn một chút, kể cả Thanh Văn, Duyên Giác, và Quyền Giáo Bồ Tát đều chưa kiến tánh. Chưa kiến tánh thì quý vị tuy có Tánh Đức, nhưng bị vô minh phiền não chướng ngại, chẳng thể hiện tiền, nên sự thụ dụng liền biến thành Tu Đức. Hiện thời, chúng ta phải tu. Quý vị chẳng tu điều lành, sẽ chẳng thể có phước báo, đó là “thiện có thiện báo, ác có ác báo”. Quả báo thiện ác do tu mà có, chẳng phải là Tánh Đức, Tánh Đức chẳng cần phải tu. Bậc kiến tánh Bồ Tát, trong Viên Giáo là từ Sơ Trụ trở lên, trong Biệt Giáo là từ Sơ Địa trở lên, thụ dụng giống như trong kinh Hoa Nghiêm và kinh Di Đà đã nói, thụ dụng tự nhiên, chẳng cần lo liệu, chẳng cần cầu lấy, mà do Tánh Đức tự nhiên lưu lộ. Chúng ta hãy nên hiểu điều này. Hiểu chuyện này thì mới biết vì sao học Phật nhất định phải kiến tánh. Chẳng kiến tánh có được hay không? Chẳng kiến tánh thì vẫn được, nhưng chưa kiến tánh thì trong cuộc sống, quý vị vẫn phải suy tính, phải nghĩ cách tìm kiếm, lo liệu. Nếu kiến tánh thì hết thảy đều chẳng cần; điều này cho thấy tầm trọng yếu của sự kiến tánh.

Tu học theo lối thông thường, kiến tánh khó lắm! Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, nếu muốn tu đến mức kiến tánh, chẳng phải là chuyện dễ dàng! Dựa vào năng lực của bản thân chúng ta, chắc chắn chẳng thể làm được trong một đời. Chỉ riêng pháp môn này, pháp môn này cậy vào Phật lực gia trì, nguyện lực của A Di Đà Phật gia trì chúng ta, oai đức của hết thảy Như Lai trong mười phương gia trì, giúp chúng ta đới nghiệp vãng sanh, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, tuy chưa kiến tánh, nhưng hoàn cảnh sống chẳng khác người đã kiến tánh cho mấy! Đây là pháp khó tin, nói theo Giáo Hạ sẽ chẳng thấy thông suốt. Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã nói: “Giáo võng sở bất năng nhiếp” (chẳng thuộc vào trong phạm vi của giáo lý thông thường). Trong Giáo, chẳng có cách giảng như thế, mà trong mười phương cõi Phật cũng chẳng có chuyện này, chỉ riêng Tây Phương Cực Lạc thế giới là đặc biệt. Đây là một hoàn cảnh, một cảnh giới rất đặc thù, nên mười phương chư Phật đều tán dương.

Xét theo lý luận [thông thường] thì chẳng có [hoàn cảnh đặc thù như vậy], chẳng dễ gì tin tưởng, nhưng xét theo sự thật, quý vị hãy nghĩ xem, trong nhiều năm ngần ấy, đã có bao nhiêu người vãng sanh? Nhiều gương ngần ấy bày ra trước mặt, nếu chúng ta chẳng tin thì đúng là rất ngu si. Xét theo Giáo, hoàn toàn chẳng phải là nói theo lý luận bèn chẳng suông; hễ ai thật sự quán thông sẽ tin tưởng. Người nào quán thông? Liên Trì đại sư quán thông. Nếu Liên Trì đại sư chẳng quán thông, làm sao Ngài có thể tin tưởng cho được? Chúng ta đọc những phần trích dẫn kinh điển để làm chứng cứ trong bộ chú giải này, sẽ thấy Liên Trì đại sư đã quán thông. Ngẫu Ích đại sư cũng quán thông. Thuở đầu, Ngẫu Ích đại sư học [giáo nghĩa] Thiên Thai, cuối cùng quy hướng Tịnh Độ, chuyên tu, chuyên hoằng, trở thành tổ sư của Tịnh Độ Tông. Liên Trì đại sư Giáo cũng thông, mà Thiền cũng thông. Ngài từng tham Thiền, cuối cùng cũng quy hướng Tịnh Độ. Nhưng người thật sự thông đạt giáo lý đúng là chẳng nhiều nhặn gì! Kẻ chưa thông đạt thấu triệt luôn biểu lộ sự hoài nghi đối với pháp môn này. Dẫu chẳng hoài nghi, họ cũng không chịu tu học pháp môn này. Nói thật thà, sở dĩ họ không chịu tu học pháp môn này, cũng là do chưa nhận thức triệt để rõ ràng pháp môn này.

Chúng ta phải tin tưởng lời Phật dạy, tuy nói là “dùng dục để lôi kéo”, nhưng đều là chân thật, đều là sự thật. “Hậu linh nhập Phật trí” là mục đích, đó là nhập Phật tri kiến, là tông chỉ của kinh Pháp Hoa, mà cũng là Vô Thượng Bồ Tát được nói trong Tịnh Độ. Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để làm gì? Để thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, làm chuyện này.

 

(Sao) Dụ như chánh ách cơ hàn chi quốc.

() 喻如正厄饑寒之國。

(Sao: Ví như nước đang gặp phải nạn đói lạnh).

Đây là tỷ dụ một địa phương gặp lúc thiên tai, dân chúng mất mùa, nơi đó gặp nạn đói, đói và lạnh nhất định liên đới, chẳng có cái ăn, chẳng có cái mặc, cuộc sống khổ sở!

 

(Sao) Hốt văn bão noãn chi hương.

() 忽聞飽暖之鄉。

(Sao: Chợt nghe nói có chỗ no ấm).

Bỗng nhiên nghe nói ở nơi khác có hoàn cảnh sống hết sức tốt đẹp; nói chung, họ sẽ nghĩ trọn hết phương cách để rời khỏi chỗ đói lạnh, tìm đến nơi no ấm. Nếu so sánh giữa thế giới Sa Bà và thế giới Cực Lạc, bên đó là chỗ no ấm, nơi đây là nước đói lạnh.

 

(Sao) Phương trầm u ám chi nhai, sạ đổ quang minh chi cảnh.

() 方沈幽暗之崖,乍睹光明之境。

(Sao: Đang chìm đắm dưới vách núi tối tăm, chợt thấy cảnh quang minh).

“Trầm” là trầm luân, “u ám” là tối đen. Nơi vách núi tối tăm, vừa thấy quang minh, lẽ đâu người ấy chẳng bò lên?

 

(Sao) Khởi bất thân tâm dũng dược, xả cố tức tân.

() 豈不身心踊躍,舍故即新。

(Sao: Há chẳng thân tâm hớn hở, bỏ cái cũ, theo cái mới).

Đây là lẽ thường tình của con người. Đức Phật đặc biệt nói cặn kẽ, rõ ràng về y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây Phương như vậy, dụng ý là muốn cho chúng ta giác ngộ. Ngẫm lại, hiện thời cuộc sống của chúng ta ở nơi đây khổ quá, thế giới này chẳng có chỗ nào tốt đẹp. Trong quá khứ, tại Đài Loan, cuộc sống vẫn chưa thật sự nếm trải nỗi khổ đến mức này. Hiện thời, tuy lắm tiền, nhưng sự khổ xộc tới, có thể thấy tiền chẳng phải là thứ tốt đẹp. Nếu Đài Loan chẳng có lắm tiền như thế, mọi người còn sống tốt lành. Lắm tiền nhiều của sẽ tác oai tác quái. Xã hội hiện thời chệch choạc, chúng ta tra xét cặn kẽ nguyên nhân [sẽ thấy vấn đề ở chỗ] tiền bạc, nhiều tiền lắm bạc quá, khiến cho xã hội động loạn bất an, chúng ta cảm thấy khổ sở! Quý vị liền biết thế giới này chẳng phải là một thế giới tốt đẹp!

 

(Sao) Đản đắc vãng sanh, chung thành giải thoát, phương tiện tiếp dẫn, đương như thị nhĩ.

() 但得往生,終成解脫,方便接引,當如是耳。

(Sao: Chỉ cần được vãng sanh, sẽ rốt cuộc thành tựu giải thoát, phương tiện tiếp dẫn phải nên là như vậy).

Mấy câu này quy kết về vấn đề chánh yếu: Chỉ cần quý vị có thể vãng sanh, chắc chắn được giải thoát! Giải Thoát là một trong ba đức, tức là Pháp Thân, Bát Nhã, và Giải Thoát, hễ quý vị đạt được một điều, nhất định đạt được hai điều kia. Nói cách khác, chỉ cần vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, nhất định chứng đắc Tam Đức Bí Tạng. Phật Di Đà và mười phương Như Lai tiếp dẫn hết thảy chúng sanh, đặc biệt là lục đạo phàm phu, phương thức phải nên là như vậy. Cách giảng của đại sư vô cùng thích hợp.

Trong lời chú giải ở đây, đại sư đã trình bày đại ý của đoạn kinh văn nói về “giai đạo”. Tiếp theo đây là đoạn xứng lý, tức là nói đến chuyện tiêu quy tự tánh. Những phần trước là “tiêu văn” (消文), tức là giải thích những ý nghĩa được bao hàm trong văn tự, còn đoạn này giảng về “tiêu quy tự tánh” tức là nói đến sự thụ dụng chân thật. Đây là thể lệ trong bộ Di Đà Sớ Sao, chỗ khác biệt với các bộ chú giải thông thường.

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh bình trực, thị giai đạo nghĩa. Tự tánh cao thúy, thị lâu các nghĩa. Tự tánh cụ túc công đức pháp tài, thị thất bảo nghĩa.

() 稱理,則自性平直,是階道義。自性高邃,是樓閣義。自性具足功德法財,是七寶義。

(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh bình đẳng, chánh trực là ý nghĩa của “bậc thềm, lối đi”. Tự cánh cao chót vót là ý nghĩa của “lầu gác”. Tự tánh trọn đủ công đức pháp tài là ý nghĩa của “bảy báu”).

Nói thật ra, nếu chúng ta truy hỏi một câu: Vì sao trong Tánh Đức có những thứ y báo và chánh báo trang nghiêm? Y báo và chánh báo trang nghiêm là sự thật, trong sự thật luôn có đạo lý, đoạn này nhằm nêu bày đạo lý. Ba câu này đều nói về tự tánh, tức là xứng tánh, xứng tánh mà nói, trở về tự tánh.

 

(Sao) Bình trực giả, tự tánh giải thoát tự tại, ly chư cấu ô, khoáng khoát thản di, vô hữu thiên pha, thị danh “giai đạo”.

() 平直者,自性解脫自在,離諸垢汙,曠闊坦夷,無有偏陂,是名階道。

(Sao: “Bình trực”: Tự tánh giải thoát tự tại, lìa các cấu ô, rộng rãi, bằng phẳng, chẳng nhấp nhô, nên gọi là “thềm bậc, lối đi”).

Mấy câu này có ý nghĩa khá sâu, mấu chốt của toàn bộ Phật pháp là “bình đẳng, chánh trực”, bình đẳng tâm, trực tâm. Đại Thừa Khởi Tín Luận nói Bồ Đề tâm là trực tâm, thâm tâm, và đại bi tâm. Trực tâm là chân tâm, chân tâm là bình đẳng tâm, bình đẳng tâm là nhất tâm. Tông Môn thường nói: “Thức đắc nhất, vạn sự tất” (Biết được một, vạn sự hoàn tất). Thật sự giác ngộ Một thì chuyện gì cũng đều chẳng có, thiên hạ thái bình. Tịnh Độ Tông gọi cái Một ấy là “nhất tâm bất loạn”. Chỉ cần quý vị đạt được nhất tâm thì bình đẳng tâm, thanh tịnh tâm, và chánh trực tâm đều hiện tiền. Vì sao? Chúng đều là một chuyện, là nhất tâm bất loạn, do Chân Như bổn tánh của chính mình bèn hiển lộ. Giải Thoát là Tánh Đức trong tự tánh, nên “giải thoát tự tại”.

“Ly chư cấu ô”, hai chữ này (“cấu ô”) tượng trưng cho phiền não vô minh. “Cấu” là vô minh phiền não, “Ô” là Trần Sa và Kiến Tư phiền não. Trong bổn tánh, vốn chẳng có những thứ ấy, chúng do vọng tâm mà có, trong chân tâm không có những thứ ấy. Chân tâm tại thánh (nơi Phật) chẳng tăng, dẫu đọa trong tam đồ cũng chẳng giảm, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng sanh, chẳng diệt, đó là nhất tâm, đây là nguyên tắc cao nhất trong Phật pháp. Nếu chúng ta có thể nắm vững nguyên tắc này, thành tựu trong một đời chắc chắn chẳng phải là chuyện khó. Hễ vi phạm nguyên tắc này, tu hành suốt một đời rất khó thành tựu! Bất luận quý vị học pháp môn nào, đều có thể nói là chẳng có ngoại lệ. Do vậy có thể biết: Tu hành trong Phật pháp, không gì chẳng là tu tâm thanh tịnh mà thôi. Tu tâm thanh tịnh từ chỗ nào? Tu trong hết thảy cảnh giới, nhưng phàm phu chúng ta chẳng thể. Phàm phu muốn trốn tránh hết thảy cảnh giới, hễ cảm thấy chẳng phải là cảnh giới chính mình mong muốn cho lắm, bèn vội vã sẽ tránh né, vậy thì làm sao có thể tu thành công cho được? Vĩnh viễn dùng phân biệt, chấp trước, vọng tưởng trong hoàn cảnh, nên tu chẳng thành công. Người thật sự tu hành, thuận cảnh cũng thế, mà nghịch cảnh cũng thế, họ tu điều gì trong hoàn cảnh? Trừ bỏ phân biệt, chấp trước, vọng tưởng của chính mình, khiến cho cái tâm của chính mình khôi phục sự thanh tịnh. Trong thuận cảnh chẳng nhuốm bẩn, trong nghịch cảnh cũng chẳng nhuốm bẩn. Trong thuận cảnh, chẳng có tham ái, hay tâm hoan hỷ. Trong nghịch cảnh, cũng chẳng có tâm ưu lự. Bất luận trong cảnh giới nào, tâm người ấy bình đẳng, chánh trực. Đó là biết dụng công, biết tu hành. Đây cũng là điều đức Phật thường dạy chúng ta trong giáo pháp Đại Thừa: “Tùy duyên, nhưng chẳng phan duyên”. Chúng ta phân biệt, chấp trước cảnh giới, đó là phan duyên; lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, đó là tùy duyên. Tùy duyên thì mới có thể kiến tánh, phan duyên chắc chắn chẳng thể kiến tánh.

“Ly chư cấu ô” (lìa các cấu ô), chư vị phải hiểu: Quý vị ưa thích hoàn cảnh này, đó là cấu ô, vì sao? Tâm quý vị bị sự ưa thích ấy nhuốm bẩn. Người Hoa nói “thất tình, ngũ dục”, thất tình là mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn. Điều thứ nhất là ưa thích, Dục là ngũ dục, tức tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ. Chỉ cần trong tâm dấy lên thất tình, cái tâm của quý vị đã bị nhuốm bẩn. Nếu quý vị chẳng bị thất tình, ngũ dục nhuốm bẩn, thưa cùng quý vị, pháp giới là bình đẳng, bèn giống như Phật, Bồ Tát. Pháp giới của Phật, Bồ Tát, thiên đường và địa ngục là bình đẳng, thiện – ác bình đẳng, đúng – sai bình đẳng, chân – vọng bình đẳng, chẳng có gì không bình đẳng, người ấy thật sự nhập pháp môn Bất Nhị nên mới có thể kiến đạo. Đó là sự kiến đạo trong Đại Thừa.

Địa vị kiến đạo trong Đại Thừa là thấy vạn pháp như nhau, vạn pháp bình đẳng, đó là sự kiến đạo của địa vị ấy. Trong hết thảy các pháp, quý vị vẫn là bất bình đẳng, tức là quý vị chưa kiến đạo! Địa vị kiến đạo trong Đại Thừa là Sơ Trụ Bồ Tát của Viên Giáo. Sự phát khởi tín tâm đối với Đại Thừa như được nói trong Đại Thừa Khởi Tín Luận chính là địa vị kiến đạo. Cảnh giới như kinh Kim Cang đã nói cũng là địa vị kiến đạo, vì sao? Lìa bốn tướng; hễ lìa bốn tướng bèn bình đẳng. Nếu quý vị thật sự chẳng có các tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tâm quý vị bình đẳng, tâm thanh tịnh. Quý vị có bốn tướng ấy bèn chẳng kiến đạo. Có bốn tướng ấy thì chẳng phải là Bồ Tát, [nói đúng ra], chẳng phải là hàng Bồ Tát thuộc địa vị kiến đạo. Vị Bồ Tát ấy chẳng kiến đạo, mà cũng chẳng kiến tánh (kiến đạo là kiến tánh). Trong Tịnh Độ Tông, Lý nhất tâm bất loạn là địa vị kiến đạo; Sự nhất tâm bất loạn vẫn chưa được, chưa kiến đạo.

Nếu muốn thật sự đạt tới địa vị ấy, phải tu hành. Đối với sự tu hành, quan trọng nhất là hoàn cảnh nhân sự, tục ngữ có câu: “Xử sự khó, đối xử với người khác càng khó hơn!” Trong cách xử sự với người khác, phải rèn giũa cho tâm cảnh của chúng ta bình lặng trong hoàn cảnh nhân sự. Đắc thanh tịnh tâm trong hoàn cảnh nhân sự thì hoàn cảnh vật chất chẳng cần phải nói nữa, tự nhiên thanh tịnh. Do vậy, tu hành là tu ở chỗ nào? Bồ Tát tu hành trong chốn hồng trần. Người Tiểu Thừa bảo: “Hoàn cảnh nhân sự quá phức tạp, thôi đi, ta vào chốn núi sâu, xa lìa xã hội”. Vì thế, họ vĩnh viễn chẳng thể kiến đạo. Họ có thể đắc Định, có thể đạt được thanh tịnh, nhưng sự thanh tịnh của họ là tịnh trong “nhiễm, tịnh”, là đối lập, là thanh tịnh tương đối, chẳng phải là thanh tịnh chân chánh. Họ đến ở tại thành thị vài ngày, lại bị loạn, lại bị nhuốm bẩn. Nói cách khác, sự thanh tịnh ấy chẳng chịu nổi sự khảo nghiệm, không được rồi! Nhất định phải thật sự khảo nghiệm và rèn giũa hằng ngày, thành tựu sự thanh tịnh của chính mình trong đó. Đấy là thanh tịnh chân chánh. Sự thanh tịnh ấy là sự thanh tịnh rời khỏi hai bên nhiễm và tịnh. Đó là vô lượng công đức. Do vậy, Ngài nói câu này có ý nghĩa rất sâu.

“Khoáng khoát thản di, vô hữu thiên pha” (rộng rãi, bằng phẳng, chẳng nhấp nhô), “pha” (坡) là cuộc đất chông chênh, có độ dốc. “Thị danh giai đạo” (nên gọi là “giai đạo”), “đạo” (道) là con đường [bằng phẳng], “giai” (階) là bậc thềm. “Giai đạo” trong Tây Phương Cực Lạc thế giới do công đức của tự tánh hiển hiện.

 

(Sao) Cao thúy giả.

() 高邃者。

(Sao: Cao chót vót).

 “Cao thúy”: Lầu gác biểu hiện Tánh Đức nơi ấy.

 

(Sao) Tự tánh huýnh siêu trần cảnh, quán chiếu bất di, nang quát hư không, quảng bác vô tận, thị danh lâu các.

() 自性迥超塵境,觀照不遺,囊括虛空,廣博無盡,是名樓閣。

(Sao: Tự tánh vượt thoát trần cảnh, quán chiếu chẳng sót, bao quát hư không, bát ngát vô tận, nên gọi là “lầu gác”).

Toàn là nói về Tánh Đức. “Huýnh” (迥) nghĩa là xa xôi, “huýnh siêu” (迥超) là vượt xa, vượt trỗi quá nhiều. “Trần” (塵) là lục trần, ngũ dục lục trần, “cảnh” (境) là cảnh giới, bao gồm cảnh giới vật chất và cảnh giới nhân sự, thảy đều vượt trỗi. Cách vượt thoát ra sao? Người ta dùng quán chiếu, Tâm Kinh có nói: “Chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không” thì phải hiểu theo ý nghĩa “vượt thoát trần cảnh”. “Nang quát hư không, quảng bác vô tận” (bao quát hư không, bát ngát vô tận), tỷ dụ chân tánh. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã dạy chúng ta tâm tánh vô lượng: “Tâm bao thái hư (tức là hư không), lượng châu sa giới”, đó chính là ý nghĩa “nang quát hư không” ở đây. Bên trong “lâu các” là trống rỗng, trống rỗng thì mới có thể bao dung. Bao dung người khác. Nếu lầu gác đặc ruột, chẳng trống rỗng, lầu gác ấy vô dụng! Sở dĩ nhà cửa có thể dùng được là vì bên trong trống không. Chân Như bổn tánh của chúng ta cũng giống như thế, bao trọn hư không, chứa khắp hư không, pháp giới. “Quảng bác vô tận” là bao trùm pháp giới, [câu nói ở] phía trên (“nang quát hư không”) là bao trùm hư không. Lầu gác hiển thị ý nghĩa này.

Nếu chúng ta hiểu rõ đạo lý này, quý vị mới biết mỗi pháp, chẳng có pháp nào không phải là Phật pháp. Chúng ta nhìn thấy đường sá, bèn nghĩ tâm chúng ta phải bằng phẳng, thẳng thắn, đường bằng phẳng mà! Tâm chúng ta phải giống như con đường bằng phẳng. Nhìn thấy nhà lầu, tâm chúng ta phải trống không giống như vậy, phải rỗng không thì mới có thể bao dung! Sáu căn của quý vị tiếp xúc cảnh giới lục trần, có cảnh giới nào chẳng phải là Phật pháp? Như vậy thì sẽ tiêu quy tự tánh, tự tánh bèn khởi lên vô lượng công đức. Trong tâm chẳng thể có một vật, phải sạch làu làu!

 

(Sao) Công đức pháp tài giả, tự tánh thường nhi bất thiên, tịnh nhi bất nhiễm, ngã nhi tùy duyên bất ngại, lạc nhi phú hữu bất khuy, thị danh kim ngân.

() 功德法財者,自性常而不遷,淨而不染,我而隨緣不礙,樂而富有不虧,是名金銀。

(Sao: “Công đức pháp tài”: Tự tánh thường, chẳng đổi dời; tịnh mà bất nhiễm, ngã (làm chủ tể) mà tùy duyên không ngại, lạc mà giàu có chẳng thiếu, nên gọi là “kim ngân”).

Giải thích pháp tài. “Thường” (常) là trạng huống vĩnh viễn, vĩnh viễn chẳng thay đổi; giống như vàng ròng, màu sắc chẳng thay đổi. “Bất thiên”: Thiên (遷) là biến đổi. “Tịnh nhi bất nhiễm”, Thể thanh tịnh, Thể vô cấu, Lục Tổ đại sư nói: “Vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần”, chính là nói về ý nghĩa này! Bổn tánh vốn là như thế!

Trong Phật môn cũng nhấn mạnh những món trang sức, quý vị thấy Phật, Bồ Tát đều đeo anh lạc, giắt châu báu, Đại Thừa khác Tiểu Thừa! Tiểu Thừa chẳng cần những thứ ấy. Đại Thừa Phật, Bồ Tát đeo rất nhiều chuỗi châu bảo, gọi là “anh lạc” (瓔珞), còn to và đẹp đẽ hơn dây chuyền. Đeo những thứ vàng, bạc, châu báu ấy nhằm khiến cho quý vị thường nhìn thấy chúng, không phải là vì chúng đẹp đẽ, mà là khiến cho quý vị nhìn thấy những thứ ấy, bèn nghĩ tới bất biến, nghĩ tới thanh tịnh. Đấy cũng là sự biểu thị pháp. Kẻ thế tục đeo châu báu nhằm phô trương thân phận và của cải, người học Phật đeo những thứ ấy có ý nghĩa khác hẳn: [Đeo trang sức để] thường xuyên nhắc nhở chính mình tâm phải thanh tịnh, phải vô nhiễm, phải bất biến, tùy duyên nhưng bất biến, bất biến mà tùy duyên, mang ý nghĩa ấy. Người Tiểu Thừa chẳng chấp nhận như vậy, Đại Thừa Phật pháp và Tiểu Thừa hoàn toàn chẳng giống nhau. Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật nói thời kỳ Mạt Pháp, nhất định phải đề xướng pháp Đại Thừa. Đại Thừa là cởi mở, chẳng giống như Tiểu Thừa. Hiện thời rất nhiều người chẳng muốn tiếp nhận pháp Tiểu Thừa, tiếp nhận chẳng nổi! Pháp Đại Thừa chẳng trở ngại cuộc sống của ta, ngược lại còn khiến cho cuộc sống hiện tiền mỹ mãn hơn, khiến cho cuộc sống của chúng ta càng tràn đầy, họ đương nhiên thích tiếp nhận!

Tiểu Thừa không có ca múa, Đại Thừa có ca múa. Ca múa biểu thị ý nghĩa gì? Biểu thị mộng, huyễn, bọt, bóng. Quý vị hằng ngày xem TV, có thể xem mỗi ngày, khi xem liền hiểu là mộng, huyễn, bọt, bóng, nhìn lại toàn thể nhân sinh là mộng, huyễn, bọt, bóng bày ra đó, cớ gì phải chấp trước? Vì thế, xem TV là đang tu hành, tu Nhất Tâm Tam Quán, tức Không, tức Giả, tức Trung. Người thế gian làm sao hiểu được! Quý vị mới hiểu trong pháp Nhất Thừa, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, cuộc sống đúng là “chân, thiện, mỹ, huệ”. Quyết chẳng phải là hưởng thụ; sống kiểu ấy sẽ chẳng trở ngại đạo, mà còn có thể thành tựu đạo nghiệp. Vấn đề là quý vị chuyển biến quan niệm theo cách nào? Nếu quý vị ở trong đó tham cầu hưởng thụ, có mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn, vậy là quý vị bị đọa lạc, đã bị cảnh giới xoay chuyển. Nếu quý vị chẳng bị cảnh giới xoay chuyển thì kinh Lăng Nghiêm nói: “Nếu có thể chuyển cảnh, ắt giống như Như Lai”; giống như Như Lai thì tối thiểu là bậc Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, có cùng chân tánh với Như Lai.

Người ngoại quốc rất thích học Phật pháp, vì nó hay hơn Cơ Đốc giáo, hay hơn Thiên Chúa giáo. Họ rất dễ tiếp nhận, hoan hỷ tiếp nhận, họ càng nghĩ càng thấy có lý. Ở bất cứ nơi đâu, quý vị phải luôn luôn dấy lên quán chiếu; hễ bỏ mất quán chiếu, nhất định bị đọa lạc. Từ quán chiếu mà chiếu trụ, lại tiến hơn một bước nữa là chiếu kiến, chiếu kiến bèn nhập cảnh giới này; nhưng nhất định phải khởi đầu bằng quán chiếu. Quán chiếu là ở trong cảnh giới có thể thời thời khắc khắc dấy lên tâm cảnh giác. Dấy lên tâm cảnh giác cũng là dấy khởi ý nghĩa biểu thị pháp, đó là cảnh giác! Biết bất cứ pháp nào cũng đều từ tự tánh biến hiện, hết thảy các pháp đều trở về tự tánh. “Trở về tự tánh” chính là quý vị liễu giải ý nghĩa này, giống như chúng ta nhìn thấy nến, bèn nghĩ: “Hãy nên thiêu đốt chính mình hòng chiếu sáng người khác”. Đó là trở về tự tánh.

Kinh Hoa Nghiêm giảng về tướng cảnh giới rất hay, “tánh khởi”! Đây là Bổn Chất Tướng như trong Duy Thức đã nói, Bổn Chất Tướng là tánh khởi. Sau khi quý vị mê, nó mới biến thành duyên khởi, sau khi đã mê thì gọi là “duyên khởi”. Nói thật ra, duyên khởi và tánh khởi là một, không hai, chỉ đổi tên. Đã giác ngộ bèn chẳng gọi là duyên khởi, mà gọi là tánh khởi. Nói cách khác, trong bổn tánh vốn trọn đủ đức năng, Lục Tổ đã nói: “Nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp”; vạn pháp do tự tánh biến hiện, [tự tánh] có thể sanh! Biến hiện những cảnh giới ấy giống như mộng, huyễn, bọt, bóng. Trong hết thảy các cảnh giới, quý vị quyết định chớ nên mê, quyết định đừng chấp trước. Chẳng phải là nói không có cảnh giới, cảnh giới có chứ! Mộng, huyễn, bọt, bóng, có chứ! Tuy có, nhưng quý vị biết chúng chẳng phải là thực tại, chẳng thể chấp trước chúng nó.

Đức Phật nêu lên tỷ dụ ấy, nhằm dạy chúng ta đừng nên chấp trước hết thảy các pháp, chớ nên vọng tưởng. Lìa hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, quý vị đối diện hết thảy các pháp bèn thụ dụng hết thảy [vạn sự vạn vật] chẳng khác chư Phật, Bồ Tát. Sự thụ dụng ấy chỉ có lạc, chẳng có khổ, là sự thụ dụng thanh tịnh, quyết định chẳng tạo nghiệp. Nghiệp từ đâu mà tạo? Tạo nghiệp từ phân biệt, chấp trước, vọng tưởng! Lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, lấy đâu ra nghiệp? Không chỉ chẳng có nghiệp, mà tạo tác cũng không có. Vì vậy, phải hiểu đạo lý này. Điều này hết sức dễ thấy, đó là Phật pháp chân chánh. Do đó, Tiểu Thừa quả thật để tiếp dẫn kẻ sơ cơ, do họ mê hoặc quá nặng, chẳng liễu giải đạo lý này.

“Ngã nhi tùy duyên bất ngại” (ngã tùy duyên, nhưng chẳng trở ngại), đây là “chuyển tác vô ngã” (chuyển thành vô ngã). Vô ngã ở chỗ nào? Ngã là vô ngã. Nếu ngã và vô ngã là hai pháp thì phỏng theo lời Lục Tổ, “hai pháp chẳng phải là Phật pháp”. Ngã và vô ngã là một! Phật pháp là pháp Bất Nhị, “nhị” thì chẳng phải là Phật pháp. Chúng ta tu pháp môn này thì phải tu nhất tâm bất loạn, “hai” thì làm sao có thể nhất tâm cho được? Vì vậy, quý vị phải biết: Hết thảy các pháp đều là pháp bất nhị. Quý vị có thể nắm vững nguyên tắc này, quý vị tu học dẫu chẳng gặp thiện tri thức, cũng không đến nỗi lạc lối. Phàm những ai lạc lối đều do phân biệt, chấp trước, tách Nhất Chân ra làm hai, hai chia thành bốn, bốn chia làm tám, càng chia càng phức tạp, làm chuyện ấy!

Do vậy, học Phật bèn học từ đâu? Hãy khởi sự bằng chuyện tịnh hóa đầu óc của chính mình. Đầu óc quý vị quá phức tạp, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước quá nhiều! Tu hành Phật pháp hãy khởi sự từ chỗ này, đầu tiên dạy quý vị lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Thiền Tông nói thẳng thừng, thỏa đáng, vừa bắt tay vào liền làm chuyện này, kinh cũng chẳng cho nghe, mà cũng chẳng cho phép xem, đó gọi là “bất lập văn tự”, vì sao? Xem kinh bèn phân biệt! Xem kinh bèn khởi chấp trước, dấy vọng tưởng! Kinh cũng không cho phép xem, nhiều nhất là đường chủ Thiền đường giảng đôi chút khai thị cho quý vị nghe mà thôi! Giảng khai thị vẫn chẳng thể hỏi. Hễ hỏi, liền lập tức xáng cho một cây hương bản, mà cũng chẳng trả lời quý vị, do nguyên nhân nào? Khiến cho đầu óc quý vị trống tuềnh trống toàng, hễ nghe hiểu thì cứ hiểu, chẳng hiểu thì thôi, chẳng cần truy cứu, chẳng cần suy nghĩ nó có ý nghĩa gì. Chẳng cần suy nghĩ, chẳng cần phân biệt, chẳng cần chấp trước. Hễ quý vị nêu câu hỏi, tức là còn có phân biệt, chấp trước, nên [vị đường chủ] hung hăng phang liền, nhằm khiến cho quý vị xóa sạch phân biệt, chấp trước, mang ý nghĩa ấy, khiến cho đầu óc quý vị khôi phục rỗng rang, khôi phục đến tiêu chuẩn “vốn chẳng có một vật” của Lục Tổ. Vì lẽ đó, dùng hương bản để đánh tan những thứ lộn xộn nháo nhào trong đầu quý vị.

Thuở sinh tiền, pháp sư Chử Vân vào lúc tuổi già thường đả Phật Thất. Người tham gia Phật Thất đều muốn được Sư đánh hương bản. Sư nói: “Tôi đánh họ xong, còn được họ cúng dường tôi”. Nói thật ra, lão hòa thượng đánh thì quý vị liền tiêu tai, miễn nạn ư? Chẳng có lẽ ấy! Đập chết quý vị, quý vị vẫn chẳng tiêu tai nạn được! Do vậy, quý vị nhất định phải hiểu ý nghĩa. Trong Thiền đường đánh hương bản, có phải là hòa thượng hễ gặp người khác liền đánh hay chăng? Chẳng phải vậy! Quý vị chẳng phải là pháp khí, người ta chẳng đánh quý vị, vì sao? Càng đánh, quý vị càng phiền não, chẳng có hiệu quả! Người ấy phải nên đánh, đáng đánh, vì sao? Hễ đánh thì người ấy chẳng còn ý niệm gì nữa, thật sự buông xuống, loại người ấy nên đánh! Có thể đánh, vì có thể khiến cho người ấy khai ngộ! Nếu quý vị phân biệt, chấp trước nặng nề, dẫu đánh chết cũng chẳng thể khai ngộ, đánh có tác dụng gì đâu? Nguyên tắc của Thiền gia căn cứ trên “ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt”, dạy quý vị hành công phu ấy nhằm khôi phục sự thanh tịnh chân thật nơi tâm địa.

Do đó, Giáo Hạ và Tông Môn khác nhau. Tông Môn chẳng dùng văn tự, Giáo Hạ dùng văn tự, dùng kinh điển. Phương pháp dùng kinh điển là dạy quý vị đọc tụng, trong đọc tụng chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, cũng chẳng cho phép dấy lên vọng tưởng. Năm năm xuất gia đầu tiên là làm chuyện này, không cho phép nghe kinh, không cho phép xem kinh, mà bắt làm chuyện phục vụ thường trụ. Làm những việc cực nhọc, làm việc nặng nhằm vun bồi phước, tu phước! Điều gì cũng chẳng cho phép quý vị tiếp xúc, chẳng cho phép quý vị nghe kinh, trong Niệm Phật Đường cũng chẳng cho phép quý vị niệm Phật, Thiền Đường cũng không cho phép quý vị tham Thiền, tu Căn Bản Trí mà! Bảo quý vị niệm một bộ kinh, quy định mỗi ngày phải niệm bộ kinh ấy mấy tiếng đồng hồ, niệm suốt năm năm, tâm bèn thanh tịnh, chẳng nghĩ gì khác. Những điều này đều nhằm tu thanh tịnh tâm, đó là nhập môn Phật pháp.

Thế hệ chúng ta hiện thời,   bất luận tại gia hay xuất gia đều chẳng sánh kịp thế hệ trước, nguyên nhân ở chỗ nào? Chúng ta chẳng vun bồi cơ sở này, chẳng tu từ căn bản. Vừa học Phật liền nghe kinh, liền nghiên cứu kinh điển. Nói thật thà, nghe kinh, nghiên cứu kinh điển, chẳng phải là đoạn phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, mà là tăng trưởng phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, đó là điên đảo. Do vậy, làm sao quý vị có thể thành tựu cho được? Chẳng thể thành tựu! Không bằng kẻ thật thà niệm một câu A Di Đà Phật, chuyện gì cũng chẳng cần, niệm một câu A Di Đà Phật ba năm, có thể đứng vãng sanh, hoặc có thể ngồi vãng sanh, có thể biết trước lúc mất. Chúng ta mỗi ngày nghiên cứu kinh này, kinh nọ, cả đống kinh luận, nếu nghiên cứu vài chục năm, khi chết vẫn là chân tay luống cuống, cuối cùng vẫn phải gặp Diêm Vương! Quý vị gặp Diêm Vương, ta đã đọc bao nhiêu bộ kinh lớn, thứ gì cũng vô dụng, đáng phải sanh tử thế nào thì vẫn sanh tử như thế ấy, chẳng có cách nào! Vì sao? Sở học của quý vị toàn là pháp thế gian, chẳng phải là Phật pháp. Vì là pháp thế gian nên mê, càng mê sâu hơn! Thanh Lương đại sư dạy: “Quý vị niệm kinh, nghe giáo, tăng trưởng tà kiến. Chẳng niệm kinh, nghiên cứu giáo, bèn tăng trưởng vô minh”. Nói tóm gọn là chẳng dễ sống! Phải hiểu đạo lý cơ bản này thì chúng ta mới biết chính mình phải nên làm theo cách như thế nào! Do vậy, cách chuyển biến là hiểu ngã và vô ngã là một, không hai, xác thực có thể đạt đến tùy duyên bất biến, đó là đúng!

“Lạc nhi phú hữu bất khuy” (lạc mà giàu có, chẳng thiếu), đây là nói tới bốn tịnh đức Thường – Lạc – Ngã – Tịnh. Giàu có, chẳng thiếu thốn. Giàu chẳng phải là khiến cho chính mình giàu có, mà là làm cho người khác giàu có, chẳng thiếu thốn. “Bất khuy” (不虧) là chẳng thiếu sót. Nếu bản thân chúng ta hưởng lạc, người khác chịu tổn thất, sự sung sướng của quý vị tạo dựng trên nỗi thống khổ của kẻ khác thì trật mất rồi! Sự sung sướng của ta hãy nên kiến lập trên phương diện giàu có của chúng sanh, đó là chân lạc! Quý vị suy nghĩ ý vị này, đó là gì? Thấy chúng sanh sung sướng, người [tu Phật] bèn thấy sung sướng. Thấy chúng sanh đang khổ, người ấy chẳng sung sướng, chẳng khác gì Phật, Bồ Tát. Niềm vui của Phật, Bồ Tát khác với chúng ta. Đặc biệt là Phật, Bồ Tát thấy nhiều người giác ngộ, thấy nhiều người niệm Phật, chư Phật, Bồ Tát sung sướng nhất, vì sao? Mắt thấy nhiều người ngần ấy đều niệm Phật vãng sanh, bất thoái thành Phật; đó là ý nghĩa “giàu có, chẳng thiếu thốn”. Ý nghĩa được bao hàm trong đây vô cùng sâu rộng, tôi nói ra điểm này để quý vị dần dần thấu hiểu điều này, biết chúng ta phải nên tu học như thế nào. Bảy báu tượng trưng cho sự phú quý, giàu có. “Thị danh kim ngân” (nên gọi là vàng, bạc), hai thứ đầu tiên trong bảy báu biểu thị ý nghĩa này.

 

(Sao) Tự tánh nội ngoại minh triệt, vô chướng, vô ngại, thị danh lưu ly.

() 自性內外明徹,無障無礙,是名琉璃。

(Sao: Tự tánh trong ngoài sáng ngời, trong suốt, chẳng chướng, chẳng ngại, bèn gọi là Lưu Ly).

“Lưu ly” trong suốt, biểu thị trong ngoài như nhau, trong ngoài như một! Tại Trung Quốc, vào đời Tống, tể tướng Tư Mã Quang đã soạn bộ Tư Trị Thông Giám, có một câu danh ngôn để lại cho người đời. Ông ta nói cả một đời “sự vô bất khả cáo nhân ngôn” ([chính mình] không có chuyện gì chẳng thể nói với người khác), quý vị thấy tâm địa ông ta quang minh chánh đại. Những chuyện ông ta đã làm trong một đời, chẳng có chuyện gì không thể nói với người khác. Đó là trong ngoài như nhau, ở đây nói là “nội ngoại minh triệt, vô chướng, vô ngại”, tâm và miệng giống hệt như nhau.

 

(Sao) Tự tánh bổn thể khiết bạch, ly quá, tuyệt phi, thị danh xa cừ.

() 自性本體潔白,離過絕非,是名硨磲。

(Sao: Tự tánh bản thể trắng sạch, lìa lỗi, dứt sai, nên gọi là Xa Cừ).

Thể tánh của xa cừ là trắng, sạch, bạch tịnh. Trong Phật pháp, Bạch thường tượng trưng cho Thiện. Người Hoa nói “thiện, ác”, còn người Ấn Độ nói là “bạch pháp, hắc pháp”, dùng hắc bạch để biểu thị thiện ác. Xa cừ biểu thị thiện đức thanh tịnh. Đoạn ác tu thiện, tam luân thể không, đó là tịnh. Tuy ta tu thiện, nhưng tam luân chẳng không, “chẳng không” là chấp tướng tu thiện, nên tu thiện chẳng thanh tịnh. Tu thiện phải lìa tướng, chẳng chấp trước tu thiện bèn là thanh tịnh, biểu thị ý nghĩa này.

 

(Sao) Tự tánh quang minh xí nhiên, thị danh xích châu.

() 自性光明熾然,是名赤珠。

(Sao: Tự tánh quang minh chói rực, nên gọi là Xích Châu).

Xích Châu có quang minh, giống như các loại được chúng ta gọi là “bảo thạch” trong hiện tại. Đương nhiên, bảy báu trong thế gian này chẳng thể tự tỏa sáng, chẳng giống như trong thế giới Tây Phương. Bảy báu trong thế giới Tây Phương tự tỏa ánh sáng. Bảy báu trong thế gian này nhờ vào sự phản xạ ánh sáng bên ngoài [mà sáng lấp lánh], chúng có sức phản xạ [ánh sáng] rất mạnh. Một tia sáng rất nhỏ yếu chiếu vào chúng liền bị phản xạ, mạnh hơn ánh sáng bên ngoài, nên được gọi là Bảo. Dùng chuyện này để tỷ dụ “tự tánh quang minh”.

Quý vị hiểu những điều này, liền biết chẳng có một pháp nào chẳng biểu thị pháp, chẳng có pháp nào không thể tiêu quy tự tánh! Không chỉ chúng ta đọc kinh phải tiêu quy tự tánh, mà thấy sắc, nghe tiếng, lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần đều có thể tiêu quy tự tánh, quý vị hãy nghĩ xem: Quý vị có khác gì những vị đại Bồ Tát? Đại Bồ Tát chẳng giống chúng ta ở ngay chỗ này. Lục căn của các Ngài tiếp xúc lục trần là giác chứ không mê, giác là trở về tự tánh! Hết thảy các pháp lưu xuất từ tự tánh, trở về tự tánh, công phu của các Ngài ở ngay chỗ này! Phàm phu chúng ta chẳng giống các Ngài, phàm phu đã mê, lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần bên ngoài, tâm liền bị cảnh giới chuyển, chẳng thể quay đầu! Trong chương Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm, Quán Âm Bồ Tát dạy “phản văn văn tự tánh” (xoay tánh Nghe để nghe tự tánh). “Phản văn văn tự tánh” có cùng một ý nghĩa với “tiêu quy tự tánh” ở đây, Ngài thấy hết thảy các pháp bèn lập tức nghĩ đến công đức trong tự tánh.

Công đức trong tự tánh có thể cùng với tướng của các vật bên ngoài đồng thời lưu lộ, tác dụng ấy quá lớn, nên đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn! Hiện thời, chúng ta chẳng thể [làm như vậy], đối trước cảnh giới bèn mê. Sau khi đã mê bèn khởi tham, sân, si, mạn, phản ứng trong tâm là những thứ ấy. Phản ứng của Phật, Bồ Tát là thanh tịnh, quang minh, trí huệ, từ bi, các Ngài phản ứng bằng những thứ ấy. Đúng như Lục Tổ khi gặp Ngũ Tổ đã thưa: “Trong tâm đệ tử thường sanh trí huệ”. Lục căn của Ngài tiếp xúc cảnh giới lục trần thường sanh trí huệ! Quý vị đã hiểu rõ đoạn này thì há chẳng phải là thường trí huệ ư? Phàm phu chẳng thể, thường sanh phiền não! Đeo giắt vàng, bạc, châu báu cũng thường sanh phiền não, vì sao? Sợ kẻ khác trộm mất, sợ ngày nào đó chúng sẽ hư hoại, suốt ngày từ sáng đến tối phải bận lòng chăm chút những thứ ấy, rất đáng thương! Tánh Đức chẳng thể thấu tỏ, mà toàn là lộ ra tham,  sân,  si,  mạn! Chỗ thụ dụng thật sự trong việc học Phật pháp là ở ngay tại chỗ này!

 

(Sao) Tự tánh kiên thật bất dịch, thị danh mã não.

() 自性堅實不易,是名瑪瑙。

(Sao: Tự tánh cứng chắc, chân thật, chẳng thay đổi, gọi là Mã Não).

Mã Não là bảo thạch, chất liệu khá kiên cố, biểu thị “tự tánh kiên thật”, “Thật” là chân thật kiên cố; “bất dịch” là không biến đổi. [Dùng Mã Não] để tỷ dụ phương tiện này của Tánh Đức.

 

(Sao) Chúng mỹ tất cụ, tư thành Pháp Thân, thị danh “nghiêm sức” dã.

() 眾美畢具,資成法身,是名嚴飾也。

(Sao: Các thứ đẹp đẽ đều đầy đủ, bồi đắp thành Pháp Thân, nên gọi là “trang hoàng mỹ lệ”).

“Pháp Thân”: “Pháp” là chư pháp, “Thân” là bản thân. Bản thân của ta là gì? Bản thân là hết thảy các pháp, hết thảy các pháp là bản thân của ta. Quý vị hãy suy nghĩ, cái thân này có sanh diệt hay không? Vì vậy, Pháp Thân bất sanh, bất diệt, vĩnh viễn thường trụ. Ý nghĩa này rất khó hiểu; nếu quý vị thật sự hiểu, sẽ nhập cảnh giới ấy, quý vị là Sơ Trụ Bồ Tát, trong pháp môn Niệm Phật sẽ đắc Lý nhất tâm bất loạn, từ nay về sau chẳng còn coi thân này là chính mình, mà toàn thể vũ trụ là ta.

Trong các buổi giảng, tôi thường dùng mộng làm tỷ dụ, do chuyện này dễ hiểu, có thể lãnh hội đôi chút. Quý vị nằm mộng, khi tỉnh mộng, hãy suy nghĩ, tất cả cảnh giới trong mộng có phải do cái tâm của chính quý vị biến hiện hay không? Không chỉ cái Ta trong mộng là ta, mà hết thảy mọi người trong mộng cũng là ta, hết thảy vạn vật trong mộng cũng là ta, hư không trong mộng vẫn là ta, toàn là do tâm ta biến hiện! Toàn bộ cái tâm biến thành mộng cảnh, toàn bộ mộng chính là tâm, tâm là chính mình, cảnh cũng là chính mình, nên mới hoảng nhiên đại ngộ, tận hư không khắp pháp giới vốn là ta! Tất cả hết thảy chư Phật, Bồ Tát trong mộng của quý vị vẫn là ta, đều do ta biến hiện. Quý vị hãy thấu hiểu ý nghĩa từ chỗ này.

Hiện thời, vạn pháp trong tận hư không khắp pháp giới do Chân Như bổn tánh của chúng ta biến hiện. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, tâm và thức đều là chính mình. Chư Phật chứng đắc Pháp Thân thanh tịnh, chứng đắc như thế nào? Chứng đắc điều này. Các Ngài triệt để hiểu rõ. Sau khi hiểu rõ bèn đối với hết thảy vạn pháp chẳng còn phân biệt thị phi, nhân ngã, nên tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả đều chẳng còn; ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến cũng chẳng có. Đức Phật nói [người như vậy] là Bồ Tát thật sự. Đó là gì? Bồ Tát chứng đắc Pháp Thân, khẳng định toàn thể hư không vũ trụ và chính mình là một người. Hết thảy vạn pháp là hình ảnh tự tánh của ta, ta hiện cái thân này cũng là hình ảnh. Kinh Kim Cang dạy: “Mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, cũng như chớp, hãy nên quán như thế”, đó là Sơ Trụ Bồ Tát trở lên trong Viên Giáo, là Bồ Tát minh tâm kiến tánh, mà cũng là bậc Bồ Tát đắc Lý nhất tâm bất loạn trong Tịnh Độ Tông. Còn có sai biệt, còn có phân biệt, chấp trước, chắc chắn chưa đạt tới cảnh giới ấy. Hễ đạt tới cảnh giới ấy, tâm và cảnh như một, vạn pháp bình đẳng.

Quý vị thấy sư Ấn Tông hỏi Lục Tổ, Lục Tổ trả lời. Ấn Tông thỉnh giáo: “Bình thường Ngũ Tổ thuyết pháp cho các thầy, có nói tới Thiền Định và giải thoát hay không?” Đây là một đề mục trọng yếu trong Thiền Tông. Lục Tổ trả lời: “Thiền Định và giải thoát là hai pháp, Phật pháp là pháp Bất Nhị”. Cảnh giới của Lục Tổ cao hơn sư Ấn Tông. Một đằng đã chứng đắc Pháp Thân thanh tịnh, một đằng vẫn chưa chứng đắc. Chưa chứng đắc, nên mới có phân biệt, chấp trước, mới rớt trong hai, ba, còn người ta (Lục Tổ) chẳng rơi vào hai, ba! Ngài dùng câu này để chỉ điểm, cảnh tỉnh Ấn Tông! Đó là “nhập pháp môn Bất Nhị”. Nhập pháp môn Bất Nhị là minh tâm kiến tánh trong Thiền Tông, là đại khai viên giải trong Giáo Hạ.

Vì sao giảng pháp môn này? Phật pháp là phải gột sạch làu ý niệm, chẳng chấp nhận phân biệt, chấp trước, chẳng chấp nhận có vọng tưởng, khôi phục sự thiên chân! Trong Bồ Tát hạnh có một loại hành pháp gọi là Anh Nhi Hạnh, trẻ thơ (anh nhi) chẳng có tâm phân biệt. Quý vị cho nó ăn đường, nó cũng ăn; để mặc cho nó ăn phân, nó cũng ăn. Nó chẳng có tâm phân biệt, nó ăn ngon lành, chẳng cự tuyệt. Đó là Anh Nhi Hạnh, tức là hết thảy phân biệt, chấp trước đều chẳng có. Vì sao biến thành phàm phu? Do quý vị có phân biệt, chấp trước. Hiện tại, phải từ phàm phu trở lại thánh nhân, quý vị lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng thì sẽ thành công, chẳng có cách nào khác! Ngàn kinh vạn luận,  vô lượng pháp môn,  đều là cùng một tiêu, một phương hướng này, [chỉ là] phương cách, cách thức khác nhau mà thôi!

Sở dĩ pháp môn Tịnh Độ đặc biệt là do sợ rằng tu các phương pháp khác thì quý vị chẳng thể đạt được [liễu sanh tử, thoát tam giới] trong một đời, nên dạy quý vị đới nghiệp vãng sanh, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới rồi lại tu từ đầu, pháp môn này thù thắng ở chỗ này. Nhưng nếu muốn thành tựu nơi pháp môn này, quý vị cũng chẳng thể dùng loạn tâm để niệm Phật, loạn tâm niệm Phật bèn chẳng tương ứng. Quý vị phải dùng cái tâm thanh tịnh để niệm Phật, tâm thanh tịnh nghĩa là “một bề chuyên niệm”! Quý vị chớ nên niệm quá nhiều thứ. Niệm quá nhiều thứ sẽ chẳng chuyên! Chẳng chuyên sẽ không tương ứng. Do vậy, quý vị phải chuyên niệm, những thứ khác đều buông xuống hết, buông thế duyên xuống, hết thảy Phật pháp cũng buông xuống, niệm một bộ kinh, niệm một câu Phật hiệu suốt đời là được rồi thì mới có thể đi thông suốt con đường này; ai chịu đi, người đó thành tựu. Thật sự chịu đi cũng không phải là chuyện dễ dàng, người nào chịu đi? Kẻ ngốc nghếch. Tục ngữ có câu: “Kẻ ngốc có phước của người ngốc”. A Di Đà Phật tiếp dẫn người ấy đến Tây Phương, [do người ấy] thật sự chịu buông xuống! Người bình thường tự cậy chính mình thông minh, chẳng chịu buông xuống, thứ gì cũng đều muốn học, cuối cùng chính kẻ ấy bị thua thiệt. Vì thế, nhất định phải giác ngộ, nhất định phải chuyên tu, phải thật sự chịu quay đầu.

“Chúng mỹ tất cụ” (các điều tốt lành ắt trọn đủ), Tây Phương Cực Lạc thế giới y báo và chánh báo trang nghiêm. Hết thảy mọi sự trong cuộc sống nơi thế gian này đều chẳng có chướng ngại; vì thế, Đại Thừa Bồ Tát sống cuộc đời “chân, thiện, mỹ, huệ”. “Chân, thiện, mỹ, huệ” của con người trong thế gian này là hữu danh vô thực, vì sao? Tâm địa thanh tịnh mới biết “chân, thiện, mỹ, huệ”, mới có thể hưởng thụ “chân, thiện, mỹ, huệ”. Tâm địa chẳng thanh tịnh, đó là hữu danh vô thực, quyết định chẳng thể thụ dụng. “Tư thành Pháp Thân” (vun bồi thành tựu Pháp Thân), đã hiểu rõ ý nghĩa của Pháp Thân, Pháp Thân là y báo và chánh báo trang nghiêm. Đó gọi là “nghiêm sức”, Nghiêm (嚴) là trang nghiêm, Sức (飾) là trang hoàng. Tây Phương thế giới được trang hoàng đẹp đẽ kỳ diệu bởi vô lượng trân bảo, là công đức xứng tánh.

 

(Sao) Thả Thiện Tài biến lịch trùng thành, bác tham quần ngạn, tối hậu ư Di Lặc lâu các, đàn chỉ nhi đăng.

()  且善財遍歷重城,博參群彥,最後於彌勒樓閣,彈指而登。

(Sao: Hơn nữa, Thiện Tài đến khắp các thành, tham bái rộng rãi các vị thiện tri thức, cuối cùng ở lâu các của ngài Di Lặc, khảy ngón tay để bước lên).

Sau đấy là tổng kết. Trong lời tổng kết, [Liên Trì đại sư] bèn khuyên bảo chúng ta. Trong chú giải, đại sư trích dẫn kinh Hoa Nghiêm nhiều nhất, nhằm mục đích khiến cho chúng ta biết: Giáo nghĩa của kinh điển Tịnh Độ ngang hàng với Hoa Nghiêm, nên dùng Hoa Nghiêm để giải thích. Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, lần lượt đi qua một trăm thành, tham phỏng năm mươi ba vị thiện tri thức. Cuối cùng tham phỏng Di Lặc Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát là vị thứ năm mươi hai, vị cuối cùng là Phổ Hiền Bồ Tát. Lâu các của ngài Di Lặc tráng lệ khôn sánh, giống như những chỗ hiện thời chúng ta gọi là “viện khoa học” hoặc “viện bảo tàng”. Tiến nhập lâu các của Ngài đúng là các cõi Phật trong mười phương thế giới đều hiển hiện trong ấy. Quý vị muốn thấy bất luận vị Phật nào, hoặc một thế giới nào, bèn ngay lập tức bèn hiện cho quý vị thấy, giống như trong viện bảo tàng hoặc sở triển lãm, đẹp đẽ khôn xiết! “Đàn chỉ nhi đăng”, đó là lên quả giác. Di Lặc là Đẳng Giác Bồ Tát, sắp viên mãn, đạt đến địa vị ấy. Thiện Tài đồng tử rất siêng khổ, thành tựu trong một đời.

 

(Sao) Kim đản trì danh, bất thiệp hồi đồ, tiện cư diệu cảnh.

() 今但持名,不涉迴塗,便居妙境。

(Sao: Nay chỉ trì danh, chẳng phải bôn ba, mà liền ngự nơi diệu cảnh).

Nay chúng ta dùng phương pháp trì danh niệm Phật, hạnh phúc hơn Thiện Tài nhiều! Thiện Tài tu học gian nan, khổ sở quá! Chúng ta dùng một câu Phật hiệu, chẳng cần phải chuốc lấy lắm nỗi phiền phức như vậy, chẳng cần chịu nhiều vất vả ngần ấy, mà cũng đạt đến cảnh giới đó. “Tiện cư diệu cảnh”, “diệu cảnh” là địa vị Diệu Giác. Những pháp môn khác của hàng Bồ Tát chẳng thể sánh bằng. So với Hoa Nghiêm, [pháp Niệm Phật] mau chóng hơn nhiều! Do một câu Phật hiệu mà thành tựu quả đức bằng với người ấy (người tu theo Hoa Nghiêm), pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn!

 

(Sao) Kỳ như chung nhật bảo giai hành, tự xưng mê lộ hán.

 () 其如終日寶階行,自稱迷路漢。

(Sao: Điều này giống như suốt ngày đi trên thềm báu, mà tự bảo là kẻ lạc đường).

 Tiếp đó là lời cảm thán. Bao nhiêu kẻ niệm Phật, quý vị mỗi ngày niệm Phật giống như đang bước trên thềm báu. Tuy ở trên thềm báu, chẳng biết chính mình đang đi trên thềm báu. Đúng là chính mình tu vô thượng đạo, mà chẳng biết đó là vô thượng đạo. Chính mình mỗi ngày niệm kinh này là kinh bậc nhất, được hết thảy chư Phật hoằng dương, nhưng chẳng biết! Không biết đây là kinh bậc nhất. Vẫn nghĩ là có rất nhiều kinh điển cao hơn kinh này, cho rằng pháp môn này của chúng ta chẳng bằng ai, [những cách nghĩ như vậy] đều là mê hoặc, điên đảo, đó là vô tri.

 

(Sao) Khả vị “ỷ môn đàn chỉ, bất tri thân tại ngọc lâu trung” giả dã, tích tai!

() 可謂倚門彈指,不知身在玉樓中者也,惜哉。

(Sao: Có thể nói là “dựa cửa khảy ngón tay, chẳng biết thân đã ở trong lầu ngọc”, tiếc thay!)

Đáng tiếc thay! Vì sao người niệm Phật đông như vậy, người vãng sanh ít dường ấy? Tuy họ niệm Phật, nhưng chẳng biết trạng huống chân thật của Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng chẳng biết chính mình đang tu hành điều gì! Chẳng biết, cho nên niệm suốt đời, nhưng chẳng thể vãng sanh. Nguyên nhân ở chỗ nào? Ý chí do dự, tâm không chuyên nhất, tạp tâm xưng danh, loạn tâm niệm Phật, như vậy thì chẳng thể thành tựu, hết sức đáng tiếc!

Liên Trì đại sư chú giải kinh Di Đà tỉ mỉ ngần ấy, mục đích là ở chỗ này: Ngài hy vọng chúng ta sẽ thật sự liễu giải, nhận thức Tây Phương, nhận thức chính mình, quyết định thành tựu trong một đời này. Đó là mục đích khổ tâm của lão nhân gia, chúng ta phải thấu hiểu! Hôm nay đã hết thời gian rồi!

 

— o0o —

Tập 146

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bổn, trang ba trăm mười một.

Tam, liên hoa.

(Kinh) Trì trung liên hoa, đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, hoàng sắc hoàng quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu hương khiết.

三、蓮華。

() 池中蓮華。大如車輪。青色青光。黃色黃光。赤色赤光。白色白光。微妙香潔。

(Ba là hoa sen.

Kinh: Hoa sen trong ao to như bánh xe, màu xanh, ánh sáng xanh; màu vàng, ánh sáng vàng; màu đỏ, ánh sáng đỏ; màu trắng, ánh sáng trắng; vi diệu thơm sạch).

Đoạn kinh văn này nói về hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới vô cùng trọng yếu, nên thế giới Cực Lạc còn có tên là thế giới Liên Hoa. Thế giới ấy hoa sen đặc biệt nhiều, có quan hệ hết sức mật thiết với mỗi người cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, vì Đại Kinh đã dạy rõ ràng: Vãng sanh thế giới Tây Phương là liên hoa hóa sanh, cho nên chỗ để sanh vào là hoa sen, mà chỗ cư trụ cũng là hoa sen. Vì thế, đoạn kinh văn này phải giới thiệu tỉ mỉ. Xin hãy xem chú giải:

 

(Sớ) Thượng ngôn trì ngoại, kim biểu trì trung.

() 上言池外,今表池中。

(Sớ: Phần trên nói về [sự trang nghiêm] bên ngoài ao, nay nói đến [những sự trang nghiêm] trong ao).

 Đoạn trước nói đến sự trang nghiêm phía ngoài ao bảy báu, ở đây là nói đến sự trang nghiêm trong ao bảy báu.

 

(Sớ) Liên hoa, Phạn ngữ Phân Đà Lợi, diệc vân Ưu Bát La, diệc vân Bát Đặc Ma, diệc vân Câu Vật Đầu.

() 蓮華,梵語芬陀利,亦云優缽羅,亦云缽特摩,亦云拘勿頭。

 (Sớ: Hoa sen tiếng Phạn là Phân Đà Lợi (Puṃḍarīka), còn gọi là Ưu Bát La (Utpala), còn gọi là Bát Đặc Ma (Padma), còn gọi là Câu Vật Đầu (Kumuda)).

Đây là dịch âm từ tiếng Phạn của Ấn Độ. Trong phần trước đã nói đến bốn màu, [tức là hoa sen] gồm có bốn loại màu sắc [khác nhau]. Phân Đà Lợi là hoa sen trắng.

 

(Sao) Phạn ngữ Phân Đà Lợi, thử vân Bạch Liên Hoa, vị khai danh Khuất Ma La, tương lạc danh Ca Ma La.

 () 梵語芬陀利,此云白蓮華,未開名屈摩羅,將落名迦摩羅。

(Sao: Tiếng Phạn là Phân Đà Lợi, cõi này dịch là Bạch Liên Hoa, chưa nở gọi là Khuất Ma La (Kuvala), sắp rụng gọi là Ca Ma La (Kamala)).

Những danh xưng này đều là cách gọi cổ xưa tại Ấn Độ. Đại chúng chúng ta ở nơi đây thật sự phát tâm cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, trong ao bảy báu liền trổ một đóa sen. Nếu quý vị ngã lòng, chẳng muốn vãng sanh, hoặc là đổi sang học pháp môn khác, hành tham Thiền, niệm chú, đóa sen ấy liền khô héo, chẳng còn nữa, tiêu mất! Do vậy, hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới có héo rũ, nhưng chư vị phải biết: Hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, hoa sen ấy cũng là hoa sen tồn tại đời đời, vĩnh viễn chẳng diệt, giống như kinh Vô Lượng Thọ đã dạy: Hoa sen tươi đẹp, vĩnh viễn chẳng bị biến đổi. Có thể thấy hoa sen tàn héo, rơi rụng là lúc chúng ta chưa vãng sanh vì tâm quý vị biến đổi, thái độ biến đổi; chứ sau khi vãng sanh sẽ không có [những chuyện tàn héo, rơi rụng ấy].

 

(Sao) Xử trung chánh khai, danh Phân Đà Lợi.

() 處中正開,名芬陀利。

(Sao: Ngay trong lúc hoa sen đang nở thì gọi là Phân Đà Lợi).

 Phân Đà Lợi là danh xưng trong khi hoa sen nở.

 

(Sao) Ưu Bát La giả, thanh liên hoa dã. Bát Đặc Ma giả, hồng liên hoa dã. Câu Vật Đầu giả, hoàng liên hoa dã.

() 優缽羅者,青蓮華也;缽特摩者,紅蓮華也;拘勿頭者,黃蓮華也。

(Sao: Ưu Bát La là hoa sen xanh. Bát Đặc Ma là hoa sen đỏ. Câu Vật Đầu là hoa sen vàng).

Kinh nêu ra bốn loại màu, bốn màu ấy thế gian này đều có. Theo như Đại Kinh đã nói, hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới có vô lượng màu, không chỉ là bốn thứ này. Do vậy, kinh này nói đại lược. Hoa ấy to như bánh xe.

 

(Sớ) Xa luân giả, ngôn kỳ hình dã, đại tiểu vô định.

() 車輪者,言其形也,大小無定。

(Sớ: “Bánh xe” là nói đến hình dáng, [chứ hoa sen] lớn hay nhỏ không nhất định).

Hoa có hình tròn, không chỉ là tròn, mà còn là viên mãn, chẳng có mảy may khiếm khuyết, nên dùng “xa luân” làm tỷ dụ. Trong hết thảy các dụng cụ, bánh xe viên mãn nhất. Nó có tâm, có vành, có trục; trong hết thảy các pháp, nó biểu thị sự viên mãn, lại còn biểu thị Không và Có chẳng hai! Tâm bánh xe trống không, chắc chắn chẳng tìm được. Hiện thời, học Toán, học Hình Học đều biết, đường tròn có tâm hay không? Chắc chắn là có, nhưng ở đâu? Chẳng tìm được! Vì thế, nói là Không. “Không” được nói trong Phật pháp chẳng phải là Vô. “Không” chẳng phải là không có, Không là Có. Đã có thì sao gọi là Không? Mắt chẳng thấy được, tai cũng chẳng nghe được, sáu căn của chúng ta chẳng có cách nào tiếp xúc, nên gọi là Không. Nó xác thực là Có. Vì thế, [hình tròn, bánh xe] biểu thị Có và Không bất nhị, biểu thị tánh và tướng bất nhị. Tâm hình tròn tượng trưng Chân Như bổn tánh, chu vi hình tròn tượng trưng cho tướng. Tâm hình tròn chẳng thể tách lìa đường tròn, đường tròn chẳng thể tách rời tâm hình tròn. Vì thế, nó biểu thị tánh và tướng bất nhị, Không và Có bất nhị. Đó là ý nghĩa viên mãn. Trong hết thảy các pháp, rất khó tìm được một thứ cụ thể như vậy, có thể hiển thị rất rõ rệt ý nghĩa này, chỉ có hình tròn là có thể hiển thị. Vì thế, dùng bánh xe để biểu đạt.

Hoa sen trong thế gian này là vật chất, hoa sen trong thế giới Cực Lạc là đại viên mãn, thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Hoa sen bên đó có thể tỏa ánh sáng, trong ánh sáng có thể hiện vô lượng vô biên cảnh giới, có thể hiện tượng Phật, chẳng giống hoa sen trong thế gian này. “Đại tiểu vô định” nghĩa là hoa sen lớn hay nhỏ không nhất định.

 

(Sớ) Bà Sa đẳng thuyết, chủng chủng bất đồng, các tùy cơ hiện.

() 婆沙等說,種種不同,各隨機現。

(Sao: Các thứ hoa sen khác nhau được nói trong luận Tỳ Bà Sa v.v… đều tùy theo căn cơ mà ứng hiện).

“Bà Sa” là Tỳ Bà Sa Luận (Abhidharma Mahāvibhāṣa Śāstra), một quyển sách trong kinh điển Phật giáo.

 

(Sao) Xa luân đại tiểu giả, Bà Sa Luận vân: “Luân Vương thiên bức kim luân, châu viên thập ngũ lý”. Hoa Nghiêm Sao vân: “Kim luân đại nhất do-tuần”. Quán Kinh vân: “Nhất nhất trì trung, hữu lục thập ức thất bảo liên hoa, đoàn viên chánh đẳng thập nhị do-tuần”. Đại Bổn vân: “Trì trung liên hoa, hoặc nhất do-tuần, nãi chí bách do-tuần, thiên do-tuần”. Nhi nhân thế xa luân, đại bất du trượng, bất khả dĩ thử nhi vi định chuẩn.

() 車輪大小者,婆沙論云:輪王千輻金輪,周圓十五里。華嚴鈔云:金輪大一由旬。觀經云:一一池中,有六十億七寶蓮華,團圓正等十二由旬。大本云:池中蓮華,或一由旬,乃至百由旬,千由旬。而人世車輪,大不逾丈,不可以此而為定準。

(Sao: “Bánh xe lớn hay nhỏ”: Tỳ Bà Sa Luận viết: “Kim luân ngàn căm của Luân Vương, tròn xoe mười lăm dặm”. Hoa Nghiêm Sao viết: “Kim luân to một do-tuần”. Quán Kinh chép: “Trong mỗi một ao, có sáu mươi ức hoa sen bằng bảy báu, tròn trặn vừa đúng mười hai do-tuần”. Kinh Đại Bổn chép: “Hoa sen trong ao, hoặc một do-tuần, cho đến trăm do-tuần, ngàn do-tuần”. Nhưng bánh xe trong cõi đời, to nhất không hơn một trượng, chẳng thể lấy nó làm định chuẩn).

 Tỳ Bà Sa Luận nói đến Luân Vương, tức là nói đến Kim Luân Vương trong bốn loại Luân Vương. Trong thế gian này, từ thuở Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện tới nay, suốt ba ngàn năm chưa ai từng thấy luân bảo của Kim Luân Vương. Không chỉ là [luân bảo của] Kim Luân Vương, sợ rằng luân bảo của vị nhỏ nhất là Thiết Luân Vương cũng chưa có ai trông thấy. Trong kinh, đức Phật bảo chúng ta: Người có phước báo lớn nhất trong thế gian này là Luân Vương. Phạm vi thống trị của Kim Luân Vương là một thái dương hệ, đại vương của thái dương hệ là Kim Luân Vương. Ông ta có thể thống trị tứ thiên hạ, nay chúng ta gọi một tứ thiên hạ là thái dương hệ, tất cả những tinh cầu trong thái dương hệ ấy đều do ông ta thống trị.

Muốn thống trị hệ thống các tinh cầu, nhất định phải có công cụ giao thông nhanh chóng nhất, công cụ giao thông là luân bảo. Luân bảo rất giống đĩa bay do rất nhiều người hiện thời phát hiện, hình dạng của nó giống như bánh xe, tốc độ vô cùng mau chóng, vừa là công cụ giao thông vừa là vũ khí. To chừng nào? Chu vi là mười lăm dặm, nó có chu vi là mười lăm dặm Tàu[57], to ngần ấy! Nhưng hiện thời chúng ta chẳng phát hiện đĩa bay nào trên thế giới to chừng ấy. Đó là nói luân bảo của Kim Luân Vương. Hiện thời, đĩa bay ở ngoài vũ trụ đến thám hiểm địa cầu có thể là luân bảo của Đồng Luân Vương hoặc Thiết Luân Vương đã nói trong kinh Phật, nhỏ hơn [luân bảo của Kim Luân Vương] đôi chút, nhưng điều này là thật, tuyệt đối chẳng giả!

Hoa Nghiêm Sớ Sao nói: “Kim luân to một do-tuần”, luân bảo của Luân Vương lớn hay nhỏ cũng chẳng thể hoàn toàn giống hệt như nhau. Giống như trong thế gian này, phi cơ có lớn hay nhỏ, cũng chẳng phải là hoàn toàn giống hệt như nhau. Có thể thấy là luân bảo của luân vương tuyệt đối chẳng phải chỉ là một cái, nhất định là có rất nhiều, có lớn, có nhỏ. Một do-tuần là bốn mươi dặm, lớn hơn [luân bảo chỉ to] mười lăm dặm như đã nói trong phần trước. Hai câu này đều nói về luân bảo của Luân Vương trong thế gian này.

Điều được nói [trong câu kinh văn trích dẫn từ] Quán Kinh là nói về hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, khác hẳn! “Nhất nhất trì trung” (trong mỗi một ao), Tây Phương Cực Lạc thế giới có vô lượng ao bảy báu, chẳng phải là chỉ có một ao bảy báu. “Hữu lục thập ức thất bảo liên hoa, đoàn viên chánh đẳng thập nhị do-tuần” (có sáu mươi ức hoa sen bảy báu, tròn trặn vừa bằng mười hai do-tuần), trong mỗi ao báu đều có sáu mươi ức hoa sen bảy báu. Do vậy có thể biết: Ao to lớn chẳng thể nghĩ bàn! Tây Phương Cực Lạc thế giới to lớn, không có cách nào tưởng tượng được! Hoa sen trong ao lớn hay nhỏ cũng khác nhau. “Chánh đẳng thập nhị do-tuần”, có thể là hoa sen to cỡ mười hai do-tuần nhiều nhất, có hoa sen nhỏ hơn, mà cũng có hoa lớn hơn. Mười hai do-tuần là bốn trăm tám mươi dặm, đường kính đại khái là từ Nam đến Bắc Đài Loan, còn to hơn Đài Loan.

“Đại Bổn” là kinh Vô Lượng Thọ. Trong kinh Vô Lượng Thọ giảng hết sức tỉ mỉ, nên là một bộ kinh điển trọng yếu nhất trong Tịnh Độ Tông. “Trì trung liên hoa, hoặc nhất do-tuần” (hoa sen trong ao, hoặc to một do-tuần), kẻ vãng sanh thiện căn ít, hoa sen nhỏ nhất, to một do-tuần. Một do-tuần là bốn mươi dặm, nói chung to cỡ thành phố Đài Bắc, đấy là hoa sen bé nhất, “nãi chí bách do-tuần, thiên do-tuần” (cho đến một trăm do-tuần, một ngàn do-tuần). Một ngàn do-tuần thì lớn hơn địa cầu của chúng ta, có thể thấy lớn nhỏ chẳng như nhau. “Nhi nhân thế xa luân, đại bất du trượng” (nhưng bánh xe trong nhân gian, chẳng to hơn một trượng), bánh xe lớn nhất trong thế gian này, tối đa là một trượng[58]. Do vậy, chẳng thể dùng bánh xe trong thế gian này, hoặc dùng hoa sen trong thế gian để làm tiêu chuẩn, chẳng thể! Phải biết cảnh giới ở bên ấy chẳng thể nghĩ bàn. Kinh Đại Bổn nói “hoa diệp vô lượng vô biên” (cánh hoa vô lượng vô biên). Kinh Như Lai Tạng nói: “Hoa trung hóa Phật, quang minh vô số” (trong hoa hóa hiện chư Phật, quang minh vô số), nên đúng là chẳng thể nghĩ bàn.

 

(Sao) Hựu vân: “Chúng bảo liên hoa, châu biến thế giới, nhất nhất bảo hoa, hữu vô lượng bách thiên ức diệp”. Án kinh biệt liên hoa thắng liệt tam chủng, thập diệp, bách diệp, thiên diệp, kim viết “vô lượng bách thiên ức diệp”, diệp ký vô lượng, tắc hoa chi đại, diệc vô lượng hĩ!

() 又云:眾寶蓮華,周遍世界,一一寶華,有無量百千億葉。按經別蓮華勝劣三種,十葉、百葉、千葉。今曰無量百千億葉,葉既無量,則華之大,亦無量矣。

(Sao: Lại nói: “Hoa sen bằng các thứ chất báu trọn khắp thế giới. Mỗi một hoa báu có vô lượng trăm ngàn ức cánh”. Xét ra, kinh phân biệt hoa sen hơn kém thành ba loại: Mười cánh, trăm cánh, ngàn cánh; nay nói “vô lượng trăm ngàn ức cánh”, cánh đã là vô lượng thì hoa cũng phải to vô lượng vậy!)

Cánh hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng giống cánh hoa sen trong thế gian này. Hoa sen trong thế gian này ít cánh, chẳng có nhiều cánh, mà cánh hoa lại rất to. Trong kinh thường nói mắt Như Lai giống như cánh hoa sen xanh. Nếu [người nghe hiểu là mắt Phật] giống như cánh hoa sen trong thế gian này, con mắt ấy sẽ khó coi lắm! Người ấy chẳng biết hoa sen Tây Phương Cực Lạc thế giới có nhiều cánh. “Thiên diệp” là một đóa sen có ngàn cánh, cánh sen dài và nhỏ giống như cánh hoa cúc; vì vậy, hết sức đẹp. Mắt Phật, Bồ Tát giống như cánh hoa sen ấy, dài và nhỏ. Hoa sen trong thế gian này mà “trăm cánh, ngàn cánh” giống như vậy rất hiếm hoi. Hoa sen mười mấy cánh, hai mươi mấy cánh thì khá nhiều, hoa mười mấy cánh thì thường thấy. Hoa sen càng nhiều cánh càng lạ lùng, mà cũng càng trân quý. Hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới có vô lượng cánh, “diệp” là cánh hoa, nhiều vô lượng, nên hoa cũng phải to!

 

(Sao) Hựu Như Lai Tạng kinh vân: “Nhĩ thời, Thế Tôn ư Chiên Đàn Trùng Các, chánh tọa đạo tràng, nhi hiện thần biến, hữu thiên diệp liên hoa, đại như xa luân, hoa trung hóa Phật, các phóng vô số bách thiên quang minh”. Cố tri xa luân bất khả tư nghị, ninh đắc cục dĩ nhân thế thường sở ngự xa nhi vi hạn lượng.

() 又如來藏經云:爾時世尊於旃檀重閣,正坐道場,而現神變,有千葉蓮華,大如車輪,華中化佛,各放無數百千光明。故知車輪不可思議,寧得局以人世常所御車而為限量。

(Sao: Lại nữa, kinh Như Lai Tạng nói: “Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ở trong Chiên Đàn Trùng Các, hiện thần thông biến hóa, có hoa sen ngàn cánh to như bánh xe. Trong hoa hóa ra chư Phật, mỗi vị đều phóng vô số trăm ngàn quang minh”. Do vậy, biết “bánh xe” chẳng thể nghĩ bàn, há nên lấy [kích thước của] bánh xe người đời thường ngồi để đoán định kích thước của [hoa sen trong Cực Lạc] ư?)

Đây là một đoạn kinh văn trong kinh Như Lai Tạng[59], cho chúng ta biết: Đức Phật thị hiện thần biến, dùng sức thần thông của Phật, chuyển cảnh giới Tây Phương Cực Lạc thế giới đến trước mặt chúng ta, khiến cho mỗi kẻ phàm phu chúng ta cũng có thể trông thấy. Chúng ta thường gọi chuyện này là “thần thông biến hóa”. Nhưng các hiện tượng này chắc chắn chẳng phải là ảo thuật. Ảo thuật là giả, chẳng thật! Những tướng cảnh giới do đức Phật đã hiện đều là thật, Ngài đem cảnh giới của chư Phật nơi các phương khác đặt trước mặt chúng ta, khiến cho chúng ta cậy vào thần lực của Phật bèn có thể tiếp xúc, có thể thấy, thậm chí có thể nghe chư Phật, Bồ Tát giảng kinh, thuyết pháp; những điều này đều phải cậy vào oai thần của Phật. Ngài hiện hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, đúng như kinh Đại Bổn đã nói: Hoa tỏa ánh sáng, trong ánh sáng hóa hiện chư Phật. Do vậy có thể biết: Chắc chắn chẳng thể dùng hoa sen trong thế gian này để luận định hoa sen báu trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. [Kinh nói] “to như bánh xe” thì cũng chẳng thể lấy bánh xe trong cõi này để so sánh, hiểu là hình dáng bên ngoài tương tự thì được, chứ công đức lợi ích biến hóa chẳng có cách nào tưởng tượng được!

 

(Sao) Tùy cơ giả, dĩ hoặc tiểu, hoặc đại, diêu kỳ nhân địa niệm Phật, công hữu thắng liệt, cơ cảm tự trí nhĩ.

() 隨機者,以或小或大,繇其因地念佛,功有勝劣,機感自致爾。

(Sao: “Tùy cơ”: Do [hoa sen] lớn hoặc bé tùy thuộc sự niệm Phật trong lúc tu nhân, công phu có thù thắng hay hèn kém, nên tùy theo căn cơ mà tự cảm vời thành ra như vậy).

Câu này rất trọng yếu. Hoa sen trong Tây Phương thế giới chẳng phải do A Di Đà Phật gieo trồng, nên hoa sen lớn hay bé, ánh sáng và màu sắc của nó chẳng dính dáng gì đến A Di Đà Phật. Hoa sen do đâu mà có? Do người niệm Phật trong các cõi Phật ở mười phương trong lúc tu nhân đã sanh ra. Pháp môn này là pháp môn hy hữu thù thắng bậc nhất, người có thể thật sự nhận thức thấu triệt pháp môn này chẳng nhiều lắm. Lão cư sĩ Hạ Liên Cư nói: “Ức vạn nhân trung, nhất nhị tri” [nghĩa là] trong ức vạn người, chỉ được một, hai kẻ hiểu biết! Pháp môn này là pháp môn bậc nhất để mười phương ba đời hết thảy chư Phật độ chúng sanh thành Phật đạo, nên nói kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà được gọi là “kinh bậc nhất trong hết thảy các kinh”. Cũng có thể nói là mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai, không có vị Phật nào chẳng giảng bộ kinh này, không có vị Phật nào chẳng khuyên mọi người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Do vậy, pháp môn này là pháp môn được chư Phật chung nhau hoằng dương, ta có thể suy ra được sự thù thắng của nó vậy!

Nhưng chúng sanh có người tin, có kẻ chẳng tin, người tin ít ỏi, kẻ không tin đông đảo. Vì sao không tin? Nghĩ pháp này quá dễ dàng, họ nói “liễu sanh tử, thoát tam giới, thành Phật đạo há dễ dàng như vậy ư?” Họ chẳng tin tưởng. Phàm những người có thể tin tưởng đều do thiện căn, phước đức, nhân duyên nhiều đời nhiều kiếp chín muồi, nên quý vị mới có thể tin tưởng, điều này chẳng dễ dàng! Nếu quý vị thật sự tin tưởng, bèn liễu sanh tử ngay trong đời này, được sống đời đời ngay trong đời này. Các tôn giáo thường nói đến chuyện sống đời đời; thật vậy, từ nay trở đi, bất sanh, bất diệt. Chúng ta vãng sanh là vãng sanh trong khi còn sống, chẳng phải là chết rồi mới vãng sanh. Ra đi trong khi còn sống, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới vô lượng thọ. Thọ mạng là vô lượng thật sự, chẳng phải là vô lượng có hạn lượng, mà là chân thật vô lượng. Nếu chẳng phải là phước đức, thiện căn, nhân duyên trong vô lượng kiếp đã chín muồi, chắc chắn chẳng thể nào gặp gỡ pháp môn này; dẫu có gặp gỡ, cũng chẳng thể tin tưởng.

Tín thì có tin nông cạn và tin sâu xa. Có người tuy đã tin, nhưng vẫn còn hoài nghi, chẳng phải là khăng khăng một mực tin tưởng. Nguyện cũng có cạn hay sâu khác nhau. Hạnh thì công phu cũng chẳng như nhau. Có người mỗi ngày niệm mười vạn tiếng Phật hiệu, có người mỗi ngày chỉ niệm mười câu, mười niệm! Làm sao có thể như nhau được? Vì thế, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, hoa sen sẽ lớn hay nhỏ khác nhau. Nếu quý vị thật sự hiểu rõ chuyện này, nay chúng ta phải giữ lấy điều gì? Phải giữ lấy những gì có thể vĩnh viễn đạt được, vĩnh viễn chẳng mất đi. Quý vị giữ lấy những thứ ấy sẽ là thông minh, đó chính là hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Quý vị thật sự tin tưởng, thật sự phát nguyện, nỗ lực niệm Phật, hoa sen của quý vị ngày càng to hơn. Nửa tin nửa ngờ, dường như niệm, dường như chẳng niệm, dẫu được vãng sanh thì đến bên kia, hoa sen chỉ to một do-tuần, rất nhỏ!

Chúng ta chớ nên lưu luyến ngũ dục lục trần trong thế gian này, vì sao? Hết thảy các pháp trong thế gian này chẳng mang thứ nào theo được! Mọi người đều biết: “Sanh không mang gì đến, chết chẳng đem gì theo”. Nếu biết chết không mang được thứ gì theo thì cần gì phải tranh giành những thứ ấy? Hiện thời, quý vị còn chưa chết, đúng vậy, hôm nay vẫn còn chưa chết, nhưng ngày mai có thể còn sống hay không, ai dám bảo đảm? Không ai dám bảo đảm cả! Tai nạn bất ngờ quá nhiều! Chúng ta có được sanh mạng một ngày thì phải nỗ lực tu hành một ngày, chẳng cần tranh giành những thứ trong thế gian, chúng đều là giả.

Gần đây nhất, tôi gặp một vị đồng tu, rất phát tâm, và cũng là một Phật giáo đồ kiền thành, tính tự mình xây dựng một đạo tràng nhỏ để tu hành, đến hỏi tôi có nên hay không? Tôi nói: “Đài Loan có rất nhiều đạo tràng, ông đã thấy rồi đó. Ông cảm thấy có tốt đẹp hay không? Nếu ông có tiền, bây giờ mua một căn nhà nhỏ, đừng nói là mua chỗ lớn lao! Mua một nơi to bằng Thư Viện của chúng tôi, chỉ sợ cũng phải trên ngàn vạn. Nếu ông dùng số tiền một ngàn vạn ấy in kinh Vô Lượng Thọ, tặng một trăm vạn bản cho hết thảy chúng sanh để kết duyên, tức là ông tu được một đạo tràng to lớn, chắc chắn ông sẽ vãng sanh. Ông tự mình mua nhà lập đạo tràng, nói không chừng là đạo tràng đấu tranh, sợ là chẳng có cách nào vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới!”

Hiện thời, chúng tôi biên tập bộ kinh ấy hết sức hoàn chỉnh, phần đầu là kinh văn [của kinh Vô Lượng Thọ], chính giữa là Bảo Vương Tam Muội Sám và Tịnh Tu Tiệp Yếu, phía sau in kèm Âm Chất Văn và Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, nương theo một quyển ấy để tu hành, đủ rồi! Bảo Vương Tam Muội Sám và Tịnh Tu Tiệp Yếu là “hành kinh” (kinh điển để hành trì), còn hay hơn Lương Hoàng Sám và Thủy Sám, hai bộ sám ấy do cổ nhân biên soạn vào thời đại ấy. Cư sĩ Hạ Liên Cư là người thuộc thời đại hiện tại, từ lúc Ngài vãng sanh cho đến hiện thời bất quá là hai mươi lăm năm, cho nên những điều được viết trong bộ sám ấy đều là tật xấu của thế hệ chúng ta. Quý vị tu theo sám pháp ấy, phát lộ sám hối thì Lý Sám và Sự Sám thảy đều trọn đủ. Do vậy, sám pháp ấy vô cùng hay, hãy nên chiếu theo phương pháp ấy để tu tập. Nếu chẳng thể tu mỗi ngày, tốt nhất là mỗi tuần tu một lần. Tịnh Tu Tiệp Yếu có thể tu mỗi ngày, dùng Tịnh Tu Tiệp Yếu làm khóa lễ sáng tối. Bảo Vương Tam Muội Sám mỗi tuần tu một lần, tối thiểu là mỗi tháng tu một lần. Âm Chất Văn và Cảm Ứng Thiên do pháp sư Ấn Quang đề xướng. Lão nhân gia dùng này hai thứ ấy để thay thế giới luật, khiến cho chúng ta thường đọc, thường phản tỉnh, chỗ nào chúng ta đã làm đúng, chỗ nào đã làm trật. Dùng hai thứ ấy để làm tiêu chuẩn, hòng sửa đổi những hành vi sai trái nơi thân tâm của chúng ta. Chúng tôi đều chép hết vào tập sách nhỏ ấy, hết sức hoàn chỉnh. Hoa sen lớn hay nhỏ do bản thân chúng ta, đã hiểu đạo lý này thì phải nỗ lực, phải nghiêm túc tu học.

Nói theo nguyên lý, kinh điển liễu nghĩa đã nói rất rõ ràng: “Tâm tịnh, ắt cõi Phật tịnh”, nguyên lý này vĩnh viễn chẳng thể biến đổi, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng giống như thế. Vì sao Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức muốn chúng ta một ngày phải niệm bao nhiêu câu Phật hiệu? Nhằm mục đích dạy chúng ta tu cái tâm thanh tịnh. Chúng ta chẳng niệm Phật bèn dấy vọng tưởng, vọng tưởng là nghiệp luân hồi, quý vị đang tạo tác lục đạo luân hồi. Hằng ngày tạo tác lục đạo luân hồi, làm sao có thể thoát khỏi lục đạo luân hồi cho được? Quý vị chẳng thoát được! Vì thế, bảo quý vị niệm Phật. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, niệm Phật là bậc nhất. Bất luận cầu tiêu tai, trừ chướng, miễn nạn, công đức niệm Phật đều to lớn bậc nhất. Vì thế, yêu cầu quý vị mỗi ngày niệm mười vạn tiếng, niệm năm vạn tiếng, niệm ba vạn tiếng, niệm một vạn tiếng. Tối thiểu là một ngày phải niệm một vạn tiếng Phật hiệu, chẳng thể ít hơn. Niệm một vạn tiếng Phật hiệu chẳng khó, niệm bốn chữ, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, niệm theo cách như vậy thì mất hai tiếng đồng hồ. Chẳng thể niệm một lần thì ta chia làm hai lần niệm. Chẳng thể niệm hai lần thì ta chia ra niệm bốn lần, mỗi lần nửa tiếng. Có thể niệm chừng hai tiếng đồng hồ thì đại khái sẽ đủ một vạn tiếng. Vì vậy, quý vị niệm Phật càng nhiều càng hay, lúc niệm Phật, quý vị sẽ không dấy vọng tưởng. Do tu Tây Phương Cực Lạc thế giới Tịnh Độ, nên mỗi ngày phải niệm kinh, tối thiểu phải niệm kinh một lần mỗi ngày, Phật hiệu tối thiểu phải niệm một vạn tiếng.

Công khóa sáng tối chuyên tu tịnh nghiệp, dùng Tịnh Tu Tiệp Yếu là tốt nhất, chẳng cần dùng nghi thức tụng niệm thông thường. Khóa tụng bình thường vốn do cổ đức đặt ra cho các tự viện thông thường, chẳng dành cho người chuyên tu Tịnh nghiệp. Lão cư sĩ Hạ Liên Cư tuổi già đề xướng Tịnh Độ Tông, chuyên tu, chuyên hoằng. Tịnh Tu Tiệp Yếu và Bảo Vương Tam Muội Sám là trước tác sau cùng của cụ vào lúc tuổi già. Trong thế gian hiện thời, người tin pháp môn này rất ít, kẻ bài xích, hủy báng pháp môn này hết sức nhiều. Ở hải ngoại, chúng tôi thường gặp kẻ bảo: “Niệm Phật là pháp Tiểu Thừa, [người tu Tịnh Độ] là kẻ chỉ cầu giải thoát cho riêng mình. Niệm Phật là tiêu cực”, nghe thấy những ngôn luận giống như vậy rất phổ biến. Nếu bản thân chúng ta tín tâm chẳng đủ, chẳng liễu giải Tịnh Độ, nghe lời lẽ ấy cảm thấy rất có lý, chính mình ngay lập tức ngã lòng, chẳng niệm nữa. Còn nghe có kẻ nói: “Bản hội tập của cư sĩ Hạ Liên Cư chẳng phải là bản dịch gốc, Ấn Quang đại sư phản đối”. Tuy Ấn Quang đại sư phản đối, Ngài chẳng phản đối bản của cụ Hạ Liên Cư. Khi cụ Hạ Liên Cư soạn ra bản này, Ấn Quang đại sư đã vãng sanh, Ngài chẳng đọc đến! Vì sao Ngài phản đối những bản hội tập trước đó? Hội tập lần đầu là cư sĩ Vương Long Thư, Ấn Quang đại sư cũng rất bội phục cư sĩ Vương Long Thư. Cư sĩ Vương Long Thư đứng vãng sanh, biết trước lúc mất. Nếu quý vị nói bản kinh này chẳng thể hội tập, lẽ ra ông ta chẳng đứng vãng sanh. Ông ta có thể đứng vãng sanh, chứng tỏ hội tập kinh này là điều chính xác.

Vì sao Ấn Quang đại sư phản đối ba bản hội tập trong quá khứ? Là vì người hội tập sử dụng ý nghĩ của chính mình để sửa chữa kinh văn. Ngài không phản đối hội tập, mà là phản đối quý vị tùy tiện sửa đổi kinh văn, chẳng thể mở ra lệ này! Vì sau khi quý vị lập ra tiền lệ, về sau sẽ có kẻ bắt chước, [tùy tiện] sửa kinh, đến cuối cùng, kinh bị biến đổi thành tình trạng nào [chẳng ai có thể tưởng tượng được], điều này chẳng thể [chấp nhận được]! Đối với bản [hội tập] này của cụ Hạ Liên Cư, quý vị hãy đối chiếu bản hội tập ấy với năm bản dịch gốc, [sẽ thấy] cụ chẳng sửa một chữ nào. Do vậy, nếu pháp sư Ấn Quang nhìn thấy, nhất định sẽ hoan hỷ, tán thán, quý vị chẳng tìm thấy khuyết điểm! Bản hội tập trước kia của Vương Long Thư có những khuyết điểm, ông ta thường sửa chữ, đương nhiên ông ta sửa theo ý nghĩa đúng, nhưng vẫn là [tùy tiện] thay đổi chữ. Các bản của cư sĩ Bành Tế Thanh và cư sĩ Ngụy Mặc Thâm đều phạm khuyết điểm ấy. Vì vậy, cư sĩ Hạ Liên Cư mới phát tâm [hội tập một bản mới], chẳng động đến một chữ nào! Hiện thời, ấn hành Tịnh Độ Ngũ Kinh Độc Bổn, chín phiên bản bày trước mặt quý vị, quý vị hãy tự mình đối chiếu. Sau khi quý vị đối chiếu, sẽ bội phục năm vóc gieo sát đất, chẳng còn nói gì được nữa! Vì thế, lần này chúng tôi đặc biệt ấn hành toàn bộ chín phiên bản, là vì sợ có người lại phê bình, lại hoài nghi bản của cụ Hạ Liên Cư có những khuyết điểm. Chín phiên bản bày ra trước mặt, quý vị chẳng còn nói gì nữa. Quý vị hãy tự nhìn xem. Đây là lý do vì sao chúng ta phải in Tịnh Độ Ngũ Kinh Độc Bổn, lý do là ở ngay chỗ này, hy vọng mọi người đối với bản này [tin tưởng] kiên định, chẳng đổi dời. Hạ lão cư sĩ vãng sanh cũng là biết trước lúc mất. Do vậy, kẻ thiện căn, phước đức mỏng sẽ hoài nghi; người thiện căn, phước đức sâu dầy “một phen thoảng qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống đạo”, sẽ chẳng hoài nghi.

Theo băng ghi âm lời khai thị trong Phật Thất tại Hương Cảng của lão pháp sư Đàm Hư, lão nhân gia có nhắc tới một đồ đệ của pháp sư Đế Nhàn. Vị đồ đệ ấy mù chữ, điều gì cũng chẳng biết. Tuy xuất gia, [cụ Đế Nhàn] cũng chẳng cho ông ta thọ giới, mà cũng chẳng bảo ông ta ở trong chùa. Vì ông ta tuổi tác đã cao, nên Sư tìm một ngôi chùa hư nát ở vùng quê thành phố Ninh Ba cho ông ta ở, dạy ông ta [gắng niệm] một câu Nam-mô A Di Đà Phật. Sư dạy: “Ông cứ thẳng thừng mà niệm, niệm mãi, niệm mệt bèn nghỉ ngơi. Nghỉ khỏe khoắn rồi lại niệm”. Người đồ đệ ấy thật sự nghe lời, đúng là khó có! Thật thà niệm Phật, niệm một câu ấy suốt ba năm, ông ta cũng đứng vãng sanh, biết trước lúc mất. Đã chết rồi mà vẫn đứng sững ba ngày, đợi sư phụ đến lo liệu hậu sự. Pháp sư Đế Nhàn thấy tình cảnh ấy, ca ngợi ông ta. Sư nói: “Pháp sư giảng kinh, thuyết pháp đương thời, trụ trì các đạo tràng chốn danh sơn, không ai có thể sánh bằng ông ta”. Ông ta chỉ biết một câu Nam-mô A Di Đà Phật sáu chữ, trừ câu ấy ra, chuyện gì cũng chẳng biết. Đã chết rồi mà vẫn đứng sững ở đó ba ngày, chẳng dễ dàng! Do vậy, học Phật phải nghiêm túc tu! Ông ta vãng sanh chắc chắn là thượng phẩm thượng sanh, công phu ba năm đấy nhé! Nay chúng ta chẳng bằng người ta, người ta đúng là thật thà niệm Phật, chúng ta chẳng thật thà! Đầu óc suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ lung tung! Nói ra những lời này [nhằm khẳng định] hoa sen lớn hay nhỏ do chính chúng ta quyết định. Chúng ta phải nghiêm túc nỗ lực, phải tu công đức chân thật, chớ nên giả vờ!

Trong Cốc Hưởng Tập, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đã viết mấy câu rất trọng yếu trong đoạn cuối bài Tịnh Độ Tư Lương, tôi hết sức tán đồng! Cụ nói: Tu hành trong hiện tại, thứ nhất là “đồng tu quý tinh, chứ không quý nhiều”. “Tinh” là gì? Thật sự tu! Chúng ta gồm mười người cùng tu, trong tương lai mười người đều có thể vãng sanh, rất tuyệt vời! Hiện thời, đạo tràng chúng ta có mấy trăm người, mấy ngàn người, nhưng một người cũng chẳng thể vãng sanh, trong tương lai đều tạo ác nghiệp phải đọa trong tam đồ, vậy thì dẫu nhiều, có ích gì? Vô ích! Do đó, các đồng tu quý tinh, chẳng quý nhiều. Thứ hai là “đạo tràng trọng thực chất, không trọng hình thức”, “thực chất” là thật sự tu, thật sự phát Bồ Đề tâm, thật sự tụng kinh, niệm Phật, không do hình thức. Kiến trúc trang nghiêm, chưng dọn lộng lẫy, bề thế, hương khói rất nhộn nhịp, đồ chúng rất đông, đều là hình thức, những hình thức ấy là gì? Đạo tràng náo nhiệt, chẳng phải là thật sự tu hành. Trước kia, thầy Lý bảo tôi: “Thật sự đả Phật Thất, chẳng thể đông hơn mười người”. Nhiều hơn mười người là đã bị biến chất, biến thành pháp hội, chẳng phải là niệm Phật! Năng lực tinh thần của vị Chủ Thất Sư có thể chiếu cố mười người thì còn được; người đông quá, Chủ Thất Sư là hình thức, chẳng có cách nào chiếu cố được! Đối với mỗi cá nhân, Chủ Thất Sư đều phải quan sát và hiểu cảnh giới của người ấy, khiến cho trong bảy ngày, người ấy thật sự có thể đạt được lợi ích, thật sự có thể đạt được một chút thành tựu, như công phu thành phiến hay nhất tâm bất loạn. Đả Phật Thất nhằm cầu điều này, đông người sẽ chẳng có cách nào, đều biến thành hình thức. Con người hiện thời chuộng hình thức, chẳng trọng thực chất. Thứ ba, “chân tu phải chú trọng nhất tâm, chú trọng tâm thanh tịnh”, không xem trọng cảnh giới, không đặt nặng thần thông, không coi trọng Thiền Định, không xem trọng cảm ứng, những thứ này đều chẳng cần! Ta đến đây để cầu gì? Cầu tâm thanh tịnh.

Do vậy, ba điều cụ Hoàng đã khai thị vô cùng quan trọng. Nếu có thể tuân thủ ba điều khai thị ấy, tuy sống trong thời kỳ Mạt Pháp, cũng chẳng bị đi vào ngõ rẽ, chẳng bị lạc lối. Tuy là Mạt Pháp, nhất định có thành tựu chẳng thể nghĩ bàn! Nhưng đại đa số người hiện thời đều phạm khuyết điểm, đều nói tới bề ngoài, đều nói tới chuyện dễ coi, toàn là nói tới hình thức. Nói đạo tràng hưng vượng thì “chùa to, người đông” có phải là hưng vượng hay không? Sai mất rồi! Sai lầm quá đỗi! Chúng ta đọc Tây Phương Xác Chỉ, nhóm đồ đệ của Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát tất cả chỉ có mười hai người tu hành, mười hai người ai nấy vãng sanh, lỗi lạc thay, đạo tràng Bồ Tát đấy nhé! Do vậy, quyết định chẳng phải là đông người, chư vị nhất định phải nhớ kỹ điều này! Chúng ta phải kết hợp những người thật sự chí đồng đạo hợp, thật sự chí đồng đạo hợp là gì? Chúng ta chỉ có một mục tiêu, cầu sanh Tây Phương, cầu sanh Tịnh Độ; chúng ta cùng một nguyện vọng, hoằng dương Tịnh Độ. Có thể phát tâm như vậy, không chỉ là đồng tâm đồng nguyện với A Di Đà Phật, mà nói thật ra còn là “đồng tâm, đồng nguyện, đồng hạnh” với mười phương hết thảy các đức Như Lai, có lẽ nào chẳng vãng sanh?

 

(Sao) Nãi hữu dĩ hoa như xa luân, ức thử kinh tán thiện, cái vị khảo ư luân nghĩa.

() 乃有以華如車輪,抑此經散善,蓋未考於輪議。

 (Sao: Có kẻ viện cớ [kinh này nói] “hoa sen to như bánh xe” để gièm chê kinh này là tán thiện, ấy là vì chưa xét đến ý nghĩa của chữ Luân).

 

Cổ đại đức bảo pháp môn Niệm Phật là tán thiện, đó là vì chưa thâm nhập nghiên cứu ý nghĩa của kinh, nhìn sai ý nghĩa.

(Sớ) Đại như xa luân, thả dụ hình thể, dĩ luân dụ đức, diệc hữu đa nghĩa.

() 大如車輪,且喻形體,以輪喻德,亦有多義。

(Sớ: To như bánh xe, là tỷ dụ hình thể, dùng bánh xe để tỷ dụ đức, cũng có nhiều nghĩa).

Bởi lẽ, mỗi chữ, mỗi câu trong Phật pháp đều bao hàm vô lượng nghĩa. Nếu chúng ta muốn liễu giải Phật pháp, nói thật ra, chẳng phải là chuyện dễ dàng! Thật sự có thể thấu hiểu Phật pháp, nhất định phải dốc sức nơi tâm địa, tuyệt đối chẳng ở nơi văn tự, hoặc nơi chú giải! Quý vị muốn thông đạt Phật pháp bằng văn tự hoặc chú giải, đó là chuyện chẳng thể nào có! Từ xưa tới nay, chẳng dùng phương pháp ấy, chỉ có con người hiện thời mới dùng phương pháp ấy, tức là nghiên cứu kinh luận, nghiên cứu chú sớ. Trong bộ Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, nơi phần giải thích tựa đề bộ kinh, Thanh Lương đại sư lão nhân gia đã nói rất minh bạch: “Tăng trưởng tà kiến”. Chúng ta đọc rất nhiều kinh điển, xem rất nhiều chú sớ, Phật pháp đầy ắp trong đầu, đó là tà tri, tà kiến!

Những kinh luận chẳng phải là do đức Phật nói ra ư? Đức Phật chẳng nói một câu nào! Quý vị đọc kinh Kim Cang, [thấy chép]: Nếu kẻ nào nói đức Phật thuyết pháp, kẻ đó báng Phật! Đức Phật chẳng nói một câu nào! Nói thật thà, Phật pháp chẳng có ý nghĩa, Phật pháp chẳng nói được. Tâm Phật là tâm thanh tịnh. Trong tâm thanh tịnh, chẳng sanh một niệm, há có pháp để nói? Chẳng có pháp để nói. Đức Phật thuyết pháp bốn mươi chín năm, nói lắm kinh như vậy, trong kinh đã nói rất minh bạch: “Chẳng nói mà nói, nói mà không nói”. Nếu quý vị có thể hiểu ý nghĩa này, mới là thật sự nhập Phật tri kiến. Phật chẳng nói! Đó là lời thật thà, là lời chân thật, đức Phật chẳng nói một câu nào. Vì chúng sanh có bệnh (khuyết điểm), nên đức Phật bảo cho quý vị biết lỗi này, lỗi nọ! Quý vị nói “đức Phật nói một câu”, đức Phật chẳng nói một câu nào, chỉ nói ra lỗi này, lỗi nọ của quý vị. Vì thế, phải chú tâm thấu hiểu.

Phật pháp dạy chúng ta Giác, Chánh, Tịnh. Đạt được một chữ trong ba chữ Giác, Chánh, Tịnh thì cả ba đều đạt được! Thiền Tông dốc sức nơi Giác. Hễ đã Giác, đương nhiên là đạt được Chánh và Tịnh. Giáo Hạ dốc sức nơi Chánh, người niệm Phật đổ công nơi Tịnh. Trong ba chữ ấy, Tịnh tương đối thù thắng, tương đối dễ dàng hơn. Tịnh là cầu tâm thanh tịnh, dốc sức từ chỗ này. Chỉ cần cái tâm đã thanh tịnh, quyết định là chánh tri chánh kiến, quyết định là đại giác rạng ngời, đó là đạo lý nhất định! Do vậy, cầu tâm thanh tịnh. Nay chúng ta niệm Phật, tụng kinh, mục đích đều nhằm cầu tâm thanh tịnh. Do vậy, trong niệm Phật, tụng kinh, chớ nên có vọng tưởng, chớ nên nghĩ tưởng ý nghĩa trong kinh. Chẳng cần suy tưởng ý nghĩa trong kinh thì tâm mới thanh tịnh. Nếu vừa niệm vừa nghĩ đến ý nghĩa trong kinh, tâm sẽ chẳng thanh tịnh, tức là coi kinh Phật như sách thế gian để đọc. Do đó, phải hiểu kinh Phật chẳng có ý nghĩa gì, chúng ta chỉ niệm, chẳng cầu hiểu ý nghĩa. Niệm kinh như vậy thì Tam Học Giới, Định, Huệ thảy đều trọn đủ.

Vì lẽ đó, niệm kinh, niệm Phật là tu Giới, Định, Huệ, ta mỗi ngày niệm kinh này từ đầu đến cuối một lần là tu Giới, Định, Huệ một lần. Ta niệm Phật niệm hai giờ là tu Giới, Định, Huệ hai giờ. Huệ ấy là trí huệ chân thật, là Căn Bản Trí. Căn Bản Trí là như trong kinh Bát Nhã đã nói: “Bát Nhã vô tri”, tu gì? Tu vô tri; khi khởi tác dụng, lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần bên ngoài, “không gì chẳng biết”. Không gì chẳng biết do đâu mà có? Từ vô tri mà có! Nay chúng ta phạm khuyết điểm, nên gọi là điên đảo. Trong kinh, đức Phật thường bảo chúng ta là “kẻ đáng thương xót”, là “kẻ điên đảo”, điên đảo là gì? Chúng ta dốc hết tánh mạng “cầu tri”. Dốc hết tánh mạng “cầu tri” thì kết quả là có điều không biết, thứ gì cũng đều chẳng biết! Do vậy, đức Phật dạy chúng ta: Trước hết, quý vị phải cầu vô tri, thật sự đạt đến vô tri thì sẽ “chẳng gì không biết”. Con người hiện thời chẳng chịu cầu vô tri, đòi hỏi “có biết”, điên đảo ở chỗ này! Khi thật sự thanh tịnh đạt được vô tri thì lúc mở kinh ra sẽ là vô lượng nghĩa. Nếu quý vị giảng cho người khác, trong ấy sẽ là vô lượng nghĩa. Nếu quý vị chẳng giảng thì trong ấy một tí ý nghĩa cũng đều chẳng có! Vì thế, chúng ta chẳng thể cầu hữu tri, mà hãy cầu vô tri.

Trong lúc tâm quý vị thanh tịnh, sẽ giống Lục Tổ đã nói: “Vốn chẳng có một vật”, trí huệ của quý vị liền sanh. Khi Lục Tổ gặp Ngũ Tổ, đã thưa cùng Ngũ Tổ: “Trong tâm đệ tử thường sanh trí huệ”. Trong tâm con người chúng ta hiện thời thường sanh phiền não. Người ta thường sanh trí huệ, vì sao thường sanh trí huệ? Tâm thanh tịnh, trong tâm thứ gì cũng đều chẳng có! Tâm giống như nước phẳng lặng, giống như một tấm gương, chiếu kiến! Tâm Kinh có nói: “Chiếu kiến Ngũ Uẩn đều Không”. Trong tâm chúng ta là gió to, sóng lớn, thứ gì cũng chẳng thấy được! Thấy chẳng được, bèn suy nghĩ lung tung, chỗ nào cũng suy lường, gốc bệnh ở ngay chỗ này. Vì lẽ đó, pháp môn Tịnh Độ là pháp môn xảo diệu nhất, là pháp môn thiện xảo nhất, tức là dạy chúng ta lìa khỏi phân biệt, chấp trước, vọng tưởng bằng phương pháp dùng niệm Phật, tụng kinh để bài trừ. Quý vị công phu lâu ngày, tự nhiên phân biệt, chấp trước, vọng tưởng ít đi. Vọng tưởng ít, trí huệ liền sanh, trí huệ liền tăng trưởng.

 

(Sao) Hình thể giả, luân thể vi viên, hữu liên tượng dã.

() 形體者,輪體圍圓,有蓮象也。

(Sao: “Hình thể”: Bánh xe tròn xoe, giống như hình dáng của hoa sen).

 “Hình” là hình trạng. Nói theo phương diện “hình thể”, bánh xe là tròn. Nhìn từ phía trên, hoa sen cũng là tròn. Hình tướng tương tự, mang ý nghĩa này.

 

(Sao) Đa nghĩa giả.

() 多義者。

(Sao: Nhiều nghĩa).

Trong Luân, quả thật có rất nhiều ý nghĩa.

 

(Sao) Hựu Luân hữu chuyển nghĩa.

() 又輪有轉義。

(Sao: Lại nữa, Luân có nghĩa là chuyển động).

Nói thật ra, tác dụng lớn nhất của bánh xe là xoay tròn, có thể nói là nhân loại tiến bộ, mãi cho đến ngày nay, phát triển đến tận vũ trụ đều cậy vào sự xoay tròn. Nếu nó chẳng chuyển động thì thứ gì chẳng thể chuyển động. Nếu bánh xe hơi không xoay được thì xe có tác dụng gì nữa? Nếu động cơ máy bay chẳng chuyển động, máy bay cũng chẳng thể bay được! Tất cả hết thảy khoa học kỹ thuật đều dựa vào sự chuyển động của bánh xe. Bánh xe có ý nghĩa động, có ý nghĩa chuyển!

 

(Sao) Thử liên hoa giả, thác dựng chúng sanh, dịch phàm thành thánh, tức Chuyển nghĩa cố.

() 此蓮華者,托孕眾生,易凡成聖,即轉義故。

(Sao: Hoa sen này là nơi để chúng sanh gởi thân sanh về, đổi phàm thành thánh, chính là ý nghĩa Chuyển).

Từ nơi này sanh sang nơi khác là ý nghĩa Chuyển. Đối với hoa sen trong thế giới Cực Lạc, chúng sanh sanh vào hoa sen là phàm phu, nhưng vừa vào hoa sen bèn thành thánh nhân, thánh nhân như thế nào? Thưa cùng quý vị, bậc đại thánh nhân phi phàm, thành Phật! Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn chẳng có chuyện này, chỉ riêng Tây Phương Cực Lạc thế giới thù thắng, nó là pháp môn thành Phật trong một đời. “Dịch phàm thành thánh” là ý nghĩa Chuyển.

 

(Sao) Hựu Luân hữu Triển nghĩa.

() 又輪有輾義。

(Sao: Luân lại có nghĩa là nghiền nát).

“Triển” (輾) là giống như xe hủ lô (xe lu, rouleau-compresseur, road roller), nó có thể cán bằng, nghiền phẳng mặt đất, mang ý nghĩa này.

 

(Sao) Thử liên hoa giả, bất nhiễm ô trược, phá trừ phiền não, tức Triển nghĩa cố.

() 此蓮華者,不染汙濁,破除煩惱,即輾義故。

(Sao: Hoa sen này chẳng nhiễm ô trược, phá trừ phiền não, tức là ý nghĩa Nghiền Nát).

Hoa sen trong sạch, thơm sạch vi diệu. Nếu chúng ta có Phiền Não Chướng thì bốn ý nghĩa “vi diệu hương khiết” đều không có. Do vậy, người sanh vào hoa sen, tất cả hết thảy phiền não tự nhiên chẳng còn. Chúng ta vãng sanh mang theo phiền não, đới nghiệp vãng sanh, tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, những phiền não ấy tự nhiên đều chẳng còn, chúng đi đâu rồi? Chuyển biến thành trí huệ. Đó gọi là “phiền não tức Bồ Đề”, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, phiền não hễ biến đổi liền biến thành trí huệ, rất mầu nhiệm! Do vậy, chẳng cần đoạn phiền não, mà phiền não tự nhiên chẳng còn! Điều này giống như ý nghĩa Nghiền Nát.

 

(Sao) Hựu Luân hữu phi hành nghĩa.

() 又輪有飛行義。

(Sao: Luân lại có ý nghĩa bay đi).

 “Phi hành nghĩa”, người xưa đã có thể nói như vậy, chúng ta là người hiện tại đọc đến, [cảm thấy] chẳng thể nghĩ bàn! Người hiện thời nhìn vào nghĩa “phi hành” còn tương đối hiểu được, khoa học kỹ thuật phát triển mà! Trước đây làm sao có phi hành? Có thể thấy đại khái là vào thời cổ đã có đĩa bay.

 

(Sao) Thánh vương kim luân.

() 聖王金輪。

(Sao: Kim luân của thánh vương).

Đây là nói tới luân bảo của Chuyển Luân Thánh Vương, nói thật ra, ngày nay chúng ta gọi nó là đĩa bay.

 

(Sao) Nhất nhật chi trung, nhiễu tứ thiên hạ.

() 一日之中,遶四天下。

(Sao: Trong một ngày, giáp vòng tứ thiên hạ).

“Nhất nhật” là hai mươi bốn giờ, luân bảo của Kim Luân Thánh Vương có thể nhiễu quanh thái dương hệ một vòng.

 

(Sao) Thử liên hoa giả, biến chí thập phương.

() 此蓮華者,遍至十方。

(Sao: Hoa sen ấy tới khắp mười phương).

Luân bảo của Kim Luân Thánh Vương chẳng thể sánh bằng hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Luân bảo của Kim Luân Thánh Vương vòng quanh thái dương hệ phải mất một ngày, hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, trong một cái khảy ngón tay hay một sát-na, có thể đến trọn khắp mười phương pháp giới, chẳng thể sánh bằng! Tận hư không khắp pháp giới, trong một niệm có thể đến trọn khắp, hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới có tốc độ như vậy, thù thắng ngần ấy!

 

(Sao) Tiếp bỉ niệm Phật chúng sanh.

() 接彼念佛眾生。

(Sao: Tiếp dẫn chúng sanh niệm Phật).

Người niệm Phật trong lúc vãng sanh, Phật đến tiếp dẫn. Đóa sen đức Phật cầm trên tay chính là hoa sen do chính quý vị niệm thành. Ở đây, chúng ta thờ tượng A Di Đà Phật tiếp dẫn, tay Ngài cầm một đóa sen, hoa sen ấy do chính người vãng sanh tự niệm Phật, trong ao bảy báu bèn sanh một đóa sen, lớn hay nhỏ do công phu niệm Phật của chính mình sâu hay cạn. Đức Phật cầm đóa sen ấy đến tiếp dẫn quý vị. Hơn nữa, trên hoa sen ấy có tên của chính quý vị, chắc chắn chẳng lầm lẫn!

 

(Sao) Quy ư Cực Lạc, tức phi hành nghĩa cố, dư bất phiền cử.

() 歸於極樂,即飛行義故。餘不煩舉。

(Sao: Trở về Cực Lạc, tức là nghĩa “phi hành”. Những điều khác chẳng phải mất công kể ra).

Trong đây có quá nhiều ý nghĩa, nói chẳng hết! Chỉ nêu ra mấy điều khá trọng yếu để quý vị hiểu được ý nghĩa.

Chuyện vãng sanh là sự thật rõ rệt từ xưa đến nay. Chúng ta đích thân mắt thấy, tai nghe rất nhiều! Ngàn vạn phần chớ nên nghĩ những điều được nói trong Tịnh Độ Tông và tôn giáo chưa chắc là thật. Nếu quý vị có lòng hoài nghi thì đúng là đáng tiếc quá, quý vị lại bỏ lỡ cơ hội trong đời này mất rồi! Thuở đầu tôi mới học Phật cũng chẳng thể tin tưởng sâu xa pháp môn này, thầy Lý khuyên nhủ tôi, thầy khuyên theo cách nào? Thầy nói: “Từ xưa tới nay, khá nhiều người nương theo pháp môn này tu học, [giả sử] những người đó đều bị lừa thì chúng ta bị lừa một lần có sao đâu?” Thầy dùng phương pháp ấy để khích lệ tôi phải tin tưởng, nghiêm túc tu học. Bị lừa ư? Được! Đời này để cho pháp ấy lừa ta một lần cũng được. Nếu pháp ấy là thật, chúng ta đạt được lợi ích to lớn! Nếu nó chẳng thật, chúng ta cũng chẳng bị thua thiệt gì!

Nhưng tôi bảo quý vị, nếu giữ thái độ ấy để niệm Phật, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới có thể vãng sanh hay không? Có thể chứ, nhưng sanh về đâu? Biên địa nghi thành, chúng ta biết điều này. Biên địa nghi thành cũng còn khá, cũng rất khó có! Bất quá sau năm trăm năm mới có thể hoa nở thấy Phật, phải ở đó năm trăm năm, bỏ lỡ năm trăm năm mà thôi! Nhưng quý vị sẽ chẳng bị thoái chuyển, biên địa nghi thành cũng chẳng thoái chuyển, rất khó có! Dẫu là [vãng sanh trong] biên địa nghi thành, vẫn vượt trỗi các pháp môn khác. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, bất cứ pháp môn nào cũng đều chẳng sánh bằng, công đức thù thắng của biên địa nghi thành cũng chẳng thể nghĩ bàn!

 

(Sớ) Thanh, hoàng, xích, bạch, ngôn kỳ sắc dã.

() 黃赤白,言其色也。

(Sớ: Xanh, vàng, đỏ, trắng là nói đến màu sắc của hoa sen).

Đây là nói tới màu sắc của hoa sen, có màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng, bốn loại màu.

 

(Sớ) Bất duy cử sắc, nhi ngôn quang giả, thử độ liên hoa, hữu sắc vô quang cố, đản cử tứ sắc giả, tỉnh văn dã.

() 不唯舉色,而言光者,此土蓮華,有色無光故。但舉四色者,省文也。

(Sớ: Không chỉ nói tới màu, mà còn nói tới ánh sáng. Hoa sen trong cõi này (Sa Bà) có màu nhưng không có ánh sáng. Kinh chỉ nói bốn màu là nói đại lược).

“Thanh sắc thanh quang, hoàng sắc hoàng quang”: Hoa sen trong thế gian này có màu, chẳng có ánh sáng. Hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới vừa có màu, vừa có ánh sáng. Màu sắc và quang minh tươi đẹp đều liên quan mật thiết với sự niệm Phật của chúng ta trong hiện tại. “Đản cử tứ sắc giả, tỉnh văn”, nói tỉnh lược, trên thực tế, hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới có vô lượng màu, vô lượng quang, tuyệt đối chẳng phải là bốn thứ.

 

(Sao) Tứ sắc giải kiến tiền sớ.

() 四色解見前疏。

(Sao: Xem giải thích về “bốn màu” trong lời Sớ ở trên).

 Trong vô lượng màu, đức Phật nêu ra đơn giản bốn màu. Nêu ra bốn màu ấy cũng có lý, vì thế gian này cũng có bốn loại màu ấy. Nếu thế gian này chẳng có, đức Phật nói ra, chúng ta khó thể tin tưởng. Nêu ra những màu này, thế gian cũng có, chúng ta liền dễ dàng tin tưởng, dễ dàng lãnh hội. Đồng thời, chúng có ý nghĩa biểu thị pháp.

 

(Sao) Quang giả, tùng sắc nhi phát, như châu oánh khiết, tắc năng phát quang.

() 光者,從色而發,如珠瑩潔,則能發光。

(Sao: Quang minh từ màu phát ra, giống như hạt châu trong ngần, tinh khiết, bèn có thể tỏa ánh sáng).

Đây là tỷ dụ bảo châu trong thế gian này, chỉ cần có một tia sáng yếu ớt chiếu đến nó, nó liền sanh ra tác dụng phản xạ, phản xạ ánh sáng. Tây Phương Cực Lạc thế giới do vô lượng chất báu hợp thành, Tây Phương Cực Lạc thế giới là cõi Pháp Tánh, do Tánh Đức của Chân Như bổn tánh hiển hiện, nên mỗi một loại vật chất đều tỏa ánh sáng. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân Phật phóng quang, Bồ Tát phóng quang, trên thân mỗi người đều có quang minh, nên thế giới ấy còn gọi là thế giới Quang Minh. Không chỉ là thế giới Liên Hoa, mà còn là thế giới Quang Minh.

 

(Sao) Bỉ độ liên hoa chí vi thanh tịnh, cố hữu quang dã.

() 彼土蓮華至為清淨,故有光也。

(Sao: Hoa sen trong cõi ấy, thanh tịnh tột bậc, nên có quang minh).

Ở chỗ chúng ta, hoa sen là thân thảo[60], hoa sen trong cõi kia do trân bảo hợp thành; vì thế, có quang minh.

 

(Sao) Đại Bổn vân: “Thanh sắc thanh quang, bạch sắc bạch quang, huyền, hoàng, châu, tử chi sắc, kỳ quang diệc nhiên”.

() 大本云:青色青光,白色白光,玄黃朱紫之色,其光亦然。

(Sao: Kinh Đại Bổn chép: “Màu xanh ánh sáng xanh, màu trắng ánh sáng trắng, màu đen, vàng, son, tía, ánh sáng cũng giống như thế).

Kinh Vô Lượng Thọ nói cặn kẽ, chẳng phải chỉ là bốn loại ấy, “huyền, hoàng, châu, tử” tượng trưng rất nhiều màu trong ấy.

 

(Sao) Vĩ diệp hoán lạn, minh diệu nhật nguyệt.

() 煒燁煥爛,明耀日月。

(Sao: Chói tỏa, rực rỡ, sáng ngời che lấp ánh mặt trời, mặt trăng).

“Vĩ diệp” là dáng vẻ hết sức rực rỡ, đẹp đẽ, “minh diệu nhật nguyệt” là quang minh vượt trỗi ánh sáng của mặt trời, mặt trăng.

 

(Sao) Nhất nhất hoa trung, xuất tam thập lục bách thiên ức quang, nhất nhất quang trung, xuất tam thập lục bách thiên ức Phật.

() 一一華中,出三十六百千億光,一一光中,出三十六百千億佛。

(Sao: Trong mỗi hoa tỏa ra ba mươi sáu trăm ngàn ức ánh sáng, trong mỗi ánh sáng xuất hiện ba mươi sáu trăm ngàn ức Phật).

Trong quang minh có hóa Phật.

 

(Sao) Nhất nhất chư Phật, hựu phóng bách thiên quang minh, phổ vị thập phương chúng sanh thuyết vi diệu pháp.

() 一一諸佛,又放百千光明,普為十方眾生說微妙法。

(Sao: Mỗi đức Phật lại phóng trăm ngàn quang minh, khắp vì mười phương chúng sanh nói pháp vi diệu).

 Đây là sự thù thắng của hoa sen. “Vi diệu pháp” là pháp gì? Là pháp niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, là pháp vi diệu bậc nhất trong các pháp do hết thảy chư Phật đã nói! Vì pháp môn này, bất luận căn tánh nào, bất luận chúng sanh như thế nào, nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp, trình độ cạn hay sâu, từ Đẳng Giác Bồ Tát cho tới A Tỳ địa ngục, hữu tình trong chín pháp giới nương theo pháp môn này thảy đều đắc độ, đều bình đẳng thành Phật, điều này chẳng thể nghĩ bàn! Đây là vi diệu pháp chân thật.

 

(Sao) Cứ thử, tắc thanh, bạch, huyền, hoàng, châu, tử, dĩ thành lục sắc.

() 據此,則青白玄黃朱紫,已成六色。

(Sao: Dựa theo điều ấy, xanh, trắng, đen, vàng, son, tím, đã thành sáu màu).

Theo như kinh Vô Lượng Thọ đã giảng, chẳng phải chỉ có bốn màu.

 

(Sao) Nhi Phật Địa Luận phục vân thất bảo, cố tri tứ sắc, kỳ văn tỉnh cố.

() 而佛地論復云七寶,故知四色,其文省故。

(Sao: Nhưng Phật Địa Luận lại nói tới bảy báu, nên biết “bốn màu” là nói vắn tắt).

La Thập đại sư dịch kinh này, dịch “bốn màu” là nói tỉnh lược. Sáu phương Phật trong phần sau cũng là tỉnh lược, nguyên văn là mười phương.

 

(Sao) Kỳ thật, liên hoa cụ vô lượng sắc, cụ vô lượng quang dã. Hựu bất ngôn thuyết pháp giả, diệc văn tỉnh cố.

() 其實蓮華具無量色、具無量光也。又不言說法者,亦文省故。

(Sao: Thật ra, hoa sen có đủ vô lượng màu, có đủ vô lượng quang. Lại chẳng nói [hoa sen phóng quang, quang minh hiện Phật, Phật] thuyết pháp, tức là nói vắn tắt vậy).

Quý vị đọc kinh Vô Lượng Thọ, mới biết xác thực là hoa sen “vô lượng sắc, vô lượng quang”, “quang trung hóa Phật”, Phật lại vì hết thảy chúng sanh thuyết pháp, “thuyết vi diệu pháp”. Trong Tiểu Bổn, những chuyện này đều tỉnh lược. Cùng đọc tụng nghiên cứu Đại Bổn và Tiểu Bổn, sẽ có thể nhìn thấy ý nghĩa khá viên mãn. Hôm nay tôi giảng tới chỗ này!

 

— o0o —

Tập 147 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bổn, trang ba trăm mười bốn:

 

(Sớ) Vi diệu hương khiết, ngôn kỳ đức dã. Cử tứ đức giả, diệc văn tỉnh cố.

() 微妙香潔,言其德也。舉四德者,亦文省故。

(Sớ: “Vi diệu hương khiết” là nói về đức. Nêu lên Tứ Đức cũng là nói tỉnh lược).

Phẩm đức của hoa sen cũng là vô lượng vô biên, nói tới bốn đức này là nêu ra đại lược, nói vắn tắt.

 

(Sao) Tứ đức giả, ly cấu thị liên hoa chánh nghĩa, thôi quảng kỳ nghĩa, lược thuyết vi tứ.

() 四德者,離垢是蓮華正義,推廣其義,略說為四。

 (Sao: “Bốn đức”: “Lìa nhơ” là ý nghĩa chánh yếu của hoa sen, do mở rộng ý nghĩa ấy bèn nói đại lược bốn đức).

“Vi diệu hương khiết” đều có thể nói theo Lý. Trước hết, lời Sao nói đến ý nghĩa Ly Cấu. Trong thế gian này, [rễ củ của] hoa sen mọc trong đất bùn, hoa nở trên mặt nước; đức Phật thường dùng hoa sen để biểu thị pháp, tượng trưng [ý nghĩa] “hai bên nhiễm và tịnh đều chẳng trụ”. Đất bùn trong ao tượng trưng cho nhiễm, nhiễm là cảnh giới lục phàm, lục đạo. Phía trên đất bùn là nước, nước là thanh tịnh, tượng trưng cho bốn thánh pháp giới: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, và Phật. Hoa sen nở trên mặt nước, tức là hai bên nhiễm và tịnh đều lìa, tượng trưng Nhất Chân pháp giới vượt trỗi mười pháp giới. Trong mười pháp giới, Phật pháp giới cao nhất, nhưng chẳng rốt ráo, vì sao? “Phật” [trong mười pháp giới] là nói tương đối, “vượt thoát” [mười pháp giới] mới là lìa khỏi tương đối, thật sự nhập cảnh giới viên mãn rốt ráo. Đó là “chánh nghĩa” (ý nghĩa chủ yếu) được biểu thị bởi hoa sen. Từ hình tướng của hoa sen, có thể lãnh hội “tứ đức” vi diệu hương khiết.

 

(Sao) Nhất ngôn vi giả, phục hữu tứ nghĩa, nhị đồng, nhị biệt. Nhất giả, căn tiềm trì để, bất khả khuy thị, thị vi “u vi”.

() 一言微者,復有四義,二同二別。一者,根潛池底,不可窺視,是為幽微。

(Sao: Một là nói đến ý nghĩa Vi, lại có bốn nghĩa, hai nghĩa đồng và hai nghĩa biệt. Một là rễ ẩn kín dưới đáy ao, chẳng thể nhìn ngó, đó là “u vi”).

Ý nghĩa thứ nhất là Vi. Rễ hoa sen mọc trong đất bùn, nhục nhãn của chúng ta chẳng thấy. Vì thế, nó có ý nghĩa “u vi” (ẩn kín, huyền nhiệm). Ao bảy báu trong Tây Phương Cực Lạc thế giới cát vàng trải đất, đáy ao thanh tịnh, chẳng bị nhuốm bẩn. Nhưng nói thật ra, hoa sen ấy lại càng u vi, vì sao? Hoa sen ấy chẳng phải do con người gieo trồng, mà cũng chẳng do A Di Đà Phật biến hiện, mà do hết thảy chúng sanh trong mười phương thế giới phát tâm niệm Phật, trong ao liền nẩy sanh một đóa hoa sen, đương nhiên hoa sen ấy cũng sanh từ cát bằng vàng, nên ý nghĩa “u vi” lại càng sâu hơn ý nghĩa trong thế gian này nhiều lắm!

 

(Sao) Nhị giả, bất sanh cao nguyên, lục địa, dữ phồn hoa lệ nhụy nhi tranh nghiên diễm, thị vi “ẩn vi”.

() 二者,不生高原陸地,與繁華麗蕊而爭妍艷,是為隱微。

(Sao: Hai là chẳng sanh nơi cao nguyên hay đất liền, chẳng đua tranh sắc vóc đẹp đẽ cùng các loài hoa rực rỡ chốn phồn hoa, đó là “ẩn vi”).

 Hoa sen thanh cao, khiết bạch, chẳng tranh sắc đua hương cùng những loài hoa khác. Nó mọc trong ao nước, đó là ý nghĩa “ẩn vi”. Chúng ta xem Nhị Thập Ngũ Sử[61], những nhân vật lịch sử trong ấy đều có cống hiến rất lớn đối với quốc gia, dân tộc thì mới có thể lưu danh trong sử xanh. Những vị ẩn sĩ tuy có học vấn và đạo đức, nhưng cả đời chẳng ra mặt làm chuyện gì, lịch sử cũng phải chép về họ, vì sao? Nói chung là nghĩ không ra! Những người ấy chẳng có cống hiến gì cho quốc gia, dân tộc, xã hội, hằng ngày du sơn ngoạn thủy, uống rượu, làm thơ, họ sống cuộc đời như thế. Sau này, chúng tôi mới thật sự hiểu rõ vì sao [các sử gia] chép truyện của họ? Nói thật ra, những người ấy đều có năng lực, thật sự có đức hạnh, nhưng chẳng ra làm việc, ẩn cư trong chốn núi rừng, chẳng hỏi đến thế sự, đại biểu điều gì? Thiên hạ thái bình. Thông thường, những kẻ chẳng có đức hạnh kha khá, tự mình có bản lãnh, mà nếu chẳng đạt được địa vị trong xã hội, ắt muốn làm loạn, muốn tạo phản! Nhưng các vị ấy chẳng tạo phản, chẳng dấy loạn, lỗi lạc thay! Tiến chẳng bằng thoái, có những người ấy thị hiện: Trong xã hội, họ có thể lùi một bước, an phận giữ đúng bổn phận, đó là giáo dục người khác hết sức tốt đẹp bằng hành động gương mẫu (thân giáo). Thật sự hiểu rõ nhân quả, có thể tiến bèn tiến, không thể tiến bèn lui, trọn chẳng miễn cưỡng! Vì thế, vô cùng khó có, đáng quý, lịch sử chép truyện của họ là có lý. Đó là ý nghĩa “ẩn vi”.

 

(Sao) Tam giả, Quán Kinh ngôn nhất nhất diệp thượng hữu bát vạn tứ thiên mạch, do như thiên họa, thị vi “tế vi”.

() 三者,觀經言一一葉上有八萬四千脈,猶如天畫,是為細微。

(Sao: Ba là Quán Kinh nói trên mỗi cánh sen, có tám vạn bốn ngàn đường mạch, giống như nét vẽ cõi trời, đó là “tế vi”).

Hoa sen trong thế gian này chẳng có nhiều đường mạch như thế. Hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới to lớn, cánh đã nhỏ lại dài. Hơn nữa, mỗi cánh đều có tám vạn bốn ngàn đường gân, nên là “tế vi”.

 

(Sao) Tứ giả, thất bảo sở thành, trân kỳ túy mỹ, thị vi “tinh vi”.

() 四者,七寶所成,珍奇粹美,是為精微。

(Sao: Bốn là do bảy báu hợp thành, hiếm quý, đẹp đẽ tột bậc, đó là “tinh vi”).

 Hoa sen trong thế gian này là thân thảo, hoa sen nơi Tây Phương do bảy báu tạo thành.

 

(Sao) Tiền nhị thông ư thử phương, hậu nhị bỉ quốc độc thiện, cố nhị đồng, nhị biệt.

() 前二通於此方,後二彼國獨擅,故二同二別。

(Sao: Hai điều đầu giống như phương này, hai điều sau chỉ riêng cõi kia là có, nên [nói là] “hai điều đồng, hai điều biệt”).

Bốn ý nghĩa này, hai ý nghĩa đầu “thông” (cùng chung, tương thông) với phương này (thế giới Sa Bà). Hoa sen trong thế gian này có ý nghĩa “u vi” và “ẩn vi”; còn như “tế vi” và “tinh vi” thì thế gian này chẳng có, chỉ riêng Tây Phương Cực Lạc thế giới mới có. “Nhị đồng, nhị biệt”, “đồng” là giống như trong thế giới Sa Bà, “biệt” là khác với thế giới Sa Bà, thế giới Sa Bà chẳng có [những đặc tánh ấy]. Như vậy, chữ Vi bao gồm bốn ý nghĩa này.

Nếu nói theo Lý, nói thật ra, hoa ấy là Tướng Phần của Chân Như tự tánh. Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng Trí, Nhất Thiết Chủng Trí, chỉ sợ là đều chẳng có cách nào hòng có thể lý giải nó. Dẫu là ngũ nhãn viên minh của Như Lai, cũng chẳng có cách nào quan sát đến rốt ráo, đó là ý nghĩa “u vi”. Sách Diễn Nghĩa có nói: “Bất dữ chư trần tác đối” (chẳng đối ứng với các trần), nó do Pháp Tánh biến hiện, chẳng do sáu trần biến hiện, chẳng thuộc vào sáu trần. Do vậy, nó cũng chẳng thuộc vào hết thảy các pháp, hết thảy các pháp đều là vật được biến hiện bởi sáu trần; đó là ý nghĩa “ẩn vi”. Tứ Đức là nêu đại lược, thật ra, phẩm đức của hoa chẳng thể nghĩ bàn. “Tùy cử nhất đức” (nêu bất cứ một đức nào), nhất định bao hàm trọn vẹn các đức, đó là cảnh giới Hoa Nghiêm, “một tức là hết thảy, hết thảy tức là một”, đó là ý nghĩa “tế vi”. Thể của hoa do “hết thảy công đức diệu bảo” thành tựu, “vô tác vạn hạnh dĩ vi trang nghiêm” (vạn hạnh vô tác để trang nghiêm), đó là ý nghĩa “tinh vi”. Đây là quan sát hoa sen theo Lý.

 

(Sao) Nhị ngôn diệu giả, phục hữu thập nhị nghĩa, tứ đồng, bát biệt.

() 二言妙者,復有十二義,四同八別。

(Sao: Hai là nói đến Diệu thì lại có mười hai nghĩa, bốn nghĩa tương đồng, tám nghĩa khác biệt).

Đây là nói đến ý nghĩa Diệu của hoa sen. Trong ba kinh, kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đều hết sức coi trọng hoa sen, vì nó có quan hệ vô cùng mật thiết với chúng ta. Hãy nên biết điều này: Vãng sanh Tây Phương, hoa ấy là chỗ để chúng ta sanh vào, trong tương lai là chỗ để chúng ta ở. Nói cách khác, [hoa sen] có quan hệ mật thiết với chánh báo và y báo của chúng ta, nên ba kinh đều nói cặn kẽ. “Diệu” có mười hai nghĩa, ở đây cũng nói rất rõ ràng.

 

(Sao) Nhất giả, phương hoa tức quả, bất đãi hoa lạc, thị vi “nhân quả đồng thời diệu”.

() 一者,方華即果,不待華落,是為因果同時妙。

(Sao: Một là vừa đơm hoa liền có quả, chẳng đợi đến khi hoa rụng, đó là điều mầu nhiệm “nhân quả đồng thời”).

“Nhân quả đồng thời” là thật, đây là sự thật. Trong Duy Thức Học [gọi chuyện này] là “hiện hành và chủng tử đồng thời”. Tập khí chúng ta dấy lên hiện hành, thí dụ như mừng, giận, buồn, vui phát tác thì sự phát tác là hiện hành. Những điều ấy vừa phát tác liền lập tức in bóng trong A Lại Da Thức, đó là chủng tử. Chủng tử gặp duyên lại khởi hiện hành. Hiện hành và chủng tử làm nhân và quả lẫn nhau, quý vị nói xem cái gì là nhân? Hiện hành là nhân của chủng tử, chủng tử là nhân của hiện hành, làm nhân và quả lẫn nhau, nên “nhân quả đồng thời”. Trong vạn vật, cái có thể biểu thị ý nghĩa này, đích xác là hoa sen, hoa sen biểu thị “nhân quả đồng thời”. Khi sen trổ hoa, trong búp sen bèn có hạt sen, chẳng cần chờ đến khi hoa rụng mới có quả, hạt. Những loài hoa khác, nhân quả chẳng đồng thời, đơm hoa trước, kết quả sau. Chỉ riêng hoa sen là nhân quả đồng thời, ý nghĩa này nhằm nói với chúng ta “trong nhân có quả, trong quả có nhân”, biểu thị ý nghĩa này.

Nếu nói theo sự biểu thị pháp, “sơ phát tâm thời, tiện thành Chánh Giác” (lúc mới phát tâm, liền thành Chánh Giác), kinh Hoa Nghiêm nói như vậy. Đức Phật nói lời này, kẻ bình phàm chúng ta rất khó tin tưởng, thành Chánh Giác là thành Phật, chúng ta vừa phát tâm liền thành Phật ư? Thưa cùng quý vị, vừa phát tâm, xác thực là thành Phật, điều này chẳng giả. Vấn đề ở chỗ nào? Quý vị chẳng thể gìn giữ lâu dài cái tâm đã phát ấy! Nay quý vị vừa phát, được mấy phút lại biến đổi. Mới thành Phật trong một giây này, đến giây sau lại biến thành phàm phu. Nếu quý vị có thể vĩnh viễn giữ vững sơ phát tâm, quý vị chẳng phải là Phật thì là gì vậy? Cổ nhân thường nói: “Lúc sơ phát tâm, thành Phật có dư!” Tâm ấy thanh tịnh, chân thật, nhưng ý niệm vừa chuyển, tâm ấy lại biến đổi, lại thoái chuyển, lại đọa lạc, nên chẳng dễ duy trì lâu dài!

Trong kinh này, cũng như trong Tịnh Độ giáo, câu nói này của đức Thế Tôn có ý nghĩa đặc biệt sâu xa, mà cũng đặc biệt rõ rệt. Chúng ta niệm câu Phật hiệu, tâm niệm Phật là Phật tâm. Cổ đức đã nói rất rõ ràng: “Tâm năng niệm là Thỉ Giác, đức Phật được niệm là Bổn Giác của chúng ta. Khi niệm Phật là Thỉ Giác hợp với Bổn Giác. Thỉ Giác hợp với Bổn Giác thì Thỉ – Bổn chẳng hai”. Nói thật ra [Thỉ và Bổn hợp lại, chẳng hai] là Cứu Cánh Giác. Trong các pháp môn khác, tu đến Cứu Cánh Giác chẳng dễ dàng; pháp môn này tu đến Cứu Cánh Giác vô cùng nhanh chóng, mà cũng vô cùng ổn thỏa, thích đáng, vì trong nhân có quả, trong quả có nhân. Pháp môn Niệm Phật là tu từ quả, chẳng phải là từ nhân tu đến quả; nó là nhân quả đồng thời, nhanh chóng lắm! Vì thế, chẳng giống các pháp môn khác, nó là nhân quả đồng thời mà!

Hiện thời, thế giới loạn lạc, đời ác Ngũ Trược, trược ác tới tột cùng, nhưng người niệm Phật vãng sanh đặc biệt nhiều, chư vị hãy chú ý quan sát, so với bất cứ triều đại trước đây đều nhiều hơn. Càng trược ác, vãng sanh thành tựu càng nhiều hơn, do nguyên nhân gì? Nguyên nhân cũng chẳng khó lý giải! Do trong thời đại thái bình, người tu pháp môn khác đông đảo; hiện thời, thế gian loạn động, tuy có năng lực, nhưng [người học Phật] cảm thấy thời gian chẳng kịp, nên vội vã niệm Phật, đây là một nhân tố rất lớn. Dẫu có năng lực tu học pháp môn khác, họ cũng tạm thời buông xuống, nghiêm túc niệm Phật, nên niệm Phật thành tựu nhiều hơn thời xưa. Đó là ý nghĩa thứ nhất “nhân quả đồng thời diệu”.

 

(Sao) Nhị giả, nhiễm nhi bất nhiễm, bất nhiễm nhi nhiễm, thị vi “cấu tịnh song phi diệu”.

() 二者,染而不染,不染而染,是為垢淨雙非妙。

(Sao: Hai là nhiễm mà chẳng nhiễm, chẳng nhiễm mà nhiễm, đó là điều mầu nhiệm “cấu và tịnh đều chẳng có”).

“Phi cấu, phi tịnh” là chẳng nhơ, chẳng sạch. Quý vị nói nó thanh tịnh, rễ nó mọc trong đất bùn. Nếu quý vị bảo nó chẳng thanh tịnh, hoa nở trên mặt nước. Từ những điều trên đây, có thể thấy nó xác thực là “lìa khỏi hai bên cấu và tịnh”. Điều này giống như tự tánh của chúng ta. Chân Như là bổn tánh của chúng ta. Nếu mê bổn tánh thì phải luân hồi trong lục đạo, tức là chẳng thanh tịnh. Vốn sẵn thanh tịnh, bèn biến thành chẳng thanh tịnh. Tuy luân hồi trong lục đạo, dẫu đọa trong địa ngục A Tỳ, bổn tánh của chúng ta trọn chẳng nhuốm bẩn, tự tánh bất biến, nên giống như những ý nghĩa được biểu thị bởi hoa sen, biểu thị ý nghĩa này. Bổn tánh của chúng ta là thanh tịnh, nếu tùy duyên lục đạo bèn là nhuốm bẩn; tuy nhuốm bẩn, nhưng chẳng trở ngại tự tánh. Kinh Lăng Nghiêm có một đoạn kinh văn gọi là Thập Phiên Hiển Kiến (mười lượt chỉ ra cái Thấy) đã giảng đạo lý này rất rõ ràng!

 

(Sao) Tam giả, nhất hoa biến vi ư tử ngoại, chúng tử la liệt ư hoa trung, thị vi “tổng biệt tề chương diệu”.

()  三者,一華遍圍於子外,眾子羅列於華中,是為總別齊彰妙。

(Sao: Ba là một hoa, cánh hoa bọc khắp phía ngoài hạt, các hạt la liệt trong hoa, đó là điều mầu nhiệm “tổng và biệt cùng phơi bày”).

Hoa là một đóa, có rất nhiều hạt sen. Cánh hoa bọc quanh phía ngoài hạt sen, hạt sen sanh trong hoa. Tổng là nói về hoa, Biệt là nói về hạt; Tổng và Biệt đồng thời phô bày rõ rệt. “Chương” (彰) nghĩa là rõ rệt. Ý nghĩa này cũng có thể ví như Chân Như bổn tánh của chúng ta, nó có thể tùy thuận các duyên của mười pháp giới. Pháp giới vốn là một tướng, là Nhất Chân. Tuy là Nhất Chân, nó chẳng ngại tùy duyên, mà cũng chẳng ngại hiện khởi mười pháp giới. Nhất Chân là tổng tướng, mười pháp giới là biệt tướng; mười pháp giới giống như hạt sen, Nhất Chân giống như hoa sen. Trong Tổng có thể hiện Biệt, trong Biệt có thể hiện Tổng, Tổng và Biệt bất nhị, chẳng trở ngại nhau, nên kinh Hoa Nghiêm mới nói: “Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại”. Nhất Chân pháp giới ở chỗ nào? Nhất Chân pháp giới ở ngay trước mắt chúng ta, ở ngay tại trước mặt. Chỉ cần quý vị nhất tâm, liền thấy Nhất Chân. Vì sao nay chúng ta chẳng thấy Nhất Chân? Vì tâm chúng ta chẳng nhất! Niệm Phật nhằm mục đích nào? Nhằm cầu nhất tâm bất loạn. Nếu quý vị chứng đắc nhất tâm bất loạn, cảnh giới hiện tại bèn là Nhất Chân pháp giới, đích xác là chẳng lìa khỏi ngay chỗ này.

 

(Sao) Tứ giả, trú tắc khai phu, dạ tắc hoàn hợp, thị vi “ẩn hiển tùy nghi diệu”.

() 四者,晝則開敷,夜則還合,是為隱顯隨宜妙。

(Sao: Bốn là ngày ắt xòe nở, đêm ắt khép cánh, đó là sự mầu nhiệm “ẩn hiển tùy nghi”).

Hoa sen, đặc biệt là loài Thụy Liên[62], ban ngày nở xòe, buổi tối khép lại. Khi hoa nở là Hiển, khi khép lại là Ẩn. “Ẩn hiển tùy nghi”, “tùy nghi” là tùy duyên. Ý nghĩa này hiển thị nhất tâm chân tánh chẳng rời khỏi chỗ này, ở ngay trước mắt, nhưng quý vị chẳng tìm thấy. Vì sao tìm chẳng thấy? Vì quý vị khởi tâm động niệm để tìm thì sai mất rồi; chẳng khởi tâm, không động niệm thì nó bèn hiện tiền. Kinh Đại Thừa thường nói: “Ngôn ngữ dứt bặt, tâm hành xứ diệt”. Tâm hành xứ diệt là chẳng thể nghĩ, chẳng thể động niệm, cảnh giới ấy mới hiện tiền, rành mạch, rõ ràng. Vừa mới động một niệm, cảnh giới ấy liền mất đi. Chỉ cần động một niệm liền biến Nhất Chân pháp giới thành mười pháp giới, biến thành vô lượng vô biên pháp giới.

Do vậy, tu hành thật sự thì như trong phần cuối kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử đã nêu gương tu hành cho chúng ta thấy, đó là khuôn mẫu cho người tu hành, năm mươi ba lần tham học. Năm mươi ba lần tham học nhằm tu gì? “Lịch sự luyện tâm” (Luyện tâm bằng cách trải qua sự việc). “Sự” là cảnh giới sự thật bên ngoài, đối với mỗi một sự tướng, Ngài đều trải nghiệm, đều đích thân thể nghiệm một phen, luyện điều gì trong cảnh giới? Luyện chẳng phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm, không động niệm. Nói cách khác, trong cảnh giới rèn luyện [sao cho chính mình có thể] vĩnh viễn gìn giữ Nhất Chân pháp giới. Chỉ cần quý vị khởi tâm động niệm, liền rớt vào mười pháp giới, liền biến chất. Năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đã trải nghiệm các thứ cảnh giới khác nhau, có thuận cảnh, nghịch cảnh, có thiện cảnh, có ác cảnh giới. Năm mươi ba vị thiện tri thức đại diện cho các nghề nghiệp trong xã hội, nam, nữ, già, trẻ, ở trong các cảnh giới tà, chánh, nhiễm, tịnh, thứ gì cũng chẳng nhiễm, nên Ngài vĩnh viễn trụ trong Nhất Chân pháp giới. Thứ gì cũng trải nghiệm, nhưng thứ gì cũng chẳng nhiễm trước; ở trong cảnh giới chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, đó là ý nghĩa “ẩn hiển tùy nghi”. Hễ khởi tâm động niệm, nhất tâm chân tánh của quý vị liền ẩn. Chẳng khởi tâm động niệm, nó liền hiện tiền, tức là hoa sen lại nở. Khởi tâm động niệm giống như buổi tối hoa khép lại, nó có ý nghĩa này. Vì vậy, ý nghĩa này rất sâu, vô cùng trọng yếu.

Do vì các đồng tu niệm Phật chúng ta, có ai chẳng mong niệm đến Lý nhất tâm bất loạn, tương lai vãng sanh là Thượng Thượng Phẩm vãng sanh, nhưng cách tu Lý nhất tâm bất loạn như thế nào? Phải tu tâm thanh tịnh. Rèn luyện, trải nghiệm trong hết thảy cảnh giới, rèn luyện cái tâm thanh tịnh. Lìa khỏi cảnh giới thì đến chỗ nào để tu? Chẳng có chỗ nào để tu cả! Thật sự tu hành, phải tu trong chốn hồng trần! Lìa khỏi hồng trần là rời khỏi đô thị, rời khỏi hết thảy nhân quần, tìm chốn núi sâu hẻo lánh không ai lai vãng để tu hành, đó là Tiểu Thừa! Tu thành công, nhưng cái tâm thanh tịnh đó chẳng đáng tin cậy, vì sao? Chưa trải qua thí nghiệm, chưa trải qua khảo thí. Vì thế, kéo người tu hành ấy từ trên núi về chốn đô thị ở vài ngày, tâm người ấy ngay lập tức biến đổi, đó là giả, chẳng thật! Chuyện này từ xưa đã có! Trong tập Trúc Song Tùy Bút của Liên Trì đại sư có chép một câu chuyện, Ngài nói với một vị lão pháp sư: “Tôi từng gặp một vị xuất gia, tu hành trong chốn núi sâu hết sức tốt đẹp, tôi vô cùng kính phục vị ấy. Về sau, ông ta ở nơi đô thị vài năm, hoàn toàn biến đổi khác hẳn, bị thoái chuyển, hết sức đáng tiếc!” Vị pháp sư ấy liền hỏi Ngài: “Ai vậy?” Ngài Liên Trì đáp: “Chính là lão huynh!” Vì thế, chuyện này là chuyện khá khó khăn!

Vì lẽ đó, thật sự tu hành thì phải luyện tâm bằng cách trải qua sự việc. Năm mươi ba lần tham học là luyện tâm bằng cách trải qua sự việc! Ai là Bồ Tát? Nếu quý vị biết dụng tâm, chẳng có một ai không phải là Bồ Tát, thiện nhân là Bồ Tát, ác nhân cũng là Bồ Tát, ai nấy đều là Bồ Tát, đều là đại thiện tri thức của ta, thành tựu cái tâm thanh tịnh của chính mình, thành tựu nhất tâm bất loạn cho chính mình, lẽ nào chẳng phải là Bồ Tát? Ai nấy đều là! Do vậy, trong hội Hoa Nghiêm, người tu hành chỉ có một mình Thiện Tài, chẳng tìm được đồng bạn. Trừ chính Ngài ra, thảy đều là thiện tri thức. Đó gọi là “hết thảy cảnh duyên, không gì chẳng phải là thiện duyên”, vì sao? Ngài biết dụng tâm. Biết dùng tâm gì? Biết dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm. Ngài chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, không khởi tâm, không động niệm, những thứ ấy là vọng tâm, Ngài đều chẳng dùng, mà dùng chân tâm. Biết dùng chân tâm, tận hư không khắp pháp giới đều là chư Phật, Bồ Tát, “chư Phật thường vây quanh”, suốt ngày từ sáng đến tối vây quanh quý vị. Nếu quý vị chẳng biết dụng tâm, khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, chúng ma thường vây quanh quý vị, vây quanh quý vị toàn là yêu ma quỷ quái! Yêu ma quỷ quái từ cái tâm của chính mình biến hiện, chứ cảnh giới bên ngoài chẳng có Phật mà cũng chẳng có ma, chư vị nhất định phải hiểu rõ điều này. Là Phật hay là ma do từ trong tâm của chính quý vị biến hiện. Quý vị một niệm giác, bên ngoài thảy đều là Phật, Bồ Tát. Một niệm mê, bên ngoài toàn là yêu ma quỷ quái, dẫu mười phương chư Phật có đến cũng biến thành yêu ma quỷ quái. Kinh Hoa Nghiêm đã dạy một nguyên lý cao nhất: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (hãy nên quán tánh của pháp giới, hết thảy chỉ do tâm tạo). Chư Phật, Bồ Tát do tâm ta tạo, yêu ma quỷ quái cũng do tâm ta tạo! Một niệm của ta là giác liền tạo thành hết thảy chư Phật, Bồ Tát, một niệm mê liền tạo ra yêu ma quỷ quái. Do đó, khi chư Phật, Bồ Tát đến, quý vị khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước, hết thảy chư Phật đều thành yêu ma quỷ quái, chớ nên không biết nguyên lý này!

 

(Sao) Ngũ giả, cự liên tại trung, nhi hữu bách thiên vạn ức liên hoa dĩ vi quyến thuộc, thị vi “chủ bạn tương tham diệu”.

() 五者,巨蓮在中,而有百千萬億蓮華以為眷屬,是為主伴相參妙。

(Sao: Năm là hoa sen lớn ở giữa, có trăm ngàn vạn ức hoa sen [vây quanh] làm quyến thuộc, đó là điều mầu nhiệm “chủ và bạn xen lẫn nhau”).

Hoa sen to là chỗ trụ của A Di Đà Phật, đức Phật công đức viên mãn, nên hoa sen của Ngài to nhất. Hoa sen to hay nhỏ là do công phu tu hành của chúng ta cạn hay sâu; quý vị niệm Phật càng siêng năng, hoa sen càng to lớn, ánh sáng và màu sắc càng đẹp đẽ. Vì thế, đúng là rát miệng buốt lòng khuyên mọi người niệm Phật, hy vọng mọi người chẳng dấy lên vọng niệm, ngoài niệm A Di Đà Phật ra, tất cả hết thảy các niệm không gì chẳng phải là chánh niệm.

Chính chúng ta hãy suy nghĩ, từ sáng đến tối, rốt cuộc chúng ta niệm A Di Đà Phật được mấy giờ? Khi chẳng niệm A Di Đà Phật, liền dấy vọng tưởng! Đúng là một phần quang âm là một phần mạng quang, trong thế gian chẳng có gì trân quý hơn! Chân thật thấu hiểu thì phải dùng thời gian để niệm Phật, đó là chẳng sai. Quý vị dùng [thời gian quý báu ấy] để suy lường bất cứ sự việc nào, thưa cùng quý vị, đều là làm chuyện lục đạo. Nếu nói là quý vị làm chuyện tốt đẹp hơn một chút thì cũng là chuyện thuộc mười pháp giới. Tuyệt đại đa số đều rớt trong lục đạo luân hồi, tạo nghiệp sanh tử trong lục đạo. Chỉ riêng niệm Phật là thiện nghiệp thù thắng nhất, cớ sao chẳng nỗ lực niệm Phật? Liên Trì đại sư bảo chúng ta: “Có thể vãng sanh hay không được quyết định bởi có tín nguyện hay không?” Quý vị thật sự tin tưởng pháp môn này, chân thật nguyện sanh, đó là điều kiện vãng sanh, “phẩm vị cao thấp do công phu niệm Phật sâu hay cạn”, phẩm vị cao hay thấp cũng là hoa sen lớn hay nhỏ. Vì thế, nhất định phải nỗ lực niệm Phật. Tụng kinh cũng là niệm Phật, vì kinh này luôn giảng về y báo và chánh báo trang nghiêm của Tây Phương Cực Lạc thế giới. Vì lẽ đó, khuyến khích mọi người hãy đọc kinh, niệm Phật.

Trong quá khứ, trong bài Duy Thức Nghiên Cứu của cư sĩ Đường Đại Viên có một đoạn [nhận định]. Ông Đường Đại Viên chuyên môn nghiên cứu Duy Thức, trong thời Kháng Chiến, ông ta là giáo sư tại đại học Tây Nam; lúc đó, tiên sinh Phương Đông Mỹ cũng dạy học tại Tây Nam Liên Đại[63]. Thầy Phương từng bảo tôi, khi thầy ở trường Tây Nam Liên Đại, cùng Đường Đại Viên rất thân thuộc. Cụ Phương nói Đường tiên sinh lớn hơn cụ hai mươi tuổi. Khi cụ Phương [dạy học] ở Tây Nam Liên Đại, [cụ Đường] đã gần năm mươi tuổi. Phương tiên sinh thành danh rất sớm, hai mươi mấy tuổi đã là giáo sư đại học. Trong đoạn văn ấy, [cụ Đường] nói: “Tại Trung Quốc, từ thời Dân Quốc tới nay, điều hết sức đáng tiếc là chúng ta tự mình vứt bỏ phương pháp giáo học truyền thống để chọn lựa phương pháp giáo học của Tây Dương”. Cụ nói phương pháp của Tây Dương vừa mở đầu bèn dạy quý vị cầu hiểu, nên đối với trình độ Tiểu Học, dạy những thứ rất nông cạn để trẻ nhỏ có thể hiểu ngay. Quý vị nói “chú mèo con kêu”, nó hiểu ngay, nói “con cún sủa”, nó cũng hiểu ngay. Những điều này trẻ nhỏ có thể hiểu, nhưng chẳng biết cầu Căn Bản Trí.

Cụ nói cách giáo học của Trung Quốc thời cổ hoàn toàn tương phản cách giáo học của Tây phương. Phật pháp cũng là như thế, mở đầu bèn bảo quý vị đọc kinh, chẳng mong hiểu kỹ, căn bản là chẳng giảng giải, cứ bảo quý vị đọc. Sau khi đã đọc đến một mức độ, đọc kinh chẳng mong cầu hiểu cho lắm là Căn Bản Trí, kinh Bát Nhã giảng Căn Bản Trí là “Bát Nhã vô tri”. Vô tri là gì? Chẳng suy nghĩ loạn xạ! Bảo quý vị niệm kinh mỗi ngày, vì niệm kinh sẽ chẳng suy nghĩ lung tung. Vì thế, khi trẻ nhỏ đi học, mỗi ngày dạy chúng nó học thuộc sách một trăm lượt hay hai trăm lượt, tự nhiên chúng nó chẳng suy nghĩ lung tung. Quý vị chẳng bảo trẻ học thuộc sách, nó sẽ suy nghĩ lung tung, nghĩ cách chơi đùa như thế nào. [Bắt chúng thuộc sách] là để chúng khỏi suy nghĩ loạn xạ; nói cách khác, đọc kinh nhằm mục đích trừ vọng tưởng! Đó là cầu Căn Bản Trí. Sau đấy mới giảng giải, giảng giải là cầu Hậu Đắc Trí, đó là trí huệ viên mãn. Vì thế, cụ Đường phê bình phương pháp của người Tây phương là phá hoại Căn Bản Trí, mà cũng chẳng đạt được Hậu Đắc Trí. Bởi lẽ, Tây phương theo đuổi tri thức, chứ không có trí huệ.

Trí huệ sanh từ tâm thanh tịnh, Phật pháp nhất định phải có trí huệ. Không có trí huệ, quý vị chẳng thể khai ngộ. Dẫu quý vị tri thức phong phú, xem kinh luận rất nhiều thì vẫn là “ký vấn chi học” (cái học do ghi nhớ, tìm hiểu, hỏi han) như Lễ Ký đã nói. Quý vị ghi nhớ nhiều, nghe nhiều, đọc nhiều, nhưng đều là [kiến thức] của người khác, chẳng phải từ tự tánh của quý vị lưu lộ. Tự tánh lưu lộ là thật, là học vấn thật sự, là trí huệ chân thật! “Ký vấn chi học” là những thứ của người khác, phần sau Lễ Ký có nói: “Ký vấn chi học, bất túc dĩ vi nhân sư” (cái học do ghi nhớ, tìm hiểu, chẳng đáng để làm thầy người khác), nhất định phải coi trọng khai ngộ. Nếu muốn khai ngộ thì nhất định là trước hết phải tu Căn Bản Trí. Nói cách khác, phải nghĩ cách để trước hết trừ khử hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của chính mình, khôi phục sự thanh tịnh nơi tự tánh, đó là cách giáo học nhập môn Phật pháp trước kia.

Chẳng giống như hiện thời! Phật giáo hiện thời cũng vứt bỏ phương pháp truyền thống, vừa tiếp xúc Phật pháp bèn cầu giải, hỏng mất rồi! Cầu biết, cầu giải, phương pháp ấy đi theo con đường tri thức (kiến thức), chẳng phải là theo con đường trí huệ, chắc chắn chẳng liên can gì với “liễu sanh tử, thành Phật đạo”. Nếu quý vị chú tâm quan sát sẽ liễu giải. Các vị đại đức hiện thời, bất luận là tại gia hay xuất gia, giảng rất hay, viết rất khá, trước tác phong phú, nhưng quý vị chuyện trò cùng họ, họ có một đống phiền não to đùng! Do vậy, có thể biết: Họ trước tác nhiều ngần ấy, nói hay ho dường ấy, nhưng chẳng thể đoạn phiền não, vô dụng! Chẳng thể đoạn phiền não, sẽ không thể liễu sanh tử. Không thể đoạn phiền não, niệm Phật sẽ chẳng thể đắc nhất tâm. Không cần nói tới đắc nhất tâm, [ngay cả] công phu thành phiến cũng chẳng đạt được!

Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nói thật sự tu hành thì “đồng tham đạo hữu quý tinh, chẳng quý nhiều”, đông đảo thì thị phi nhiều. Mọi người ở cùng một chỗ mà tâm xen tạp, lo bàn tán họ Trương giỏi, họ Lý dở, cái này tốt lắm, cái kia phiền lắm, mỗi ngày làm chuyện ấy! “Đạo tràng trọng thực chất, chẳng coi trọng hình thức”, hình thức không quan trọng. “Tu hành trọng nhất tâm bất loạn”, cảm ứng, cảnh giới, thần thông gì cũng đều chẳng khẩn yếu, có hay không có những thứ ấy chắc chắn chẳng sao cả! Tâm ta ngày càng thanh tịnh hơn, mỗi năm một thanh tịnh hơn, thật sự có thể buông xuống, thật sự có thể thấy thấu suốt, đó là công phu, là cảnh giới tốt đẹp. Do vậy, cụ Hoàng nói những lời ấy là lời chân thật, chẳng phải là lừa người. Đây cũng là những điều chúng tôi thường nhắc nhở các đồng tu trong những buổi giảng, phải nghiêm túc, phải nỗ lực, ngàn vạn phần chớ nên xen tạp.

 

(Sao) Lục giả, thượng trung hạ phẩm, các tam thành cửu, cửu cửu vô lượng, tùy kỳ túc tu, bất tương thác mậu, thị vi “thắng liệt phân minh diệu”.

() 六者,上中下品,各三成九,九九無量,隨其宿修,不相錯謬,是為勝劣分明妙。

(Sao: Sáu là thượng trung hạ phẩm, trong mỗi phẩm lại gồm có ba phẩm, [ba nhân với ba] thành chín, chín nhân với chín [tiếp tục như thế mãi] thành vô lượng phẩm, tùy thuộc sự tu tập trước kia [trong lúc tu nhân, mà phẩm vị khác biệt] chẳng hề lầm loạn. Đó là điều nhiệm mầu “hơn kém phân minh”).

Cảnh giới Tây Phương xét theo Lý là “phi nhân, phi quả” (chẳng phải nhân, chẳng phải quả), về sự tướng thì vẫn “chẳng lầm nhân quả”. “Thượng, trung, hạ” là tam bối (ba bậc) được nói trong kinh Vô Lượng Thọ, Quán Kinh nói là chín phẩm. Trong thượng bối lại chia thành ba phẩm, trung bối ba phẩm, hạ bối ba phẩm; trong [mỗi phẩm thuộc] chín phẩm lại chia thành chín phẩm, tiếp tục chia mãi sẽ thành vô lượng vô biên. Chúng ta nói “tam bối, cửu phẩm” đều là nói quy nạp, đại lược, luận định sai biệt đại lược. Nếu nói chi tiết, có thể nói là do công phu tu hành của mỗi cá nhân khác nhau, nên [phẩm vị] cũng chẳng giống nhau. Do vậy, hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới lớn hay nhỏ khác nhau, quang minh và màu sắc khác nhau do mỗi cá nhân dụng công khác nhau, đều tùy thuộc sự tu hành của người ấy trong đời quá khứ, [thường gọi là] “túc thế tu hành”. Nói thật ra, thì là đời này, [phẩm vị vãng sanh] có liên quan đến [sự tu hành trong] đời trước hay không? Tuy liên quan đến đời trước, nhưng đó là [mối liên quan] gián tiếp, chứ liên quan trực tiếp nhất [với phẩm vị vãng sanh] là [sự tu hành của chúng ta] trong một đời này!

Do vậy, chúng ta đối với người lúc lâm chung mười niệm vãng sanh, cả đời tạo tác tội nghiệp như vậy, chớ nên khinh thường! Từ kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta đọc thấy nhân tố (yếu tố) để vãng sanh có hai loại lớn: Loại thứ nhất là lúc bình thường tu hành nên vãng sanh, loại thứ hai là lâm chung sám hối bèn vãng sanh. Kẻ ấy cả đời tạo tác tội nghiệp, chẳng nghe Phật pháp, đến khi lâm chung mới nghe, thật sự sám hối bèn vãng sanh. Phẩm vị của người ấy do sức mạnh sám hối, quyết định đích xác là rất chẳng thể nghĩ bàn. Giống như vua A Xà Thế trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, tạo trọng tội Ngũ Nghịch, Thập Ác, đó là tội nghiệp địa ngục, tới cuối cùng, nhà vua cũng giác ngộ, niệm Phật vãng sanh, đó là sám hối vãng sanh. Có lẽ chúng ta sẽ nói: Hạng người Ngũ Nghịch Thập Ác như vậy đến cuối cùng mười niệm vãng sanh, nói chung là hạ phẩm hạ sanh! Ngoài dự liệu của chúng ta, ông ta là thượng phẩm trung sanh. Do vậy, chẳng thể khinh thường, chớ nên coi rẻ người khác. Loại người ấy tạo tác tội nghiệp, đến cuối cùng sám hối, tùy thuộc sức mạnh sám hối của người ấy [mà phẩm vị vãng sanh khác biệt]. Nếu thành tâm, thành ý, triệt để sám hối, phẩm vị liền cao hơn, thường còn là vượt trỗi bọn người suốt đời tu hành như chúng ta! Sám hối cũng là ba bậc chín phẩm, chúng ta tu thiện vãng sanh ba bậc, chín phẩm; người tạo tác tội nghiệp, lâm chung nhờ vào sức mạnh sám hối cũng thành tựu ba bậc, chín phẩm. Vì thế, pháp môn này thật sự chẳng thể nghĩ bàn, thù thắng khôn sánh!

Phẩm vị vãng sanh và hoa sen của quý vị lớn hay nhỏ quyết định chẳng sai lầm. Đấy là “thắng liệt phân minh”, công phu tu hành của quý vị chắc chắn chẳng phí uổng. Đối với Tây Phương Cực Lạc thế giới, từ Đại Kinh chúng ta đã đọc rất nhiều, đó là một pháp giới thật sự bình đẳng, chẳng có gì là bất bình đẳng, chỉ riêng hoa sen là lớn hay nhỏ khác nhau. Trừ hoa sen lớn hay nhỏ, ánh sáng và màu sắc khác biệt ra, phẩm chất của hoa sen là bình đẳng, đều là bảy báu. Đức hạnh của hoa sen là bình đẳng, hoa sen lớn vi diệu hương khiết, hoa sen bé vẫn là vi diệu hương khiết; đức dụng bình đẳng, thể tánh bình đẳng, chỉ là lớn nhỏ bất bình đẳng, lớn nhỏ khác biệt.

Đọc những điều này, chúng ta phải thật sự nỗ lực, mong cầu chân thật, cầu vĩnh hằng, quý vị thật sự có thể đạt được. Phải biết trong thế gian này không có thứ gì mà quý vị có thể đạt được, cổ nhân nói là: “Muôn thứ chẳng mang được, chỉ có nghiệp theo thân”. Người thế gian cũng hiểu: “Sanh chẳng mang gì đến, chết chẳng đem gì đi”, chẳng có thứ gì để có thể mang theo được; nhưng công đức niệm A Di Đà Phật hoàn toàn mang đi được, đó là chân thật.

 

(Sao) Thất giả, đại nhất do-tuần, nãi chí bách thiên vạn ức do-tuần, thị vi “tiểu đại vô định diệu”.

() 七者,大一由旬,乃至百千萬億由旬,是為小大無定妙。

(Sao: Bảy là, [hoa sen] to bằng một do-tuần cho đến trăm ngàn vạn ức do-tuần, đó là điều mầu nhiệm “lớn nhỏ không nhất định”).

Câu này nói Tây Phương Cực Lạc thế giới tùy theo phẩm vị, tùy thuộc công phu tu hành cạn hay sâu mà hoa sen hiện ra lớn hay nhỏ không nhất định. Nhưng chư vị phải hiểu hoa sen nhỏ ở Tây Phương Cực Lạc thế giới do tu tập, dần dần sẽ cũng biến thành hoa sen to, vì sao? Cảnh chuyển theo tâm. Quý vị đến Tây Phương Cực Lạc thế giới lại tu, tâm quý vị ngày càng thanh tịnh hơn, y báo của quý vị càng ngày càng to hơn. Tuyệt đối chẳng phải là nói đến nơi đó, hoa sen to một do-tuần vĩnh viễn là một do-tuần, chẳng có đạo lý ấy! Hoa sen chỉ có dần dần trở thành to, chẳng biến thành nhỏ, vì sao? Vì sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ chẳng thoái chuyển, nên nó sẽ không biến thành nhỏ.

Nhưng chưa sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, giống như chúng ta hiện nay đang phát tâm niệm Phật, trong ao bảy báu bên thế giới Cực Lạc bèn có một đóa hoa sen cho chúng ta. Nhưng ngày nào đó, chúng ta đổi ý, học Mật, tu Thiền, đóa sen ấy bèn khô tàn, chẳng còn nữa, như vậy là nó có thể bị thoái chuyển. Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới mới là thật sự chẳng thoái chuyển. Chưa đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, chưa thật sự vãng sanh, hễ quý vị bị mê khi cách ấm, hoa sen ấy liền khô tàn, chẳng còn nữa. Do vậy có thể biết: Đối với chuyện hoa sen lớn hay nhỏ, quang minh và màu sắc [của hoa như thế nào] thì đích xác là do “túc thế tu hành” như trong phần trên đã nói, có nghĩa là sự tu hành của chúng ta ngay trong một đời này [đóng vai trò quyết định] trọng yếu nhất.

 

(Sao) Bát giả, bất dĩ xuân sanh, bất dĩ thu tụy, cắng cổ thường tân, thị vi “hàn thử bất thiên diệu”.

() 八者,不以春生,不以秋瘁,亙古常新,是為寒暑不遷妙。

(Sao: Tám là chẳng phải là mùa Xuân sanh trưởng, mùa Thu tàn tạ, mà luôn vĩnh viễn tươi mới, đó là điều mầu nhiệm “nóng lạnh chẳng thay đổi”).

Những thực vật trong thế gian này biến hóa theo khí hậu, mùa Xuân trổ mầm, mùa Hạ tăng trưởng, mùa Thu thâu hoạch, mùa Đông ẩn tàng, cho nên hết thảy vạn vật đều biến hóa theo khí hậu. Tây Phương Cực Lạc thế giới không có [tình hình ấy], đúng là xanh tươi mãi mãi, bên ấy chẳng có biến hóa. Con người thọ vô lượng, chẳng có biến hóa, thọ vô lượng nhưng chẳng già, tốt đẹp ở chỗ này. Trong thế gian này, người sống thọ bèn già khọm! Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng già, dẫu thọ mạng dài đến mấy đi nữa, chẳng già, chẳng suy! Hết thảy vạn vật vạn tượng trong thế giới Tây Phương cũng vĩnh viễn chẳng biến đổi. Đó là sự thù thắng đặc biệt của thế giới Tây Phương, trong các thế giới chư Phật ở những phương khác chẳng có sự đặc biệt ấy.

 

(Sao) Cửu giả, châu, tử, huyền, hoàng, hoặc phục thuần bạch, tạp sắc, tạp quang, diệc phục như thị, thị vi “thái tố giao huy diệu”.

() 九者,朱紫玄黃,或復純白,雜色雜光,亦復如是,是為彩素交輝妙。

(Sao: Chín là son, tía, đen, vàng, hoặc là thuần trắng, hoa nhiều màu tỏa ánh sáng nhiều màu cũng giống như thế, đó là điều mầu nhiệm “trắng và màu chói ngời lẫn nhau”).

Ý nghĩa này có cùng nghĩa thú biểu thị pháp trong tựa đề kinh Hoa Nghiêm. Tựa đề kinh Hoa Nghiêm là Đại Phương Quảng Phật Tạp Hoa Nghiêm Sức Kinh, đề mục nguyên gốc là như vậy. Người Hoa chuộng đơn giản, bèn bỏ chữ Tạp, bỏ chữ Sức, nên gọi là Hoa Nghiêm. Tạp Hoa Nghiêm Sức (các thứ hoa trang hoàng đẹp đẽ) là giống như một đại hoa viên, các phẩm loại thảy đều có đủ, những gì đáng có đều có hết, đẹp đẽ khôn xiết, mang ý nghĩa này. Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng giống như thế, những hoa ấy không chỉ là một màu. Tuy nói là “bốn màu”, nhưng bốn màu là nói đại lược, quá nhiều màu sắc, vô cùng đẹp đẽ. Đây cũng là nói rõ tâm địa chúng ta thanh tịnh. “Thanh tịnh nhất sắc, bất phương vạn đức giao la” (một màu thanh tịnh, chẳng trở ngại muôn đức trùng trùng giao xen). Pháp giới tuy Nhất Chân, nhưng Nhất Chân pháp giới chẳng ngại mười pháp giới xen chiếu; mười pháp giới ở trong Nhất Chân pháp giới, trọn chẳng lìa khỏi! Giác ngộ thì mười pháp giới là Nhất Chân pháp giới. Mê thì đối với pháp giới nào trong mười pháp giới cũng đều có chướng ngại; khi ngộ thì pháp giới nào cũng viên dung, chẳng có chướng ngại, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại.

 

(Sao) Thập giả, sanh ư bỉ quốc, nhi năng tùng không lai chí thử độ, nghênh thủ đương sanh, thị vi “động tĩnh nhất nguyên diệu”.

() 十者,生於彼國,而能從空來至此土,迎取當生,是為動靜一源妙。

(Sao: Mười là sanh trong cõi ấy, mà có thể từ không trung đến cõi này, tiếp đón người sẽ vãng sanh. Đó là điều mầu nhiệm “động và tĩnh có cùng một nguồn”).

Đây là nói “tịch nhiên bất động”, cảm ứng đạo giao. “Sanh ư bỉ quốc” là nói những người đã vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, “nhi năng tùng không lai chí thử độ” (mà có thể từ hư không đến cõi này), từ Tây Phương Cực Lạc thế giới trở lại thế giới Sa Bà, đến tiếp dẫn người vãng sanh. Ở đây không nói đức Phật đến [tiếp dẫn], mà là nói những người đã vãng sanh trước, những người vãng sanh trước do thấy có đồng bạn [sắp vãng sanh] nên phải đến. A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, họ theo A Di Đà Phật cùng đi. Mười vạn ức cõi Phật, trong một niệm liền đến nơi, đây là sự thật.

Thuở ấy, khi Huệ Viễn đại sư vãng sanh, thấy những đồng tu đã vãng sanh trước theo A Di Đà Phật cùng đến nghênh tiếp. Do vậy, niệm Phật hay lắm! Niệm Phật thì quyết định chớ nên nghĩ: “Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, lạ nước, lạ cái, dường như chẳng quen thuộc lắm”. Trọn chẳng biết Tây Phương Cực Lạc thế giới mới là nơi náo nhiệt nhất, vì sao? Người quen đông lắm, mọi người đều hội ngộ tại đó. Nếu quý vị chẳng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, người nhà quyến thuộc của quý vị sau khi đã chết chắc chắn chẳng thể gặp lại, hoặc là sau nhiều đời nhiều kiếp mới có thể gặp gỡ, rất khó gặp gỡ. Chỉ riêng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, hễ đến đó liền gặp; không chỉ gặp gỡ, mà quý vị sắp vãng sanh ở nơi đây, họ đã biết, nên tới nghênh tiếp.

Chúng ta không chỉ có thể gặp gỡ những người quen biết trong một đời này, mà còn là đời đời kiếp kiếp, chúng ta không biết họ, nhưng họ biết ta, năm trăm đời quá khứ họ có quan hệ gì với chúng ta, đều nói cho quý vị nghe. Khi ấy, quý vị trong tâm suy nghĩ rồi cũng nhớ được! Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới [ai nấy] đều có thần thông, đạo lực. Bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ có nói những chuyện trong vô lượng kiếp quá khứ, quý vị đều có thể ghi nhớ: “Thiên Nhãn đỗng thị, Thiên Nhĩ triệt thính, Tha Tâm biến tri” (Thiên Nhãn thấy thấu suốt, Thiên Nhĩ nghe thông suốt, Tha Tâm biết trọn khắp). Do vậy, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, người quen đông nhất. Nếu quý vị muốn kết duyên nhiều một chút, đọc Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Vãng Sanh Truyện, đọc mấy lượt, biết tên những người ấy, khi quý vị vãng sanh, họ nhất định đến đón quý vị. Họ nói: “Ta là người nào đó”, vừa gặp mặt liền quen biết. Vì thế, thường đọc Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Vãng Sanh Truyện, sẽ quen nhiều người hơn, đến khi đó, họ đều theo A Di Đà Phật cùng đến đón tiếp. Do vậy, quý vị chẳng cảm thấy cô độc, chẳng cảm thấy tịch mịch, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới có quá nhiều người chí đồng đạo hợp. Điều này rất trọng yếu! Quý vị thường đọc Vãng Sanh Truyện sẽ có lợi rất lớn, có thể khích lệ, rèn giũa chính mình. Quý vị thấy người vãng sanh nhiều như vậy, đều đã ra đi, chúng ta phải mau chóng đi. Nếu không đi thì đáng tiếc quá! Đây là nói về “động tĩnh có cùng một nguồn”.

 

(Sao) Thập nhất giả, chư Phật, Bồ Tát, kết già kỳ trung, niệm Phật chúng sanh, thác chất kỳ nội, thị vi “phàm thánh kiêm thành diệu”.

() 十一者,諸佛菩薩,結跏其中,念佛眾生,托質其內,是為凡聖兼成妙。

(Sao: Mười một, chư Phật, Bồ Tát, ngồi kết già trong đó, chúng sanh niệm Phật gởi thân trong ấy. Đó là điều mầu nhiệm “phàm lẫn thánh đều thành tựu”).

Chư Phật, Bồ Tát ở trong hoa sen, người niệm Phật vãng sanh chúng ta cũng ở trong hoa sen, nên hoa sen là “phàm thánh kiêm thành”. Trong mỗi đóa sen, thưa cùng quý vị, đều có A Di Đà Phật, đều có Quán Âm, Thế Chí, đều có Bồ Tát hải hội vây quanh, đó là hóa Phật. Vì chúng ta vãng sanh tới đó là đới nghiệp vãng sanh, hoa chưa nở, nên thấy hóa Phật. Hoa nở thấy Phật là thấy Báo Thân Phật. Đến khi nào hoa nở? Khi niệm đến Lý nhất tâm bất loạn. Lý nhất tâm bất loạn thì hoa nở thấy Phật; khi ấy, sẽ thấy Báo Thân Phật. Trước khi thấy Báo Thân Phật thì thấy Hóa Thân Phật trước, Hóa – Báo bất nhị! Do vậy, mỗi ngày đức Phật cũng đều thuyết pháp cho quý vị, Bồ Tát hải hội vây quanh. Tuyệt đối chẳng phải là chỉ một cá nhân cô đơn trong hoa sen, chẳng phải vậy! Quý vị đã nghĩ sai rồi! Trong hoa sen ấy rất náo nhiệt, hoa sen vô cùng to lớn.

 

(Sao) Thập nhị giả, thử phương niệm Phật, hoa tức tiêu danh, cần nọa tài phân, vinh khô đốn dị, thị vi “cảm ứng minh phù” diệu.

() 十二者,此方念佛,華即標名,勤惰纔分,榮枯頓異,是為感應冥符妙。

(Sao: Mười hai là phương này niệm Phật, hoa [trong cõi Cực Lạc] liền đề tên, do siêng năng hay lười nhác vừa mới sai khác, hoa liền tươi tốt hay héo khô khác biệt, đó là điều mầu nhiệm “cảm ứng ngầm phù hợp”).

Chúng ta phải đặc biệt coi trọng câu này. Chúng ta ở đây vừa mới phát tâm niệm Phật, vừa mới dấy một niệm “ta muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới”, trong ao bảy báu liền sanh một đóa sen, trên đóa sen ấy có tên của quý vị. Chuyện này là thật, chẳng giả. Ở Los Angeles có một đồng tu đích thân trông thấy, trong khi ông ta tĩnh tọa niệm Phật, bỗng nhiên thấy trước mặt có một đóa sen. Ông ta kể với tôi, hoa sen ấy quang minh và màu sắc đẹp đẽ trước nay chưa từng thấy, chẳng thể nào diễn tả được, chưa bao giờ thấy mà! Ông ta nói trên hoa sen ấy có tên của chính mình, chẳng phải là thấy do nhập Định, cũng chẳng phải thấy trong giấc ngủ, mắt đang mở to mà trông thấy. Ông ta kể cho tôi nghe chuyện này, tôi khích lệ ông ta: “Ông chắc chắn vãng sanh, hãy khéo niệm”. Xác thực là thật, chẳng giả. Chúng ta thấy hay không thấy, chẳng sao cả! Thấy thì là thật, mà chẳng thấy vẫn là thật, quyết định là có. Quý vị nhất định phải nghiêm túc niệm Phật, phải thật sự phát tâm cầu sanh Tịnh Độ.

Ở Cựu Kim Sơn (San Francisco) có một vị nữ đồng tu, năm nay ngoài bốn mươi tuổi, chẳng kết hôn, chuyên tu Tịnh Độ. Cô ta cũng đi làm, công việc cũng hết sức bận rộn. Phương pháp niệm Phật của cô ta chẳng giống như người khác, rất đặc biệt! Bình thường chẳng niệm Phật, mỗi tuần niệm một lần, mỗi lần tối thiểu là một ngày một đêm, có lắm khi là ba ngày ba đêm chẳng gián đoạn, cô ta niệm theo cách như vậy. Hễ không niệm bèn chẳng niệm, Phật cũng quên mất, nhưng hễ niệm liền chuyên tâm niệm. Do vậy, cô ta niệm Phật đúng là còn tinh tấn hơn chúng ta đả Phật Thất. Cô ta không tiếp khách, không nhận điện thoại, mẹ cô ta làm hộ pháp, nấu này nọ cho bà ta ăn, [nấu xong] cũng chẳng gọi cô ta [ra ăn]. Sau khi nấu xong, đến bữa ăn bèn bày ra đó, cô ta tự ăn. Ăn xong, bà mẹ thu dọn. Đúng là giống như bế quan, mỗi tuần niệm một lần. Do vậy, cô ta đúng là tinh tấn niệm Phật, đúng là buông xuống vạn duyên, nhất tâm xưng niệm, niệm như vậy, niệm hết sức dũng mãnh. Bình thường cô ta cũng chẳng tụng niệm khóa sớm, khóa tối gì cả! Phương pháp của cô ta khá đặc biệt. Vì thế, [hoa sen] có ghi tên là thật, chẳng giả.

“Cần nọa tài phân” (Siêng năng hay biếng nhác vừa mới khác biệt), “nọa” (惰) là giải đãi. Quý vị càng chuyên tinh, siêng năng, hoa càng ngày càng to, quang minh và màu sắc ngày càng đẹp hơn. Quý vị niệm Phật biếng nhác, thoái chuyển, ánh sáng và màu sắc của hoa ấy chẳng còn nữa, từ từ héo rũ. Chúng ta dùng phương pháp gì để vun quén hoa sen ấy? Chính là mỗi ngày không ngừng nỗ lực niệm Phật nhằm vun bồi hoa sen ấy. Nếu quý vị thay đổi giữa chừng, không niệm Phật nữa, đổi sang tu pháp môn khác, tham Thiền, học Mật, hành pháp khác, hoa ấy liền khô héo, tiêu mất. Vì lẽ đó, đây là cảm ứng đạo giao, “thị vi cảm ứng minh phù diệu” (đó là điều mầu nhiệm “cảm ứng ngầm phù hợp”). Nói theo Lý sẽ là: “Như Lai Tạng trung, vô pháp bất cụ” (trong Như Lai Tạng, không pháp nào chẳng trọn đủ). Khi Lục Tổ khai ngộ đã nói: “Nào ngờ tự tánh vốn sẵn trọn đủ”, vốn là đầy đủ. Trọn đủ những gì? Trọn đủ hết thảy các pháp, y báo và chánh báo trang nghiêm của mười pháp giới đều trọn đủ trong tự tánh. Hoa sen trong Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng chẳng phải là ngoại lệ, cũng là những thứ vốn sẵn trọn đủ trong tự tánh của chúng ta. Tuy vốn sẵn trọn đủ, nhưng hiện bóng giống như kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận theo tâm của chúng sanh mà xứng hợp với khả năng lãnh hội của họ). Ý niệm trong tâm của chúng ta là duyên, Chân Như bổn tánh là nhân, là cái nhân có thể sanh ra vạn pháp. Trong tâm chúng ta tưởng gì, đó là duyên, quý vị nghĩ muốn điều gì liền hiện điều ấy. Chẳng nghĩ, những thứ ấy đều không có, nghĩ gì hiện nấy. Vì thế, đúng là “cảm ứng minh phù” (cảm ứng ngầm phù hợp), “minh” (冥) là âm thầm, [cảm ứng minh phù” là âm thầm] quyết định phù hợp. Lục Tổ lại nói: “Nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp”. Năm câu nói ấy của Ngài có cùng một ý nghĩa với lời đức Phật dạy trong kinh Hoa Nghiêm: “Hãy nên quán tánh của pháp giới, hết thảy chỉ do tâm tạo”, hoàn toàn giống như câu ấy.

 

(Sao) Tiền tứ, hậu bát, đồng biệt khả tri.

() 前四後八,同別可知。

(Sao: Có thể biết bốn nghĩa đầu là đồng, tám nghĩa sau là biệt).

“Đồng” là hoa sen trong thế gian này cũng có những ý nghĩa ấy. “Bất đồng” (biệt) là trong thế gian này chẳng có, nhưng Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn có. Thí dụ như ở phương này niệm Phật, hoa [bên Cực Lạc] bèn ghi tên, do siêng năng hay biếng nhác mà sai khác, tươi tốt hay khô héo khác biệt, những điều này trong Tây Phương Cực Lạc thế giới thì có, nhưng thế giới này không có. Trong Thánh Hiền Lục và Vãng Sanh Truyện có ghi chép, người trong thuở quá khứ, trước khi vãng sanh trông thấy cảnh giới ấy. Không ngờ chúng ta trong thời hiện tại, vẫn có người như vậy, bà ta cũng đích thân trông thấy sự thật này. Vì thế, [sách ghi chép người niệm Phật thấy hoa sen bên Cực Lạc] là chuyện thật.

Đương nhiên, mỗi cá nhân chúng ta học Phật đều có nghiệp chướng, lời này [có thể nói thẳng thừng như vậy], chẳng kiêng kỵ gì! Không chỉ là có nghiệp chướng, mà nghiệp chướng còn rất nặng! Nếu chẳng thể tiêu trừ nghiệp chướng, nó sẽ chướng ngại chúng ta tinh tấn. Dùng phương pháp gì để tiêu trừ nghiệp chướng? Thưa cùng quý vị, phương pháp tốt nhất không gì hơn niệm Phật. Niệm Phật chưa được [vì có chướng ngại] thì vẫn phải dốc hết tánh mạng niệm Phật. Niệm Phật chưa được là do nghiệp chướng quá nặng, vẫn dùng phương pháp niệm Phật để tiêu nghiệp chướng. Một người sẽ dễ giải đãi, đại chúng cùng nhau cộng tu là biện pháp tốt đẹp, hãy tu cùng mọi người!

Không có cơ duyên này thì tôi nói cho quý vị biết một phương pháp: Dùng máy nghe nhạc cá nhân để nghe Phật hiệu, mở máy nghe nhạc sao cho âm thanh lớn nhất, tai quý vị nghe thấy giống như chúng ta đang nghe âm thanh của ngàn vạn người cùng hét lên, tạp âm gì ở bên ngoài cũng đều chẳng lọt vào được, chấn động tai quý vị, dấy khởi tinh thần, đó là phương pháp tốt đẹp. Khi tinh thần đã phấn chấn rồi, chúng ta vặn nhỏ tiếng xuống. Dù quý vị vặn lớn hay nhỏ, người khác đều chẳng nghe thấy, chỉ có chính quý vị có thể nghe tiếng, đấy là phương pháp hết sức hay. Trong khi chính mình giải đãi, tinh thần chẳng thể phấn chấn được, [vặn máy] lớn tiếng sẽ có hiệu quả giống như chính mình đang ở trong một ngôi Niệm Phật Đường to lớn niệm Phật cùng đại chúng.

Chính quý vị phải nghĩ cách để đối trị. Nếu chính mình chẳng biết đối trị, sẽ chẳng có cách gì hết. Hiện thời, tuy phước báo của chúng ta chẳng bằng cổ nhân, nhưng lợi dụng những công cụ khoa học thì cũng chẳng kém hoàn cảnh của cổ nhân. Vì thế, tôi hy vọng mọi người hãy nỗ lực. Hôm nay đã hết thời gian rồi!