A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA
QUYỂN 7 – Tập 202-208
Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong
— o0o —
Tập 202
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm lẻ năm:
(Kinh) Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm.
(經)舍利弗。彼佛國土。成就如是功德莊嚴。
(Kinh: Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như vậy).
Tổng kết một khoa lớn này, chúng ta xem chú giải của Liên Trì đại sư.
(Sớ) Kết thượng Thanh Văn, Bồ Tát đệ tử trang nghiêm, giai bỉ Phật túc nhân, nguyện hạnh, công đức chi sở thành tựu dã. Luận vân: “Như Lai tịnh hoa chúng, Chánh Giác hoa hóa sanh”, thị dã.
(疏)結上聲聞菩薩弟子莊嚴,皆彼佛宿因願行功德之所成就也。論云:如來淨華眾,正覺華化生。是也。
(Sớ: Tổng kết sự trang nghiêm của đệ tử Thanh Văn, Bồ Tát như đã nói trên đây, đều được thành tựu bởi nguyện hạnh và công đức nơi túc nhân của đức Phật ấy. Vãng Sanh Luận nói: “Các thứ hoa thanh tịnh của Như Lai, hoa Chánh Giác hóa sanh” là nói về điều này).
Đoạn này giới thiệu đại chúng từ mười phương vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, kinh nói trong số đó có Thanh Văn chúng, Bồ Tát chúng, và nhân, thiên chúng. Chúng ta đã đọc thấy cách nói này trong kinh Vô Lượng Thọ, đó là nói phương tiện; nói chân thật thì Tây Phương Cực Lạc thế giới chỉ có Bồ Tát. Nói Thanh Văn hay nói trời, người là có hai dụng ý:
1) Một là [nói về] thân phận [của những vị ấy] trước khi vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, giống như chúng ta vãng sanh sẽ là nhân, thiên chúng. Nếu là người tu Tiểu Thừa chứng đắc từ Sơ Quả trở lên, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ được coi là Thanh Văn chúng. Đây là một cách nói.
2) Một cách nói khác là sau khi đã sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, [xét theo] công phu tu học đoạn chứng: Hoàn toàn chẳng đoạn Kiến Tư phiền não, tuy là Bồ Tát, là Bồ Tát trong Viên Giáo từ địa vị Sơ Tín cho đến địa vị Lục Tín, nhưng Kiến Tư phiền não chẳng đoạn hết, nên coi như nhân, thiên chúng. Từ Thất Tín đến mãn tâm Thập Tín được coi là Thanh Văn chúng. Từ Sơ Trụ trở lên sẽ là Bồ Tát chúng. Nói theo cách như vậy.
Nói theo công phu tu học đoạn chứng bèn có hai ý nghĩa ấy. Từ kinh Đại Bổn, chúng ta có thể thấy được những điều ấy.
Sự trang nghiêm trong thế giới Tây Phương chẳng giống thế giới này. Thế giới này được thành tựu bởi nhân duyên của nghiệp thiện ác. Do vì thế giới này người ác đông, người lành ít, trong tâm của kẻ bình phàm ác niệm nhiều, thiện niệm ít. Đối với tiêu chuẩn thiện ác, hễ khởi tâm động niệm mà niệm thứ nhất luôn nghĩ đến chính mình, nghĩ tới có lợi hay có hại cho chính mình, Phật pháp gọi niệm ấy là ác niệm. Trong hết thảy các thứ tạo tác của chúng ta, thứ nhất là nghĩ đến bản thân, nghĩ tới lợi ích của chính mình, đó là ác nghiệp, tạo tác ác nghiệp. Bồ Tát chẳng vậy! Bồ Tát niệm niệm nghĩ đến hết thảy chúng sanh, niệm niệm vì tạo phước cho hết thảy chúng sanh. Đó là sự nghiệp của Bồ Tát. Do đó, nhân duyên của hai thế giới khác hẳn. Chúng ta phải đặc biệt lưu ý những chỗ này, do chúng có mối quan hệ mật thiết đối với sự cầu sanh Tây Phương của chúng ta. [Điều này] thật sự đã cảnh tỉnh chúng ta, vãng sanh Tây Phương không chỉ là niệm một câu Phật hiệu, Phật hiệu phải niệm cho đắc lực. Đắc lực là như thế nào? Niệm đến mức tâm chúng ta thanh tịnh, những vọng tưởng Ngã và Ngã Sở dần dần phai nhạt. Phật hiệu có sức mạnh khắc phục những vọng niệm ấy thì mới có thể vãng sanh. Chúng ta thường nói là “đới nghiệp vãng sanh”.
Duyên của người trong thế giới Tây Phương thù thắng, “giai bỉ Phật túc nhân nguyện hạnh công đức chi sở thành tựu” (đều được thành tựu bởi nguyện hạnh và công đức nơi túc nhân của đức Phật ấy), điều này thù thắng! “Bỉ Phật” là A Di Đà Phật. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới được thành tựu bởi công đức nơi đại nguyện và đại hạnh của A Di Đà Phật trong đời quá khứ. Đó là chỗ khác hẳn các thế giới của hết thảy chư Phật trong mười phương, đó là một thế giới đặc biệt.
“Luận vân” (Luận nói), trong Vãng Sanh Luận có hai câu kệ là “Như Lai tịnh hoa chúng, Chánh Giác hoa hóa sanh” [được sách Diễn Nghĩa giải thích như sau].
(Diễn) Như Lai tịnh hoa chúng, Chánh Giác hoa hóa sanh giả, tịnh hoa tức thất tịnh hoa dã, Như Lai nhân trung tu thất tịnh hoa, quả thượng thành Phật.
(演)如來淨華眾,正覺華化生者,淨華即七淨花也,如來因中修七淨花,果上成佛。
(Diễn: “Như Lai tịnh hoa chúng, Chánh Giác hoa hóa sanh”: “Tịnh hoa” là Thất Tịnh Hoa. Trong khi tu nhân, Như Lai tu bảy loại tịnh hoa, đắc quả là thành Phật).
“Thất tịnh hoa” còn gọi là tịnh nghiệp, nêu ra bảy điều, nói hết sức cụ thể. “Bảy” mang ý nghĩa biểu thị pháp, chẳng phải là một con số cố định, mà là tượng trưng cho sự viên mãn. Nói cách khác, tư tưởng, kiến giải, và hành vi của chúng ta đều phải thanh tịnh. Như thế nào thì mới có thể đạt được thanh tịnh thật sự? Thanh tịnh viên mãn rốt ráo thì ắt phải xa lìa Kiến Tư phiền não, Trần Sa phiền não và Vô Minh phiền não. Đó là thanh tịnh viên mãn rốt ráo chỉ có Phật và các vị đại Bồ Tát mới chứng đắc. Chúng ta là kẻ sơ học, chẳng có cách nào đạt tới cảnh giới này. Chúng ta hy vọng trong một đời này, chẳng đạt đến viên mãn thì cũng có thể đạt được ít phần. Ít phần là phải đoạn trừ Kiến Tư phiền não. Dẫu chẳng thể đoạn thì nói chung Kiến Tư phiền não phải ngày càng nhạt mỏng hơn, như vậy là được. Ngày càng thật sự nhạt mỏng hơn, Phật hiệu bèn có sức mạnh; có điều kiện đới nghiệp vãng sanh như vậy thì mới có thể vãng sanh! Nếu Phật hiệu chẳng thể chế phục Kiến Tư phiền não, Phật hiệu sẽ biến thành phước báo hữu lậu trong thế gian, chẳng thể vãng sanh! Chúng ta phải đặc biệt lưu ý điều này. Trong nhân địa, hết thảy chư Phật đều tu tịnh nghiệp. “Tu thất tịnh hoa” là tu tịnh nghiệp; do đó, Ngài có thể thành Phật.
(Diễn) Cố Chánh Giác hóa sanh, Chánh Giác hoa chỉ tam thừa hiền thánh, dĩ tam thừa hiền thánh, tương lai thành Đẳng Chánh Giác, xưng Chánh Giác chi hoa dã.
(演)故正覺化生,正覺華指三乘賢聖,以三乘賢聖,將來成等正覺,稱正覺之花也。
(Diễn: Vì thế, Chánh Giác hóa sanh: [Từ ngữ] Hoa Chánh Giác chỉ tam thừa hiền thánh, bởi tam thừa hiền thánh sẽ thành Đẳng Chánh Giác trong tương lai, nên gọi là “hoa Chánh Giác”).
Tam Thừa thánh nhân là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đoạn Kiến Tư thì là Chánh Giác, A La Hán và Bích Chi Phật đều gọi là Chánh Giác. Lại đoạn Trần Sa thì là Chánh Đẳng Chánh Giác; phá sạch vô minh thì là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Do đó, gọi là “Chánh Giác chi hoa”.
(Diễn) Kinh vân: “Trực tâm thị Bồ Tát Tịnh Độ, Bồ Tát thành Phật thời, bất siểm chúng sanh lai sanh kỳ quốc” đẳng, chánh thử ý dã.
(演)經云:直心是菩薩淨土,菩薩成佛時,不諂眾生來生其國等。正此意也。
(Diễn: Kinh nói: “Trực tâm là Tịnh Độ của Bồ Tát. Khi Bồ Tát thành Phật, chẳng siểm nịnh chúng sanh để họ sanh về nước mình” v.v… chính là ý này).
Kinh Duy Ma nói “trực tâm là đạo tràng”. Trực tâm là Bồ Đề tâm; Bồ Đề bao gồm trực tâm, thâm tâm, và đại bi tâm. Vì thế, “trực tâm là Tịnh Độ của Bồ Tát”. Khi Bồ Tát thành Phật, tuyệt đối chẳng bợ đỡ các chúng sanh. “Siểm” (諂) là siểm mị, bợ đỡ, [chư Phật] trọn chẳng mong cầu quý vị sanh về chỗ các Ngài. Quý vị ngàn vạn phần đừng nhìn sai lầm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật chẳng cầu chúng ta, chỉ có chúng ta cầu Ngài. Ngài có nguyện, tuy có nguyện mà chẳng có tâm. Nếu A Di Đà Phật có tâm “ta đã phát nguyện khiến cho quý vị đều đến, cớ sao vẫn chẳng đến?” Vậy thì A Di Đà Phật sẽ biến thành phàm phu. A Di Đà Phật có nguyện, chẳng có tâm, chư vị nhất định phải biết điều này. Chúng ta học Phật cũng phải nên học theo tâm thái của Phật, chúng ta phát nguyện, chớ nên hằng ngày dùng vọng tâm để cầu đảo, [dùng vọng tâm cầu khẩn] là sai mất rồi! Hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều để cho nó mặc tình tùy duyên, chúng ta sẽ tự tại. Cũng có người nói “sống mặc tình tùy duyên sẽ khổ lắm!” Quý vị có cảm thụ sướng, khổ, sẽ chẳng thể mặc tình tùy duyên. Mặc tình tùy duyên là hai bên khổ và lạc đều bỏ. Nói cách khác, người ấy có chân lạc.
Khi Phật pháp chưa truyền sang Trung Hoa, chỉ có một người được Khổng lão phu tử tán thán là Nhan Hồi. Nhan Hồi sống cuộc đời rất kham khổ, “nhất đan thực, nhất biều ẩm” (một giỏ cơm, một bầu nước). “Đan” (簞) là một vật do trúc đan thành. Ông ta ăn cơm chẳng có chén bát, dùng giỏ để đựng cơm; uống nước chẳng có chén trà, dùng quả bầu [đựng nước]. Giỏ cơm, bầu nước, trong nhà chén bát đều chẳng có, nghèo đến mức như vậy! “Cư lậu hạng” (Sống trong ngõ nghèo hèn), Khổng lão phu tử nói “nhân bất kham kỳ ưu” (người khác chẳng thể chịu đựng nỗi lo âu ấy): Xét theo người bình phàm, cuộc sống ấy khổ quá, tất nhiên sẽ lo sầu, nhưng Nhan Hồi quên bẵng chuyện ấy, ông ta “bất cải kỳ lạc” (chẳng thay đổi niềm vui), suốt ngày từ sáng đến tối vui sướng khôn cùng. Ông ta vui bởi điều gì? Điều khiến ông ta vui sướng là đạo. Nếu chúng ta còn lo nghĩ cho cuộc sống, chẳng có đạo tâm, chẳng gọi là “mặc sức tùy duyên”.
Trong Phật môn, gia đình Bàng cư sĩ có thể nói là thật sự đắc đạo. Nhà ông ta vốn rất giàu có, vàng, bạc, của cải trong nhà đều vứt bỏ, không cần tới, chất toàn bộ lên một chiếc thuyền, chèo ra chỗ nước xoáy giữa sông, quăng chìm xuống nước, thảy đều từ bỏ. Có người hỏi ông: “Ngài chẳng cần những tài vật ấy, đem quyên tặng để làm một chút sự nghiệp từ thiện chẳng phải là rất tốt ư?” Lão nhân gia đáp: “Chuyện tốt chẳng bằng vô sự”, để lại cho người đời sau câu danh ngôn ấy. Sau đấy, ông ta sống như thế nào? Bện thảo hài tức là dùng rơm rạ để bện thành giày. Bện một đôi giày rơm có thể bán được hai đồng, hai ba phân tiền, bện mấy đôi giày để bán hòng sống qua ngày hôm nay. Để sống ngày mai thì ngày mai lại làm việc. Nói theo bọn phàm nhân chúng ta sẽ là: “Sao mà khổ thế? Cuộc sống như vậy mà còn sống nổi ư?” [Thế nhưng] cả nhà ông ta vui sướng khôn sánh, người thế gian chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng chuyện này!
Nay chúng ta học Phật, thường là trong ngân hàng hãy còn cất một ít tiền thì mới sống được, làm sao có thể sánh bằng cổ nhân? Nay chúng ta học Phật là vô ưu vô lự, có nhà để ở, cuộc sống chẳng thành vấn đề, an tâm học đạo. Người ta thứ gì cũng đều chẳng có, họ cũng an tâm học đạo, tâm địa thật sự thanh tịnh, quyết định chẳng có tâm siểm nịnh. Nói cách khác, tham, sân, si, mạn thảy đều đoạn sạch, tâm địa thanh tịnh dường ấy! Tây Phương Cực Lạc thế giới tiếp dẫn loại chúng sanh nào? Chúng sanh thân tâm thanh tịnh, tự nhiên cảm ứng đạo giao. Chúng ta phải biết điều này, thân tâm thanh tịnh, có nguyện vãng sanh, nhất định được vãng sanh.
(Sao) Nguyện giả.
(鈔) 願者。
(Sao: Nguyện là…).
Giải thích chữ “nguyện hạnh” trong đoạn trước “bỉ Phật túc nhân nguyện hạnh công đức chi sở thành tựu”. Trước hết, nói về Nguyện.
(Sao) Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân: “Ngã tác Phật thời, sát trung Bồ Tát, thần thông, trí huệ, biện tài, tướng hảo, oai thần, tất giai như Phật”.
(鈔)大本法藏願云:我作佛時,剎中菩薩,神通智慧辯才,相好威神,悉皆如佛。
(Sao: Theo kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi tôi thành Phật, thần thông, trí huệ, biện tài, tướng hảo, oai thần của hàng Bồ Tát trong cõi nước đều giống như Phật”).
Đoạn này là một lời nguyện trong bốn mươi tám nguyện. Ở đây, tôi đặc biệt nhắc nhở các đồng tu, chúng sanh trong mười phương thế giới, bất luận là đường nào, mười pháp giới kể cả Phật pháp giới đều phát nguyện vãng sanh Tịnh Độ. Chắc là có kẻ hỏi: “Đã thành Phật mà còn phải phát nguyện ư?” Đúng vậy, chẳng sai! Vì Phật có bốn loại, trừ Viên Giáo Phật ra, Tạng Giáo Phật, Thông Giáo Phật, và Biệt Giáo Phật đều phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Sanh Tịnh Độ để làm gì? Để thành Viên Giáo Phật. Vì những vị Phật [trong các giáo] khác, [trừ Viên Giáo ra], đều là Chánh Đẳng Chánh Giác, chưa đạt đến Vô Thượng; chỉ riêng Viên Giáo Phật mới là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Do vậy có thể biết, Phật, Bồ Tát trong mười pháp giới cho đến chúng sanh trong ác đạo, nếu có duyên phận gặp gỡ bộ kinh điển này, người Hoa gọi “duyên phận” là “phước khí”. Người ấy có phước khí gặp bộ kinh điển này, đã gặp rồi lại có thể lý giải, có thể tin tưởng, nương theo kinh điển này để tu hành, sẽ có phần trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, người ấy có thể vãng sanh, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn làm Bồ Tát. Sau khi đã đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, thần thông, trí huệ, biện tài, tướng hảo, và oai thần của người đó giống như A Di Đà Phật, “tất giai như Phật” (thảy đều như Phật). Vì vậy, thế giới Tây Phương là một thế giới bình đẳng, chẳng thể nghĩ bàn; thật sự là pháp khó tin!
(Sao) Kim lai thành Phật, đắc toại sở nguyện dã.
(鈔)今來成佛,得遂所願也。
(Sao: Nay đã thành Phật, bèn được toại nguyện).
Đức Di Đà nay đã thành Phật; vì vậy, nguyện nào cũng đều được thực hiện, chẳng có nguyện nào là giả, nguyện nào trong bốn mươi tám nguyện cũng đều chân thật. Từ bốn mươi tám nguyện, có thể liễu giải trạng huống trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Dưới đây là nói đến hạnh. Đã có nguyện thì còn phải có hạnh, dùng hạnh để thực hiện nguyện, phải làm được từng điều đại nguyện.
(Sao) Hạnh giả, Đại Bổn ngôn nhĩ thời Pháp Tạng giáo hóa chúng sanh, tu hành lục độ, quảng hành giáo hóa, trí vô lượng chúng sanh, phát Bồ Đề tâm, hạnh kim thành tựu, hữu tư trang nghiêm dã.
(鈔)行者,大本言爾時法藏教化眾生,修行六度,廣行教化。致無量眾生,發菩提心,行今成就,有斯莊嚴也。
(Sao: Hạnh là như kinh Đại Bổn nói lúc ấy, Pháp Tạng giáo hóa chúng sanh, tu hành lục độ, giáo hóa rộng rãi khiến cho vô lượng chúng sanh phát Bồ Đề tâm. Nay hạnh thành tựu, nên có sự trang nghiêm như vậy).
Đoạn này nói tới Hạnh. Trong nhân địa, không chỉ là A Di Đà Phật tự mình tu hành, ngoài việc tự mình tu hành ra, chuyện rất trọng yếu là “giáo hóa chúng sanh”, phải giúp đỡ người khác tu hành. Chư vị phải hiểu, giúp người khác là tự hành, tự hành và hóa tha là một chuyện, chẳng phải là hai chuyện. Nếu chỉ có tự hành, không chịu hóa tha, tâm lượng chẳng dễ gì rộng mở, Ngã Chấp chẳng dễ gì phá trừ. Trong Bồ Tát hạnh, nói thật ra, giáo hóa chúng sanh còn quan trọng hơn tự hành, niệm niệm nghĩ tới hết thảy chúng sanh, quên sạch chính mình, Ngã và Ngã Sở chẳng phá mà tự nhiên chẳng còn, tâm mới đạt được thanh tịnh. Tâm đạt được thanh tịnh bèn có cảm ứng, chúng ta gọi tâm thanh tịnh là “công phu thành phiến”, đó là tâm thanh tịnh. Nếu chẳng có Kiến Tư phiền não, bèn đắc Sự nhất tâm bất loạn. Có thể phá một phẩm vô minh, bèn đắc Lý nhất tâm bất loạn. Tu tâm thanh tịnh từ chỗ nào? Tôi khuyên các đồng tu niệm niệm vì hết thảy chúng sanh, chớ nên vì chính mình. Vì chính mình, nói thật thà, sẽ là niệm câu A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đó là vì chính mình. Vì chính mình thì chỉ có một chuyện này. Trừ chuyện này ra, niệm niệm đều nhằm lợi ích chúng sanh.
Tất cả hết thảy những thứ sắp đặt và thiết bị trong đạo tràng của chúng ta đều nhằm lợi ích chúng sanh, chẳng phải vì chính mình. Nếu có một niệm “đạo tràng là của chính mình”, sai mất rồi, sai lầm quá đỗi! Mỗi người trụ trong đạo tràng này, tục ngữ thường nói: “Thiết đả thường trụ, lưu thủy tăng” (Chúng thường trụ như sắt rèn, tăng như nước chảy), [ý nói] thường trụ là vĩnh viễn ở nơi này, còn chúng ta cư trụ ở chỗ này, đến đến đi đi thì là “lưu thủy tăng”. Tuy là lưu thủy tăng, ta trụ ở đây một ngày, bèn có trách nhiệm yêu mến bảo vệ một ngày, có trách nhiệm chăm sóc một ngày. Yêu thương, bảo vệ, chăm sóc là lợi ích hết thảy chúng sanh. Thường trụ dọn dẹp sạch sẽ, sắp đặt bàn ghế ngay ngắn để đại chúng đến cộng tu ở chỗ này, đó là lợi ích hết thảy chúng sanh. Đấy chính là ý nghĩa giáo hóa của Như Lai. Ngàn muôn phần đừng nghĩ ta trụ nơi đây chưa tới hai ngày, nơi đây chẳng liên quan gì đến ta, [nghĩ như vậy] là sai mất rồi! Quý vị vẫn là tự tư tự lợi, tâm lượng quá nhỏ hẹp. Do đó, điều này có ý nghĩa hết sức sâu xa!
Câu tiếp theo nói đến tổng cương lãnh trong sự giáo hóa chúng sanh của Phật, Bồ Tát, “tu hành lục độ”. Lục độ là vô lượng hạnh môn của Bồ Tát được quy nạp lại, chẳng ngoài sáu loại lớn ấy.
1) Thứ nhất là bố thí. Bố thí là buông xuống; thân, tâm, thế giới hết thảy đều buông xuống, buông đến tột cùng. Thưa cùng quý vị, buông tất cả phiền não xuống, quý vị sẽ chẳng có phiền não. Nay quý vị có phiền não là vì quý vị chẳng chịu buông xuống. Hãy buông sanh tử xuống, nay quý vị có sanh có tử là vì quý vị chẳng chịu buông sanh tử xuống. Buông luân hồi xuống, mười pháp giới cũng buông xuống, vì sao? Vì những thứ ấy đều là vọng tưởng, quyết định chẳng phải là sự thật. Phiền não là vọng tưởng, sanh tử là vọng tưởng, luân hồi là vọng tưởng, mười pháp giới vẫn là vọng tưởng, buông xuống bèn tự tại.
2) Thứ hai là trì giới. Trì giới là vâng giữ luật lệ. Trong kinh, đức Phật bảo chúng ta: “Phật pháp ở trong thế gian, chẳng hoại pháp thế gian”. Bản thân chúng ta buông hết thảy thân, tâm, thế giới xuống, xác thực là siêu phàm nhập thánh, chẳng phải là phàm phu, mà là thánh nhân. Tuy là thánh nhân, chúng ta vẫn sống trên thế gian, vẫn ở cùng một chỗ với đại chúng, tâm chúng ta thanh tịnh, họ chẳng thanh tịnh. Vì thế, pháp thế gian có pháp lệnh, quy định, quan niệm đạo đức, phong tục, tập quán, thứ gì chúng ta cũng đều phải tuân thủ. Không chỉ là tuân thủ, mà còn tuân thủ rất nghiêm ngặt, nêu gương, làm mẫu cho người thế gian. Mỗi người đều vâng giữ khuôn phép, xã hội sẽ hòa thuận, thiên hạ thái bình. Bồ Tát đại từ đại bi giáo hóa chúng sanh, giữ lễ, giữ pháp. Có thể thấy dụng ý này rất sâu!
3) Thứ ba là nhẫn nhục. Nhẫn nhục là nhẫn nại, bất luận chuyện gì cũng đều phải nhẫn. Nói thật ra, Bồ Tát buông xuống hết thảy, há còn có gì phải nhẫn? Đối với Bồ Tát mà nói, nhẫn chẳng có ý nghĩa gì hết! Tuy Ngài chẳng phải nhẫn, cũng phải ra dáng nhẫn, tức là phải làm ra vẻ nhẫn nhục cho người khác thấy. Không chỉ là ngôn giáo (dạy bằng lời nói), mà còn có thân giáo, tức là chính mình nêu gương cho đại chúng nhìn vào. Có rất nhiều người nghe mấy câu chẳng đẹp lòng cho lắm, trở về bực tức, cáu kỉnh nhiều ngày, đó là như thế nào? Chẳng thể nhẫn! Đó gọi là “tiểu bất nhẫn, tắc loạn đại mưu” (chuyện nhỏ mà không nhẫn được, sẽ hỏng những điều mưu tính to lớn). Kinh Kim Cang dạy: “Nhất thiết pháp đắc thành ư nhẫn” (Hết thảy pháp do Nhẫn mà thành tựu). Nếu muốn thành tựu pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng kiên nhẫn sẽ không thể thành công.
Ví như niệm Phật, mỗi ngày niệm một vạn câu Phật hiệu. Quý vị thiếu kiên nhẫn sẽ chẳng niệm được. Mỗi ngày niệm kinh Vô Lượng Thọ hai lần, thiếu kiên nhẫn sẽ chẳng niệm được, nhất định phải nhẫn nại. Chuyện thế gian và xuất thế gian đều phải nhẫn nại! Nhẫn nhục là tiền phương tiện của Thiền Định, và cũng là công phu dự bị. Chẳng thể nhẫn, chẳng thể đắc định. Nói thật ra, trong Phật môn, đích xác chẳng có cách nào lừa gạt người khác. Ví dụ như có người khoe chính mình có công phu định lực rất sâu, quý vị nói mấy câu chẳng trúng ý kẻ ấy, coi thử kẻ đó có bực tức hay hông? Hễ kẻ ấy nổi cáu tức là công phu định lực giả trất, chẳng thật. Người đắc Định làm sao tức giận cho được? Chẳng thể nào! Người có thể nhẫn sẽ chẳng nổi nóng. Chửi người ấy mấy câu, người ấy vẫn bực bội thì tức là chẳng có công phu định lực. Không chỉ chẳng có công phu định lực, mà nhẫn nhục cũng chẳng tu đến mức, còn nói đến định chi nữa! Vì thế, khảo nghiệm kiểu này là lộ rõ ngay!
4) Sau khi đã có thể nhẫn thì mới có tinh tấn, cũng có nghĩa là mới có tiến bộ. Kẻ chẳng thể nhẫn, chẳng nói tới chuyện tiến bộ được! Hết thảy các pháp đều có thể nhẫn, đạo nghiệp của người ấy rất tiến bộ. Điều khẩn yếu của tiến bộ là như đức Phật đã yêu cầu chúng ta, phải tinh tấn. “Tinh” là tinh thuần. Phải nên tinh tấn, chớ nên tạp tấn. Tạp là tạp loạn, rối ren. Tuy mỗi ngày đều có tiến bộ, nhưng chẳng có tác dụng, không thể thành tựu, luống uổng công phu, mà cũng uổng phí thời gian.
5) Sau đấy mới có thể đắc Thiền Định.
6) Có Thiền Định thì mới có thể sanh ra trí huệ. Trí huệ sanh từ Thiền Định.
Đó là sáu đại cương lãnh để Phật, Bồ Tát giáo hóa chúng sanh.
“Quảng hành giáo hóa”: Dùng sáu đại cương lãnh này để phổ biến, mở rộng, giáo hóa trong hết thảy các pháp giới khắp mười phương. “Trí vô lượng chúng sanh, phát Bồ Đề tâm” (Khiến cho hết thảy chúng sanh phát Bồ Đề tâm): Sau khi chúng sanh tiếp nhận sự giáo hóa của Phật, Bồ Tát, họ bị cảm động, từ đấy trở đi bèn quay đầu, giác chứ không mê, đó là phát Bồ Đề tâm. Bồ Đề tâm là giác tâm, từ đấy trở đi, người ấy sẽ chẳng mê hoặc, điên đảo, đã giác ngộ. Đó là giác tâm. “Hạnh kim thành tựu, hữu tư trang nghiêm dã” (Nay hạnh đã thành tựu bèn có sự trang nghiêm như thế). Sau khi sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, gần như mỗi vị Bồ Tát đều là thượng hành, hạ hóa, vì thần thông, trí huệ, biện tài, tướng hảo và oai thần của các Ngài đều chẳng sai khác đức Phật cho mấy. Nhất là thần thông chẳng thể nghĩ bàn, có thể phân thân vô lượng. Bản thân ở trước đức Phật nghe Phật thuyết pháp, phân thân đến mười phương thế giới hóa độ chúng sanh. Phân thân chẳng là phân ra một thân, mà là phân thành vô lượng thân. Nơi nào chúng sanh có cầu, Ngài bèn hiện thân giáo hóa. Trong tâm chúng sanh mong mỏi thân gì, Ngài bèn hiện thân ấy, giống như ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. “Tùy thuận cái tâm của chúng sanh mà ứng với khả năng tiếp nhận của họ”, kinh Lăng Nghiêm nói như vậy. Hạ hạ phẩm vãng sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều có thần thông, trí huệ và biện tài như vậy, họ đều làm được. Vì lẽ đó, pháp môn này (pháp môn Tịnh Độ) và thế giới này (cõi Cực Lạc) thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Tây Phương Cực Lạc thế giới trang nghiêm thù thắng khôn sánh. Đó là giảng giải câu “thành tựu như thị công đức trang nghiêm”.
(Sao) Tịnh hoa chúng giả, như Tịnh Danh kinh.
(鈔)淨華眾者,如淨名經。
(Sao: “Tịnh hoa chúng” là như kinh Tịnh Danh [đã nói]).
Tịnh Danh là kinh Duy Ma Cật.
(Sao) Thất chủng tịnh hoa.
(鈔)七種淨華。
(Sao: Bảy thứ hoa thanh tịnh).
Cũng là bảy thứ tịnh nghiệp. “Hoa” tượng trưng cho cái nhân. Thực vật nở hoa trước, kết quả sau, nên nhà Phật dùng hoa để biểu thị nhân hạnh. “Nhân viên quả mãn”: Nếu nhân đã tu viên mãn bèn kết quả. Đây là tỷ dụ Bồ Tát hạnh như hoa. Chúng ta thấy hoa, bèn nghĩ phải tu Bồ Tát hạnh. Bồ Tát hạnh, nói cụ thể thì ở đây bèn nói ra bảy thứ. Phải hiểu ý nghĩa này, không chỉ là thấy hoa trong Phật đường [bèn biết] nó biểu thị pháp, biểu thị Bồ Tát hạnh. Hễ thấy hoa, bèn nghĩ ta phải tu bảy hạnh ấy. Quý vị rời khỏi Phật đường, thấy hoa bên ngoài thì cũng phải nghĩ tới [Bồ Tát hạnh]. Không chỉ là ở bất cứ nơi đâu, hễ trông thấy hoa bèn nghĩ tới, mà [nhìn thấy] hoa giả chế tạo bằng thủ công cũng là hoa, thậm chí quần áo mặc trên người có hoa, cũng là hoa. Chỉ cần trông thấy hoa, bèn nghĩ tới bảy thứ tịnh hoa được nói ở đây, quý vị phải nghĩ tới. Thời thời khắc khắc chẳng quên tịnh hạnh, tu tịnh nghiệp, đó là đúng. Chớ nên nghĩ cúng hoa trước Phật thì mới là biểu thị pháp, [còn những hoa] chẳng ở trước Phật bèn chẳng biểu thị pháp! [Nếu nghĩ như vậy thì] sai mất rồi! Học Phật đừng học ngây ngốc như vậy, lìa khỏi Phật đường bèn chẳng có Phật pháp, sao lại như thế được? Phật pháp không lúc nào, không chỗ nào chẳng tồn tại. Do đó, không lúc nào, không chỗ nào chẳng phải là đạo tràng của Bồ Tát.
(Sao) Nhất giả, giới tịnh, tam nghiệp tịnh cố.
(鈔)一者戒淨,三業淨故。
(Sao: Một là giới tịnh, do ba nghiệp thanh tịnh).
Là trì giới.
(Diễn) Giới tịnh, vị thân khẩu ý thỉ chung thanh tịnh, tức Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng dã.
(演)戒淨,謂身口意始終清淨,即正語正業正命也。
(Diễn: Giới tịnh có nghĩa là thân, miệng, ý từ đầu tới cuối thanh tịnh, tức là Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng).
“Thân” là tạo tác, cử chỉ, hành động nơi thân thể. “Khẩu” là ngôn ngữ; “ý” là tư tưởng kiến giải, ý là nói tới tâm. Trong “giới tịnh” ở đây, điều quan trọng nhất là ý nghiệp thanh tịnh, vì ý nghiệp đã thanh tịnh, thân và miệng chẳng thể nào không thanh tịnh. Phật, Tổ dạy chúng ta “trì giới niệm Phật”. Hiện thời trong xã hội này, cho đến trong thế giới ngày nay, nói đến chuyện trì giới, kẻ bình phàm rất khó tiếp nhận, nhất là hiện thời đang nói đến dân chủ, tự do, mỗi cá nhân đều làm chủ, ai giữ giới của ai? Ai cũng chẳng muốn giữ giới của ai hết, chuyện này khó lắm. Thích Ca Mâu Ni Phật chế định giới luật, nhưng nói thật ra, giới luật chẳng do Ngài chế định, quý vị nói Ngài chế định, oan uổng quá! Ngài còn phải khởi tâm động niệm chế định các giới điều cho chúng ta thì nói thật thà, Ngài là phàm phu, chẳng phải là thánh nhân. Giới luật do đâu mà có? Giới luật là Tánh Đức trong bản tánh của hết thảy chúng sanh, [thế nhưng] chúng ta không biết, chúng ta đã mê, Ngài thấy rõ ràng, rành rẽ, bèn nói cho chúng ta biết từng điều một. Đó là lương tri, lương năng vốn trọn đủ trong bản tánh của chúng ta, Ngài chế định ở chỗ nào? Trong kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói rất rõ ràng: Trong bốn mươi chín năm, Ngài chưa hề thuyết pháp một câu nào! Há Ngài chế định giới luật gì ư? Do vậy có thể biết, chế định hết thảy giới luật, hết thảy kinh luận ngôn ngữ đều do tự tánh tự nhiên lưu lộ, tuyệt đối chẳng hề khởi tâm động niệm. Vì thế, Ngài thanh tịnh.
Do vậy có thể biết, giới là thanh tịnh, nay chúng ta ba nghiệp thân, ngữ, ý, đều chẳng tịnh, chúng ta giữ giới thanh tịnh sẽ có thể khôi phục tự tánh thanh tịnh của chúng ta. Cổ đức nói: “Thanh thủy châu đầu ư trược thủy, trược thủy bất đắc bất thanh” (Thanh thủy châu gieo vào nước đục, nước đục chẳng thể không trong), chính là đạo lý này. Thanh thủy châu (清水珠) là gì? Là giới luật. Nay tâm chúng ta chẳng thể thanh tịnh, có cần dùng phương pháp này để thanh tịnh cái tâm hay không? Làm thế nào để có thể khiến cái tâm ta thanh tịnh? Đức Phật trao cho quý vị tịnh thủy châu, quý vị chẳng tin, chẳng muốn dùng nó, vậy là chẳng có cách nào cả! Chúng ta phải biết giá trị! Có rất nhiều người không hiểu chuyện, nên thấy giới luật trói buộc con người, bảo “lễ do Nho gia chế định là thứ lễ giáo ăn thịt người”, há có nghiêm trọng như vậy ư? Hiện thời, lễ bị vứt bỏ, hằng ngày kèn cựa lẫn nhau!
(Sao) Nhị giả tâm tịnh, phiền não kết lậu tận cố.
(鈔)二者心淨,煩惱結漏盡故。
(Sao: Hai là tâm tịnh, do đã hết phiền não, kết lậu).
Thứ hai là tâm tịnh.
(Diễn) Tâm tịnh, vị tam thừa chế phiền não, đoạn kết lậu tận, tức Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định dã.
(演) 心淨,謂三乘制煩惱,斷結漏盡,即正精進正念正定也。
(Diễn: Tâm tịnh nghĩa là tam thừa chế ngự phiền não, đoạn sạch kết lậu, tức là Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định).
Dùng Bát Chánh Đạo để giải thích tâm thanh tịnh. Tam Thừa là nói Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Ba hạng người này có thể chế phục phiền não. “Chế” (制) là chế phục phiền não, ở đây là Kiến Tư phiền não. Người ấy biết nhất định phải dùng lý trí để khắc phục phiền não. “Phiền não” là cảm tình dục vọng xung động, là tập khí từ vô thỉ kiếp tới nay, nó tự nhiên có thể tác động. Nhất là trong xã hội hiện thời được gọi là “xã hội rộng mở”, cũng là xã hội tự do, chẳng có ước thúc, sức dụ dỗ, mê hoặc bên ngoài quá to. Chư vị phải biết: Vào thời đại đế vương xưa kia, tuy chuyên chế, nhưng chẳng cho phép dụ dỗ, mê hoặc con người tạo nghiệp, cấm chỉ dấy lên ác niệm hoặc dấy lên tham, sân, si, vì sao? Ngăn ngừa từ những điều sai trái nhỏ nhặt, chấm dứt những thói xấu đang manh nha, xã hội mới có thể đạt đến an ninh thật sự.
Ba mươi năm trước, có người hỏi tiên sinh Phương Đông Mỹ: “Phải làm như thế nào để phục hưng văn hóa Trung Hoa?” Lão nhân gia nói: “Trước hết, nhất loạt đình bản báo chí và tạp chí trên cả nước, nhất loạt dẹp bỏ các đài phát thanh và truyền hình”. Khi đó, các quan chức thuộc Bộ Giáo Dục nghe nói đều lắc đầu, chẳng làm chuyện ấy được! Cụ Phương nói: “Vậy là chẳng có cách nào hết! Những thứ ấy hằng ngày dụ dỗ, mê hoặc người ta tạo tác tham, sân, si, mạn, phá hoại văn hóa cố hữu của Trung Hoa. Quý vị chẳng nhổ trừ tận gốc những thứ phá hoại văn hóa, sẽ chẳng có cách nào khôi phục!” Nhìn từ chỗ nào, [quý vị nghĩ xem] có thể phục hưng văn hóa cố hữu hay không? Chẳng thể nào! Quá khứ vĩnh viễn trôi qua, chẳng thể nào khôi phục lại. Chỉ có một số rất ít người thật sự tự mình giác ngộ, họ đọc sách cổ, làm theo giáo huấn của cổ nhân, cá nhân người ấy được lợi ích. Chẳng thể nào giống như xưa kia, dùng phương thức chánh trị và mệnh lệnh có thể buộc hết thảy đại chúng trong toàn thể xã hội cùng nhau học tập, hiện thời chẳng thể làm như vậy được!
Phải biết khắc phục phiền não của chính mình, khắc phục dục vọng của chính mình. Hễ có những chuyện xung động, dẫn khởi [phiền não, dục vọng], chính mình phải ngay lập tức nghĩ đến hậu quả, hậu quả của tham, sân, si, mạn là trong tam đồ. Cổ nhân nói là “đao đầu thỉ mật” (nếm mật ở lưỡi đao): Đao sắc bén, trên lưỡi đao bôi một chút mật, quý vị liếm nó, nếm vị ngọt thì lưỡi cũng bị xén đứt, cái được chẳng thể bù nổi cái mất. Huống hồ có phải là có chân lạc hay không? Quyết định là chẳng có, những gì quý vị đạt được đều là khổ. Những gì đạt được trong hiện tiền là khổ, tương lai càng khổ hơn, có mấy ai biết? Người thế gian mê hoặc, điên đảo, chẳng biết đó là khổ, ngỡ khổ là chuyện vui, mai sau còn có nỗi khổ to tát đang chờ đợi họ, chính là quả báo trong tam đồ. Chỉ có Tam Thừa, đó là [những bậc] Chánh Giác, Chánh Đẳng Chánh Giác, họ không mê, đã hiểu rõ, cho nên trong tâm họ vừa khởi tâm động niệm, bèn lập tức có thể chế phục. Niệm thứ nhất là vọng niệm, không sao cả, cổ nhân thường nói: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”, quý vị phải giác nhanh chóng! Niệm thứ hai là giác, ý niệm bèn chuyển, người niệm Phật chúng ta chuyển niệm thứ hai thành A Di Đà Phật.
Trong xã hội hiện tại, sức dụ dỗ, mê hoặc quá lớn, cơ hội quá nhiều, nên tôi nói với người khác: Trong gia đình, hễ là những nơi thường xuyên hoạt động ở đó, hãy dán hình Phật, Bồ Tát khắp nơi. Đừng nghĩ làm như vậy là thiếu cung kính, chẳng có gì thiếu cung kính! [Làm như vậy] để thời thời khắc khắc cảnh giác chính mình, ta sẽ quay đầu. Như vậy là đúng. Chúng tôi in rất nhiều tượng Phật, rất nhiều danh hiệu Phật, để mọi người đem dán khắp nơi, khiến cho quý vị trong mười hai thời, mắt có thể tiếp xúc, tai có thể nghe. Chúng ta dùng máy niệm Phật, dùng băng thâu âm, không gì chẳng nhằm thời thời khắc khắc nhắc nhở quý vị quay đầu! Vọng niệm thứ nhất dấy lên, vọng niệm thứ hai bèn trở về A Di Đà Phật. Nếu nghi ngại là cung kính hay chẳng cung kính thì nói cách khác, vọng niệm của quý vị sẽ tăng trưởng; đó chẳng phải là ý nghĩa của Phật. Ý nghĩa của Phật là mong cho chúng ta trong mười hai thời thân tâm thanh tịnh. Do vậy, phải hiểu ý nghĩa thật sự và tầm trọng yếu của việc chế phục phiền não.
“Đoạn kết lậu tận”, “Kết” (結) là tên gọi chung của phiền não, khởi đầu là chế phục, chế phục đến cuối cùng sẽ đoạn. Người thế gian thường nói: “Trong tâm có kết (có điều vấn vít)”. Kết là gì? Nói đơn giản là chấp trước, nghĩ không thông, cứ lẩn quẩn suy lường, đó là Kết. Kết ở chỗ nào? Quý vị tìm thử xem, có tìm được Kết hay chăng? Giải phẫu toàn thể thân tâm, coi thử trong tế bào nào có Kết? Tìm chẳng thấy! Vì thế, nói cho quý vị biết: Kết là giả, chẳng thật, nó là vọng tưởng, nhất định phải đoạn trừ. “Lậu tận” (漏盡) là đoạn sạch phiền não, đoạn hết Kiến Tư phiền não. Đó là Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định trong Bát Chánh Đạo.
(Sao) Tam giả, kiến tịnh, kiến pháp chân tánh, bất khởi vọng tưởng cố.
(鈔)三者見淨,見法真性,不起妄想故。
(Sao: Ba là kiến tịnh, vì thấy chân tánh của pháp, chẳng dấy lên vọng tưởng).
“Kiến” (見) là kiến giải. Giới phải tịnh, giới là khuôn phép trong cuộc sống. Nói cách khác, là hành vi trong cuộc sống. Hành vi trong cuộc sống phải thanh tịnh, tâm phải thanh tịnh, kiến giải phải thanh tịnh.
(Diễn) Kiến tịnh, vị kiến nhất thiết pháp chi chân tánh, bất khởi vọng tưởng, tức Chánh Kiến, Chánh Tư Duy dã.
(演)見淨,謂見一切法之真性不起妄想,即正見正思惟也。
(Diễn: Kiến tịnh là thấy chân tánh của hết thảy các pháp, chẳng khởi vọng tưởng, tức là Chánh Kiến và Chánh Tư Duy).
Hết thảy các pháp, bất luận là pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, chúng ta đối với pháp thế gian chẳng mê, mà đối với pháp xuất thế gian cũng không mê. Có rất nhiều người học Phật chẳng mê pháp thế gian, [điều này] chẳng dễ dàng, khó có, nhưng lại mê nơi Phật pháp, bị Phật pháp mê. Kẻ ấy vẫn mê y hệt, [chỉ là] thay đổi đối tượng, đổi pháp thế gian thành pháp xuất thế gian, vẫn là vô dụng! Phật pháp là phá mê khai ngộ, chẳng bảo quý vị thay đổi đối tượng! Vì vậy, sau khi thật sự giác ngộ, “Tam Tạng mười hai bộ, nhường cho người khác ngộ”, nói rõ pháp thế gian và pháp xuất thế gian đều chẳng mê! Kinh luận không gì chẳng nhằm giúp quý vị minh tâm kiến tánh mà thôi! Trong kinh luận chẳng có tâm tánh, trong kinh luận chẳng có Phật pháp, Phật pháp ở chỗ nào? Phật pháp ở ngay trong tâm quý vị, nhằm dạy quý vị hãy tự ngộ, tự độ. Nói “Phật chẳng độ chúng sanh” là do ý nghĩa này. Vì thế, kiến giải phải thanh tịnh.
“Ngoài chẳng chấp tướng, trong chẳng động tâm”, đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng dấy lên một niệm. Dấy lên một niệm đều là vọng niệm. Chẳng dấy niệm, kiến giải sẽ thanh tịnh. Ba điều trên đây (giới tịnh, tâm tịnh, kiến tịnh) đều thuộc về Tự Phần. Tự Phần là chính mình, tự tu!
(Sao) Tứ giả độ nghi tịnh, kiến thâm nghi đoạn cố.
(鈔)四者度疑淨,見深疑斷故。
(Sao: Bốn là độ nghi tịnh, là kiến giải sâu xa, nghi hoặc đoạn trừ).
“Nghi” (疑) là nghi hoặc, là tham, sân, si, mạn, nghi trong phiền não. Nếu chẳng đoạn trừ nghi, trong tu hành cũng bị chướng ngại rất lớn.
(Diễn) Độ nghi tịnh giả, nhược kiến vị thâm, đương thời tuy liễu, hậu hoặc sanh nghi; nhược kiến thâm nghi đoạn, danh độ nghi tịnh.
(演)度疑淨者,若見未深,當時雖了,後或生疑;若見深疑斷,名度疑淨。
(Diễn: “Độ nghi tịnh”: Nếu kiến giải chưa sâu, tuy trong lúc ấy đã hiểu, về sau có lẽ sanh nghi. Nếu kiến giải đã sâu, nghi đã đoạn, bèn gọi là “độ nghi tịnh”).
Chư vị thấy mấy câu này liền suy nghĩ: Có lúc chúng ta nghe kinh dường như nghe rất hiểu, sau khi ra khỏi cổng lại hoài nghi. Vài hôm sau càng nghi sâu hơn, hoàn toàn chẳng tin nữa! Đó là do kiến giải chẳng thấu triệt, chưa hiểu rõ lý luận, nên mới có hiện tượng này. “Kiến thâm” là thâm nhập pháp tạng (tôi chẳng nói là “kinh tạng”). Thật sự thấu hiểu thật sâu kinh luận thì mới có thể thật sự đoạn nghi sanh tín. Phương pháp thâm nhập pháp tạng rất nhiều. Phương pháp thứ nhất là quyết định chẳng hoài nghi, dùng tâm thanh tịnh để đọc tụng, cứ niệm từng lượt một. Niệm suốt ba năm, hay niệm suốt năm năm, mười năm, không nhất định là do cơ duyên nào, quý vị bèn đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Vì sao? Quý vị kiến giải đã sâu. Khi đọc bèn thâm nhập một môn, suốt một đời niệm một bộ kinh, [hễ chỉ niệm] một bộ kinh bèn khai ngộ. Lại tiếp xúc hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, Hậu Đắc Trí sẽ viên mãn, không gì chẳng biết. Nhưng muốn thật sự đạt tới đại triệt đại ngộ, không gì chẳng biết, nhất định là phải thâm nhập một môn. Vì vậy, “độ nghi tịnh” là từ thâm nhập một môn. Phương pháp khác là nghe giảng, nghe giảng cũng phải là nghe chẳng ngừng. Tốt nhất là nghe một bộ kinh. Nhưng cơ duyên này rất khó có; hiện thời, dễ hơn đôi chút, có băng thâu âm, nghe đi nghe lại từng lượt một, còn có cơ hội như vậy. Xưa kia khó khăn! Trước kia, trong các đại tùng lâm, các vị tổ sư đại đức hễ giảng kinh bèn giảng một bộ. Rất nhiều vị pháp sư suốt đời giảng một bộ kinh, giảng xong lại giảng từ đầu. Như Thanh Lương đại sư suốt đời giảng kinh Hoa Nghiêm năm mươi lượt, mỗi ngày giảng tám tiếng đồng hồ, mỗi năm có thể giảng một bộ, giảng từ đầu đến cuối một lượt tối thiểu phải hơn ba ngàn giờ. Mỗi năm giảng một lượt, Ngài giảng suốt năm mươi năm, năm mươi lần là giảng suốt năm mươi năm. Lão nhân gia trường thọ, Ngài sống hơn trăm tuổi. Quý vị nghĩ xem tâm ấy có thanh tịnh lắm không? Kinh Di Đà tuy ngắn, cổ đại đức có vị suốt đời giảng ba bốn trăm lần cũng là giảng cùng một bộ kinh. Đấy mới là thật sự thực hiện “kiến thâm, nghi đoạn”. Đó là “độ nghi tịnh”. Chính mình chẳng nghi ngờ thì mới có thể giáo hóa chúng sanh. Tâm thái và ngôn ngữ giáo hóa chúng sanh của quý vị mới là chém đinh, chặt sắt, khẳng định, chẳng khiến cho người khác nghe xong băn khoăn đôi ngả, do dự không quyết, chẳng đạt được lợi ích.
(Sao) Ngũ giả phân biệt đạo tịnh, thị đạo nghi hành, phi đạo nghi xả cố. Lục giả hành đoạn tri kiến tịnh, sở hành sở đoạn thông đạt cố.
(Diễn) Hành đoạn tri kiến tịnh giả, hành vị khổ nan, khổ dị, lạc nan, lạc dị, tứ hành dã. Đoạn vị đoạn chư kết dã, học địa trung bát trí, vị năng tự tri sở hành sở đoạn, ký đắc vô học, tận trí vô sanh trí tất tự tri kiến, sở hành sở đoạn, thông đạt phân minh, thị danh hành đoạn tri kiến tịnh.
(鈔)五者分別道淨,是道宜行,非道宜捨故。六者行斷知見淨,所行所斷通達故。
(演)行斷知見淨者,行謂苦難、苦易、樂難、樂易,四行也。斷謂斷諸結也,學地中八智,未能自知所行所斷,既得無學,盡智無生智悉自知見,所行所斷,通達分明,是名行斷知見淨。
(Sao: Năm là phân biệt đạo tịnh: Đúng là đạo thì hãy nên hành; chẳng phải là đạo thì hãy nên bỏ. Sáu là hành đoạn tri kiến tịnh vì thông đạt những điều nên hành, nên đoạn.
Diễn: “Hành đoạn tri kiến tịnh”: Hành có nghĩa bốn hạnh khổ khó, khổ dễ, lạc khó, lạc dễ. “Đoạn” là đoạn các kết (phiền não). Nơi địa vị hữu học, đối với tám trí chưa thể tự biết những điều đã hành, đã đoạn của chính mình. Đã đạt đến Vô Học thì đối với Tận Trí và Vô Sanh Trí đều tự hay biết, thông đạt phân minh những điều đã hành, đã đoạn. Đó gọi là “hành đoạn tri kiến tịnh”).
“Bát trí” là nói theo Tiểu Thừa. Trong Giáo Thừa Pháp Số, Thiên Thai Tứ Giáo Nghi và Phật Học Từ Điển đều có [giảng giải các danh từ này]. Ở đây, tôi giới thiệu đơn giản tám danh từ ấy:
1) Thứ nhất là Tật Trí, Tật (疾) là nhanh chóng, biết rất nhanh, chẳng cần tự suy nghĩ, xem xét. Hễ tiếp xúc bèn biết.
2) Thứ hai là Thượng Trí (上智), có thể thấy nó chẳng phải là trí huệ bình phàm. Nay chúng ta nói là “trí huệ cao cấp”.
3) Thứ ba là Lợi Trí (利智), Lợi là trong “lợi độn” (nhạy bén hay chậm lụt).
4) Thứ tư là Thâm Trí (深智).
5) Thứ năm là Giải Thoát Trí (解脫智).
6) Thứ sáu là Bất Cộng Trí (不共智).
7) Thứ bảy là Quảng Phổ Trí (廣普智).
8) Thứ tám là Tất Cánh Trí (畢竟智).
Tám trí này phát xuất từ kinh Niết Bàn. Ở đây, đức Phật dạy chúng ta, trong địa vịa Hữu Học, tức là quý vị còn chưa chứng quả, từ Tiểu Thừa Tam Quả trở xuống, đối với tám thứ trí ấy hoàn toàn chẳng hiểu rõ. Chính mình có phải là học như vậy hay không, có phải là tu học viên mãn hay chưa? Rốt cuộc công phu đạt đến mức độ nào, chứng đắc mấy phần? Người ấy hoàn toàn chẳng biết. Phải là đã chứng quả A La Hán, mới hiểu rành rẽ tám trí ấy, đó gọi là “hành đoạn tri kiến tịnh”.
(Sao) Thất giả, Niết Bàn tịnh, dĩ Vô Học cố.
(鈔)七者涅槃淨,以無學故。
(Sao: Bảy là Niết Bàn tịnh vì đã thuộc địa vị Vô Học).
Vô Học là đã tốt nghiệp. Vô Học có Tiểu Thừa và Đại Thừa [sai khác]. [Vô Học trong] Tiểu Thừa là Tứ Quả La Hán, đó là Vô Học. Đại Thừa là Thập Địa Bồ Tát, tức Pháp Vân Địa Bồ Tát, Ngài đã tốt nghiệp pháp Đại Thừa, nên Vô Học (chẳng còn phải học nữa). Chúng ta thường nói Đại A La Hán thì Đại A La Hán là Thập Địa Bồ Tát. Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này.
Tập 203
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm lẻ năm:
(Sao) Nguyện giả, Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân: “Ngã tác Phật thời, sát trung Bồ Tát, thần thông, trí huệ, biện tài, tướng hảo, oai thần, tất giai như Phật”, kim lai thành Phật, đắc toại sở nguyện dã. Hạnh giả, Đại Bổn ngôn: “Nhĩ thời Pháp Tạng giáo hóa chúng sanh, tu hành Lục Độ, quảng hành giáo hóa, trí vô lượng chúng sanh phát Bồ Đề tâm”, hạnh kim thành tựu, hữu tư trang nghiêm dã.
(鈔)願者,大本法藏願云:我作佛時,剎中菩薩,神通智慧辯才,相好威神,悉皆如佛,今來成佛,得遂所願也。行者,大本言:爾時法藏教化眾生,修行六度,廣行教化,致無量眾生,發菩提心,行今成就,有斯莊嚴也。
(Sao: “Nguyện”: Theo kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong cõi nước thần thông, trí huệ, biện tài, tướng hảo, oai thần thảy đều như Phật”, nay đã thành Phật, sở nguyện đã toại. “Hạnh”: Kinh Đại Bổn chép: “Khi ấy, Pháp Tạng giáo hóa chúng sanh, tu hành Lục Độ, giáo hóa rộng rãi khiến cho vô lượng chúng sanh phát Bồ Đề tâm”. Nay hạnh đã thành tựu, nên có sự trang nghiêm như vậy).
Đoạn này nhằm giảng rõ nguyện và hạnh được đề cập trong lời Sớ. Kinh chép: “Thành tựu như thị công đức trang nghiêm” (Thành tựu công đức trang nghiêm như thế), công đức trang nghiêm được thành tựu như thế nào? A Di Đà Phật tu nhân, chứng quả là do đại nguyện và đại hạnh từ vô lượng kiếp đến nay tạo thành. Vì sao phải cầu sanh Tây Phương? Chẳng cầu sanh Tây Phương, chúng ta có thể thành tựu hay không? Nói theo lý luận, chẳng cầu sanh Tây Phương vẫn có thể thành tựu; nhưng nói theo thực tế, đúng là rất khó thành tựu, nhất định phải có hoàn cảnh kha khá làm Tăng Thượng Duyên cho sự tu học. Trong các cõi Phật, chỉ có Tây Phương Cực Lạc thế giới là nơi chốn tu hành lý tưởng nhất; nguyên nhân hết sức nhiều, chúng ta nhất định phải nhận biết rõ rệt điều này! Các vị Pháp Thân đại sĩ trong mười phương thế giới đều cầu sanh Cực Lạc, chúng ta thường thấy chuyện này [được đề cập] trong kinh Đại Thừa. Kinh Hoa Nghiêm cũng chẳng phải là ngoại lệ. Chúng ta thấy trong kinh Hoa Nghiêm, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ trong thế giới Hoa Tạng đều tuân thủ lời khuyên dạy của Phổ Hiền Bồ Tát mà cầu sanh Tây Phương, chính Phổ Hiền và Văn Thù cũng tự cầu sanh Tây Phương. Chúng ta cũng nên suy nghĩ cho kỹ! Văn Thù và Phổ Hiền là Đẳng Giác Bồ Tát trong Viên Giáo, vì sao vẫn phải cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới? Các vị Đại Bồ Tát còn phải sanh về thế giới Tây Phương là do hai nguyên nhân:
1) Một là đến Tây Phương Cực Lạc thế giới để chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, vì Đẳng Giác Bồ Tát vẫn còn là Chánh Đẳng Chánh Giác, chưa chứng đắc Vô Thượng. Trừ điều này ra, các Ngài còn cầu mong chi nữa? Đẳng Giác Bồ Tát mong cầu thành Phật.
2) Hai là các vị thượng thiện nhân ở cùng một chỗ, nhân duyên này quá hy hữu! Nay chúng ta tu hành trong thế giới này khó khăn, khó ở chỗ nào? Khó ở chỗ mọi người bất hòa, mỗi người có ý kiến riêng! Vì thế nói “làm việc khó, làm người càng khó hơn”. Xử sự khó khăn, cư xử với người khác càng khó hơn nhiều! Thế giới Tây Phương là nơi các vị thượng thiện nhân đều ở chung một chỗ, chẳng phải là “thiện” bình phàm, mà là “thượng thiện”. “Thượng thiện” là Đẳng Giác Bồ Tát, Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền là những vị như vậy, hằng ngày ở chung một chỗ với các Ngài. Mười phương thế giới chẳng có chuyện này, chỉ riêng thế giới Tây Phương là có!
Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ. [Thời Liên Trì đại sư], kinh Vô Lượng Thọ có sáu bản, trừ năm bản dịch gốc ra, có một bản hội tập do cư sĩ Vương Long Thư biên soạn, đặt tên là Đại A Di Đà Kinh. Sớ Sao của Liên Trì đại sư trích dẫn kinh văn [kinh Vô Lượng Thọ] thì đại đa số trích từ bản hội tập của cư sĩ Long Thư, cũng có chỗ trích dẫn nguyên văn [từ năm bản dịch gốc]. Trong phần lời nguyện, đã nói hết sức rõ ràng: Thế giới Tây Phương là một thế giới bình đẳng. A Di Đà Phật phát nguyện (Pháp Tạng là đức hiệu của A Di Đà Phật khi Ngài còn là Bồ Tát): “Ngã tác Phật thời, sát trung Bồ Tát” (Khi tôi làm Phật, các Bồ Tát trong cõi nước), Tây Phương Cực Lạc thế giới toàn là Bồ Tát. Chúng ta từ cõi này niệm Phật, hạ phẩm hạ sanh tới đó cũng là Bồ Tát. Trong thế giới này có mười pháp giới, Tây Phương Cực Lạc thế giới chỉ có một pháp giới là Bồ Tát pháp giới. Do đó, [nhân dân trong cõi Cực Lạc] đều là Bồ Tát. “Thần thông, trí huệ, biện tài, tướng hảo, oai thần” chẳng khác A Di Đà Phật. Điều này chẳng thể nghĩ bàn, là pháp khó tin. Chúng ta một thân đầy nghiệp chướng, đới nghiệp vãng sanh, sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn nghiễm nhiên giống như Phật. Không chỉ là giống như Phật, mà thần thông, trí huệ, biện tài, oai thần cũng giống như Phật. Quý vị nói xem người nào có thể tin tưởng được [điều này]? Do đó, pháp môn này được gọi là “pháp khó tin”, nhưng chắc chắn đức Phật chẳng nói dối. Trong kinh Kim Cang, đức Phật đã nói rất hay: “Như Lai là bậc Chân Ngữ”, Chân là chẳng giả; “là bậc Thật Ngữ”, Thật (實) là chẳng hư dối, “là bậc Như Ngữ”, Như Ngữ (如語) là vừa đúng, chẳng tăng, chẳng giảm, hoàn toàn là sự thật; “là bậc chẳng Vọng Ngữ, là bậc Bất Cuống Ngữ”, Bất Cuống (不誑) là chẳng khoe khoang quá lố. Chẳng vọng ngữ thì trọn chẳng lừa gạt kẻ khác. Lời này do chính A Di Đà Phật tự nói, Thích Ca Mâu Phật nhắc lại. Thích Ca Mâu Ni Phật kể lại, khác nào A Di Đà Phật đích thân tự bảo chúng ta. Nay Ngài đã thành Phật ở Tây Phương, lại còn đã thành Phật mười kiếp; do đó, mỗi nguyện trong bốn mươi tám nguyện đều được thực hiện. Chúng ta mong cầu sanh về Tây Phương thì điều quan trọng nhất là tâm chúng ta phải giống như A Di Đà Phật, nguyện của chúng ta cũng phải giống như A Di Đà Phật, giải hạnh cũng phải giống như A Di Đà Phật thì sẽ quyết định vãng sanh.
Kế đó là nói về Hạnh. Ở đây nói đơn giản về Hạnh Môn, nói đến cương lãnh. Lời Sao nói đến Lục Độ thì Lục Độ là Chánh Hạnh, giống như trong tòa cao ốc này, nói với quý vị là tầng thứ nhất, hay tầng thứ hai, nhưng quý vị phải biết, dưới tầng trệt của tòa cao ốc này còn có nền móng. Nếu chẳng có nền móng, chẳng thể xây thành công tòa cao ốc này. Nền móng là gì? Nền móng [của việc tu học Phật] chính là Tam Phước được giảng trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Vì lẽ đó, nói đến Lục Độ, mọi người đừng quên Tam Phước, nó là cơ sở. Vì sao biết nó là cơ sở? Quý vị đọc Quán Kinh, [sẽ thấy] phu nhân Vi Đề Hy cũng do gặp phải khổ nạn, chẳng muốn sống nữa. Chẳng muốn sống, mà cũng chẳng thể chết, chết được thì đỡ quá rồi! Lúc đó mới cầu Phật: “Có chỗ nào tốt đẹp hay không? Con muốn cầu sanh về đó. Con chẳng muốn ở trong thế giới Sa Bà nữa!” Đức Phật rất từ bi, hiển hiện cõi nước của mười phương chư Phật trước mặt bà, giống như hiện thời chúng ta xem TV, mười phương các cõi Phật thảy đều trông thấy, để phu nhân Vi Đề Hy tự mình chọn lựa. Bà ta liền chọn trúng Tây Phương Cực Lạc thế giới. Có thể thấy: Nhất định là Tây Phương Cực Lạc thế giới thù thắng hơn các cõi Phật khác, nên bà ta mới chọn lựa pháp môn này, chọn lựa nơi chốn này!
Chọn lựa xong xuôi, bà liền cầu Thích Ca Mâu Ni Phật dạy mình phương pháp nào để vãng sanh? Trước khi nói ra phương pháp, đức Phật bèn dạy bà ta tu Tam Phước trước, bảo rõ với bà: “Tam Phước là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật”, chúng ta liền hoàn toàn hiểu rõ: Tam Phước là cơ sở để học Phật. Không riêng gì pháp môn Tịnh Độ, tất cả hết thảy các pháp môn đều phải lấy ba điều này làm cơ sở. Vì sao? Đó là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật! Nay chúng ta học Phật công phu chẳng đắc lực, không đạt được kết quả, nguyên nhân vì đâu? Tu Lục Độ mà không chịu xây đắp nền tảng! Nếu chúng ta cất nhà, cất càng cao càng tốt, nhưng không xây móng, còn chưa xây xong đã bị sụp đổ, xây suốt một đời cũng chẳng thành công. Chư vị đồng tu phải hiểu: Học Phật thì bắt đầu học từ chỗ nào? Học khởi đầu từ chỗ này! Điều thứ nhất trong Tam Phước là “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu thập thiện nghiệp”. Tôi lại bảo quý vị: Nếu chẳng có tâm từ bi, nếu trong tâm còn có tham, sân, si, mạn, sẽ là bất hiếu, sẽ là bất kính, bất hiếu với cha mẹ, bất kính với sư trưởng! Bởi lẽ, Phật pháp được kiến lập trên nền tảng hiếu đạo. Điều thứ hai là “thọ trì Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”. Điều thứ ba là “phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả”. Cơ sở đã hoàn thành thì mới tu Lục Độ. “Quảng hành giáo hóa, trí vô lượng chúng sanh, phát Bồ Đề tâm” (Giáo hóa rộng rãi khiến cho vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ Đề). “Trí” (致) là khuyên dạy, chỉ bảo. Hạnh của A Di Đà Phật đã thành tựu, tức là thành tựu công đức trang nghiêm như thế đó!
(Sao) Tịnh hoa chúng giả, như Tịnh Danh Kinh, thất chủng tịnh hoa.
(鈔)淨華眾者,如淨名經,七種淨華。
(Sao: “Các thứ hoa thanh tịnh” là như bảy thứ tịnh hoa được nói trong kinh Tịnh Danh).
Thông thường, chúng ta cúng Phật bèn dùng hương hoa để cúng dường. Hoa biểu thị điều gì? Biểu thị “thất tịnh hoa”. Quý vị mỗi ngày đối trước Phật, Bồ Tát cúng hoa, chẳng biết hoa có ý nghĩa gì. Nói cách khác, quý vị cúng hoa mà chính mình chẳng được thọ dụng. Hoa nhắc nhở bảy thứ tánh cảnh giác của chính quý vị, gọi [chung] là “thất chủng tịnh hoa”. Bất luận quý vị cúng dường hoa gì, hễ thấy hoa [liền biết nó] biểu thị bảy ý nghĩa ấy, [bèn tự phản tỉnh] thất tịnh của chúng ta có hiện tiền hay không?
Do vậy có thể biết: Trong Phật môn, kể cả hình tượng Phật, Bồ Tát, hết thảy các thứ xếp đặt, thiết lập, đều nhằm biểu thị ý nghĩa về pháp để khơi gợi trí huệ quang minh cho chúng ta. Chẳng hạn như chúng ta cúng dường đèn, đuốc, nến. Nến tỏa ánh sáng, tượng trưng cho trí huệ Bát Nhã. Nến càng cháy càng ngắn dần, cháy đến cuối cùng chẳng còn gì nữa, biểu thị [ý nghĩa] “thiêu mình nhằm soi sáng người khác, bỏ mình vì người”, nhằm biểu thị ý nghĩa này. Vì thế cúng đuốc, hoặc cúng đèn dầu có ý nghĩa hết sức rõ rệt, đèn điện chẳng có ý nghĩa rõ ràng [như vậy]. [Cúng đèn nhằm biểu thị] dùng trí huệ và đức năng của chúng ta để phục vụ hết thảy chúng sanh, bỏ mình vì người, có ý nghĩa này! Thất Tịnh là…
(Sao) Nhất giả, giới tịnh, tam nghiệp tịnh cố.
(鈔)一者戒淨,三業淨故。
(Sao: Một là giới tịnh vì tam nghiệp thanh tịnh).
“Giới tịnh” là ba nghiệp thân, ngữ, ý, thanh tịnh, tâm thanh tịnh, thân thanh tịnh, ngữ thanh tịnh. Lần này, ở Bắc Kinh, tôi gặp cụ Hoàng Niệm Tổ, lão nhân gia biết tại Đài Loan từ Nam đến Bắc người thọ trì kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều, cụ rất hoan hỷ, bảo: “Những người ấy có bao nhiêu người có thể vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới tôi chẳng dám nói, nhưng khẳng định là Đài Loan có thể tiêu trừ kiếp nạn. Trong tương lai, thế gian này có đại tai nạn, chỗ ấy chẳng mắc nạn”. Đồng thời, cụ cũng bảo chúng tôi: Vào thời cực thịnh của triều đại Mãn Thanh, Vạn Thánh Điện là nơi niệm kinh Vô Lượng Thọ; trong cung đình, thỉnh pháp sư hướng dẫn mọi người cùng niệm. Cụ nói: “Chỉ có một câu A Di Đà Phật là ngữ nghiệp tịnh. Chẳng niệm A Di Đà Phật thì đều chẳng thể coi là thanh tịnh. Hết thảy các lời lẽ nói ra, dẫu giảng kinh, thuyết pháp, cũng đều là những lời lẽ thừa thãi”. Đấy cũng là nói rõ một câu A Di Đà Phật là lời thật, những lời lẽ khác đều là thừa thãi, đều giả trất, toàn là vô dụng! Nói rõ tính cách trọng yếu của việc niệm Phật. Người đồ đệ của lão pháp sư Đế Nhàn niệm Phật ba năm bèn vãng sanh, vì suốt ba năm, người ấy chẳng nói một câu vô ích nào! Cụ Đế Nhàn dạy ông ta: “Ông niệm mệt bèn nghỉ ngơi, nghỉ khỏe rồi lại niệm tiếp”; khi mất, [người ấy] bèn đứng vãng sanh. Sau khi đã vãng sanh còn đứng sừng sững ba ngày, chờ thầy mình đến lo liệu hậu sự.
Ba nghiệp thanh tịnh thì ngữ nghiệp thanh tịnh quan trọng nhất. Nhiều sự hiểu lầm giữa người và người với nhau đều do lời ăn tiếng nói. Nếu quý vị suốt ngày từ sáng đến tối đều “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, ai hiểu lầm? Tuyệt đối chẳng có ai hiểu lầm. Hy vọng chúng ta phải ghi nhớ giáo huấn này, ba nghiệp thanh tịnh, thân lễ A Di Đà Phật, miệng niệm A Di Đà Phật, trong tâm nghĩ tưởng A Di Đà Phật, ba nghiệp liền thanh tịnh. Chẳng tưởng A Di Đà Phật, sẽ dấy vọng tưởng. Dấy vọng tưởng là tạo tác sanh tử luân hồi, há quý vị có thể tránh khỏi luân hồi ư? Làm sao có thể thoát tam giới cho được? Có thể thấy là ba nghiệp thanh tịnh vô cùng trọng yếu.
(Sao) Nhị giả tâm tịnh, phiền não kết lậu tận cố.
(鈔)二者心淨,煩惱結漏盡故。
(Sao: Hai là tâm tịnh vì phiền não kết lậu đã hết).
“Tâm tịnh” là trong ba nghiệp, ý thanh tịnh. Giới tịnh vốn đã có thể bao gồm [ý nghĩa ý nghiệp thanh tịnh này, nhưng lời Sao] nêu ra lần nữa nhằm đặc biệt nhấn mạnh. Vì tâm thanh tịnh, thân và ngữ nhất định thanh tịnh; vãng sanh là tâm vãng sanh, thân chẳng thể vãng sanh. Đó cũng là tâm ý, nay chúng ta nói là “tinh thần”, chẳng phải là thân xác này. Chắc chắn là thân xác chẳng thanh tịnh, phải giác ngộ điều này. “Tâm tịnh, phiền não kết lậu tận cố” (Tâm tịnh, hết sạch phiền não kết lậu): Phiền não thì mọi người đều biết, Kết (結) là gì? Kết là vướng mắc, trong tâm có vướng mắc. Lậu (漏: rò rỉ) là nói tỷ dụ, chỉ cần quý vị có phiền não, có kết, công đức của quý vị đều bị rò rỉ, chảy mất. Vì vậy, Lậu cũng là một tên gọi khác của phiền não.
Người học Phật trước hết là đoạn phiền não rồi mới học pháp môn. Nếu chẳng dứt phiền não, sẽ chẳng có tư cách học pháp môn, vì sao? Pháp môn đã học đều là tà tri, tà kiến. Thanh Lương đại sư đã nói rất hay: Nơi phần giải thích tựa đề kinh trong bộ Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao, lão nhân gia đã nói: “Có giải thiếu hành, tăng trưởng tà kiến”. “Hành” là tu hành, “có giải” là học pháp môn, Hành là đoạn phiền não. Nói cách khác, có “pháp môn vô lượng thệ nguyện học” mà nếu chẳng đoạn phiền não, sẽ tăng trưởng tà kiến. “Có hành thiếu giải, tăng trưởng vô minh”: Chuyện này rất phiền phức! Vì vậy, chư Phật, Bồ Tát, tổ sư đại đức dạy chúng ta phải giải hành tương ứng thì mới có thể đoạn phiền não, mới có thể phá vô minh.
Phiền não vô minh rốt ráo là gì? Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật dạy: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và đức tướng của Như Lai”, do vậy có thể biết, mỗi người chúng ta vốn là Phật. Vốn đều là Phật mà vì sao nay lại rơi vào tình cảnh này? Một câu nói của đức Phật đã vạch trần gốc bệnh của chúng ta: “Chỉ vì vọng tưởng, chấp trước, nên chẳng thể chứng đắc”. Vọng tưởng là vô minh, chấp trước là phiền não. Vì thế, học Phật thì trước hết phải đoạn sạch vọng tưởng và chấp trước, vô lượng trí huệ và đức năng trong bản tánh của chúng ta sẽ tự nhiên hiển hiện! Nhà Phật tu hành là tu điều này, những thứ này cần phải đổ công dốc sức nơi tâm địa, ngôn hạnh bên ngoài thuộc về trợ hạnh, điều quan trọng nhất là chuyển biến ý niệm. Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện, trước hết là đoạn phiền não, sau đấy mới học pháp môn, chư vị đồng tu nhất định phải biết điều này!
Giảng kinh, thuyết pháp, cho đến Tam Tạng mười hai phần giáo là để cho người chưa nhập môn sử dụng, mục đích nhằm giúp họ kiến lập chánh tín và chánh giải. Tới lúc thật sự tu hành, thảy đều chẳng cần đến những thứ ấy nữa, chư vị phải biết điều này. Dụng công thì giống như trước hết là giảng giải bản đồ, đi đường theo cách nào, đến khi quý vị đã ở trên đường thì chẳng cần đến những thứ ấy nữa, ta đã biết rõ đường lối, đã quen thuộc, ta đã đi trên đường rồi, cũng chẳng cần phải nói tới những thứ ấy nữa, cũng chẳng cần đến bản đồ, đều chẳng cần nữa. Trong vô lượng hạnh môn, chỉ có một câu A Di Đà Phật, pháp môn này thật sự chẳng thể nghĩ bàn! Lão cư sĩ Hạ Liên Cư nói rất hay: “Ức vạn nhân trung, nhất, nhị tri” (Trong ức vạn người, chỉ có một hai kẻ biết). Thật sự liễu giải thấu triệt chẳng dễ dàng! Hiện thời, người niệm Phật tuy nhiều, nhưng người hiểu nguồn cội của việc niệm Phật trọn chẳng nhiều. So theo tỷ lệ trên toàn thế giới hiện thời, người Đài Loan biết [Tịnh Độ] nhiều nhất. Đài Loan là đảo báu, là phước địa, chỗ này sẽ chẳng gặp nạn, chúng tôi rất tin tưởng.
Vì lẽ đó, nhất định phải đoạn phiền não, phải đoạn tập khí. Đoạn bằng cách nào? Khi phiền não tập khí dấy lên hiện hành, nhà Thiền nói rất hay: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”. Chắc chắn là sẽ dấy niệm! Nếu chẳng dấy, quý vị đã là thánh nhân, chẳng phải là phàm nhân. Phàm nhân thường dấy phiền não. Phiền não dấy lên, đừng sợ, mà sợ là quý vị chẳng giác. Giác là gì? Phiền não vừa dấy lên, ngay lập tức chuyển nó thành A Di Đà Phật, đó là giác. Nói theo Tịnh Tông, một câu A Di Đà Phật là giác. Ở đây, tôi đặc biệt nói rõ cùng các đồng tu: Phiền não là gì? Trong tâm bực bội, chẳng như ý chính là phiền não. Trong tâm vui sướng, thoải mái, vẫn là phiền não, phải ghi nhớ điều này. Tâm là thanh tịnh. “Vốn chẳng có một vật”, cho nên mừng, giận, buồn, vui đều là phiền não. Vì sao? Tâm quý vị động, tức là tâm chẳng bình thường! Do đó, khi chúng ta lo buồn, hãy ngay lập tức niệm A Di Đà Phật. Khi bực bội, bèn vội vã niệm A Di Đà Phật. Khi hoan hỷ, cũng vội vã niệm A Di Đà Phật. Chớ nên hễ hoan hỷ bèn quên bẵng A Di Đà Phật, [hễ quên bẵng] thì vẫn là rớt vào trong phiền não. Nói cách khác, làm như thế nào để gìn giữ cái tâm thanh tịnh của quý vị, điều này quan trọng lắm! Tựa đề của Đại Kinh có nói “thanh tịnh, bình đẳng, giác”, điều này trọng yếu! Trong mười hai thời, quý vị có thể giữ gìn “thanh tịnh, bình đẳng, giác”, quý vị đang hành Bồ Đề đạo, thật sự là Bồ Tát đạo, phương pháp là dùng một câu A Di Đà Phật. Khi nào niệm Phật là khẩn yếu nhất? Khi khởi tâm động niệm, ngay lập tức chuyển nó thành A Di Đà Phật. Một câu A Di Đà Phật có thể đoạn phiền não, có thể phá kết lậu, công đức vô lượng vô biên, tùy thuộc chính quý vị có biết dùng hay không, hữu hiệu hơn bất cứ gì khác!
(Sao) Tam giả, kiến tịnh, kiến pháp chân tánh, bất khởi vọng tưởng cố.
(鈔)三者見淨,見法真性,不起妄想故。
(Sao: Ba là kiến tịnh, vì thấy chân tánh của pháp, chẳng dấy lên vọng tưởng).
“Kiến” (見) là kiến giải. Lục căn đối trước cảnh giới sáu trần bên ngoài, trong tâm dấy lên phản ứng, đó là kiến giải. “Kiến pháp chân tánh, bất khởi vọng tưởng cố” (Vì thấy chân tánh của pháp, chẳng dấy lên vọng tưởng). Chúng ta thấy cảnh giới bên ngoài luôn khởi tâm động niệm. Thuận cảnh bèn khởi tham ái, nghịch cảnh bèn dấy lên nóng giận. Chư vị phải biết: Tham ái là phiền não, nóng giận cũng là phiền não. Hằng ngày, lục căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới bên ngoài bèn sanh phiền não. Trong quá khứ, chúng tôi đã giảng Lục Tổ Đàn Kinh, lục căn của ngài Huệ Năng tiếp xúc cảnh giới sáu trần thường sanh trí huệ, chẳng sanh phiền não, còn chúng ta sanh phiền não. Do nguyên nhân nào? Tâm Ngài thanh tịnh, tâm Ngài “vốn chẳng có một vật”, Ngài đương nhiên sanh trí huệ. Tâm chúng ta chẳng thanh tịnh, trong tâm đầy ắp tham, sân, si, mạn, tiếp xúc ngoại cảnh bèn sanh phiền não. Sanh phiền não là vì chúng ta kiến giải sai lầm, cái thấy chẳng thanh tịnh.
Nếu kiến giải chẳng sai lầm thì như thế nào? Thế gian này chẳng thật. Kinh Kim Cang nói rất hay: “Phàm những gì có hình tướng, đều là hư vọng. Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”. Pháp hữu vi là gì? Trong một trăm pháp của Bách Pháp Minh Môn Luận, chín mươi bốn pháp đầu đều là pháp hữu vi, chỉ có sáu pháp cuối là pháp vô vi. Chín mươi bốn pháp đầu bao gồm tâm pháp, tám thức, tức tám Tâm Vương, là pháp hữu vi; năm mươi mốt Tâm Sở cũng là pháp hữu vi, hai mươi bốn món Bất Tương Ứng vẫn là pháp hữu vi, cho đến mười một sắc pháp cũng là pháp hữu vi. Nay chúng ta gọi sắc pháp là vật chất, gọi tâm pháp là tinh thần. Theo quan niệm hiện thời, tinh thần và hết thảy vật chất đều là pháp hữu vi. Nếu là pháp hữu vi, sẽ đều là mộng, huyễn, bọt, bóng, chẳng có thứ gì là chân thật!
Nếu quý vị nhìn thấu suốt, sẽ chẳng so đo, cũng sẽ thường sanh trí huệ, chẳng sanh phiền não. Vì sao? Khi thấy hết thảy đều vừa lòng, nói thật ra thì khi ấy, vừa lòng hoặc trái ý đều chẳng có, há còn có tham, sân, si, mạn chi nữa! Tâm thanh tịnh, bèn cùng hết thảy vạn pháp bình đẳng. Tây Phương Cực Lạc thế giới và địa ngục A Tỳ bình đẳng. Đối với Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có tâm tham ái, đối với địa ngục A Tỳ cũng chẳng có ý niệm chán ghét, bình đẳng mà! Tâm đạt đến thanh tịnh, bình đẳng, đó là “kiến pháp chân tánh”. Tây Phương Cực Lạc thế giới do Chân Như bản tánh biến hiện, địa ngục A Tỳ và lục đạo luân hồi cũng do Chân Như bản tánh biến hiện. Do vậy có thể biết, kiến giải thanh tịnh trọng yếu lắm! Đó là “kiến tịnh”.
Trong quá khứ, chúng ta còn nói tâm và vật, hiện thời, các khoa học gia đã phát hiện “chẳng có vật chất tồn tại”. Chúng ta thấy hình tướng mọi vật rốt cuộc là gì? Nay họ đã phát hiện chúng là dao động, là chấn động, là hiện tướng (tướng được biến hiện) sanh từ dao động. Rốt cuộc là sóng gì vậy? Các nhà khoa học còn đang nghiên cứu. Trên thực tế, Phật pháp bảo sóng ấy là “tâm ba” (sóng tâm), kinh Hoa Nghiêm đã nói rất thấu triệt: Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Thức là sự dao động của cái tâm, biến hiện thành mười pháp giới. Nếu chẳng có sự dao động ấy, pháp giới này sẽ được gọi là Nhất Chân pháp giới. Tây Phương Cực Lạc là Nhất Chân pháp giới, nên nó là bình đẳng.
(Sao) Tứ giả, độ nghi tịnh, kiến thâm nghi đoạn cố.
(鈔)四者度疑淨,見深疑斷故。
(Sao: Bốn là độ nghi tịnh, vì thấy sâu xa, đã đoạn nghi).
“Thâm” là [nói đến] Lý, Lý rất sâu. Người ấy đã thấy chân tướng của vạn hữu trong vũ trụ, nên chẳng hoài nghi. Đặc biệt là Tịnh Tông, Tịnh Tông là pháp môn bậc nhất để chư Phật Như Lai giáo hóa chúng sanh đoạn phiền não, chứng Bồ Đề. Kinh Vô Lượng Thọ là kinh Tịnh Tông bậc nhất, có thể nói là vô lượng vô biên kinh điển, vô lượng vô biên pháp môn thảy đều lưu xuất từ kinh Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ là cội nguồn. Nếu chẳng đạt đến “độ nghi tịnh”, sẽ chẳng thể tin tưởng bộ kinh này. Đạt đến “độ nghi tịnh” chẳng đơn giản, “độ” (度) là vượt qua. Nhiều nỗi nghi hoặc đối với vũ trụ, nhân sinh và hết thảy các pháp môn, người ấy thảy đều vượt qua, đạt đến thanh tịnh, rất khó!
Do vậy, tôi nói các đồng tu hiện thời có phước, thiện căn, phước đức và nhân duyên của quý vị vượt trỗi hơn tôi nhiều lắm. Tôi phải mất ba mươi năm mới tin tưởng pháp môn này, nay quý vị nghe tôi nói liền tin ngay, đúng là chẳng đơn giản! Điều này chứng tỏ thiện căn của quý vị sâu dầy hơn tôi. Đúng như Đại Kinh đã nói, trong đời quá khứ, chư vị đồng tu đã từng cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, giống như kinh Kim Cang đã nói: Chẳng phải là đã gieo thiện căn nơi ba, bốn, năm đức Phật, mà là trong đời quá khứ quý vị đã gieo thiện căn nơi vô lượng vô biên chư Phật Như Lai. Hiện thời, do được chư Phật Như Lai âm thầm gia trì, cho nên quý vị vừa được tiếp xúc bộ kinh này bèn hoan hỷ, vừa nghe liền tin tưởng, tiếp nhận; đó gọi là “nhân duyên chín muồi”, đích xác là hiếm có, khó gặp! Đúng như cư sĩ Bành Nhị Lâm đã nói: “Một ngày hiếm có, khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay”, đáng nên mừng rỡ, đáng nên quý trọng, nhất định phải nắm chắc cơ duyên này, đoạn nghi sanh tín, như vậy thì chẳng có một ai không thành tựu.
(Sao) Ngũ giả, phân biệt đạo tịnh, thị đạo nghi hành, phi đạo nghi xả cố.
(鈔)五者分別道淨,是道宜行,非道宜捨故。
(Sao: Năm là phân biệt đạo tịnh, là đạo thì nên hành, chẳng phải là đạo thì nên bỏ).
“Đạo” là đường lối. Nói cách khác, quý vị có thể nhận biết đường. Đạo được nói ở đây chính là “đạo thành Phật”. Đạo thành Phật có tám vạn bốn ngàn, có vô lượng pháp môn, Đạo là pháp môn. Trong nhiều pháp môn như vậy, quý vị nhận biết một con đường gần nhất, một con đường ổn thỏa, thích đáng nhất, trong một đời của chính mình, quyết định có thể chọn lựa và nhận biết một con đường đạt đến mục đích, điều này không dễ dàng, đó là trí huệ, là phước đức. Chẳng có đại trí huệ và đại phước đức thì trong vô lượng pháp môn, làm sao quý vị có thể chọn lựa pháp môn này? Điều này không dễ dàng! “Thị đạo nghi hành, phi đạo nghi xả cố” (Là đạo thì nên hành, chẳng phải là đạo thì nên bỏ). Ở đây, “đúng, sai” có tuyệt đối và tương đối. Nói theo tuyệt đối, hễ là đạo để minh tâm kiến tánh, đó là “thị đạo” (đúng với đạo). Nhất tâm bất loạn của Tịnh Độ Tông chính là minh tâm kiến tánh của Thiền gia, đó là Đạo. Giới, Định, Huệ là đạo tuyệt đối. Đạo tương đối thì phải là [pháp môn] nào thích hợp với căn tánh, thích hợp với sự hứng thú, thích hợp với hoàn cảnh sống của chính mình, chúng ta chọn lựa đạo ấy, tu hành sẽ chẳng gặp khó khăn.
Nay mọi người chúng ta chọn lựa con đường Trì Danh Niệm Phật này, nhất định phải hiểu rõ ràng, rành rẽ con đường này. Con đường này là Chánh Trợ Song Tu. Chánh Hạnh là Trì Danh Niệm Phật, nhất tâm nhất ý cầu sanh Tịnh Độ. Trợ Hạnh là những người như chúng ta trong hiện thời chưa đến Tây Phương, vẫn chưa rời khỏi xã hội, chẳng rời khỏi nhân quần, chúng ta làm thế nào để cư xử cùng mọi người, trong ấy có khá nhiều nguyên tắc như Tam Phước và Lục Độ đều thuộc loại trợ tu. Tịnh Tông Học Hội của chúng ta đề ra năm khoa mục tu hành, thứ nhất là Tam Phước, thứ hai là Lục Hòa. Lục Hòa là đại giới căn bản của tăng đoàn Phật giáo. Vì sao trong hiện thời thế gian này chẳng có tăng đoàn? Do mọi người đều chẳng tuân thủ Lục Hòa, nên chẳng phải là tăng đoàn. Vì lẽ đó, ta biết Lục Hòa trọng yếu! Tục ngữ có câu “gia hòa vạn sự hưng”, nhà quý vị bất hòa, gia đình ấy chẳng thể nào hưng vượng. Đoàn thể, công ty, xã hội và quốc gia đều chẳng có ngoại lệ. Đương nhiên, điều trọng yếu nhất trong Hòa là kiến giải. Hai điều phía trước là cơ sở, [đã có] kiến thanh tịnh và độ nghi tịnh thì có thể thực hiện Hòa. Kiến hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, sau đấy sẽ là Tam Học, Lục Độ, mười đại nguyện vương. Chúng ta tu Tịnh Tông, xử sự, đãi người, tiếp vật lấy năm khoa này làm nguyên tắc, dùng năm khoa này để sửa đổi tư tưởng, kiến giải và hành vi của chúng ta. Đó là Đạo. Những gì vi phạm với những điều này thì chính là “phi đạo nghi xả”.
(Sao) Lục giả, hành đoạn tri kiến tịnh, sở hành, sở đoạn thông đạt cố.
(鈔)六者行斷知見淨,所行所斷通達故。
(Sao: Sáu là hành đoạn tri kiến tịnh, vì đã thông đạt những điều nên hành, nên đoạn).
“Hành” là những điều được thực hiện, trong Hành có “đoạn tri kiến”, “sở hành sở đoạn thông đạt cố” (vì đã thông đạt những điều nên hành, nên đoạn). Có những người quý vị bảo họ đoạn, họ cũng có thể làm được, nhưng rốt cuộc vì sao phải đoạn, người ấy chẳng hiểu rõ ràng. Do chẳng hiểu rõ bèn miễn cưỡng làm, làm được một khoảng thời gian sẽ hoài nghi, thậm chí ngã lòng, hủy báng, đều là do tri kiến bất tịnh. Chúng ta tu hành, vì sao phải tu hành? Dựa vào gì để tu hành? Rốt cuộc tu hạnh gì? Sau khi tu hành sẽ đạt được kết quả như thế nào? Nếu đều biết, từ nhân đến quả đều hiểu rành mạch, rõ ràng, đó là “hành đoạn tri kiến tịnh”, sẽ chẳng có chướng ngại trên đường Bồ Đề.
(Sao) Thất giả Niết Bàn tịnh, dĩ vô học cố.
(鈔)七者涅槃淨,以無學故。
(Sao: Bảy là Niết Bàn tịnh vì đã chẳng còn phải học nữa).
Đây là thanh tịnh tối cực. Niết Bàn (Nirvāṇa) là tiếng Phạn, thường dịch là Diệt, [nghĩa là] diệt vọng tưởng, diệt phiền não, diệt chấp trước, thảy đều diệt trừ, khôi phục tâm địa chân tịnh, khôi phục bản tánh. [Niết Bàn] cũng còn dịch là Viên Tịch, Viên là viên mãn, Tịch là thanh tịnh tịch diệt. “Dĩ vô học” (Do đã chẳng còn học nữa), ở đây còn dịch là Vô Học, có học sẽ chẳng thanh tịnh. Thanh tịnh sẽ chẳng có học, đã tốt nghiệp rồi.
Chư vị đồng tu phải ghi nhớ, Hoa có bảy ý nghĩa này. Mỗi ngày, khi quý vị cúng hoa, có nghĩ tới bảy thứ tịnh này hay không? Hoa là thất tịnh hoa, Quả là Niết Bàn quả. Quả là quả báo, hoa là tu nhân, tu nhân chứng quả. Chúng ta dâng trái cây cúng Phật, trái cây biểu thị quả báo. Tiểu Thừa có tứ quả, Đại Thừa có Bồ Tát, có Phật, đó là [những quả vị mà] chúng ta kỳ vọng. Chúng ta mong mỏi những quả báo ấy thì phải thật sự tu nhân. Hoa tượng trưng cho nhân, trước là nở hoa, sau là kết quả, biểu thị ý nghĩa này. Vì lẽ đó, hoa chẳng phải là để cho đức Phật ngắm, quả cũng chẳng phải là để cho đức Phật ăn. Phật không ăn mà cũng chẳng ngửi những thứ ấy. Vì vậy, cúng Phật, dâng cúng [những phẩm vật cúng dường] trước Phật, thứ nhất là để biểu lộ tâm ý cung kính của chúng ta đối với Phật. Cúng dường hoa hương để biểu lộ tâm ý cung kính. Dùng cái tâm kính Phật để kính hết thảy mọi người, kính hết thảy sự, kính hết thảy vật, đức Phật dạy chúng ta điều này. Chúng ta cung kính Phật mà chẳng cung kính người, sai mất rồi! Chúng ta bất kính người khác chính là bất kính đối với Phật, sự lễ kính đối với Phật hãy còn có khiếm khuyết, chẳng viên mãn. Thiện nhân thì phải kính trọng, nhưng ác nhân vẫn phải kính trọng, vì sao? Thiện nhân hay ác nhân đều là người, thiện nhân lẫn ác nhân đều có Phật tánh. Thiện nhân hay ác nhân trong tương lai đều sẽ thành Phật. Do vậy, lễ kính chẳng có giới hạn. Trong mười đại nguyện vương, điều thứ nhất là “lễ kính chư Phật”. Trong [điều thứ hai là] Xưng Tán Như Lai thì xưng tán có sai khác đôi chút. Như Lai và Phật [có ý nghĩa] khác nhau. Phật là nói theo tướng. Xét theo sự tướng thì bình đẳng, phải lễ kính bình đẳng; nhưng đối với xưng tán thì phải nói là Như Lai, Như Lai là nói đến Chân Như bản tánh. Tương ứng với tiêu chuẩn của Tánh Đức bèn khen ngợi, chẳng tương ứng với tiêu chuẩn của Tánh Đức thì chẳng khen ngợi. Lễ kính mà chẳng khen ngợi thì cổ nhân nói là “kính nhi viễn chi” (kính trọng nhưng tránh xa), Kính là chúng ta bình đẳng cung kính giống hệt như nhau, Viễn là chẳng khen ngợi, kẻ đó là người ác làm chuyện ác nên chẳng khen ngợi. Trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, đã làm mẫu cho chúng ta thấy. Thiện Tài đồng tử tham phỏng thiện tri thức, trong năm mươi ba vị ấy, có người học Phật, có [người là] ngoại đạo, nam, nữ, già, trẻ, các nghề nghiệp thảy đều có, có người làm chuyện tốt, cũng có kẻ làm chuyện xấu. Đối với Thắng Nhiệt Bà La Môn, Thiện Tài đồng tử lễ kính, nhưng chẳng tán thán. Đối với cô gái Phạt Tô Mật Đa, Thiện Tài đồng tử lễ kính, nhưng không tán thán. Đối với Cam Lộ Hỏa Vương, Thiện Tài đồng tử đến tham phỏng nhà vua, cũng là có lễ kính, nhưng không tán thán. Vì sao? Ba vị ấy tượng trưng cho tham, sân, si. Làm sao có thể tán thán tham, sân, si cho được? Chẳng thể tán thán! Vì vậy, phải lễ kính, chẳng thể tán thán! Tán thán là xưng tán Như Lai, chẳng nói là “chư Phật”. Nếu là chư Phật thì phải là bình đẳng, quyết định chẳng có sai biệt. Lễ kính chẳng có sai biệt, còn đối với xưng tán thì phải dùng trí huệ.
Nếu chúng ta bình thường cúng hoa, cúng quả mà biết điều này thì cúng hoa, quả sẽ đạt được vô thượng pháp hỷ. Cúng dường tượng Phật, hoa thơm, nước trong, cúng một chén nước trong rất trọng yếu. Người thật sự tu hành, giống như trong Niệm Phật Đường của Ấn Quang đại sư chẳng có hoa, mà cũng chẳng có quả, Ngài chẳng cúng những thứ ấy, vì sao? Chẳng có thời gian để lo liệu, cúng dường đơn giản nhất là hương và nước. Nước biểu thị cái tâm, tâm thanh tịnh, nước thanh tịnh. Nước bình lặng, biểu thị sự thanh tịnh, bình đẳng. Thấy một chén nước, bèn nghĩ xem cái tâm có giống nước hay không, nó biểu thị pháp. Tuyệt đối chẳng phải nước đã cúng dường Phật ấy uống vào có thể trị bách bệnh, [thế nhưng hiểu theo chân nghĩa thì] thật sự là trị bách bệnh! Chẳng phải là uống vào trị bách bệnh, mà quý vị hiểu ý nghĩa của nó: Tâm địa quý vị thanh tịnh, bình đẳng thì bệnh gì cũng đều chẳng có! Bệnh từ đâu ra? Tâm quý vị chẳng thanh tịnh thì mới sanh bệnh, tâm đã thanh tịnh, lẽ đâu sanh bệnh? Tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, sẽ không thể sanh bệnh. Nước biểu thị thanh tịnh và bình đẳng, hương biểu thị Giới Định Chân Hương. Hương cũng biểu thị Tín, [ta thường nói là] “tín hương”. Vì vậy, học Phật chẳng mê tín, quý vị cúng dường những thứ này thì phải nói được đạo lý [bao hàm trong ấy], kinh đã dạy rõ ràng!
(Sao) Hải Đông vị luận tụng Thanh Văn, kim vị diệc khả kiêm thông Bồ Tát, như Đạo Phẩm diệc thông Đại Tiểu Thừa cố.
(鈔)海東謂論頌聲聞,今謂亦可兼通菩薩,如道品亦通大小乘故。
(Sao: Ngài Hải Đông bảo [hai câu ấy trong] bài kệ tụng của Vãng Sanh Luận nói về Thanh Văn, nay tôi nói: “Cũng có thể là nói đến Bồ Tát, như Đạo Phẩm chung cho Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa vậy”).
Hải Đông là một vị cổ đại đức, lão nhân gia bảo hai câu này trong Vãng Sanh Luận nói về A La Hán, nói về Thanh Văn. Liên Trì đại sư bảo hai câu này cũng có thể nói về Bồ Tát, hoàn toàn chẳng hạn định trong Thanh Văn. Tiếp đó, Ngài nêu ra chứng cứ. Ví như ba mươi bảy Đạo Phẩm, Tiểu Thừa nói ba mươi bảy Đạo Phẩm, Đại Thừa cũng nói ba mươi bảy Đạo Phẩm. Theo Thiên Thai đại sư, ba mươi bảy Đạo Phẩm còn có Tạng, Thông, Biệt, Viên. Ví như nói đến Tứ Niệm Xứ thì có Tạng Giáo Tứ Niệm Xứ, Thông Giáo Tứ Niệm Xứ, Biệt Giáo Tứ Niệm Xứ, và Viên Giáo Tứ Niệm Xứ. Thông, Biệt, Viên đều là pháp Bồ Tát. Ba mươi bảy Đạo Phẩm đã áp dụng chung cho Đại Thừa và Tiểu Thừa, đương nhiên hai câu này trong Vãng Sanh Luận cũng thể dùng chung cho Tiểu Thừa lẫn Đại Thừa. Liên Trì đại sư giải thích: Chớ nên hạn cuộc trong Tiểu Thừa, vì kinh Di Đà không chỉ là Đại Thừa, mà là Đại Thừa viên mãn. Kinh Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ cùng bộ, là một bộ kinh, kinh kia nói cặn kẽ, kinh này nói đơn giản; tuy nói có cặn kẽ hay giản lược sai khác, nhưng nội dung trọn chẳng khác nhau. Vì thế, Liên Trì đại sư gọi [hai kinh ấy] là Đại Bổn và Tiểu Bổn.
(Sao) Tự lan võng hàng thụ chí thử, y chánh cộng ngũ phiên trang nghiêm, Cực Lạc chi nghĩa, lược tận ư thị.
(鈔)自欄網行樹至此,依正共五番莊嚴,極樂之義,略盡於是。
(Sao: Từ lan can, lưới mành, hàng cây đến đây tổng cộng là năm tầng trang nghiêm nơi y báo và chánh báo, ý nghĩa Cực Lạc đã được trình bày đại lược trọn hết nơi đây).
Tổng kết đoạn kinh trên đây, nói rõ y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Trong y báo là lan can, lưới mành, hàng cây; trong chánh báo là Phật, Bồ Tát, A Di Đà Phật là giáo chủ, Thanh Văn và Bồ Tát là hóa bạn, là đồng học, bạn lữ. Đối với điểm này, chúng ta ắt phải đọc Đại Kinh thì mới có thể thật sự hiểu rõ. Nói thật ra, trong thế giới Tây Phương có những danh hiệu Thanh Văn, Duyên Giác, trời, người hay không? Chẳng có. Vì sao chẳng có? Nếu thật sự có, tâm sẽ không thanh tịnh. Trong tâm thanh tịnh, há còn có trời, người, Thanh Văn, Duyên Giác? Không chỉ ngay cả những danh hiệu ấy chẳng có, lại thưa cùng chư vị, Phật, Bồ Tát cũng chẳng có. Trong tâm thanh tịnh, lấy đâu ra Phật? Nơi ấy thật sự là một thế giới thanh tịnh, Nhất Chân pháp giới. Đức Phật giới thiệu cho chúng ta, chẳng thể không dùng lời phương tiện. Đã tới Tây Phương Cực Lạc thế giới thì toàn bộ những danh tướng ấy đều chẳng có, đấy mới gọi là Nhất Chân. Trong tâm động một niệm, sẽ là hai, chẳng phải là một. Do đó, pháp giới ấy là Nhất Chân pháp giới. Kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật giảng rất tỉ mỉ, bộ kinh này giảng giản lược, nhưng cũng đã trình bày đại khái trạng huống trong thế giới Cực Lạc, [đúng là] “lược tận ư thị”.
(Sao) Hạ văn chúng sanh sanh giả, cập Bổ Xứ đẳng, diệc chánh báo trung nhiếp.
(鈔)下文眾生生者,及補處等,亦正報中攝。
(Sao: “Chúng sanh sanh về cõi đó” và “Bổ Xứ v.v…” trong đoạn văn dưới đây cũng thuộc về chánh báo).
Cả một đoạn lớn tiếp theo đây sẽ nói về chuyện vãng sanh, giới thiệu mười phương vô lượng vô biên chúng sanh, trên từ Đẳng Giác Bồ Tát, dưới đến chúng sanh trong ác đạo. Có thể nói là đối với chuyện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, ai nấy đều có phần. Vấn đề là quý vị có duyên phận gặp gỡ pháp môn này hay không? Đã gặp, quý vị có tin pháp môn này hay không? Nếu gặp gỡ mà có thể tín, có thể nguyện, chẳng có một ai không vãng sanh. Lý này rất sâu, nhưng xét về Sự thì chẳng khó. Xét theo Sự, rất dễ dàng, đó gọi là “tin khó, hành dễ”.
(Kinh) Hựu Xá Lợi Phất! Cực Lạc quốc độ, chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí.
(Sớ) Thừa thượng bất độc kiến tại bỉ quốc, vô phi hiền thánh, đản hữu sanh giả, tất giai bất thoái dã.
(經)又舍利弗。極樂國土。眾生生者。皆是阿鞞跋致。
(疏)承上不獨見在彼國,無非賢聖,但有生者,悉皆不退也。
(Kinh: Lại này Xá Lợi Phất! Chúng sanh sanh về cõi nước Cực Lạc đều là A Bệ Bạt Trí.
Sớ: Tiếp nối ý trong phần trên: Không chỉ những người đang ở trong nước ấy, không ai chẳng phải là hiền thánh, mà chỉ cần sanh về cõi ấy, thảy đều là bậc Bất Thoái).
Phàm là người vãng sanh thế giới Tây Phương, từ bốn mươi tám nguyện, chúng ta thấy dù là hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng là A Bệ Bạt Trí (Avaivartika), cũng là Bất Thoái. A Bệ Bạt Trí là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Hán là Bất Thoái. Bất Thoái rốt cuộc là địa vị như thế nào? Cổ đức bảo: Từ Thất Địa trong Biệt Giáo trở lên mới có thể gọi là A Bệ Bạt Trí, địa vị này cao lắm. Phàm phu thông thường khởi sự tu học, tu đến địa vị Thất Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo phải mất hai A-tăng-kỳ kiếp, hạng phàm phu ấy chẳng phải là phàm phu thông tục. Phàm phu thông tục thì mỗi vị đồng tu đang hiện diện nơi đây từ vô lượng kiếp tới nay chẳng biết đã tu bao nhiêu A-tăng-kỳ kiếp, có thể nói là đã tu vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp thì quý vị mới có cơ hội cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, vì sao đến nay vẫn chẳng thành tựu? Hai A-tăng-kỳ kiếp tính từ lúc nào? Tính từ địa vị Sơ Trụ trong Biệt Giáo; chưa chứng đắc Sơ Trụ trong Biệt Giáo thì đều chẳng tính. Giống như học hành trong nhà trường, quá trình học tập tính từ lúc nào? Tính từ lớp Một Tiểu Học, chứ thời gian học Mẫu Giáo chẳng tính. Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay đời đời kiếp kiếp tu hành đều quẩn quanh trong lớp Mẫu Giáo, chưa hề lên Tiểu Học, vấn đề xuất hiện ở chỗ này! Vì thế, nói theo Phật pháp, Biệt Giáo Sơ Trụ là đoạn tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc trong tam giới, tính từ ngày ấy, sau hai A-tăng-kỳ kiếp bèn chứng A Bệ Bạt Trí. Hai A-tăng-kỳ kiếp là con số thiên văn, thời gian quá dài.
Chúng ta tu pháp môn này vài ngày bèn có thể vãng sanh, kinh nói “hoặc một ngày, hoặc hai ngày”, tối đa là “hoặc bảy ngày”, quý vị nghĩ xem có pháp môn nào nhanh chóng hơn pháp môn này? Mật Tông nói “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay trong cái thân này); ở đây, chúng ta là bảy ngày hoặc một ngày bèn thành Phật, cao hơn họ quá nhiều. Mấy ai thấy? Quá khó có. Năm trước, cư sĩ Châu Quảng Đại ở Washington DC niệm Phật ba ngày, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn ông ta vãng sanh, đúng là “ba ngày” bèn thành tựu. Chúng ta chẳng thể gọi Châu tiên sinh là Châu cư sĩ, vì ông ta chẳng học Phật, cũng chẳng nghe pháp, chẳng tin Phật. Khi lâm chung bệnh nặng sắp chết mới gặp Phật pháp, mới thật sự niệm Phật cầu nguyện vãng sanh. Niệm ba ngày cảm A Di Đà Phật hiện đến, theo Phật vãng sanh, ba ngày ba đêm thôi nhé! Do vậy, vãng sanh sẽ đều là bất thoái chuyển.
(Sao) Sanh giai bất thoái giả, khủng nghi bỉ quốc cố đa hiền thánh, nhiên thị cửu tu thượng sĩ.
(鈔)生皆不退者,恐疑彼國固多賢聖,然是久修上士。
(Sao: “Vãng sanh đều bất thoái” là sợ nghi rằng: Cõi ấy cố nhiên có nhiều hiền thánh, dĩ nhiên họ là bậc thượng thừa đã tu từ lâu).
“Thượng sĩ” là nói đến Đẳng Giác Bồ Tát, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới hạng người như vậy rất nhiều.
(Sao) Kỳ tân sanh giả, vị tất bất thoái.
(鈔)其新生者,未必不退。
(Sao: Chứ người mới sanh về [cõi Cực Lạc], chưa chắc đã bất thoái).
Có nỗi hoài nghi này: Ta vừa mới vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chỉ sợ làm chưa được, chỉ sợ sẽ bị thoái chuyển. Hễ lui sụt khỏi Tây Phương Cực Lạc thế giới, tức là lại lùi trở về [luân hồi trong lục đạo]. Quý vị có từng nghe nói có ai bị lui sụt trở lại hay không? Từ xưa đến nay, chưa nghe nói có người từ Tây Phương Cực Lạc thế giới lui sụt trở về. Vì thế, phải hiểu là ở đây [kinh văn] đặc biệt nói rõ sự bất thoái của người mới sanh về Cực Lạc.
(Sao) Cố ngôn bất luận thánh phàm, đản vãng sanh giả, tức bất thoái chuyển, dĩ quyết kỳ chí dã.
(鈔)故言不論聖凡,但往生者,即不退轉,以決其志也。
(Sao: Vì thế nói: Bất luận thánh hay phàm, chỉ cần là người vãng sanh liền bất thoái chuyển, nhằm làm cho ý chí của họ được kiên quyết vậy).
Chúng ta đọc đoạn kinh văn này, tín tâm bèn kiên định, nguyện tâm bèn khẩn thiết, nghi hoặc liền đoạn trừ, đoạn nghi, sanh tín.
(Sao) Đại Bổn sở minh giả, như vân.
(鈔)大本所明者,如云。
(Sao: Đại Bổn đã nói rõ, như [trong kinh ấy] có nói).
Trích dẫn kinh Vô Lượng Thọ.
(Sao) Sanh bỉ quốc giả, xử nhân thiên nghĩa, bất vọng động tác, chung vô dâm nộ chi tâm, ngu si chi thái.
(鈔)生彼國者,處仁遷義,不妄動作,終無淫怒之心、愚痴之態。
(Sao: Người sanh về cõi ấy cư xử với nhau bằng nhân nghĩa, chẳng làm chuyện xằng bậy, trọn chẳng có tâm dâm, giận, chẳng có thói ngu si).
Đoạn này nói lên hoàn cảnh tốt đẹp trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, ngoại duyên thù thắng, chẳng có cảnh giới có thể dẫn khởi phiền não. Đới nghiệp vãng sanh, “nghiệp” là phiền não tập khí trọn chẳng đoạn; thế giới Tây Phương chẳng có duyên, sẽ không dẫn khởi phiền não tập khí của quý vị. Đây là nói rõ cõi đó hoàn cảnh tốt đẹp, hoàn cảnh vật chất lẫn hoàn cảnh nhân sự đều tốt đẹp, quý vị đến cõi đó mọi chuyện vừa lòng, mọi chuyện như ý, những điều chẳng thể cầu được trong các cõi Phật khác đều được viên mãn trong thế giới Tây Phương. Đấy là nói theo mặt Sự.
(Sao) Hựu vân: Sanh bỉ quốc giả, giai tất cụ túc tam thập nhị tướng, chư căn minh lợi, nãi chí thành Phật, bất thọ ác thú.
(鈔)又云:生彼國者,皆悉具足三十二相,諸根明利,乃至成佛,不受惡趣。
(Sao: Lại nói: Người sanh về cõi ấy thảy đều trọn đủ ba mươi hai tướng, các căn sáng suốt, nhạy bén, cho đến khi thành Phật chẳng đọa trong đường ác).
Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, trí huệ, tướng hảo, đức năng, và thần thông của quý vị chẳng khác A Di Đà Phật. “Chư căn minh lợi” (Các căn sáng suốt, nhạy bén) tức là trí huệ và thần thông giống như Phật. Từ ngày vãng sanh cho đến khi thành Phật “bất thọ ác thú” (chẳng đọa trong đường ác). Không chỉ là chẳng thọ quả trong đường ác, mà cái nhân trong đường ác cũng chẳng thọ. Nhân là tham, sân, si, mạn đều chẳng thọ.
(Sao) Hựu luận tụng vân, thiên nhân bất động chúng, thanh tịnh trí hải sanh.
(鈔)又論頌云,天人不動眾,清淨智海生。
(Sao: Lại nữa, trong phần kệ tụng của Vãng Sanh Luận có nói: “Chúng trời, người bất động, biển trí thanh tịnh sanh”).
Hai câu này trích từ Vãng Sanh Luận. “Thiên nhân bất động chúng”: Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có trời, người, nhưng kinh Di Đà nói có trời, người, Thanh Văn. Kinh Vô Lượng Thọ chỉ rõ “trời, người” là nói phương tiện, chẳng phải là nói chân thật. Nói “trời, người, Thanh Văn” do có hai ý nghĩa:
1) Thứ nhất là thân phận của quý vị trước khi sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Như chúng ta có thân phận là người, sanh sang đó bèn gọi là người. Trên thực tế, đã đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thảy đều là Bồ Tát. [Nói “trời, người, Thanh Văn” là nói] thân phận của quý vị trước khi vãng sanh. Quý vị từ cõi trời vãng sanh bèn được gọi là chư thiên. Quý vị là Tiểu Thừa hồi Tiểu hướng Đại, cũng niệm Phật vãng sanh bèn gọi là Thanh Văn, chẳng phải [là Thanh Văn] thật sự. Tây Phương Cực Lạc thế giới chỉ có Bồ Tát, chẳng có Thanh Văn, trời, người. Phải biết điều này.
2) Một cách nói khác là luận theo mức độ đoạn phiền não khi quý vị đến Tây Phương Cực Lạc thế giới so với trời, người, A La Hán trong các thế giới khác. Chúng ta đới nghiệp vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, tuy trí huệ, thần thông, đạo lực, tướng trạng đều chẳng khác Phật, nhưng còn có một điểm khác nhau là Phật chẳng có phiền não, chúng ta vẫn còn phiền não, chúng ta là đới nghiệp vãng sanh. Nếu còn mang theo Kiến Tư phiền não, chưa đoạn hết, sẽ bằng với người, trời trong các thế giới phương khác. Đã đoạn Kiến Tư phiền não, chẳng phá Trần Sa và Vô Minh, sẽ bằng với Duyên Giác và Thanh Văn trong các thế giới khác, có ý nghĩa này.
Thật ra, trong cõi kia, xác thực là chẳng có danh hiệu Nhị Thừa, thiên, nhân. Câu “thiên nhân bất động chúng” trong Vãng Sanh Luận [có ý nói] trời, người đều khởi tâm động niệm, nhưng [người, trời trong cõi Cực Lạc] bất động, “thanh tịnh trí hải sanh” (biển trí thanh tịnh sanh).
(Sao) Bất động tức bất thoái dã, lương diêu niệm Phật chi lực, đắc y Như Lai trí hải hàm nhuận nhi sanh, hữu tấn vô thoái cố.
(鈔)不動即不退也,良繇念佛之力,得依如來智海含潤而生,有進無退故。
(Sao: Bất động chính là bất thoái. Ấy là do sức niệm Phật bèn được cậy vào biển trí của Như Lai thấm nhuần mà sanh, nên [người trong cõi Cực Lạc] có tiến, mà chẳng có thoái vậy).
Công đức lợi ích ấy do đâu mà có? Vì vậy, nói là “pháp khó tin”. Các pháp sư bên Giáo Hạ rất ít người tin tưởng, bậc đại đức bên Thiền Tông cũng không tin tưởng, há có chuyện thuận tiện dường ấy! Người thật sự triệt để đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh sẽ tin tưởng. Do thấy chân tướng sự thật, người ấy tin tưởng. Đúng như Ngẫu Ích đại sư đã nói: Những bậc như Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả, Vĩnh Minh sẽ tin tưởng, vì sao? Các Ngài triệt để ngộ nhập Thật Tướng của các pháp, hạng người ấy tin tưởng. Đây là do thần lực của A Di Đà Phật gia trì [khiến cho] hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất, các thứ điều kiện ưu việt, ngõ hầu quý vị tuy đới nghiệp, nhưng nghiệp lực chẳng khởi tác dụng, chẳng thể dấy lên hiện hành trong cõi ấy, điểm này hết sức trọng yếu!
Chúng ta niệm Phật, nghiệp lực phiền não thường dấy lên hiện hành, đó chẳng phải là một hiện tượng tốt lành, [vì chúng sẽ] chướng ngại quý vị vãng sanh, chướng ngại quý vị chẳng đạt được nhất tâm bất loạn, chẳng đắc công phu thành phiến trong hiện tiền. Đắc công phu thành phiến, quyết định nắm chắc vãng sanh. Tuy quý vị hiện thời công phu tu hành rất đắc lực, tiêu trừ một chút nghiệp chướng, tôi hỏi quý vị: Có nắm chắc vãng sanh hay không? Chẳng nắm chắc! Vì sao chẳng nắm chắc? Chưa thể chế phục phiền não. Tuy tiêu nghiệp chướng đôi chút, nhưng khẳng định là tiêu chưa đủ. Tiêu đến một mức độ nhất định, tâm quý vị thanh tịnh, công phu thành phiến. Công phu thành phiến, không chỉ là nắm chắc vãng sanh, mà công phu tốt đẹp hơn sẽ có thể tự tại vãng sanh, muốn vãng sanh lúc nào bèn vãng sanh lúc ấy.
Nay quý vị nương theo pháp môn này để học, người nghiệp chướng tiêu một tí, đạt được một tí tốt đẹp và lợi ích rất đông; nhưng người đạt đến mức công phu thành phiến [có thể] nói [rất quả quyết] “muốn đi khi nào bèn đi ngay khi ấy”, hiện thời tôi vẫn chưa thấy có ai! Hy vọng mọi người hãy nghiêm túc nỗ lực tinh tấn, tiến thêm bước nữa thì sẽ đạt tới, chớ nên ngưng nghỉ. Đạt đến công phu thành phiến, chúng ta lại tiến thêm bước nữa, đắc Sự nhất tâm bất loạn. Kinh đã nói rất hay: “Tu hành trong thế giới Sa Bà một ngày bằng tu hành một trăm năm trong thế giới Cực Lạc”. Nếu chúng ta tu đạt đến Lý nhất tâm bất loạn trong thế giới này, sẽ sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, đấy là phương hướng mà chúng ta phải nghiêm túc nỗ lực đi theo. Hôm nay chúng tôi giảng tới đây!
Tập 204
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm lẻ sáu:
(Sớ) Thừa thượng bất độc kiến tại bỉ quốc, vô phi hiền thánh, đản hữu sanh giả, tất giai bất thoái dã.
(疏) 承上不獨見在彼國,無非賢聖,但有生者,悉皆不退也。
(Sớ: Tiếp nối ý trong phần trên: Kkông chỉ những người đang ở trong nước ấy, không ai chẳng phải là hiền thánh, mà chỉ cần sanh về cõi ấy, thảy đều là bậc Bất Thoái).
Lần trước đã giảng đến chỗ này, nay chúng ta xem tiếp.
(Sớ) Chúng sanh giả, thống nhiếp nhất thiết.
(疏)眾生者,統攝一切。
(Sớ: Nói “chúng sanh” là gồm chung hết thảy).
Giải thích câu “chúng sanh sanh giả” trong kinh văn. “Nhất thiết” (Hết thảy) là trên từ Đẳng Giác Bồ Tát, dưới tới chúng sanh trong ác đạo đều được bao gồm. Ý nghĩa gốc của chữ Chúng Sanh là “các duyên hòa hợp mà sanh”, bèn gọi là Chúng Sanh. Do vậy có thể biết, chúng sanh có phạm vi hết sức rộng lớn. Không riêng gì hết thảy động vật hữu tình là do các duyên hòa hợp mà sanh. Chúng ta chẳng thể nói tỉ mỉ, bèn nói đại lược thì hữu tình chúng sanh giống như con người là do Tứ Đại và Ngũ Uẩn hòa hợp sanh ra. Thực vật và khoáng vật cũng do các duyên hòa hợp sanh ra. Có thể nói: Hết thảy các pháp hữu vi đều do các duyên hòa hợp. Vì lẽ đó, hai chữ Chúng Sanh có phạm vi hết sức rộng lớn, nhưng ở đây, [chữ Chúng Sanh] chuyên chỉ hữu tình chúng sanh, tức là chúng sanh có tình thức, cũng là động vật như chúng ta nói trong hiện thời; nhưng “động vật” ở đây bao hàm [ý nghĩa] còn rộng hơn từ ngữ “động vật” thông thường. Vì động vật như chúng ta đã nói chỉ giới hạn trong địa cầu, chúng sanh được nói ở đây bao gồm chư thiên, A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát. Trong hàng Bồ Tát, từ sơ phát tâm cho đến Đẳng Giác đều là chúng sanh. Thành Phật bèn chẳng gọi là chúng sanh, chưa thành Phật thì đều gọi là chúng sanh. Dưới thì cho đến súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục đều là chúng sanh. Vì thế, “chúng sanh sanh giả” được nói ở đây là chỉ chung hữu tình chúng sanh trong chín pháp giới.
Hữu tình chúng sanh trong chín pháp giới không chỉ là thế giới Sa Bà, mà là chúng sanh thuộc chín pháp giới trong mười phương ba đời vô lượng vô biên các cõi Phật, một câu này đã bao gồm toàn bộ. Vì thế, câu này có phạm vi rất lớn. Thông thường, khu vực giáo hóa của một đức Phật là một đại thiên thế giới, chỉ riêng khu vực giáo hóa của A Di Đà Phật là hết thảy các cõi Phật tận hư không khắp pháp giới đều thuộc vào phạm vi giáo hóa của đức Di Đà, chẳng thể nghĩ bàn! Hữu tình chúng sanh trong chín pháp giới sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là A Bệ Bạt Trí, điều này chẳng thể nghĩ bàn. Trong chín pháp giới, Bồ Tát và A La Hán bất bình đẳng, A La Hán và chư thiên bất bình đẳng, chư thiên và nhân loại cũng chẳng bình đẳng, nhân loại và ba ác đạo cũng chẳng bình đẳng; đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, thảy đều bình đẳng, đều là A Bệ Bạt Trí. Vì vậy, thế giới ấy là một thế giới bình đẳng. A Bệ Bạt Trí là bất thoái chuyển.
(Sớ) A Bệ Bạt Trí giả, thử vân Bất Thoái Chuyển Địa, như Đại Bổn cập luận sở minh.
(疏)阿鞞跋致者,此云不退轉地,如大本及論所明。
(Sớ: A Bệ Bạt Trí: Cõi này dịch là Bất Thoái Chuyển Địa (địa vị chẳng lui sụt) như kinh Đại Bổn và Vãng Sanh Luận đã nói rõ).
Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ, vì kinh Di Đà nói đơn giản, kinh Vô Lượng Thọ nói tỉ mỉ. “Luận” là Vãng Sanh Luận. Vãng Sanh Luận của Thiên Thân Bồ Tát cũng nói rất minh bạch.
(Sớ) Phục hữu đa chủng nhân duyên, cố đắc bất thoái.
(疏)復有多種因緣,故得不退。
(Sớ: Lại do có nhiều thứ nhân duyên nên được Bất Thoái).
Nhiều thứ nhân duyên như đức Phật đã giảng trong kinh Vô Lượng Thọ, hoặc Thiên Thân Bồ Tát đã giảng trong Vãng Sanh Luận. Dưới đây, nêu đại lược một thứ.
(Sớ) Như Thập Nghi ngũ chủng, Thông Tán thập thắng, Quần Nghi tam thập ích đẳng.
(疏)如十疑五種,通讚十勝,群疑三十益等。
(Sớ: Như năm thứ trong sách Thập Nghi, mười điều thù thắng trong sách Thông Tán, ba mươi lợi ích trong sách Quần Nghi v.v…).
Đây là nói đại lược, Thập Nghi là Thập Nghi Luận[67]. Thông Tán
là [A Di Đà Kinh] Thông Tán Sớ của Khuy Cơ đại sư. Quần Nghi cũng là một cuốn sách nhỏ có tên là Quần Nghi Luận[68], sau đây đều được giới thiệu đơn giản.
(Sao) Ngũ chủng giả, Thập Nghi Luận vân.
(鈔)五種者,十疑論云。
(Sao: Năm thứ là như Thập Nghi Luận nói).
Thập Nghi Luận được xếp vào Tịnh Độ Thập Yếu, Thập Nghi Luận nói:
(Sao) Hữu ngũ nhân duyên, cố đắc Bất Thoái: Nhất giả Di Đà đại bi nguyện lực nhiếp trì, cố bất thoái.
(鈔)有五因緣,故得不退:一者彌陀大悲願力攝持,故不退。
(Sao: Do năm nhân duyên nên được chẳng thoái chuyển: Một là do đại bi nguyện lực của Phật Di Đà nhiếp trì nên bất thoái).
Câu này là nguyên văn trong Thập Nghi Luận, dưới đây là lời giải thích.
(Sao) Kim thích, vị như Đại Bổn Pháp Tạng nguyện vân: “Ngã tác Phật thời, văn ngã danh hiệu, quy y tinh tấn, tức đắc đệ nhất nhẫn, đệ nhị nhẫn, đệ tam nhẫn, ư chư Phật pháp, vĩnh bất thoái chuyển”, thí như thiệp hải, đắc thừa cự hàng, bất trầm nịch cố.
(鈔)今釋,謂如大本法藏願云:我作佛時,聞我名號,皈依精進,即得第一忍 、第二忍 、第三忍 ,於諸佛法,永不退轉,譬如涉海,得乘巨航,不沈溺故。
(Sao: Nay giải thích rằng: Như trong kinh Đại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi tôi làm Phật, nghe danh hiệu của tôi, quy y, tinh tấn, liền đạt được nhẫn thứ nhất, nhẫn thứ hai, nhẫn thứ ba, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển trong các Phật pháp”. Ví như vượt biển, được ngồi chiếc thuyền to, chẳng bị chìm đắm).
Từ đoạn văn tự này, chúng ta có thể thấu hiểu bốn mươi tám nguyện là lý luận căn bản để y cứ cho sự tu học trong Tịnh Tông. Thích Ca Mâu Ni Phật giảng ba kinh Tịnh Độ là kinh Vô Lượng Thọ, kinh Di Đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, không gì chẳng nhằm nói rõ cặn kẽ bốn mươi tám nguyện, từng chữ từng câu đều chẳng lìa bốn mươi tám nguyện, mà cũng quyết định không mâu thuẫn bốn mươi tám nguyện. Nếu mâu thuẫn bốn mươi tám nguyện thì chẳng phải là do đức Phật đã nói. Do vậy có thể biết, cổ đức khen ngợi kinh Vô Lượng Thọ là kinh bậc nhất trong Tịnh Tông, lời này có đạo lý.
Trong Thập Nghi Luận, nhân duyên bất thoái thứ nhất là như trong bốn mươi tám nguyện có nói “văn danh đắc nhẫn nguyện” (nguyện “nghe danh bèn đắc nhẫn”). Nếu nói tới quả vị, đây là cảnh giới của bậc Địa Thượng Bồ Tát. Nhẫn thứ nhất là Âm Hưởng Nhẫn, [bao gồm các địa vị] Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa; nhẫn thứ hai là Nhu Thuận Nhẫn, [bao gồm] Tứ Địa, Ngũ Địa và Lục Địa; nhẫn thứ ba là Vô Sanh Pháp Nhẫn, [bao gồm] Thất Địa, Bát Địa và Cửu Địa, đương nhiên [các địa vị này] là A Bệ Bạt Trí. A Bệ Bạt Trí là từ Thất Địa trở lên, cũng có nghĩa là [những vị đã chứng đắc] Đệ Tam Nhẫn, nhất định là nhẫn thứ nhất, nhẫn thứ hai, nhẫn thứ ba, các Ngài thảy đều đạt được. Đây là do oai thần của Phật Di Đà gia trì, khiến cho mỗi người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới đều có thể đạt được.
Thoạt nhìn, đạt được dường như rất dễ dàng! Có khá nhiều người chẳng thể tiếp nhận pháp môn này, nguyên nhân là [do họ chấp trước]: “Các ngươi là hạng phàm phu lè tè sát đất, nghiệp chướng nặng nề ngần ấy, mới niệm Phật vài ngày, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn nghiễm nhiên là Thất Địa Bồ Tát, làm sao có thể tin tưởng cho được?” Thông thường, người bình phàm phải tu đạt đến Thất Địa Bồ Tát, tức là sau khi đã chứng đắc Sơ Trụ trong Biệt Giáo, phải tu hai A-tăng-kỳ kiếp thì mới có thể chứng đắc. Quý vị mới dùng công phu mấy năm bèn chứng đắc, một phẩm Hoặc cũng chẳng đoạn [mà đã bằng với Thất Địa Bồ Tát], chuyện này quả thật khó có thể khiến cho kẻ khác tin tưởng được! Những người ấy do thiện căn ít ỏi, tri thức cạn mỏng, chẳng hiểu [nguyên do vì sao] những chúng sanh tạo tội nghiệp nặng nề nhất vãng sanh thế giới Tây Phương, họ thấy những chúng sanh đó suốt một đời này tạo tội nghiệp, chẳng thấy các đời trước, kiếp trước của những chúng sanh ấy! Trong đời trước, người ta đã gieo thiện căn rất lớn, suốt một đời này hồ đồ điên đảo tạo tội nghiệp, nhưng chẳng thể không đếm xỉa tới thiện căn, phước đức, và nhân duyên trong đời quá khứ. Đức Phật đã nói rất rõ ràng, nghe pháp môn này mà có thể tin tưởng, tức là trong nhiều đời nhiều kiếp quá khứ, quý vị đã từng cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai. Quý vị nghĩ xem: Thiện căn ấy to cỡ nào! Mấy ai biết thiện căn ấy? Chỉ có Phật mới biết nhân duyên trong đời quá khứ của hết thảy chúng sanh. Vì thế, phàm phu mắt thịt chỉ thấy trước mắt, chẳng biết quá khứ của quý vị.
Một người có thể tin pháp môn này, có thể nguyện, có thể hành, là do thiện căn trong quá khứ từ vô lượng kiếp đến hiện thời đã chín muồi. Do đó, hiện tiền trót tạo ác nghiệp cũng không sợ; do thiện căn trong đời quá khứ đã chín muồi, mười phương Tam Bảo gia trì, nên quý vị nghe kinh này mới có thể sanh tâm hoan hỷ, mới có thể phát nguyện, y giáo phụng hành. Đây là nói lời chân thật cùng chư vị, tuyệt đối chẳng phải là ngẫu nhiên. Chẳng có thiện căn sâu dầy như vậy, làm sao có thể vừa đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, được thần lực của A Di Đà Phật gia trì, bèn đạt từ địa vị Thất Địa trở lên. A Di Đà Phật gia trì cũng là có điều kiện: Trong đời quá khứ, quý vị chẳng có thiện căn này, A Di Đà Phật có muốn gia trì cũng chẳng thể gia trì được! Mười phương chư Phật âm thầm gia hộ quý vị, tâm Phật bình đẳng, lẽ đâu chẳng gia hộ? Còn có rất nhiều người không tin, còn có rất nhiều người tuy đã tin mà vẫn chẳng muốn vãng sanh, tức là thiện căn đã tu trong đời quá khứ ít ỏi! Những lời này chẳng phải là do tôi nói, mà đều là do đức Thế Tôn đã nói trong kinh Vô Lượng Thọ. Quý vị không tin cứ tra duyệt trong kinh, tôi nói lời chân thật cùng mọi người!
Kế đó là một tỷ dụ “thí như thiệp hải” (ví như vượt biển). Đi thuyền trên biển mà chúng ta có một chiếc tàu lớn sẽ chẳng bị chìm đắm. Nguyện hạnh của A Di Đà Phật là một chiếc thuyền lớn, chúng ta nương vào nguyện lực và oai thần của A Di Đà Phật, nên sẽ chẳng bị thoái chuyển (chìm đắm là thoái chuyển). Đây là nguyên nhân thứ nhất khiến cho [người trong cõi Cực Lạc] chẳng bị thoái chuyển.
(Sao) Nhị giả, Phật quang thường chiếu, cố Bồ Đề tâm tăng tấn bất thoái.
(鈔)二者佛光常照,故菩提心增進不退。
(Sao: Hai là do Phật quang thường chiếu, nên tâm Bồ Đề tăng tấn bất thoái).
Đây là nguyên nhân thứ hai. Nguyên nhân trước gồm hai điều: Một là nguyện lực của Phật Di Đà, hai là thiện căn của chính mình. Hai điều này hợp thành cái nhân của bất thoái chuyển. Thứ hai là nói tới ngoại duyên, từ điều thứ hai trở đi đều nói về ngoại duyên. Do duyên bên ngoài thù thắng, nên quý vị sẽ không bị thoái chuyển: Quý vị thường được tiếp xúc quang minh trí huệ của Phật. Đối với Phật quang, chư vị phải biết: Chúng ta thường hễ thấy “Phật quang” bèn nghĩ đến quang minh; [nhưng hãy nghĩ xem] cũng có người thấy Phật quang, thấy xá-lợi tỏa sáng, đã trông thấy, hỏi xem người ấy có bất thoái hay không? Vẫn thoái chuyển! Chẳng phải là Phật quang chiếu tới quý vị đôi chút, quý vị liền mở mang trí huệ, chẳng bị thoái chuyển đâu nhé! Nếu dễ dàng như vậy, cần gì đức Phật phải vì chúng ta thuyết pháp bốn mươi chín năm, vất vả ngần ấy? Phóng quang chiếu một thoáng, chẳng phải là đã xong rồi hay sao? Không chỉ chiếu, có dùng lửa thiêu quý vị, quý vị vẫn chẳng thể khai ngộ! Có phải là như thế hay không? Chiếu rồi, há có khai ngộ ư? Do vậy, ở chỗ này, phải hiểu Phật quang chẳng phải là quang minh, mà là đức Phật vì chúng ta giảng kinh, thuyết pháp, trí huệ của đức Phật khơi gợi, phát khởi quang minh trong tự tánh của chúng ta, có ý nghĩa này.
Trong thời đại hiện tại, chuyện yêu ma quỷ quái rất nhiều. Thấy phóng quang, thấy [thân hình kẻ đó] rời khỏi mặt đất ba thước, thật sự có! Lần này tôi đến Bắc Kinh, ở chung một chỗ với Hoàng lão cư sĩ, lão cư sĩ bảo tôi: Ở Đài Loan, có một vị cư sĩ chuyên môn nghiên cứu xá-lợi, đến mỗi nơi xem xá-lợi, chụp rất nhiều ảnh xá-lợi hiện tướng Phật cũng như hiện quang. Bản thân ông ta cũng thấy xá-lợi phóng quang, đôi khi chỉ có mình ông ta thấy, đồng bạn chẳng thấy, đôi khi mọi người cùng đi đều thấy. Ông ta thưa chuyện này cùng Hoàng lão cư sĩ, Hoàng lão cư sĩ một mực không nghe. Ông ta phải đưa ảnh chụp cho cụ xem, [cụ bảo]: “Tôi không nhìn tới!” Dẫu là thật, cũng không có chi lạ lùng! Kinh Kim Cang đã nói rất hay, “phàm những gì có tướng đều là hư vọng”, chẳng đáng để khoe khoang, chẳng đáng nhắc tới! Vì thế, thật sự là bậc cao nhân thì nghe [những chuyện thần thông] cũng chẳng muốn nghe!
Lão cư sĩ phân biệt tà chánh rất rõ ràng. Cụ bảo tôi: Hiện thời, ở hải ngoại có một vị pháp sư rất nổi tiếng. Vị pháp sư ấy là đồng học của cụ, cùng học Phật với một vị thầy. Cụ nói người này thiên trọng thần thông quá lố, nên cụ chẳng qua lại với thầy ấy: “Những thứ đó khiến cho hết thảy chúng sanh chẳng đạt được lợi ích chân thật!” Ngoài ra còn có một vị Thượng Sư Mật Tông đã vãng sanh, tình cảnh lúc mất chẳng tốt đẹp cho mấy. Vị ấy cũng là đồng học của cụ, học cùng một thầy, đã đi theo tà pháp, chẳng phải là chánh pháp, nên cụ chẳng qua lại!
Không chỉ là chẳng cùng người ấy qua lại, cụ còn bảo tôi: Lão cư sĩ Châu Tuyên Đức ở Lạc Sam Cơ (Los Angeles), Châu lão cư sĩ hết sức kính ngưỡng cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, viết rất nhiều bức thư, mong mỏi cụ Hoàng có thể đến Lạc Sam Cơ hoằng pháp. Ngay cả một bức thư cụ Hoàng cũng chẳng hồi đáp, do nguyên nhân nào? Vì cụ biết cư sĩ Châu Tuyên Đức có nhà xuất bản Huệ Cự, từng in cho người ấy (ông Thượng Sư Mật Tông vừa nói trên) một bộ sách. Cụ Hoàng bảo: “Châu cư sĩ tuổi cao như thế, ngay cả tà chánh cũng chẳng thể phân biệt, nên tôi chẳng quan tâm đến ông ta”. Quý vị biết là một người tu hành thật sự có huệ nhãn, sẽ phân biệt tà chánh rành mạch. Những người ấy đều rất có tiếng tăm, có địa vị trên quốc tế, thế mà Hoàng lão cư sĩ chẳng đoái hoài! Cụ dạy chúng ta thật thà, noi theo thực tiễn để nghiêm túc tu học.
Do đó, quang minh của Phật là thánh giáo, kinh điển chính là quang minh của Phật, chúng ta đọc tụng kinh điển là được Phật quang chiếu gội. Kinh điển để đó, chẳng niệm, tuy có Phật quang, chẳng chiếu tới chúng ta! Y giáo tu hành chính là Phật quang chiếu gội, chư vị phải hiểu ý nghĩa này. Chẳng phải là thấy quang minh, thấy hoa sen, thấy những thứ kỳ quái, [có thấy] những thứ ấy đều vô dụng. Khơi gợi, phát khởi quang minh trong tâm địa của chúng ta, khiến cho chúng ta có thể phân biệt tà chánh, phân biệt đúng sai, phân biệt chân vọng, đó là Phật quang thường chiếu.
Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, Phật quang thường chiếu chính là A Di Đà Phật vì chúng ta thuyết pháp chẳng gián đoạn. Đức Phật thuyết pháp, chúng ta nghe pháp, đó là ý nghĩa của “Phật quang thường chiếu”. Thường nghe đức Phật thuyết pháp, phá mê, khai ngộ, nên “Bồ Đề tâm tăng tấn bất thoái”. Bồ Đề tâm là giác tâm. Tâm của người trong cõi Cực Lạc giác ngộ trong mỗi niệm, chẳng mê, giác tâm tăng thượng, cho nên bất thoái.
(Sao) Kim thích, vị như Đại Bổn ngôn: “Kiến Phật quang minh, nhi sanh từ tâm”. Hựu “niệm Phật chi nhân, Phật phóng quang minh, nhiếp thọ thử nhân”.
(鈔)今釋,謂如大本言,見佛光明,而生慈心。又念佛之人,佛放光明,攝受此人。
(Sao: Nay giải thích là như kinh Đại Bổn có nói: “Thấy quang minh của Phật bèn sanh từ tâm”. Lại nữa, “người niệm Phật, Phật phóng quang minh nhiếp thọ người ấy”).
Đây là nói tới sự gia trì âm thầm hay rõ rệt. Âm thầm là Phật ngấm ngầm gia trì quý vị. Vì thế, niệm kinh, niệm Phật sẽ được oai thần của Phật gia trì. Dưới đây là tỷ dụ.
(Sao) Thí như nhật nguyệt, chiếu chúc ám đồ, bất đọa khanh tiệm cố.
(鈔)譬如日月,照燭闇途,不墮坑塹故。
(Sao: Ví như mặt trời, mặt trăng soi sáng nẻo tối, [khiến cho người đi đường] chẳng sụp hầm sa hố).
Trong nơi tối tăm, chúng ta có đèn chiếu sáng, sẽ không đi lầm đường, cũng chẳng gặp nguy hiểm, mang ý nghĩa này.
(Sao) Tam giả thủy, điểu, thụ lâm, phong thanh, nhạc hưởng, giai thuyết Khổ, Không, văn giả thường khởi niệm Phật, Pháp, Tăng chi tâm, cố bất thoái.
(鈔)三者水鳥樹林,風聲樂響,皆說苦空,聞者常起念佛法僧之心,故不退。
(Sao: Ba là nước, chim, rừng cây, tiếng gió thổi, tiếng nhạc ngân, đều nói Khổ, Không, người nghe thường khởi tâm niệm Phật, Pháp, Tăng, nên chẳng thoái chuyển).
Hết thảy những thứ tạo tác trong thế giới Tây Phương đều do A Di Đà Phật biến hóa thành. Nói cách khác, y báo và chánh báo trang nghiêm trong toàn thể Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là hóa thân của A Di Đà Phật; ngay cả tiếng gió thổi, tiếng chim hót đều là hóa thân của A Di Đà Phật. Sáu trần đều tuyên nói diệu pháp. Quý vị mong nghe pháp môn gì, chúng liền nói cho quý vị nghe pháp môn đó. Ở đây là nêu ra một thí dụ, nói theo phía trời, người đới nghiệp vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư. “Giai thuyết Khổ, Không” là nói [các pháp] Khổ, Không, Vô Thường, giúp chúng ta thấy thấu suốt, buông xuống, thường khởi tâm niệm Tam Bảo. Tam Bảo theo như Lục Tổ đại sư đã giải thích: “Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng là niệm giác, niệm chánh, niệm tịnh, là giác, chánh, tịnh”, phải biết điều này. Giác, chánh, tịnh, là tự tánh Tam Bảo, tự tánh Tam Bảo mới là chỗ quy y thật sự, mới chẳng thoái chuyển. Nếu niệm Tam Bảo bên ngoài thì sẽ vô dụng, chẳng thể đảm bảo quý vị chẳng thoái chuyển. Niệm tự tánh Tam Bảo sẽ quyết định chẳng thoái chuyển.
(Sao) Kim thích, vị như thử kinh, cập nhị bộ trung thuyết.
(鈔)今釋,謂如此經,及二部中說。
(Sao: Nay giải thích: Như trong kinh này và hai bộ kinh kia đã nói).
“Thử kinh” (kinh này) là kinh A Di Đà. Tịnh Độ có ba kinh, trừ kinh này ra, còn có hai bộ nữa là kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. “Nhị bộ trung thuyết” là những điều được nói trong hai bộ kinh ấy.
(Sao) Thí chi vong giả, văn chung khánh thanh, tăng kỳ chánh niệm cố.
(鈔)譬之亡者,聞鐘磬聲,增其正念故。
(Sao: Ví như người đã mất nghe tiếng chuông, khánh, tăng thêm chánh niệm).
Đây là nói người đang lúc lâm chung, đã tắt hơi. Tình hình thông thường là trong vòng tám tiếng, thần thức của người ấy chưa rời khỏi [xác thân]; khi ấy, quý vị gõ chuông, đánh khánh, tuy người ấy chẳng thể nói, nhưng nghe được. Trợ niệm và thuyết pháp cho người ấy, khuyên người ấy cầu sanh thế giới Cực Lạc, người ấy cũng có thể nghe được. Nếu người ấy nghe được, tiếp nhận, một niệm hồi tâm, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, xác thực là có thể vãng sanh. Vì thế, trợ niệm có nhiều điều lợi ích. Đây là chuyện tỷ dụ mà còn có thể giúp cho người ấy giữ chánh niệm, huống hồ trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, sáu trần thuyết pháp, trong mỗi niệm đều chẳng có tà tư (suy nghĩ tà vạy), lẽ đâu sẽ thoái chuyển? Đây là nguyên nhân thứ ba: Do hoàn cảnh vật chất tốt đẹp, chúng ta sẽ không bị thoái chuyển.
(Sao) Tứ giả thuần chư Bồ Tát, dĩ vi thắng hữu, ngoại vô ma tà, nội vô phiền não, cố bất thoái.
(鈔)四者純諸菩薩,以為勝友,外無魔邪,內無煩惱。故不退。
(Sao: Bốn, thuần là các vị Bồ Tát làm bạn thù thắng, ngoài chẳng có tà ma, trong chẳng có phiền não, nên chẳng thoái chuyển).
Đây là hoàn cảnh nhân sự thù thắng. Hoàn cảnh nhân sự trong thế gian này hết sức phức tạp, nhất là đối với cõi đời hiện thời, người trong hiện thời đặc biệt khổ sở, nguyên nhân ở chỗ nào? Người trong đời hiện thời vứt bỏ sách thánh hiền, chẳng đọc sách thánh hiền, đáng sợ quá! Điểm tốt đẹp trong sách thánh hiền là ở chỗ nào? Điểm tốt đẹp của sách thánh hiền là giúp chúng ta phá mê khai ngộ. Không chỉ là sách Phật [có công năng] như vậy, mà sách Khổng, Mạnh, Lão Trang đều giúp chúng ta phá mê khai ngộ, khiến cho chúng ta nhận thức bản thân, nhận thức hoàn cảnh. Trong thế gian này, chúng ta xử sự, đãi người, tiếp vật, tự mình biết phải nên làm như thế nào, có được một tiêu chuẩn. Nói theo kinh Phật, tiêu chuẩn ấy thuận tánh, thuận theo Chân Như bản tánh; vì thế, tiêu chuẩn ấy là thiện. Trong một đời này, chúng ta được sung sướng, hạnh phúc; xã hội, quốc gia, cho đến thế giới có thể đạt được an hòa, lợi lạc. Đấy là lợi ích của sách thánh hiền. Nay chúng ta vứt bỏ, chẳng cần đến nữa, tư tưởng của hết thảy mọi người chẳng có tiêu chuẩn, suy nghĩ loạn xạ. Do tư tưởng lẫn kiến giải đều sai lầm, hành vi lẽ nào chẳng sai trái ư? Lỗi lầm ấy dẫn đến kết quả là tai nạn, đau khổ. Nếu quý vị hỏi: “Đến ngày nào thế giới này mới có hòa bình? Ngày nào xã hội an tường, hòa thuận, chúng ta mới có thể sống một cuộc đời tốt đẹp?” Tùy thuộc vào ngày nào sẽ khôi phục lại chuyện đọc sách thánh hiền.
Trong quá khứ, Hồng Y Vu Bân[69] đề xướng cúng giỗ tổ tiên, chúng ta đều cảm thấy rất lạ lùng, vì Thiên Chúa Giáo chẳng nói tới tổ tiên. Ông ta đề xướng cúng giỗ tổ tiên, chúng ta ngơ ngác không hiểu! Lục lão cư sĩ đã giải thích rõ chuyện này, tôi mới hoảng nhiên đại ngộ. Cụ nói: Có một năm nọ, Hồng Y Vu Bân tham gia hội nghị quốc tế ở Âu Châu tổ chức tại Nhật Nội Ngõa (Geneva). Khi ấy, đại hội mời một sử gia kiêm triết gia Anh Quốc nổi danh thế giới là học giả Thang Ân Tỷ (Arnold J. Toynbee) đến diễn thuyết. Trong bài diễn thuyết, ông Thang Ân Tỷ bảo mọi người, nếu muốn cho thế giới thật sự hòa bình, chỉ có tư tưởng Khổng Mạnh mới có thể cứu vãn thế giới. Hồng Y Vu Bân nghe nói như vậy, trở về nước bèn đề xướng thờ phụng tổ tiên. Người thật sự có học vấn trên thế giới biết văn hóa Trung Hoa đáng quý, biết học thuyết Khổng Mạnh có thể cứu người trong thiên hạ, nhưng chính chúng ta lại không biết! Xưa kia, Tứ Thư và Ngũ Kinh là sách người Hoa bắt buộc phải đọc. Chỉ cần là người Hoa, chẳng có ai không đọc Tứ Thư, Ngũ Kinh. Nay chúng ta vứt bỏ những sách ấy, nên mới gặp khổ nạn to lớn dường ấy, đúng là ngu si, điên đảo!
Thế giới Tây Phương không chỉ chẳng có lục đạo, lại thưa cùng quý vị, cũng chẳng có mười pháp giới, nó là Nhất Chân pháp giới, là “thuần chư Bồ Tát dĩ vi thắng hữu” (thuần là các vị Bồ Tát làm bạn thù thắng), “thắng” (勝) là thù thắng (殊勝). [Thắng hữu] là bạn bè tốt nhất. Từ Đại Kinh chúng ta đọc thấy, Bồ Tát [trong cõi Cực Lạc], vẫn chẳng phải là Bồ Tát bình phàm, mà đều là Phổ Hiền Bồ Tát. Hàng Bồ Tát trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều tuân tu phẩm đức của Phổ Hiền đại sĩ, thảy đều là Phổ Hiền Bồ Tát. Kinh Hoa Nghiêm bảo: “Chẳng tu Phổ Hiền hạnh, chẳng thể viên thành Phật đạo”. Nếu muốn thành Viên Giáo Phật, tức là [chứng đắc] Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nhất định phải tu Phổ Hiền hạnh. Tây Phương Cực Lạc thế giới từ sơ phát tâm Bồ Tát cho đến Đẳng Giác Bồ Tát thảy đều tu Phổ Hiền hạnh, điều này chẳng thể nghĩ bàn. “Ngoại vô ma tà” là bên ngoài chẳng có thiên ma, chẳng có tà tri, tà kiến. “Nội vô phiền não”: Tâm địa của mỗi người vãng sanh đều thanh tịnh. Tâm tịnh ắt cõi nước tịnh!
Vì vậy, niệm Phật thì phải niệm đến mức công phu thành phiến mới có tư cách vãng sanh. Chẳng phải là nói “hễ ta niệm Phật bèn có thể vãng sanh”, chưa chắc! Niệm Phật phải đắc lực, phải có công phu thì mới có thể vãng sanh. Công phu thành phiến nói theo kiểu nào? Trong tâm chúng ta trừ A Di Đà Phật ra, chẳng có bất cứ tạp niệm gì, đó gọi là “[thành] một phiến”. Cũng có nghĩa là từ sáng đến tối, từ đầu năm đến cuối năm, miệng niệm A Di Đà Phật, trong tâm tưởng A Di Đà Phật; trừ A Di Đà Phật ra, điều gì cũng không nghĩ tới, điều gì khác cũng chẳng niệm, đó là điều khẩn yếu! Vừa niệm Phật vừa dấy vọng tưởng, sẽ chẳng thể vãng sanh. Người niệm Phật đông đảo, xác thực là nhân tố quyết định khiến cho xã hội an định, tai nạn tiêu trừ, có lợi ích tốt đẹp. Còn như người niệm Phật có thể vãng sanh hay không, chẳng dám nói. Đối với điều kiện vãng sanh, điều kiện thấp nhất là công phu thành phiến. Nếu cao hơn một bậc sẽ là Sự nhất tâm bất loạn, cao nhất là Lý nhất tâm bất loạn. Niệm đến Lý nhất tâm bất loạn, sanh trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Sự nhất tâm bất loạn bèn sanh trong cõi Phương Tiện Hữu Dư. Công phu thành phiến, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Chẳng thể niệm đến mức công phu thành phiến, sẽ chẳng thể vãng sanh.
Trong các đồng tu chúng ta, người niệm Phật mà thường nghĩ tới tiền bạc, nghĩ tới cổ phiếu, [nghĩ tưởng] những thứ ấy thì làm sao có thể vãng sanh cho được? Dẫu quý vị niệm giỏi giang cách mấy, do chẳng buông những thứ ấy xuống, sẽ chẳng thể vãng sanh, phải triệt để buông xuống! Quý vị nói: Buông xuống thì đời này tôi sẽ sống như thế nào đây? Quý vị cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, mà còn phải hỏi sẽ sống ra sao ư? Hễ còn phải nghĩ ta phải sống cuộc đời này thì nói cách khác, về căn bản, quý vị chẳng có ý nghĩ cầu vãng sanh! Thật sự có ý nghĩ cầu vãng sanh, chẳng quan tâm đến ngày mai, ngày mai vãng sanh! Công phu như vậy thì mới có thể thành phiến, quý vị niệm Phật mới có thể thật sự đạt được thọ dụng, tâm địa mới có thể thanh tịnh, mới có thể tiêu nghiệp chướng, tăng trưởng trí huệ, khai trí huệ. Điều này rất khẩn yếu! Nay chúng ta chẳng đoạn phiền não, vẫn y như cũ tăng trưởng thị phi, nhân ngã, kiêu căng, ngã mạn, tham, sân, si, vẫn làm theo lề lối ấy thì chẳng có cách nào cả! Niệm Phật kiểu đó chỉ có thể gieo thiện căn mà thôi, chẳng thể thành tựu trong một đời này.
(Sao) Kim thích, vị như thử kinh ngôn: “Chư thượng thiện nhân, đồng hội nhất xứ”. Thí chi trí tử Trang Nhạc, bất phục Sở ngữ cố.
(鈔) 今釋,謂如此經言:諸上善人,同會一處。譬之置子莊嶽,不復楚語故。
(Sao: Nay giải thích: Như kinh này có nói: “Các vị thượng thiện nhân cùng hội họp một chỗ”. Ví như để con ở phố Trang, xóm Nhạc thì nó chẳng còn nói tiếng nước Sở nữa).
Đúng như trong cùng một bản kinh này có nói: Sanh về Tây Phương Cực Lạc là “chư thượng thiện nhân đồng hội nhất xứ” (các vị thượng thiện nhân cùng nhóm lại một chỗ). “Thượng thiện” là nói Đẳng Giác Bồ Tát. Trong hàng Bồ Tát, chẳng có ai cao hơn Đẳng Giác. Vì thế, Đẳng Giác là thượng thiện. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, bậc Đẳng Giác Bồ Tát quá đông, ở chung một chỗ với những vị ấy, làm sao có thể thoái chuyển cho được? Chẳng thể nào! Mỗi ngày ở chung một chỗ với bậc Đẳng Giác Bồ Tát, ở chung một chỗ với Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, làm sao quý vị có thể thoái chuyển? Chẳng thể nào! Kế đó, tổ Liên Trì nêu một tỷ dụ “thí như trí tử Trang Nhạc” (để con trong phố Trang, xóm Nhạc), “trí” (置) là đặt hoặc đưa trẻ nhỏ đến sống tại Trang Nhạc. Trang Nhạc là tên một khu phố của nước Tề, là một địa danh tại nước Tề[70], “bất phục Sở ngữ” (không còn nói tiếng nước Sở nữa). Hiện thời, Sở là tỉnh Hồ Nam. Mỗi địa phương đều có ngôn ngữ của riêng vùng ấy, quý vị đem trẻ nhỏ [nước Sở] để ở nước Tề, trong tương lai, tự nhiên nó sẽ nói tiếng nước Tề, chẳng biết nói tiếng nước Sở. Điều này nhằm nói rõ hoàn cảnh ảnh hưởng con người. Tây Phương Cực Lạc thế giới có hoàn cảnh tốt đẹp, quý vị và Bồ Tát ở cùng một chỗ, tự nhiên quý vị cũng thành Bồ Tát, bất tri bất giác biến thành Bồ Tát, có ý nghĩa này.
(Sao) Ngũ giả, thọ mạng vĩnh kiếp, dữ Phật tề đẳng, cố bất thoái.
(鈔)五者壽命永劫,與佛齊等,故不退。
(Sao: Năm là thọ mạng bao kiếp dài lâu, bằng với thọ mạng của Phật nên chẳng thoái chuyển).
Nhân tố thứ năm là thọ mạng dài. Tây Phương thế giới A Di Đà Phật vô lượng thọ. Tuy nói là vô lượng, nhưng là vô lượng trong hữu lượng, mà cũng có thể nói là vô lượng trong vô lượng, vì sao? Tuy có số lượng, nhưng không ai có thể tính toán con số ấy. Chư vị xem kinh Vô Lượng Thọ sẽ biết. Không chỉ là người thế gian chẳng có cách nào tính toán, mà trong kinh có tỷ dụ: Mười phương thế giới hết thảy chúng sanh đều chứng đắc quả vị Bích Chi Phật, thần thông đều giống Đại Mục Kiền Liên, cùng nhau tính toán đều tính chẳng ra. Vì vậy, nói theo Sự, khi A Di Đà Phật nhập diệt, Quán Âm Bồ Tát kế thừa ngôi vị Phật. Trong tương lai, Quán Âm Bồ Tát nhập diệt, Đại Thế Chí Bồ Tát kế thừa ngôi vị Phật, đó là hữu lượng. Tuy là hữu lượng, thời kiếp quá dài, chẳng có cách nào tính toán. [Vô lượng] tuyệt đối chẳng phải là Vô Lượng trong mười con số lớn của Ấn Độ, nên chúng ta cũng có thể nói nó thật sự là vô lượng.
Phàm là người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, thọ mạng đều bằng với, ngang với Phật. Quý vị nghĩ xem, có ai chẳng thành Phật ư? Thành Phật phải mất ba A-tăng-kỳ kiếp; nói thật ra, đối với thọ mạng của người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới thì ba A-tăng-kỳ kiếp quá ngắn. Vì thế, chỉ cần sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, quyết định thành Phật trong một đời, chẳng cần chờ đến đời sau. Sau khi đã thành Phật, thọ mạng sẽ là thật sự vô lượng. Đây là một nhân tố khiến cho họ chẳng bị thoái chuyển.
Vì sao nói tới điều này? Điều này rất trọng yếu. Chúng ta cũng là đã phát tâm tu hành vô lượng kiếp trước. Do tu vô lượng kiếp, trong khoảng thời gian ấy, đã từng cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, nay vẫn là tình trạng [phàm phu đọa lạc] như thế này, nguyên nhân là đâu? Vì thọ mạng ngắn ngủi, sau khi đã chết, bị mê khi cách ấm, vừa đầu thai liền thoái chuyển, phải học lại từ đầu, học chưa được bao nhiêu lại chết ngắc, sanh sanh tử tử, khiến cho chúng ta tu hành vĩnh viễn chẳng thể thành tựu, đó là nhân tố gây thoái chuyển. Tây Phương Cực Lạc thế giới thọ mạng dài, nên họ chẳng thoái chuyển, có thể một mực tu hành cho đến khi thành Phật. Thọ mạng của họ không chỉ là ba đại A-tăng-kỳ kiếp; do đó, họ quyết định thành Phật.
Chúng ta thấy: Do điều này, chẳng sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ không được, mười phương các cõi Phật chẳng có điều này. Nói cách khác, sanh vào các cõi Phật khác, thọ mạng của quý vị chẳng dài; khi chẳng dài, đến khi mạng chung, sau khi đã chết lại đầu thai, trong quá trình ấy còn bị mê khi cách ấm, còn bị thoái chuyển. Đây là chuyện hết sức đáng sợ. Từ kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta thấy vương tử A Xà Thế và năm trăm đại trưởng giả trong quá khứ đã từng cúng dường bốn trăm ức Phật, vẫn bị mê khi cách ấm, vẫn thoái chuyển. Xem đoạn kinh văn ấy, đúng là hết sức sợ hãi! Xem xong, quý vị liền biết: Chẳng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới thì sẽ giống như họ. Nói thật ra, họ giống như chúng ta trong hiện thời, đây là nguyên nhân khiến cho họ chẳng thể thành tựu.
(Sao) Kim thích, vị như kinh ngôn, Phật cập nhân dân, thọ mạng vô biên, thí chi thiệp vạn lý đồ, giả dĩ thời nhật, chung chí bảo sở cố.
(鈔)今釋,謂如經言,佛及人民,壽命無邊,譬之涉 萬理途,假以時日,終至寶所故。
(Sao: Nay giải thích: Như kinh nói “Phật và nhân dân, thọ mạng vô biên”. Ví như đi đường vạn dặm, do có thời gian lâu dài, nên rốt cuộc đến được chỗ có của báu).
Đây là tỷ dụ. Quý vị có thời gian dài, tuy đường xa, chẳng sợ, vì sao? Quyết định có thể đến được. Nếu đường rất dài, thọ mạng ngắn ngủi, chưa đến được nơi ấy đã chết, quý vị sẽ chẳng thể thành tựu. Thọ mạng dài thì không sợ [chưa thành công đã chết], trong kinh, đức Phật nói là ba đại A-tăng-kỳ kiếp, hoặc là như kinh Hoa Nghiêm nói “vô lượng A-tăng-kỳ kiếp mới có thể chứng đắc Viên Giáo Phật quả”. Đã đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thì vô lượng A-tăng-kỳ kiếp cũng không sợ, trong một đời vẫn quyết định có thể chứng đắc. Đó là lợi ích [của vô lượng thọ]. Nói thật ra, trong [khi giảng giải] Đại Kinh, chúng tôi thường nhắc nhở các đồng tu, Tây Phương Cực Lạc thế giới vô lượng trang nghiêm, trong đó, quan trọng nhất là vô lượng thọ. Chư vị nghĩ xem: Chẳng có thọ mạng, dẫu là hết thảy trang nghiêm cách nào đi nữa, quý vị đều chẳng có phần hưởng thụ. Vì thế, thọ mạng trọng yếu bậc nhất. Ta có thọ mạng, nên ta mới có thể hưởng thụ hết thảy các thứ trang nghiêm. Chẳng có thọ mạng sẽ không được. A Di Đà Phật dịch thành Vô Lượng Thọ, tức là đã phiên dịch ý nghĩa trọng yếu nhất. Trong vô lượng nghĩa, ý nghĩa này quan trọng nhất.
(Sao) Thập thắng, tam thập ích, đại ước đồng thử, khủng phồn bất dẫn.
(鈔)十勝三十益,大約同此,恐繁不引。
(Sao: Mười điều thù thắng, ba mươi điều lợi ích, đại lược giống như những điều này, sợ rườm rà nên không trích dẫn).
Câu này là nói đại lược. Thông Tán Sớ nói mười điều thù thắng, Quần Nghi Luận nói ba mươi thứ lợi ích, đại khái đều giống như vậy, nên chẳng cần phải rườm lời! Hiểu Tây Phương Cực Lạc thế giới bất thoái chuyển, xác thực là do có rất nhiều nhân tố.
(Sớ) Hựu Bất Thoái tam nghĩa, Đại Thừa bất thoái, dĩ đắc bất thoái, vị đắc bất thoái, lệ như Di Lặc Vấn kinh thuyết.
(疏)又不退三義,大乘不退,已得不退,未得不退,例如彌勒問經說。
(Sớ: Bất Thoái lại có ba nghĩa, Đại Thừa bất thoái, đã đắc bất thoái, chưa đắc bất thoái, ví như kinh Di Lặc Sở Vấn đã nói).
Ba điều Bất Thoái này khác với cách nói thông thường. Đại Thừa bất thoái, đã đắc thì bất thoái, mà chưa đắc cũng bất thoái, rất kỳ diệu. Trong lời Sao ở dưới đây sẽ giải thích, chúng ta nhất định phải biết đến những điều này. Thật sự nhận thức, thật sự lý giải, tín tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương mới có thể sanh khởi, mới có thể hoan hỷ tiếp nhận, hớn hở niệm Phật, mới có thể thấu hiểu pháp môn này thù thắng.
(Sao) Đại Thừa bất thoái giả, vãng sanh bỉ quốc, xu nhập Đại Thừa, cánh bất thoái chuyển, phục tác Nhị Thừa cố.
(Diễn) Đại Thừa bất thoái đẳng giả, vị ký vãng sanh, dĩ thân Đại Thừa nhân, văn Đại Thừa pháp, phát đại tâm, tu đại hạnh, thú đại quả, bất đồng thử độ, lục tâm đọa lạc, trần kiếp Thanh Văn cố.
(鈔)大乘不退者,往生彼國,趨入大乘,更不退轉,復作二乘故。
(演)大乘不退等者,謂既往生,已親大乘人,聞大乘法,發大心,修大行,趣大果,不同此土,六心墮落,塵劫聲聞故。
(Sao: “Đại Thừa bất thoái” là vãng sanh cõi kia, tiến nhập Đại Thừa, chẳng còn thoái chuyển trở lại làm Nhị Thừa nữa.
Diễn: “Đại Thừa bất thoái v.v…” ý nói người đã vãng sanh, đã thân cận bậc Đại Thừa, nghe pháp Đại Thừa, bèn phát đại tâm, tu đại hạnh, tiến nhập đại quả, chẳng như trong cõi này do cái tâm ý thức mà đọa lạc, làm Thanh Văn trong số kiếp nhiều như vi trần).
“Vãng sanh” [như sách Diễn Nghĩa đề cập] là nói về tình hình hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Trừ phi chẳng vãng sanh [thì thôi], hễ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đối với các thứ công đức, trang nghiêm, quả báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới như kinh đã nói, quý vị đều có phần. Quý vị thân cận bậc Viên Giáo Đại Thừa Bồ Tát. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, hàng Bồ Tát giống như Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí rất nhiều! Chúng ta chỉ biết có mấy vị Đẳng Giác Bồ Tát như thế mà thôi; thật ra, những vị có cùng địa vị với các Ngài chẳng biết là bao nhiêu. Kinh Vô Lượng Thọ nói mười sáu Chánh Sĩ, mười sáu vị ấy đều là Đẳng Giác Bồ Tát, chúng ta biết ít ỏi, chẳng biết nhiều cho lắm! Cùng ở chung với những vị như vậy, những gì quý vị được nghe, sáu căn được tiếp xúc toàn là pháp Đại Thừa, những vị ấy là thầy, mà cũng là bạn bè của chúng ta, nêu gương mẫu điển hình cho chúng ta.
Ở cùng một chỗ với các Ngài, lẽ nào tâm chẳng lớn cho được? Tâm phải lớn, phải “phát đại tâm”. Tiêu chuẩn của đại tâm là bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật. Vì sao hằng ngày chúng ta phải niệm bốn mươi tám nguyện? Chúng ta là người chuyên tu Tịnh Tông, công khóa sáng tối khác với các tự viện thông thường. Khóa sáng chúng ta niệm bốn mươi tám nguyện, niệm chương thứ sáu trong kinh Vô Lượng Thọ, khóa tối niệm chương ba mươi ba đến chương ba mươi bảy. Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng chú trọng hai phần này trong kinh ấy. Lần này tôi đến Bắc Kinh, cụ đặc biệt nêu ra, cụ lại còn có băng thâu âm đoạn kinh văn từ chương ba mươi ba đến ba mươi bảy, chúng tôi có đem băng thâu âm ấy về đây. Đây là không gì chẳng nhằm biến bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật thành bốn mươi tám nguyện của chính chúng ta, tâm nguyện của chúng ta hoàn toàn giống như A Di Đà Phật. A Di Đà Phật và chúng ta đồng tâm, đồng nguyện, há lẽ nào chẳng thể vãng sanh? Quyết định vãng sanh. Niệm niệm phải độ hết thảy chúng sanh, Bồ Tát chớ nên vì chính mình. Nếu niệm nào cũng nghĩ đến bản thân, niệm nào cũng nghĩ đến gia đình của chính mình, chắc chắn quý vị chẳng thể vượt thoát luân hồi. Vì sao? Đó là làm chuyện luân hồi, lẽ nào quý vị có thể thoát khỏi luân hồi? Nếu muốn thoát khỏi luân hồi, tâm lượng phải rộng mở, mỗi niệm đều nghĩ tới Phật pháp, mỗi niệm đều nghĩ tới chúng sanh, sẽ tương ứng với tâm nguyện của Phật, Bồ Tát. Đó là phát đại tâm.
“Tu đại hạnh”, trong hết thảy các hạnh môn, niệm Phật lớn nhất, người biết điều này chẳng nhiều! Đối với “tin sâu nhân quả” trong ba thứ tịnh nghiệp của Quán Kinh, niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. Lần này, tôi cùng Hoàng lão cư sĩ gặp mặt hai phen, nói chuyện bảy, tám tiếng đồng hồ. Cuối cùng kết luận, Hoàng lão cư sĩ nói: “Những lời chúng ta đã nói đây đều là lời lẽ thừa thãi. Lời lẽ chân thật là gì? Một câu A Di Đà Phật là lời chân thật. Trừ A Di Đà Phật ra, thảy đều là lời lẽ thừa thãi”. Quý vị tưởng A Di Đà Phật, tưởng y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, đó là chánh niệm; tưởng những thứ khác đều là suy nghĩ loạn xạ, đều là tà niệm, đều chẳng phải là chánh niệm. Đó là tiêu chuẩn của người thật sự niệm Phật; trong kinh, đức Phật đã kiến lập tiêu chuẩn này.
Ở đây, tôi trịnh trọng tuyên bố cùng mọi người. Mọi người chớ nên viết thư cho tôi, vì sao? Tôi không xem, thư gởi đến bèn quăng vào sọt đựng giấy tờ, đương nhiên tôi càng chẳng hồi âm, vì sao? Lời lẽ thừa thãi, suy nghĩ loạn xạ! Vì sao không thật thà niệm Phật? Đó là điều trọng yếu. Quý vị đến nêu câu hỏi, nói thật ra, toàn là lời lẽ thừa thãi, toàn là suy nghĩ loạn xạ. Hãy trở về nhà, thật thà niệm Phật, chuyện gì cũng chẳng có, vấn đề gì cũng chẳng có, nhất định phải biết điều này. Thật sự tu thì đời này chúng ta mới có chỗ mong cậy. Nếu chẳng nghiêm túc tu, chẳng thật thà tu, đời này lại luống uổng. Luống uổng thì đời này dẫu tu tốt đẹp cách mấy, đời sau lại được làm người, chẳng biết sẽ làm thân người như thế nào? Vẫn giống như đời này, thậm chí còn chẳng bằng đời này, khổ chết đi được! Vì vậy, nhất định phải giác ngộ. Thật sự giác ngộ là buông xuống hết thảy; hy vọng chư vị đồng tu phải ghi nhớ điều này, phải phát đại tâm, tu đại hạnh. Niệm kinh Vô Lượng Thọ, một câu A Di Đà Phật là đại hạnh.
“Thú đại quả” (Tiến đến đại quả): Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, Văn Thù, Phổ Hiền vẫn phải cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, hết thảy chư Phật Như Lai đều niệm A Di Đà Phật, còn gì để nói nữa đây? Chư Phật đều niệm A Di Đà Phật. Trong kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta thấy Thích Ca Mâu Ni Phật niệm A Di Đà Phật, cho nên ngày hôm ấy Ngài tinh thần sung mãn, rạng rỡ khôn sánh. Ngài A Nan trông thấy bèn nói là hy hữu, [thưa hỏi] nguyên nhân là gì? Vốn là Thích Ca Mâu Ni Phật niệm A Di Đà Phật. Quý vị mới biết A Di Đà Phật công đức lồng lộng, chẳng thể nghĩ bàn. Đó là “thú đại quả”.
“Bất đồng thử độ, lục tâm đọa lạc” (Chẳng giống như cõi này, do cái tâm ý thức mà bị đọa lạc), “lục tâm” (六心) là tâm thức thứ sáu, tức ý thức, suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ. “Trần kiếp Thanh Văn cố” (Trải số kiếp nhiều như vi trần làm Thanh Văn), “trần kiếp” (塵劫) là số kiếp nhiều như vi trần, [ý nói] thời gian lâu dài, chẳng đạt được kết quả. Đây là nói về sự Bất Thoái nơi Đại Thừa, vì A La Hán vẫn dùng tâm ý thức thứ sáu, trong kinh Lăng Nghiêm, chúng ta đã thấy điều này rất rõ ràng; A La Hán và Bích Chi Phật đều dùng tám thức tâm. Dùng tám thức tâm, chắc chắn chẳng thể chứng đắc Đại Thừa. Chuyển tám thức thành bốn trí, đó là Đại Thừa Bồ Tát. Đây là nói về sự Bất Thoái nơi Đại Thừa, do người ấy “vãng sanh bỉ quốc, xu nhập Đại Thừa” (vãng sanh cõi ấy, tiến nhập Đại Thừa), tuyệt đối chẳng còn đọa làm hàng Nhị Thừa nữa!
(Sao) Dĩ đắc bất thoái giả, đản sanh bỉ quốc, phàm sở dĩ đắc, cánh bất thoái chuyển, táng thất bổn hữu cố.
(Diễn) Dĩ đắc bất thoái giả, phàm sở dĩ đắc thần thông, tam muội, trí huệ, biện tài, cánh bất táng thất.
(鈔)已得不退者,但生彼國,凡所已得,更不退轉,喪失本有故。
(演)已得不退者,凡所已得神通、三昧、智慧、辯才,更不喪失。
(Sao: “Đã đắc bất thoái”: Chỉ sanh về cõi ấy, phàm những gì đã đạt được sẽ chẳng bị thoái chuyển, chẳng đánh mất những gì vốn có.
Diễn: “Đã đắc bất thoái”: Phàm là thần thông, tam-muội, trí huệ, biện tài đã đắc sẽ chẳng bị mất đi).
Đối với câu này, hãy nên coi hai chữ là một câu, vì thần thông là một chuyện, tam-muội là một chuyện, trí huệ là một chuyện, biện tài lại là một chuyện khác nữa; ở đây, nêu lên bốn thí dụ. Từ Đại Kinh chúng ta thấy: Người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới đạt được thần thông, ví như Thiên Nhãn thấy thấu suốt, Thiên Nhĩ nghe thấu tột, Tha Tâm biết trọn khắp, có thể nói là lục thông chẳng sai khác Phật cho mấy! Đó là do oai thần của Phật Di Đà gia trì, hễ sanh về thế giới Tây Phương bèn đạt được, có bị thoái chuyển hay không? Chẳng bị thoái chuyển, vĩnh viễn chẳng thoái chuyển. Điều này khó có, quá hiếm có. Tam-muội (Samādhi) là Chánh Thọ, tam-muội là tiếng Phạn, cũng là tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, giác tâm được nói trong tựa đề kinh Vô Lượng Thọ; đấy chính là tam-muội, nói đến Niệm Phật tam-muội. “Thanh tịnh, bình đẳng, giác” thì tuyệt đối sẽ không thoái chuyển.
Tâm thanh tịnh khởi tác dụng là trí huệ, vô lượng trí huệ. Học Phật chẳng thể không khai trí huệ! Tôi lại thưa cùng chư vị đồng tu: Phàm là người vãng sanh, Tam Học Giới, Định, Huệ trọn đủ. Nếu chẳng trọn đủ, người ấy sẽ không thể vãng sanh. Quý vị thấy người ấy bình thường chẳng tu, niệm một câu A Di Đà Phật này, chẳng sai tí nào, niệm đến khi vãng sanh bèn trọn đủ Tam Học. Trong tâm người ấy chẳng có ác niệm, đó là Giới trọn đủ, Tiểu Thừa Giới trọn đủ. Niệm câu A Di Đà Phật này, A Di Đà Phật là vạn đức hồng danh, chẳng có gì tốt lành hơn, nên Bồ Tát Giới trọn đủ. Bồ Tát Giới là “vâng làm các điều lành”, giới tỳ-kheo là “đừng làm các điều ác”. Vì thế, một câu Phật hiệu trọn đủ [Giới]. Đối với Định thì người ấy chuyên tâm niệm, ngoại trừ một câu A Di Đà Phật, trong tâm chẳng có niệm thứ hai. Đó là Định trọn đủ. Niệm một câu Phật hiệu rành mạch, từng chữ phân minh, Huệ đã trọn đủ. Do đó, người vãng sanh dẫu là hạ hạ phẩm vãng sanh, cũng là Tam Học trọn đủ, chớ nên khinh dễ; đó chính là tam-muội trọn đủ, trí huệ trọn đủ. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, trí huệ, biện tài đã được nói rõ ràng trong bốn mươi tám nguyện. Đạt tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, Tánh Đức và Tu Đức vô lượng vô biên, thảy đều là bất thoái. Ở đây, bất quá nêu ra bốn chuyện, chứ nói thật ra, trong cõi kia, công đức vô lượng vô biên, thứ gì cũng đều là chẳng thoái chuyển.
(Diễn) Bất đồng thử độ, thần tiên tao khóa hạ, La Hán trụy vân đoan, nhất động dục trần, giai táng thất cố.
(演)不同此土,神仙遭跨下,羅漢墜雲端,一動欲塵,皆喪失故。
(Diễn: Chẳng giống như trong cõi này, thần tiên mắc nạn luồn háng, La Hán té khỏi mây, vừa động dục trần, thảy đều mất đi).
Chẳng giống như cõi này. Nơi đây hễ vừa động niệm, tâm bèn thoái chuyển. “Thần tiên” là nói tới chư thiên, hễ luồn qua háng phàm phu liền đọa lạc, cũng chẳng thể bay lên được. La Hán vừa động một niệm dục vọng, ngay lập tức thoái đọa. “Nhất động dục trần”, dục là ngũ dục, tức tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghê. Trần là sáu trần. Đối với ngũ dục, lục trần, khởi một niệm tâm tham, khởi một niệm tâm sân khuể bèn đọa lạc. Do đó, đây chẳng phải là chuyện dễ dàng.
Phát tâm giảng kinh, thuyết pháp thì giảng kinh, thuyết pháp dễ bị đọa lạc nhất. Khi tôi theo thầy Lý học Phật, thầy Lý nói: “Trước bốn mươi tuổi quyết định chẳng thể đi giảng kinh bên ngoài, phải luyện tập giảng trong nhà của chính mình”. Đài Trung Liên Xã kể cả ngôi chùa Linh Sơn đều là đạo tràng giáo học của thầy Lý. Giảng ở những nơi ấy thì được, quyết định chẳng chấp thuận cho ra ngoài. Nguyên nhân ở chỗ nào? Ngăn ngừa đọa lạc. Quý vị đi ra ngoài giảng kinh, các cư sĩ cúng dường. Tài cúng dường nhiều, sẽ khởi tâm tham tài, liền đọa lạc. Tiếp xúc đồng tu nữ chúng nhiều quá, cũng dễ bị đọa lạc. Quý vị thấy rất nhiều pháp sư trẻ tuổi hoàn tục, họ chẳng độ chúng sanh, kết quả là bị chúng sanh độ! Hết sức đáng sợ! Chẳng thể không ngăn ngừa chuyện này!
Chẳng phải là nói người trẻ tuổi chẳng thể giảng kinh, mà là nói họ chẳng có định lực! Quý vị có Định Huệ, giống như trong kinh Pháp Hoa long nữ tám tuổi thành Phật, người ta có định lực, có Định, có Huệ! Thử hỏi chúng ta thì sao? Đã trót nghe thấy mấy câu khó nghe, trong tâm khó chịu vài ngày, còn có thể thành tựu được ư? Chẳng thể thành tựu! Ca tụng, tán thán quý vị, ngủ không yên mấy bữa, hưng phấn quá mức, há có nên hay chăng? Chẳng được rồi! Tám gió [cảnh giới] bên ngoài vừa khẽ thổi đôi chút liền dao động, nguyên nhân chẳng thể thành tựu là ở chỗ này!
Có nhiều nơi đến đây thỉnh các đồng tu chúng ta đi giảng kinh, thuyết pháp, bất luận là xuất gia hay tại gia, cả một đời thầy Lý chẳng dám tự cho mình là thầy, còn hiện tại thì sao? Hễ ra ngoài [giảng kinh], ta là pháp sư, người xuất gia là pháp sư, kẻ tại gia là lão sư (thầy), chẳng được rồi! Người thật sự tu đạo chắc chắn tránh né, chẳng dám [tự coi mình là thầy]. Tại Đại Lục, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ có thân phận, địa vị, tu trì [cao cả] dường ấy, quý vị thấy cụ chẳng dám xưng là thầy, luôn bảo mọi người hãy gọi cụ là Hoàng lão cư sĩ, học trò đều gọi cụ là lão cư sĩ, đừng gọi cụ là thầy, cụ chẳng bằng lòng cho người khác gọi cụ là thầy.
Cụ Hạ Liên Cư thì được, cụ là bậc lỗi lạc, là Phật, Bồ Tát tái lai. Đối với trước tác của cụ, chúng tôi cung kính ghi là “Hạ Liên Cư đại sĩ”, Hoàng lão cư sĩ gạch bỏ chữ “đại sĩ”, đổi thành “cư sĩ”. Đúng lắm, chánh xác! Vì sao? Con người đối đãi với nhau cuồng vọng quá lố! Để chữa trị cuồng vọng thì làm như thế nào? Khiêm hư. Chúng ta phải nêu gương cho người khác thấy, đó là chánh xác. Chúng sanh vô tri, tưởng như vậy là cung kính, chẳng biết cung kính quá lố sẽ có hại, sẽ gây tác dụng phản diện! Chúng ta phải uốn nắn, sửa đổi, đó là lòng từ bi.
Hiện thời, chúng ta thấy trong Phật môn, hiện nay ngay cả ở ngoại quốc cũng giống như thế. Lần này tôi thấy ở Hương Cảng, mà Tân Gia Ba cũng là như thế, Phật môn làm những chuyện gì? Tổ chức các hoạt động Phật giáo, nói theo xu hướng thời thượng sẽ là “show Phật giáo”, muốn làm những chuyện như vậy, muốn tạo cảnh tượng quy mô, rầm rộ, muốn biểu diễn đông đến mấy ngàn vạn người, pháp sư lên sân khấu biểu diễn, còn thành ra trò trống chi nữa! Phương pháp đối trị của chúng tôi là lần này sang ngoại quốc, chúng tôi chẳng mặc áo vàng mà mặc áo lam, người khác nhìn chẳng ra. Tôi đi một mình, chẳng dẫn theo ai hết. Quý vị hễ đi bèn dẫn theo cả một đống người, khiến người ta phải dồn mắt nhìn vào, tôi đi một mình. Mặc quần áo cùng màu sắc với người Đại Lục, nhưng người ta đối xử với tôi cũng rất khách sáo, cũng rất cung kính, cũng tiếp đãi rất lễ độ.
Hoàng lão cư sĩ nói rất hay: “Người học Phật phải chú trọng thực chất, đừng chú trọng hình tướng”. Hình tướng là diện mạo bên ngoài, sự biểu lộ bên ngoài là hình tướng, chẳng cần phải coi trọng! Hãy nên coi trọng thực tế. Đồng tu thật sự thì trọng tinh ròng, chẳng coi trọng đông đúc. Đông lúc nhúc mà chẳng thể thành tựu, có tác dụng gì hay không? Ít người mà ai nấy đều có thành tựu. Mười người cùng tu với nhau, trong tương lai, mười người đều vãng sanh, tức là mười vị Phật xuất thế, tuyệt vời! Chúng ta nhất định phải hiểu rõ điều này.
(Sao) Vị đắc bất thoái giả, đản sanh bỉ quốc, phàm sở vị đắc, cánh bất thoái chuyển, trở kỳ tiền tấn cố.
(鈔)未得不退者,但生彼國,凡所未得,更不退轉,阻其前進故。
(Sao: “Chưa đắc bất thoái” là chỉ sanh về cõi kia, phàm đối với những gì chưa đắc sẽ chẳng thoái chuyển, chẳng ngăn trở người ấy tiến lên).
Hai loại Bất Thoái trên đây dễ hiểu, loại này là chưa đắc. Chưa đắc thì làm sao có thể bất thoái? Chúng ta xem chú giải.
(Diễn) Vị đắc bất thoái giả, phàm sở vị đắc chi thần thông, tam-muội đẳng.
(演)未得不退者,凡所未得之神通三昧等。
(Diễn: “Chưa đắc bất thoái”: Phàm là những thứ chưa đắc như thần thông, tam-muội v.v…).
Trong phần trước là đã đắc thần thông, tam-muội, tôi đã thưa cùng chư vị: Hễ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, sẽ đắc gần như là Thất Địa Bồ Tát, từ Thất Địa trở lên, đắc thần thông, tam-muội của những vị Bồ Tát thuộc Thất Địa, Bát Địa, Cửu Địa. “Chưa đắc” là vẫn chưa đạt được thần thông, tam-muội rốt ráo viên mãn nơi quả địa Như Lai. Nếu đã đạt được, cần gì phải cầu vãng sanh? Chẳng cần cầu vãng sanh! Đẳng Giác Bồ Tát cầu vãng sanh là do còn có điều chưa đắc, chư vị phải hiểu rõ điều này.
(Diễn) Chủng chủng công đức.
(演) 種種功德。
(Diễn: Các thứ công đức).
Chính là công đức viên mãn rốt ráo nơi quả địa Như Lai tuy chưa đạt được, nhưng ở trong Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn chẳng bị thoái chuyển, chúng ta sẽ dần dần chứng đắc. Cũng có thể nói là tu hành trong thế giới Tây Phương chẳng có chướng ngại, quý vị quyết định sẽ đạt được.
(Diễn) Cánh vô trở trệ, nhậm vận năng đắc, bất đồng thử độ, ma chướng hiện tiền, bất năng tiền tấn cố.
(演)更無阻滯,任運能得,不同此土,魔障現前,不能前進故。
(Diễn: Chẳng bị ngăn trở, trì trệ, tùy ý có thể đạt được, chẳng giống như cõi này ma chướng hiện tiền, chẳng thể tiến cao hơn).
Chẳng giống thế gian này, trong thế gian này, chúng ta chưa đắc, quý vị mong cầu thì sao? Chướng ngại quá nhiều, có ma chướng, có nghiệp chướng, chướng ngại quý vị, quý vị mong mỏi nhưng chẳng đạt được.
Nói thật thà, người tu hành hiện thời, xuất gia chẳng bằng tại gia! Người xuất gia nghe lời này sẽ rất bực bội, dường như tôi nói quá đáng, tâng bốc người tại gia. Trước đây, người xuất gia có hoàn cảnh tốt đẹp hơn người tại gia, nay thì hoàn cảnh của người xuất gia chẳng bằng kẻ tại gia, nguyên nhân là ở chỗ nào? Đạo tràng hiện thời có bản chất khác với trước kia. Đạo tràng xưa kia chẳng dựa vào tín đồ. Đạo tràng ở Đại Lục tự mình có núi non, ruộng nương, cho nông dân thuê cày cấy để thu tô, dùng hoa lợi ấy để có cái ăn, cái tiêu, nuôi sống đại chúng. Vì thế, cuộc sống của họ kham khổ một chút, nhưng chẳng phải cầu cạnh ai. Không cầu cạnh kẻ khác, sẽ chẳng phải dòm chừng vẻ mặt của tín đồ, tự mình có thể nghiêm túc tu tập.
Đạo tràng hiện thời chẳng có tài sản, phải trông cậy tín đồ. Phải trông cậy tín đồ thì cũng chẳng dám trái ý tín đồ, phải thường bợ đỡ tín đồ, tâm tư khó chịu lắm! Quý vị tại gia tu hành, ứng phó nhiều nhất là người nhà, họ hàng, quyến thuộc của chính mình. Người nhà, thân thích, quyến thuộc năm sáu mươi người là đông lắm rồi! Quý vị ở trong đạo tràng, chùa càng to, tín đồ càng đông, quý vị phải ứng phó mấy trăm người, mấy ngàn người, mấy vạn người, khổ chết luôn! Đó đều là chướng ngại, là nguyên nhân khiến chẳng thể thành tựu.
Có rất nhiều người phát tâm xuất gia, vì sao quý vị muốn xuất gia? Quý vị xuất gia để làm gì? Quý vị ở nhà cảm thấy khổ sở, sau khi xuất gia sẽ cảm thấy khổ hơn, sẽ hối hận. Bản thân chúng ta phải nhận biết rõ ràng hoàn cảnh hiện thời khác với hoàn cảnh xưa kia, thật sự tự mình muốn tìm một chỗ để sống yên ổn thì hiện thời là đời loạn, nói thật thà thì sẽ tìm chẳng ra! Đến đâu để tìm đây? Phải có đại phước báo, hãy xem bản thân chúng ta có giống như người có phước hay chăng? Có phước báo to ngần ấy hay không? Chẳng có phước báo ấy thì có nơi chốn ấy, quý vị ở nơi đó cũng ở không được! Phước địa phước nhân cư, ta chẳng có phước, không thể ở yên nơi đó được! Do vậy có thể biết, để sống yên thân thì phải tu phước tu huệ. Có phước có huệ, nơi nào cũng đều là đạo tràng, nơi nào cũng là nơi tốt đẹp. Nếu nói theo Phong Thủy thì chỗ nào cũng đều có Phong Thủy tốt đẹp, ngày nào cũng là ngày tốt lành, giờ nào cũng là giờ tốt, có phước có huệ mà! Đấy mới là trọng yếu.
Đây là nói rõ về người chưa bất thoái, “đản sanh bỉ quốc, phàm sở vị đắc, cánh bất thoái chuyển, trở kỳ tiền tấn cố” (chỉ sanh về cõi ấy, phàm những gì chưa đắc đều chẳng có gì thoái chuyển, ngăn trở người ấy tiến lên). Tiếp theo đây còn có một đoạn nữa, nhưng nay đã hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này!
Tập 205
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm lẻ tám:
(Sao) Hựu Di Lặc Vấn Kinh vân: “Tự phần kiên cố danh bất thoái, thắng tấn bất hoại danh bất chuyển”. Kim dĩ “Đại Thừa, dĩ đắc, vị đắc” tam nghĩa tham chi, tắc tiền nhị đồng hồ tự phần, hậu nhất đồng hồ thắng tấn dã.
(鈔)又彌勒問經云:自分堅固名不退,勝進不壞名不轉。今以大乘已得未得三義參之,則前二同乎自分,後一同乎勝進也。
(Sao: Lại nữa, kinh Di Lặc Sở Vấn có nói: “Tự phần kiên cố thì gọi là bất thoái, thắng tấn bất hoại gọi là bất chuyển”. Nay dùng [đoạn kinh văn trên đây] để xét ba nghĩa “Đại Thừa, đã đắc, chưa đắc” thì hai nghĩa trước giống như tự phần, một nghĩa sau giống như thắng tấn).
Phối hợp với ý nghĩa bất thoái và bất chuyển trong kinh Di Lặc Sở Vấn[71], Đại Thừa bất thoái và “đã đắc bất thoái” trong phần trước tương đương với kiên cố bất thoái trong kinh Di Lặc Sở Vấn, “chưa đắc bất thoái” tương đương với thắng tấn bất thoái.
(Sớ) Hựu đồng danh bất thoái, nhi hữu thiển thâm, như Khởi Tín, Diệu Tông, cập Từ Chiếu sở thuyết đẳng.
(疏)又同名不退,而有淺深,如起信、妙宗及慈照所說等。
(Sớ: Lại nữa, tuy cùng gọi là bất thoái, nhưng mức độ có cạn hay sâu như các thuyết được nói trong Khởi Tín Luận, Diệu Tông Sao và thuyết của pháp sư Từ Chiếu).
Tuy nói là bất thoái chuyển, nhưng quả thật là có cạn hay sâu sai khác. Ở đây, nêu ra mấy thí dụ, như [những nghĩa bất thoái] được nói trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Diệu Tông Sao và thuyết của pháp sư Từ Chiếu.
(Sao) Khởi Tín Luận vân: “Sanh bỉ quốc giả, thường kiến Phật cố, chung đắc bất thoái”.
(鈔)起信論云:生彼國者,常見佛故,終得不退。
(Sao: Khởi Tín Luận nói: “Người sanh trong cõi ấy, do thường thấy Phật nên trọn được bất thoái”).
Ba câu này là nguyên văn trong Khởi Tín Luận. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, do chẳng lìa A Di Đà Phật, A Di Đà Phật thường ở cạnh chúng ta. Có Phật chiếu cố thì đương nhiên chẳng bị thoái chuyển.
(Sao) Sớ minh bất thoái hữu tam vị.
(鈔)疏明不退有三位。
(Sao: Sớ giải [Khởi Tín Luận] nói bất thoái có ba địa vị).
“Sớ” (疏) là chú giải, trong phần chú giải của Khởi Tín Luận có nói [điều này].
(Sao) Nhất giả tín hạnh vị bị, vị đắc bất thoái, dĩ vô thoái duyên, danh bất thoái.
(鈔)一者信行未備,未得不退,以無退緣,名不退。
(Sao: Một là tín và hạnh chưa đầy đủ, chưa đạt được bất thoái, do chẳng có duyên thoái chuyển, nên gọi là bất thoái).
Nói tới thứ tự sâu cạn khác nhau. Như bọn lục đạo phàm phu chúng ta cầu vãng sanh, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, xác thực là tín, hạnh chưa đầy đủ. Tín và hạnh chưa đầy đủ, cớ sao có thể vãng sanh? Vãng sanh nhất định phải trọn đủ ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh thì mới có thể vãng sanh. Dẫu là hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, ắt cũng cần phải trọn đủ các điều kiện ấy. Tuy có Tín, Nguyện, Hạnh, nhưng chưa hoàn toàn đạt đến một mức độ kiên cố nhất định, nên gọi là “vị bị” (未備: chưa đầy đủ). Vì sao chưa đạt tới? Vì đối với hai công phu đoạn Hoặc và chứng Chân (chứng Chân là kiến tánh), chúng ta đều chưa thể đạt tới tiêu chuẩn. Ví như trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, kẻ có trình độ giống như chúng ta vãng sanh, một phẩm phiền não cũng chẳng đoạn, một phần bản tánh cũng chẳng chứng đắc, nên gọi là “tín và hạnh chưa đầy đủ”. Nếu trong thế gian này, hiện thời ba món tư lương Tín, Nguyện, Hạnh đầy đủ, vãng sanh sẽ chẳng thành vấn đề, nhưng sau hai ba năm liền ngã lòng. Có thể thấy là tín tâm của chúng ta có thật sự thanh tịnh kiên cố hay không, chính mình cũng không dám bảo đảm! Bao nhiêu người niệm Phật đến lúc lâm chung bèn thoái chuyển, chẳng muốn về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chúng tôi thấy [các trường hợp như vậy] rất ư là nhiều. Vì vậy, đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, do công phu chẳng đạt tới một trình độ nhất định, vẫn có thể bị thoái chuyển, nhưng vì Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng có duyên gây thoái chuyển, nên quý vị chẳng có chỗ nào lui sụt, sẽ chẳng bị ngã lòng. Đấy là sự thù thắng nơi hoàn cảnh bên cõi ấy. “Duyên” (緣) là nói tới hoàn cảnh nhân sự và hoàn cảnh vật chất, đều có thể giúp quý vị tu trì tinh tấn, chẳng bị thoái chuyển. Đây là nói theo phương diện nông cạn.
(Sao) Nhị giả, Tín vị mãn, nhập Thập Trụ, đắc thiểu phần Pháp Thân, danh bất thoái.
(鈔)二者信位滿,入十住,得少分法身,名不退。
(Sao: Hai là đã viên mãn địa vị Thập Tín, bước vào Thập Trụ, đắc chút phần Pháp Thân, bèn gọi là bất thoái).
Thế giới Tây Phương là Đại Thừa, chẳng phải là pháp Tiểu Thừa. Không chỉ là Đại Thừa, mà còn là Viên Giáo Đại Thừa, chẳng phải là Biệt Giáo Đại Thừa. Viên mãn tâm Thập Tín trong Viên Giáo Đại Thừa, chứng tỏ là Tín và Hạnh đã đầy đủ, có thể thấy là đã thuộc vào trình độ “Tín và Hạnh đầy đủ”. Không chỉ là đã đoạn Kiến Tư phiền não, mà Trần Sa và Vô Minh cũng phá, lại còn phá một phẩm vô minh, thấy một phần chân tánh. Đó là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Viên mãn tâm Thập Tín, chứng nhập Sơ Trụ. Thập Trụ là từ Sơ Trụ đến Thập Trụ, có địa vị như thế. Trong bốn mươi mốt phẩm vô minh, người ấy chỉ phá một phẩm, nên chỉ thấy một phần Pháp Thân, “đắc thiểu phần Pháp Thân, danh Bất Thoái” (đắc chút phần Pháp Thân, gọi là Bất Thoái). Xác thực là ba món bất thoái, tức Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái, và Niệm Bất Thoái. Nhưng nếu so sánh với các địa vị Bồ Tát sâu hơn, người thuộc địa vị này vẫn là rất cạn, chứng đắc chẳng đủ sâu. Đây là nói tới các vị Bồ Tát thuộc Tam Hiền, tức Thập Trụ, Thập Hạnh, và Thập Hồi Hướng, thuộc các địa vị này!
(Sao) Tam giả Hiền vị mãn, nhập Sơ Địa dĩ khứ, chứng biến
mãn Pháp Thân, danh bất thoái.
(鈔)三者賢位滿,入初地以去,證遍滿法身,名不退。
(Sao: Ba là viên mãn địa vị Tam Hiền, đã nhập từ Sơ Địa trở lên, chứng Pháp Thân trọn khắp, gọi là Bất Thoái).
Cảnh giới này cao lắm, công phu đã sâu, càng ngày càng gần với quả địa Như Lai. Viên mãn các địa vị thuộc Tam Hiền, [tức là đã chứng nhập các địa vị thuộc] Thập Trụ, Thập Hạnh, và Thập Hồi Hướng. Viên mãn Thập Hồi Hướng bèn dự vào Sơ Địa, được gọi là “thánh nhân”. Chúng ta thường niệm Bồ Tát Ma Ha Tát, vị này thuộc hàng Ma Ha Tát. Ma Ha Tát (Mahāsattva) là đại Bồ Tát. Từ Sơ Địa trở lên mới có thể gọi là Ma Ha Tát. “Chứng biến mãn Pháp Thân” (Chứng Pháp Thân trọn khắp): Khác hẳn người chứng chút phần Pháp Thân trong phần trên, vị này thật sự bất thoái.
(Sao) Hựu Diệu Tông Sao vân: “Bất thoái hữu tam. Nhược phá Kiến Tư, danh Vị Bất Thoái, tắc vĩnh bất thất siêu phàm chi vị”.
(鈔)又妙宗鈔云:不退有三,若破見思,名位不退,則永不失超凡之位。
(Sao: Sách Diệu Tông Sao lại nói: “Bất thoái có ba loại. Nếu đã phá Kiến Tư thì gọi là Vị Bất Thoái, vĩnh viễn chẳng đánh mất địa vị vượt thoát phàm phu”).
Tông Thiên Thai nói phiền não có tất cả là ba loại lớn. Loại thứ nhất là Kiến Tư phiền não. Kiến Hoặc (見惑) là kiến giải sai lầm, nay chúng ta nói đến vũ trụ quan và nhân sinh quan thì “quan” (觀) là kiến giải. Vũ trụ quan và nhân sinh quan đều sai lầm, đó chính là Kiến Hoặc. Tư Hoặc (思惑) là sai lầm nơi tư tưởng, quý vị suy nghĩ lẫn khởi tâm động niệm đều sai lầm. Đức Phật quy nạp Kiến Tư phiền não thành mười loại lớn. Sai lầm về kiến giải bao gồm Thân Kiến, Biên Kiến, Kiến Thủ Kiến, Giới Thủ Kiến, và Tà Kiến, chia thành năm loại lớn ấy. Năm loại lớn này chẳng vượt ngoài nhân sinh quan và vũ trụ quan như chúng ta vừa mới nhắc tới. Nói nhân sinh quan và vũ trụ quan là nói theo kiểu hiện thời. Tư tưởng sai lầm cũng có năm loại lớn là tham, sân, si, mạn, nghi, tức là tâm tham lam, nóng giận, ngu si, ngạo mạn, hoài nghi. “Hoài nghi” là hoài nghi thánh giáo, hoài nghi những điều Phật, Bồ Tát đã giảng, hoài nghi những lời dạy của cổ thánh tiên hiền. Nói theo cách hiện thời là “nẩy sanh hoài nghi đối với truyền thống”.
Truyền thống có thể bị hoài nghi, [bởi lẽ], đạo thống (giềng mối đạo học) của Trung Hoa, truyền thống Đại Thừa Phật pháp và các truyền thống học thuật tôn giáo khác trong thế gian chẳng giống nhau. Nếu coi Đại Thừa Phật pháp và đạo thống của Khổng Mạnh cùng Đạo gia Trung Hoa [cũng bình thường] giống y hệt như các truyền thống học thuật và tư tưởng của quốc gia dân tộc khác, vấn đề này sẽ to lớn. [Nghi ngờ truyền thống] chính là Nghi trong Tư Hoặc. Dùng danh từ Phật pháp để nói thì Nho, Phật, Lão Trang là “hữu tu, hữu chứng”, tuyệt đối chẳng phải là cảnh giới của kẻ bình phàm. Chiếu theo những giáo huấn ấy để hành, chẳng hoài nghi, chắc chắn là quý vị có thể đạt được lợi ích, há nên hoài nghi? Chúng ta phải nhận thức rõ ràng điều này. Hiện thời, thế giới động loạn, chúng sanh khổ sở như vậy; nói thật thà, gốc bệnh căn bản là do nghi. Vì hoài nghi nên mới vứt bỏ truyền thống, coi truyền thống là chướng ngại cho sự tiến bộ, [cứ khăng khăng cho rằng phải] vứt bỏ truyền thống thì văn hóa mới có thể tiến lên được! Chúng ta nghe nói kiểu đó, dường như cũng hết sức có lý; thật ra, trong đó có rất nhiều vấn đề. Nho gia nói “nhật tân hựu tân” (mỗi ngày một mới hơn), nhà Phật nói “tinh tấn”. Thử hỏi “nhật tân hựu tân” và tinh tấn có lạc hậu hay chăng? Có thể gây ra chướng ngại hay chăng? Nếu chướng ngại văn hóa tiến cao hơn, sẽ không thể gọi là tiến bộ! Tiến bộ trong Phật pháp không chỉ là phải tiến cao hơn, mà còn phải là tiến bộ tinh thuần. Nho gia nói: “Cẩu nhật tân, nhật nhật tân”, [nghĩa là] mỗi ngày lại càng mới mẻ hơn, mỗi ngày đều mong cầu tiến bộ. Khá nhiều kẻ nẩy sanh hiểu lầm đối với truyền thống, chẳng nghiêm túc nghiên cứu. Không chỉ là chẳng nghiên cứu nghiêm túc, thậm chí là về căn bản, có lắm kẻ chẳng hề đọc tụng, người khác bảo sao bèn hùa theo làm vậy, tạo thành dư luận hết sức đáng sợ!
Nếu phá Kiến Tư phiền não, sẽ chứng đắc Vị Bất Thoái. Thật đó! Đấy là địa vị thánh nhân, tuyệt đối chẳng còn đọa lạc thành phàm phu nữa. Đó là giới hạn [của địa vị này]. Trong kinh, đức Phật thường nói “phàm phu thành Phật phải tu hành ba đại A-tăng-kỳ kiếp” chính là tính từ Vị Bất Thoái. Nếu chưa chứng đến quả vị ấy, chẳng thể nào tính được! Có thể nói là chúng ta từ vô thỉ kiếp tới nay, đời đời kiếp kiếp cũng đều tu hành, nhưng chưa có lần nào chứng đắc quả vị ấy, quả vị ấy là quả vị gì? Là Tiểu Thừa Sơ Quả, hoặc là Sơ Tín trong Viên Giáo, giống như lớp Một của bậc Tiểu Học. Cũng có nghĩa là [bọn chúng ta] đời đời kiếp kiếp đều học Mẫu Giáo, trước nay chưa hề học lớp Một của bậc Tiểu Học. Quý vị nói xem có hỏng bét hay không? Vì lẽ đó, thứ gì cũng đều chẳng tính được! Tu hành từ vô lượng kiếp cho tới nay, cũng đã từng cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, nhưng cho tới nay, vẫn chưa chứng đắc Sơ Quả. Nếu chứng đắc Sơ Quả, chắc chắn quý vị là thánh nhân, sẽ chẳng đọa lạc thành phàm phu. Tuy chưa thoát khỏi tam giới, nhưng trong nhân gian và cõi trời, chắc chắn quý vị chẳng đọa trong ba ác đạo. Nói cách khác, chắc chắn là quý vị sẽ chẳng tạo nghiệp nhân của ba ác đạo, thiện căn sâu dầy. Do có thiện căn, có phước đức, người ấy sẽ chẳng thể tạo tội nghiệp ba ác đạo, cũng chẳng đọa trong ba ác đạo; mức độ thấp nhất là nhân đạo, tối đa là đọa lạc trong nhân đạo, chẳng thể sanh trong ba ác đạo. Địa vị này gọi là Vị Bất Thoái, “vĩnh bất thất siêu phàm chi vị” (vĩnh viễn chẳng đánh mất địa vị vượt trỗi phàm phu). Nếu xét theo Tiểu Thừa, sẽ là Sơ Quả, còn trong Viên Giáo thì là địa vị Sơ Tín Bồ Tát; đấy là một loại.
(Sao) Phục đoạn Trần Sa, danh Hạnh Bất Thoái, tắc vĩnh bất thất Bồ Tát chi hạnh.
(鈔)伏斷塵沙,名行不退,則永不失菩薩之行。
(Sao: Lại đoạn Trần Sa thì gọi là Hạnh Bất Thoái, vĩnh viễn chẳng đánh mất Bồ Tát hạnh).
Địa vị này sâu hơn địa vị trước. Địa vị trước đoạn Kiến Tư, tức là từ Sơ Quả cho đến A La Hán hoặc Bích Chi Phật trong Tiểu Thừa đều thuộc địa vị này, thảy đều là Vị Bất Thoái. Nếu phá Trần Sa Hoặc, sẽ là địa vị Bồ Tát, tuyệt đối chẳng còn thoái đọa thành Tiểu Thừa, đó là Hạnh Bất Thoái.
(Sao) Nhược phá Vô Minh, danh Niệm Bất Thoái, tắc vĩnh bất thất Trung Đạo chánh niệm.
(鈔)若破無明,名念不退,則永不失中道正念。
(Sao: Nếu phá Vô Minh thì gọi là Niệm Bất Thoái, vĩnh viễn chẳng mất chánh niệm Trung Đạo).
“Phá vô minh” tức là Bồ Tát minh tâm kiến tánh, phá một phẩm vô minh, thấy một phần bản tánh. Khi ấy, niệm niệm đều hướng đến Vô Thượng Bồ Đề, niệm niệm hướng đến Phật quả viên mãn, sẽ chẳng bị thoái đọa, đó là Niệm Bất Thoái. Đấy là ba loại Bất Thoái.
Điều này cho thấy, xác thực là Bất Thoái có cạn hay sâu khác biệt. Ví như Vị Bất Thoái, nói theo Tiểu Thừa thì Sơ Quả, Nhị Quả Hướng, Nhị Quả, Tam Quả Hướng, Tam Quả, Tứ Quả Hướng, Tứ Quả (A La Hán), hoặc Bích Chi Phật, có lắm địa vị ngần ấy. Địa vị của Bồ Tát càng nhiều hơn. Nói theo Biệt Giáo, Tam Hiền có ba mươi địa vị, Thập Thánh cộng với Đẳng Giác thành mười một địa vị; đó là Niệm Bất Thoái.
(Sao) Hựu Từ Chiếu Tông Chủ Tứ Độ Đồ Thuyết, dĩ vị đoạn phiền não, sanh Đồng Cư độ, vi Nguyện Bất Thoái.
(鈔)又慈照宗主,四土圖說,以未斷煩惱,生同居土,為願不退。
(Sao: Trong bộ Tứ Độ Đồ Thuyết, Từ Chiếu Tông Chủ lại coi đoạn phiền não, sanh vào cõi Đồng Cư là Nguyện Bất Thoái).
Từ Chiếu đại sư[72] là một vị đại đức trong Tịnh Tông. Ngài hoàn toàn căn cứ trên bốn cõi, ba bậc, chín phẩm đã nói trong kinh để luận định Bất Thoái Chuyển. “Vị đoạn phiền não, sanh Đồng Cư độ” (Chưa đoạn phiền não, sanh vào cõi Đồng Cư), chữ “phiền não” chỉ Kiến Tư phiền não. Chưa đoạn Kiến Tư phiền não, giống như cảnh giới của chúng ta trong hiện tại. Chưa đoạn phiền não, làm sao có thể vãng sanh? Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã nói: “Có thể vãng sanh hay không là do có tín nguyện hay không?” Chúng ta có tín tâm kiên định, có đại nguyện rất sâu, cầu sanh Tịnh Độ, nhất định có thể vãng sanh. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, phẩm vị cao hay thấp là do công phu niệm Phật của chúng ta sâu hay cạn. Công phu sâu hay cạn chính là đoạn phiền não sâu hay cạn. Quý vị niệm đến mức đoạn sạch Kiến Tư phiền não, bèn sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư. Niệm đến mức Lý nhất tâm bất loạn, phá một phẩm vô minh, sẽ sanh trong cõi Thật Báo. Đó là công phu niệm Phật sâu hay cạn. Vì thế, có thể vãng sanh hay không, được quyết định bởi tín nguyện có hay không!
Tín nguyện ấy, nói thật ra, chẳng phải là tín nguyện bình phàm, mà thường gọi là “chân tín, thiết nguyện”. Chân tín: Chỉ tin pháp môn này, những phương pháp tu học của các pháp môn khác thảy đều buông xuống thì quý vị mới được coi là chân tín. Quyết định chẳng thể nói: Ta ngã bệnh bèn vội vàng lễ bái Dược Sư Như Lai, nghĩ A Di Đà Phật chẳng thể quản chuyện này! Hễ có tai nạn, bèn vội vã cầu Quán Âm Bồ Tát. Sợ niệm kinh Vô Lượng Thọ hoặc kinh Di Đà vẫn chưa đủ, vẫn phải niệm phẩm Phổ Môn, niệm kinh Kim Cang, thậm chí còn niệm chú Lăng Nghiêm, còn lạy Đại Bi Sám, Thủy Sám, Lương Hoàng Sám, phải làm những chuyện ấy. Đó gọi là chẳng tin! Nhất tâm cầu sanh Tịnh Độ; hễ còn cầu phát tài, còn cầu lên chức, còn cầu con cái, tức là nguyện chẳng thiết tha, nguyện ấy giả trất! Nguyện chân thật thì thế gian lẫn xuất thế gian thứ gì cũng đều buông xuống, chỉ có một nguyện vọng là “cầu sanh Tịnh Độ, thấy A Di Đà Phật”, như vậy thì mới có thể thật sự vãng sanh. Vì thế, người niệm Phật rất nhiều, chúng ta thấy người có Tín, Hạnh, Nguyện rất nhiều, người thật sự vãng sanh chẳng mấy, do nguyên nhân nào? Tín và nguyện của họ chẳng chân thật, lúc có, lúc không! Quý vị nói họ chẳng có, họ có. Quý vị nói họ có, thì trong đó xen tạp chẳng ít thứ, chẳng thuần, chẳng tịnh, chướng ngại họ vãng sanh, chúng ta nhất định phải biết điều này. Sanh vào cõi Đồng Cư, họ có thể bất thoái, nói thật ra là do nguyện lực duy trì, do bổn nguyện của chính mình và đại nguyện của A Di Đà Phật gia trì. Từ phần bốn mươi tám đại nguyện trong Đại Kinh, chúng ta đã từng đọc thấy chuyện này.
(Sao) Phá Kiến Tư, sanh Phương Tiện Độ, vi Hạnh Bất Thoái.
(鈔)破見思,生方便土,為行不退。
(Sao: Phá Kiến Tư, sanh trong cõi Phương Tiện là Hạnh Bất Thoái).
Điều này dễ hiểu, nói giống như Diệu Tông Sao. Trong Tịnh Tông, đoạn Kiến Tư phiền não được gọi là Sự nhất tâm bất loạn. Công phu niệm Phật niệm đến mức Sự nhất tâm bất loạn, sanh trong cõi Phương Tiện, quyết định chẳng thoái chuyển xuống địa vị Nhị Thừa. Nói thật ra, Tây Phương Cực Lạc thế giới thuần túy là Viên Giáo Đại Thừa, quyết định chẳng có thoái chuyển.
(Sao) Phá Trần Sa, phần phá Vô Minh, sanh Thật Báo độ, vi Trí Bất Thoái.
(鈔)破塵沙,分破無明,生實報土,為智不退。
(Sao: Phá Trần Sa, phá một phần Vô Minh, sanh vào cõi Thật Báo, thì là Trí Bất Thoái).
Đây là Lý nhất tâm bất loạn, phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới là cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Đó là Trí, vì sao? Chỉ có trí thì mới có thể phá Trần Sa Hoặc, mới có thể phá vô minh. Không giống như trong phần trên; Sự nhất tâm trong phần trên là Định. Niệm Phật tam-muội có thể đạt tới Sự nhất tâm, không thể đạt tới Lý nhất tâm, Lý nhất tâm nhất định phải khai trí huệ. Chúng ta thường nói “do Giới sanh Định”. Đối với người niệm Phật trong Tịnh Độ Tông, Giới là gì? Tất cả hết thảy đều buông xuống, nương theo một bộ kinh, một danh hiệu, đó là Giới. Do điều này, quý vị mới có thể đắc Định, Định là Sự nhất tâm, Giới là công phu thành phiến, quyết định chuyên nhất. Trong kinh này có nói “phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm”, luôn luôn chuyên niệm, tâm quý vị bèn thanh tịnh, công phu thành phiến. Từ công phu thành phiến đạt đến Sự nhất tâm bất loạn, đắc Định, thành tựu Niệm Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội lại khai trí huệ, trí huệ ấy bèn phá vô minh, chứng Pháp Thân. Do vậy, ở đây, gọi [chuyện này] là Trí Bất Thoái.
(Sao) Phá Tam Hoặc tận, sanh Tịch Quang độ, vi Vị Bất Thoái.
(鈔)破三惑盡,生寂光土,為位不退。
(Sao: Phá sạch Tam Hoặc, sanh vào cõi Tịch Quang là Vị Bất Thoái).
Địa vị được nói trong phần trước giống như các địa vị được nói trong Diệu Tông Sao, chính là Sơ Quả trong Tiểu Thừa, hoặc Sơ Tín trong Viên Giáo. Vị Bất Thoái như đang nói ở đây là địa vị Phật, thành Phật thì sẽ tuyệt đối chẳng lui sụt thành Bồ Tát. Do đó, địa vị này hoàn toàn chẳng giống các địa vị trong phần trước.
(Sao) Tắc bất thoái danh đồng, nhi thiển thâm tự biệt, như cửu phẩm nghĩa.
(鈔)則不退名同,而淺深自別,如九品義。
(Sao: Do vậy, tuy cùng gọi là Bất Thoái, nhưng cạn hay sâu tự sai khác, giống như ý nghĩa chín phẩm vậy).
Bốn cõi, ba bậc, chín phẩm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là ba loại Bất Thoái, nhưng công phu và trí huệ trong các loại Bất Thoái đều có cạn hay sâu khác biệt.
(Sớ) Hựu tứ giáo bất thoái, phi kim kinh nghĩa.
(疏)又四教不退,非今經義。
(Sớ: Lại nữa, bất thoái hiểu theo tứ giáo chẳng phải là ý nghĩa [của bất thoái] trong kinh này).
Tứ Giáo là Tạng, Thông, Biệt, Viên được nói trong tông Thiên Thai. Thiên Thai đại sư là Trí Giả đại sư. Đối với Tạng, Thông, Biệt, Viên, Ngài đều nói đến bất thoái, nhưng đấy chẳng phải là ý nghĩa trong kinh này. Do đó, trong phần kế tiếp bèn nói đại lược. Điều này thuộc loại Phật học thường thức.
(Sao) Tứ giáo các minh bất thoái, vị Tạng Giáo biệt tướng niệm bất thoái, Thông Giáo tánh địa bất thoái, Biệt Giáo Thất Trụ bất thoái, Viên Giáo Thất Tín bất thoái. Tắc tri tự thử dĩ tiền, tấn thoái vị định. Kim niệm Phật giả, đản sanh bỉ quốc, tuy ác nhân, súc sanh, tức đắc bất thoái, khởi bất thắng diệu trực tiệp, dị hồ chư giáo.
(鈔)四教各明不退,謂藏教別相念不退,通教性地不退,別教七住不退,圓教七信不退。則知自此以前,進退未定。今念佛者,但生彼國,雖惡人畜生,即得不退。豈不勝妙直捷,異乎諸教。
(Sao: Mỗi giáo trong bốn giáo đều nói đến bất thoái, nghĩa là: Trong Tạng Giáo, đắc biệt tướng niệm là bất thoái; trong Thông Giáo, tánh địa (địa vị đã kiến tánh) là bất thoái; trong Biệt Giáo, bậc đã đắc Thất Trụ bèn bất thoái; trong Viên Giáo bậc Thất Tín bèn bất thoái. Do đó biết, trước khi đạt đến những địa vị ấy, sẽ là tấn thoái không nhất định. Nay người niệm Phật, chỉ cần sanh về cõi kia, dẫu là kẻ ác hay súc sanh liền đắc bất thoái. Há chẳng phải là thù thắng, nhiệm mầu, thẳng thừng, nhanh chóng, khác với các giáo ư?)
Trong Diễn Nghĩa có giải thích về bất thoái trong tứ giáo, nếu chư vị muốn biết nhiều hơn, hãy xem trong Thiên Thai Tứ Giáo Nghi. Nếu đơn giản hơn một chút thì trong Giáo Thừa Pháp Số có đồ biểu, quý vị xem kỹ một lượt sẽ có thể liễu giải. Ở đây, tôi phải đặc biệt nhắc nhở: Vì sao những điều đã nói trong Thiên Thai Tứ Giáo chẳng phải là giáo nghĩa của kinh này? Kinh này hết sức đặc thù, ở đây, Liên Trì đại sư cũng nói sơ lược: “Đản sanh bỉ quốc, tuy ác nhân, súc sanh” (Chỉ sanh về cõi ấy, tuy là kẻ ác, hay súc sanh). Trong Vãng Sanh Truyện, nổi tiếng nhất là Trương Thiện Hòa đời Đường, suốt đời giết trâu, ông ta là một người đồ tể, sát nghiệp rất nặng! Khi lâm chung, ông trông thấy khá nhiều người đầu trâu đến đòi mạng, chúng ta thường nói là “tướng địa ngục hiện tiền”. Ông ta thấy hiện tượng ấy liền kêu to cứu mạng, kể ra ông ta may mắn, người thế gian chúng ta nói như vậy, đương nhiên là ông ta có nhân duyên rất sâu, khéo sao có một người xuất gia đi ngang cửa, nghe trong nhà gào cứu mạng, liền bước vào xem tình hình như thế nào! Trương Thiện Hòa nói: “Tôi thấy nhiều gã đầu trâu đến đòi mạng”. Vị xuất gia ấy biết chuyện, bèn ngay lập tức đốt một bó hương đưa cho ông ta: “Ông hãy gấp niệm A Di Đà Phật, cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới”. Ông ta nghe lời ấy, tiếp nhận bó hương đó, lớn tiếng niệm A Di Đà Phật. Niệm chưa đến mười câu, bèn nói: “Chẳng thấy người đầu trâu đâu nữa, chẳng còn nữa”. Lại niệm mấy tiếng, A Di Đà Phật hiện đến, ông ta theo A Di Đà Phật vãng sanh. Đây là lúc lâm chung, tướng địa ngục hiện tiền bèn có thể chuyển nghiệp, có thể vãng sanh. Ác nhân vãng sanh đấy nhé!
Kẻ ác trong hàng xuất gia là như pháp sư Oánh Kha đời Tống. Vị xuất gia này phá giới, chẳng tuân thủ Thanh Quy, nhưng Sư là người cũng có đôi chút thiện căn, biết tương lai nhất định đọa địa ngục, xin đồng học giúp đỡ, thỉnh giáo đồng tham đạo hữu có phương pháp nào cứu Sư hay không. Đồng tham đạo hữu cho Sư một quyển Vãng Sanh Truyện. Sư đọc Vãng Sanh Truyện, đọc mỗi thiên sách bèn tự cảm động ứa lệ. Sau khi đọc xong Vãng Sanh Truyện, Sư hạ quyết tâm cầu sanh Tịnh Độ. Sư đóng chặt cửa liêu phòng để niệm A Di Đà Phật, niệm suốt ba ngày ba đêm, chẳng ăn cơm, mà cũng không uống nước, cũng chẳng ngủ nghê, liều mạng niệm, niệm cảm A Di Đà Phật hiện đến. A Di Đà Phật bảo Sư: “Ông hãy còn mười năm thọ mạng, hãy khéo tu hành trong mười năm, đến lúc lâm chung, ta lại đến tiếp dẫn ông”. Pháp sư Oánh Kha thưa: “Con căn tánh kém hèn rất nặng, chẳng thể chống lại sự dụ dỗ, mê hoặc, chẳng biết trong mười năm đó sẽ tạo bao nhiêu tội nghiệp. Con chẳng cần mười năm thọ mạng, nay con liền đi theo Ngài”. A Di Đà Phật gật đầu, đồng ý: “Được rồi! Ba ngày sau ta sẽ đến tiếp dẫn ông”. Sư đáp: “Vâng ạ!” Hai bên ước định ba ngày sau Sư sẽ vãng sanh. Sư cũng chẳng sanh bệnh, tới ngày thứ ba bèn thỉnh đại chúng trong tự viện đừng tụng niệm khóa sáng theo lối bình thường, mà hãy niệm kinh A Di Đà, niệm Phật hiệu đưa Sư đi vãng sanh. Niệm Phật hiệu còn chưa được mấy câu, Sư bảo mọi người, Sư thấy A Di Đà Phật hiện đến: “Tôi theo Ngài vãng sanh”. Đó là kẻ ác trong hàng xuất gia vãng sanh. Vì thế, kinh dạy chẳng sai, Ngũ Nghịch Thập Ác chỉ cần có thể chánh tín thì đều có thể vãng sanh. Nếu Ngũ Nghịch Thập Ác mà còn hủy báng chánh pháp, sẽ chẳng thể vãng sanh. Hủy báng là gì? Quý vị chẳng tin tưởng! Nếu tin tưởng pháp môn này, Ngũ Nghịch Thập Ác đều có thể vãng sanh.
Súc sanh vãng sanh thì trong sách Vật Do Như Thử có chép mấy trăm chuyện động vật niệm Phật vãng sanh. Gần chúng ta nhất, vào thời đầu Dân Quốc, khi pháp sư Đế Nhàn làm Trụ Trì chùa Đầu Đà, trong chùa có một con gà trống niệm Phật vãng sanh. Chúng tôi đã kể câu chuyện này rất nhiều lần, khá nhiều đồng tu đều rất thông thuộc, chuyện này chẳng giả! Súc sanh niệm Phật cũng có thể vãng sanh, tùy thuộc nó có thể gặp thiện tri thức hay không, [vị ấy] thật sự vì nó chỉ dạy, khuyên nó niệm Phật vãng sanh. Kẻ ác và súc sanh sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng viên chứng ba thứ Bất Thoái, tứ giáo của Thiên Thai chẳng thể sánh bằng! Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu là hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng viên chứng ba thứ bất thoái. Vì thế nói “khởi bất thắng diệu trực tiệp, dị hồ chư giáo” (há chẳng phải là thù thắng, nhiệm mầu, thẳng thừng, nhanh chóng, khác với các giáo). “Chư giáo” là Tạng, Thông, Biệt, Viên như tông Thiên Thai đã nói. [Bất thoái trong cõi Tịnh Độ] vượt trỗi Bất Thoái trong tứ giáo quá ư là xa!
(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh thường trụ, thị bất thoái chuyển nghĩa.
(疏)稱理,則自性常住,是不退轉義。
(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh thường trụ là ý nghĩa bất thoái chuyển).
Đoạn này hội quy tự tánh, cũng chính là “tiêu quy tự tánh” như trong Giáo Hạ thường nói. Cổ đức rát miệng buốt lòng dạy bảo chúng ta, dạy chúng ta phương pháp tu học: Nghe kinh phải tiêu quy tự tánh. Tiêu (消) là tiêu hóa, quy (歸) là trở về. Sau khi nghe phải tiêu hóa, phải viên dung, trở về tự tánh, như vậy thì thật sự nghe đạt tâm đắc, thật sự có thọ dụng. Thông thường, trong Phật môn hay nói “đã khai ngộ”, [tiêu quy tự tánh là] sau khi đã nghe bèn khai ngộ. Nhà Thiền nói “khai ngộ”, Giáo Hạ nói “đại khai viên giải” đều có nghĩa là “trở về tự tánh”, tiêu quy tự tánh. Khởi tác dụng ngay trong cuộc sống hằng ngày thì gọi là “tu hành”; tu hành phải cốt sao chuyển thức thành trí. “Chuyển thức thành trí” được hiểu như thế nào? Thức là cảm tình, Trí là lý trí. Trong cuộc sống hằng ngày, xử sự, đãi người, tiếp vật phải chuyển biến cảm tình thành lý trí, đây là điều quan trọng nhất trong tu hành. Sự hành trì của Phật, Bồ Tát là lý tánh, sự hành trì của phàm phu là cảm tình. Do cảm tình nên mới có phiền não, khổ nạn, chứ lý tánh sẽ chẳng có phiền não. Lý tánh hiển lộ trí huệ, vô lượng trí huệ, là công đức, chẳng phải là phiền não, mà cũng chẳng phải là đau khổ. Liên Trì đại sư chú giải kinh Di Đà, điểm đặc sắc lớn nhất là sau mỗi đoạn kinh văn đều nêu ra báo cáo tâm đắc của chính mình. Xứng Lý chính là tâm đắc của Liên Trì đại sư. Ngài tiêu quy tự tánh đoạn văn này như thế nào, điều ấy đáng để chúng ta học tập, hãy nên đặc biệt chú ý. Ngài chú giải như vậy, khá nhiều bản chú giải xưa nay chẳng có những đoạn như thế. Xứng Lý là xứng tánh, tiêu quy tự tánh.
Trên thực tế, “bất thoái chuyển” là “tự tánh thường trụ”. Nhìn từ góc độ này, không chỉ là người giác ngộ bất thoái chuyển, mà kẻ mê hoặc, điên đảo cũng chẳng thoái chuyển, bất quá là chính quý vị tự mê mất tự tánh. Chư Phật, Bồ Tát nói phương tiện [sự mê mất ấy] là “thoái chuyển”, thật ra thoái ở chỗ nào? Đúng như đức Phật đã nói trong kinh Hoa Nghiêm hoặc kinh Viên Giác: “Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật”, lời ấy là thật. Quý vị vốn là Phật, hiện thời quý vị có phải là Phật hay không? Chư Phật thấy quý vị vẫn là Phật, chỉ là bản thân quý vị chẳng thừa nhận chính mình là Phật, bản thân quý vị cũng chẳng có cách nào thừa nhận chính mình là Phật, vì sao? Một thân đầy phiền não, óc chứa đầy vọng niệm. Danh từ “vọng niệm” tuyệt lắm! Niệm là vọng, vọng là chẳng thật. “Chẳng thật” thì nói thật ra, nó chẳng dính dáng đến chân tánh, [bởi lẽ], trong chân tánh của quý vị chẳng có vọng niệm. Nhưng hiện thời, quý vị đang mê ở chỗ nào? Quý vị chẳng dùng chân tánh, mà dùng vọng niệm, rất đáng tiếc, hỏng là hỏng ở chỗ này! Cũng có nghĩa là quý vị dùng giả, chẳng dùng thật. Lại nói khó nghe hơn là xử sự, đãi người, tiếp vật đều dùng giả tâm, chẳng dùng chân tâm, đó là phàm phu. Chư Phật, Bồ Tát dùng chân tâm, chẳng dùng giả tâm. Nay chúng ta có chân tâm mà chẳng dùng, lại dùng vọng tâm, cho nên là phàm phu. Tuy dùng vọng tâm, chân tâm của quý vị chẳng tăng, chẳng giảm; chân tâm trọn chẳng mất đi, mà cũng chẳng bị khuyết thiếu chút nào! Do đó, Phật nhìn chúng sanh là nhìn vào chân tâm của quý vị. Chân tâm của quý vị viên mãn, nhìn từ chỗ này, đó là bất thoái chân thật.
(Sao) Thí như hư không, tự cổ cập kim, bất tằng thoái chuyển. Túng dục thoái chuyển, thoái chí hà sở?
(鈔)譬如虛空,自古及今,不曾退轉,縱欲退轉,退至何所。
(Sao: Ví như hư không, từ xưa tới nay chưa từng thoái chuyển. Dẫu muốn thoái chuyển thì thoái đến nơi đâu?)
Chân Như bản tánh chẳng tăng, chẳng giảm, quý vị lui về đâu? Chẳng lui được! Hễ mê thì có tiến, có lùi. Đã ngộ bèn chẳng có tiến, mà cũng chẳng có lùi. Xứng tánh là nhìn từ Tánh Đức viên mãn. Đó là Lý, mà cũng là Thể. Hiểu rõ đạo lý này, nhận biết bản thể, mới hiểu bất thoái vốn sẵn trọn đủ. Nếu là vốn sẵn trọn đủ, vốn có, sẽ quyết định có thể chứng đắc, chúng ta mới có thể đoạn nghi sanh tín nơi Phật pháp, tín tâm mới có thể kiến lập.
Nhị, thượng thủ.
(Kinh) Kỳ trung đa hữu Nhất Sanh Bổ Xứ, kỳ số thậm đa, phi thị toán số sở năng tri chi, đản khả dĩ vô lượng vô biên A-tăng-kỳ thuyết.
(Sớ) Thừa thượng ngôn “sanh bỉ quốc giả”, khởi duy bất thoái? Phục hữu Bổ Xứ Bồ Tát bất khả thắng kỷ, thâm khuyến cầu sanh dã.
二、上首。
(經)其中多有一生補處。其數甚多。非是算數所能知之。但可以無量無邊阿僧祇說。
(疏)承上言生彼國者,豈惟不退。復有補處菩薩不可勝紀,深勸求生也。
(Hai là [nói về bậc] thượng thủ [trong số các vị A Bệ Bạt Trí Bồ Tát].
Kinh: Trong số đó có nhiều vị là Nhất Sanh Bổ Xứ, số ấy rất nhiều, chẳng thể do tính toán để có thể biết được, chỉ có thể nói là “vô lượng vô biên A-tăng-kỳ”.
Sớ: Tiếp nối ý trong phần trên “người sanh về cõi ấy” há chỉ là chẳng thoái chuyển, mà lại còn có hàng Bổ Xứ Bồ Tát không thể kể xiết, nhằm sâu xa khuyên [người nghe] hãy nên cầu vãng sanh).
Không chỉ là vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, quý vị quyết định chẳng bị thoái chuyển. Tôi nghĩ các đồng tu đều có thể rất tin tưởng chẳng nghi lời này. Vì sao? Chúng tôi đã giảng bộ Sớ Sao này đến lần thứ ba, Yếu Giải cũng đã giảng rất nhiều lần. Chư vị cũng nghe giảng kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ rất nhiều lần. Tôi tin tưởng quý vị chẳng đến nỗi lại có nghi hoặc đối với những ý nghĩa trong kinh, xác thực là [người vãng sanh Cực Lạc] chứng trọn vẹn ba món Bất Thoái. Càng khó có là trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, hàng Bổ Xứ Bồ Tát đông đảo, đông đến nỗi quý vị chẳng có cách nào tính toán được!
(Sao) Thâm khuyến cầu sanh giả.
(鈔)深勸求生者。
(Sao: “Sâu xa khuyên hãy nên cầu sanh”).
Khuyên chúng ta hãy cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.
(Sao) Sanh giai bất thoái, dĩ siêu dư quốc.
(鈔)生皆不退,已超餘國。
(Sao: Hễ vãng sanh đều bất thoái, [điều này] đã vượt trỗi các cõi nước khác).
“Dư quốc” là các cõi nước của chư Phật. Thế giới này là cõi nước của Thích Ca Mâu Ni Phật, tức thế giới Sa Bà.
(Sao) Phục đa Bổ Xứ, khả vị siêu việt thù thắng, cực kỳ chí dã.
(鈔)復多補處,可謂超越殊勝,極其至也。
(Sao: “Lại có nhiều vị Bổ Xứ”, có thể nói là vượt trỗi thù thắng, đạt tới tột bậc vậy).
Trong thế gian này, tôi tin tưởng là những người đã dấn thân vào xã hội đều có cảm xúc: Cư xử giữa con người với nhau rất khó, làm việc đã khó khăn, làm người càng khó hơn. Ngôn ngữ, động tác chỉ hơi thiếu cẩn thận liền khiến cho kẻ khác hiểu lầm, tạo thành mối hiềm khích trong tương lai, đem lại nhiều nỗi khổ nạn. Nhỏ thì là va chạm giữa người với người, lớn là sự hiểu lầm giữa các quốc gia. Vì thế, hoàn cảnh nhân sự tốt đẹp thì quý vị ở nơi đâu cũng đều là người tốt, chuyện này chẳng dễ dàng! Hoàn cảnh nhân sự trong thế giới Tây Phương là bậc nhất, trong hết thảy các thế giới của chư Phật đều chẳng có [hoàn cảnh tốt đẹp như vậy], vì sao? Hàng Bổ Xứ Bồ Tát đông hơn những Bồ Tát thuộc các địa vị trước đó. Bổ Xứ Bồ Tát là hạng người nào? Đẳng Giác Bồ Tát, [tức là] những vị Bồ Tát giống như Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền rất nhiều. Nói thật ra, các Ngài chẳng khác Phật! Nếu chúng ta đã biết thế giới Tây Phương có hoàn cảnh nhân sự tốt đẹp như vậy, cớ sao chẳng mong đến đó? Hoàn cảnh vật chất vẫn kém quan trọng hơn, hoàn cảnh nhân sự quan trọng nhất. Nơi ấy là chỗ các vị thượng thiện nhân nhóm họp cùng một chỗ, “thượng thiện” là nói tới các vị Bổ Xứ Bồ Tát.
(Sớ) Bổ Xứ giả, chỉ thử nhất sanh, thứ bổ Phật vị, tức Đẳng Giác Bồ Tát dã.
(疏)補處者,止此一生,次補佛位,即等覺菩薩也。
(Sớ: Bổ Xứ là chỉ một đời này, đời sau sẽ bổ vào địa vị Phật, tức là bậc Đẳng Giác Bồ Tát vậy).
Bổ Xứ là Hậu Bổ Phật. Các Ngài là Đẳng Giác Bồ Tát, ở trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chờ “bổ nhiệm vào địa vị Phật”. Người đông như thế, đến năm nào mới có thể tới lượt làm Phật? Chư vị phải hiểu, địa vị Hậu Bổ Phật không nhất định là sẽ nối tiếp ngôi vị Phật của Tây Phương A Di Đà Phật. Chẳng phải vậy, mười phương thế giới, nơi nào có Phật nhập Niết Bàn, Bồ Tát thấy nơi ấy có duyên với Ngài bèn đến đó làm Phật. Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ đã nói rất rõ ràng, tức là nói thế giới Sa Bà có bốn mươi ức chúng sanh, các chúng sanh nào vậy? Chính là chúng sanh như chúng ta trong hiện tại, trong tương lai vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, tu hành trong Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng trở thành Hậu Bổ Phật, đạt đến địa vị Bổ Xứ Bồ Tát. Trong tương lai, nơi nào trong mười phương thế giới có duyên với quý vị, bèn đến đó làm Phật, cùng có hiệu là Diệu Âm Như Lai. Trong kinh đã nói rất rõ ràng! Do vậy có thể biết, “hậu bổ” có phạm vi hết sức rộng lớn, chính là tận hư không khắp pháp giới hết thảy các cõi Phật. Đoạn kinh văn cuối kinh Vô Lượng Thọ ấy chẳng thể nghĩ bàn! Thông thường, khu vực giáo hóa của một đức Phật là một thế giới. Một ngàn vị Phật thuộc Hiền Kiếp là vị này nối ngôi vị kia làm Phật. Như Thích Ca Mâu Ni Phật thì người nối ngôi vị Phật của Ngài chính là Di Lặc Bồ Tát, Vi Đà Bồ Tát là vị Phật cuối cùng trong một ngàn vị Phật ấy. Các Ngài từng vị nối tiếp nhau, từ từ bổ xứ trong cùng một thế giới. [Trong khi đó, Hậu Bổ Phật trong] thế giới Tây Phương là đến các thế giới của mười phương chư Phật để làm Phật, ý nghĩa này khác biệt rất lớn. Do điều này, có thể chứng thực: Giáo khu của A Di Đà Phật là tận hư không khắp pháp giới, chẳng phải là thế giới Cực Lạc đơn độc, chúng ta nhất định phải nhận thức rõ ràng điều này. Vì thế, nói “mười phương hết thảy chúng sanh vì sao đều mong cầu sanh về Tịnh Độ, hết thảy chư Phật Như Lai đều khuyên người khác niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ”, trong ấy, nhất định là có đạo lý to lớn. Đạo lý to lớn ấy chính là ở ngay nơi đây, nhằm khuyên lơn chúng ta.
(Sao) Chỉ thử nhất sanh giả, thử độ tu hành, xả thân, thọ thân, thiên sanh vạn sanh, vị hữu cùng dĩ.
(鈔)止此一生者,此土修行,捨身受身,千生萬生,未有窮已。
(Sao: “Chỉ một đời này”: Tu hành trong cõi này, xả thân, thọ thân, ngàn đời vạn đời chẳng có cùng tận).
Nói đến thế giới này, nói tới trạng huống trước mắt, chúng ta xác thực là như vậy. Trong thế giới Sa Bà, chúng ta chẳng có cách nào vượt thoát! Đời đời kiếp kiếp tu hành trong thế giới này, tu một khoảng thời gian, thọ mạng đã hết. Thọ mạng chấm dứt, lại bị luân hồi, chẳng biết luân hồi đến nơi đâu! Nếu lại được làm thân người, lại may mắn gặp gỡ Phật pháp, tu mấy chục năm rồi lại hết chuyện. Từ vô lượng kiếp tới nay đã làm theo kiểu đó, hễ bị mê khi cách ấm bèn lại thoái chuyển, mỗi đời đều khởi sự từ đầu! Đời đời kiếp kiếp đều phải khởi sự từ đầu. Trong đời quá khứ, chẳng biết chúng ta đã tu bao nhiêu A-tăng-kỳ kiếp, tới nay vẫn là tình trạng này, quý vị bèn biết tu hành trong thế giới này khó khăn lắm!
(Sao) Nãi chí chứng Tam Quả giả, do thượng hữu sanh.
(鈔)乃至證三果者,猶尚有生。
(Sao: Cho đến bậc đã chứng Tam Quả, hãy còn có sanh).
Đây là nói theo Tiểu Thừa. Tiểu Thừa chứng đắc Sơ Quả, bảy lần qua lại trong nhân gian hoặc cõi trời. Chứng đắc Nhị Quả bèn một lần tái sanh [nơi nhân gian]. Tam Quả ở trong Ngũ Bất Hoàn Thiên thuộc Tứ Thiền của Sắc Giới, vẫn chưa ra khỏi tam giới, nên nói là “do thượng hữu sanh” (hãy còn có sanh).
(Sao) A La Hán địa, phương đoạn hậu hữu.
(鈔)阿羅漢地,方斷後有。
(Sao: Địa vị A La Hán mới đoạn hết, chẳng còn thân đời sau).
Nhất định phải chứng đắc Tứ Quả La Hán thì mới vượt thoát tam giới.
(Sao) Tuy đoạn hậu hữu, bất đắc thành Phật.
(鈔)雖斷後有,不得成佛。
(Sao: Tuy đã đoạn thân trong đời sau, chẳng được thành Phật).
Tuy A La Hán đã vượt thoát tam giới, Ngài có thể thành Phật hay không? Không thể! Vì sao? Chỉ đoạn Kiến Tư phiền não, chứ Trần Sa và Vô Minh hãy còn. Chỉ có Định, [tức là] có Cửu Thứ Đệ Định. Định ấy sâu xa, sâu hơn Thiền Định thế gian. Thế gian là Tứ Thiền Bát Định. Định của [bậc La Hán] còn sâu hơn Định thế gian một tầng, nên chúng ta gọi nó là Đệ Cửu Định, đã vượt thoát. [Tuy có] Định mà chẳng khai huệ! Nhất định phải khai trí huệ thì mới có thể phá Trần Sa và Vô Minh, mới có thể chứng Pháp Thân thành Phật. Vì lẽ đó, A La Hán và Bích Chi Phật đều chưa được thành Phật. Đây là nói tới sự khó khăn do tu hành trong thế giới này.
(Sao) Kim thử duy dư nhất sanh, thứ tức bổ Phật, tiền như Hộ Minh, hậu như Từ Thị, Bồ Tát chi cực vị dã.
(鈔)今此唯餘一生,次即補佛,前如護明,後如慈氏,菩薩之極位也。
(Sao: Nay chỉ còn sót lại một đời này, đời kế tiếp liền bổ xứ làm Phật, trước là như ngài Hộ Minh, sau là như ngài Từ Thị, địa vị tột bậc trong hàng Bồ Tát).
Nói đến Tây Phương Tịnh Độ, người niệm Phật cầu sanh thế giới Cực Lạc chỉ có một đời này, trong một đời chúng ta bèn thực hiện viên mãn chuyện này. Trong một đời được bổ vào địa vị Phật, có thể chứng đến địa vị Hậu Bổ Phật thì trong đời này chẳng có sanh tử luân hồi, vì sao? Tây Phương Cực Lạc thế giới là vô lượng thọ. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, dẫu là hạ hạ phẩm vãng sanh, thọ mạng của quý vị giống như A Di Đà Phật. A Di Đà Phật vô lượng thọ, quý vị cũng là vô lượng thọ. Do đó, từ địa vị phàm phu mãi cho đến khi thành Phật, trong một đời bèn làm xong, chẳng cần qua đời khác!
Tiếp đó, Ngài nêu một tỷ dụ: “Tiền như Hộ Minh” (Trước là như Hộ Minh). Hộ Minh (Prabhāpāla) là Thích Ca Mâu Ni Phật, [tức là] trước khi Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật, Ngài làm Hậu Bổ Phật trong Đâu Suất Thiên, có tên là Hộ Minh Bồ Tát. Hiện thời, trong Đâu Suất Thiên, vị bổ xứ vào địa Phật nối tiếp Thích Ca Mâu Ni Phật là Di Lặc Bồ Tát, Từ Thị là Di Lặc Bồ Tát. Địa vị này là “Bồ Tát chi cực vị dã”, tức là địa vị Bồ Tát cao nhất; nếu lên cao hơn nữa, Ngài sẽ thành Phật. Chúng ta đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, trong tương lai sẽ là địa vị này, ai nấy đều chứng đắc địa vị Bồ Tát viên mãn tức là Bổ Xứ Bồ Tát, hoặc còn gọi là Đẳng Giác Bồ Tát.
(Sao) Hựu Đại Bổn vân.
(鈔)又大本云。
(Sao: Kinh Đại Bổn lại nói).
Lại nêu ra điều được nói trong kinh văn của kinh Vô Lượng Thọ.
(Sao) Sanh bỉ quốc giả, giai cụ tam thập nhị tướng, cứu cánh thâm nhập diệu pháp yếu nghĩa, giai đương nhất sanh toại bổ Phật xứ.
(鈔)生彼國者,皆具三十二相,究竟深入妙法要義,皆當一生遂補佛處。
(Sao: Người sanh trong cõi ấy đều có đủ ba mươi hai tướng, rốt ráo thâm nhập nghĩa lý trọng yếu của diệu pháp, đều sẽ được bổ làm Phật trong một đời).
Đối với đoạn kinh văn này, chúng ta có thể nói là bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ của lão cư sĩ Hạ Liên Cư là bản có kinh nghĩa (nghĩa lý của một bản kinh) viên mãn nhất. Xem một quyển ấy tức là xem trọn năm bản dịch gốc, ý nghĩa hoàn toàn được bao gồm trong ấy. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, tướng hảo, quang minh, trí huệ và đức năng đều như A Di Đà Phật. A Di Đà Phật có ba mươi hai tướng, mỗi người chúng ta đều có ba mươi hai tướng. Ba mươi hai tướng và tám mươi thứ hảo đều là đức Thế Tôn nói phương tiện, vì lũ phàm phu chúng ta trong thế gian mà nói [đại lược]. Vì nói nhiều với quý vị, tuy nhiều nhưng do quý vị chẳng thấy, cũng chẳng tin tưởng! Thật ra, A Di Đà Phật có vô lượng tướng, mỗi tướng có vô lượng hảo, không chỉ là ba mươi hai.
“Sanh bỉ quốc giả” (Người sanh về cõi ấy) trên từ Đẳng Giác cho tới dưới là chúng sanh trong ác đạo, chỉ cần đầy đủ ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh sẽ quyết định vãng sanh. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn tương tự như Phật, tức là “cứu cánh thâm nhập diệu pháp yếu nghĩa”. Câu này khó có! “Diệu pháp” là nói Đại Thừa Phật pháp. “Cứu cánh thâm nhập” (Rốt ráo thâm nhập): Chẳng vãng sanh, sẽ không thể rốt ráo thâm nhập. Trong kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát nói mười đại nguyện vương của Ngài đến Tây Phương Cực Lạc thế giới mới viên mãn. Do vậy có thể biết, trước khi Phổ Hiền Bồ Tát vãng sanh, Ngài ở trong thế giới Hoa Tạng. Trong thế giới Hoa Tạng, mười đại nguyện vương của Ngài vẫn chưa thể viên mãn, vẫn phải tới Tây Phương Cực Lạc thế giới thì mới viên mãn. Có thể thấy thế giới Tây Phương mới thật sự là “rốt ráo thâm nhập”. Chúng ta cầu vãng sanh, mỗi người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, câu này là bổn phận của quý vị, quý vị rốt ráo thâm nhập nghĩa lý trọng yếu của diệu pháp. Do đó, pháp này được gọi là pháp khó tin. Trong một bài kệ, Hạ lão cư sĩ đã nói pháp này là “ức vạn nhân trung nhất nhị tri” (trong ức vạn người, [chỉ có] một hai kẻ biết). Đừng nói là kẻ học Phật bình phàm không biết, nhiều vị đại đức tổ sư các tông phái trong Phật môn đều không biết, có thể thấy là khó khăn, thật sự khó lắm! Đã biết thì nhất định chuyên tu, chuyên hoằng, giống như kẻ thật sự hiểu biết rõ giá trị, đã biết rõ giá trị, đương nhiên sẽ chọn lấy món tốt nhất, lẽ đâu chọn món kém cỏi hơn? Chẳng đem thứ tốt nhất bố thí cho người khác, lại đem thứ kém hơn, hoặc kém tệ hơn nữa cho người ta, lẽ nào chẳng có lỗi với người khác? Đây là đạo lý nhất định. Trừ phi kẻ ấy chẳng biết rõ giá trị thì chẳng có cách nào cả. Kẻ ấy ngỡ thứ kém cỏi hơn hoặc thứ tệ hơn nữa là loại bậc nhất, hiểu lầm mất rồi! Vì thế, câu này nói thật hay!
“Giai đương nhất sanh toại bổ Phật xứ” (Đều sẽ được bổ làm Phật trong một đời này). Thưa cùng chư vị, đây là công đức lợi ích thù thắng nhất do sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chẳng có gì vượt trội thù thắng hơn điều này, thành Phật ngay trong một đời! Vì vậy, pháp môn này là pháp môn thành Phật trong một đời, đúng là khó tin, dễ tu! Dễ tu là so sánh hết thảy các pháp môn, pháp này dễ dàng nhất. Dễ tu, nhưng quý vị ắt phải buông hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian xuống thì mới quyết định thành tựu. Bí quyết niệm Phật là “chẳng hoài nghi, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp”, chư vị làm được chín chữ ấy, sẽ quyết định vãng sanh, đó là “vạn người tu, vạn người đến”. Quý vị hoài nghi pháp này, hoặc công phu gián đoạn, hoặc xen tạp, sẽ chẳng đáng trông cậy! Xen tạp là gì? Vừa niệm kinh, vừa bái sám, lại làm pháp hội, còn muốn xem Phong Thủy, đoán mạng, xem chuyện cát hung họa phước, như vậy thì chẳng có niềm kỳ vọng to lớn chi cả, quyết định chớ nên xen tạp! Chẳng xen tạp thì gọi là thuần, chẳng gián đoạn là tấn, tức là tinh tấn.
Trong các đồng học chúng ta, tôi biết có mấy vị niệm Phật khá lắm, có thể niệm đến mức trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ Phật hiệu chẳng gián đoạn. Họ có thể không ngủ nghê, niệm đến mức tinh thần rất sung mãn, nghỉ ngơi qua loa một hai tiếng đồng hồ bèn có thể làm việc, đó là công phu đắc lực, xác thực là đã tiêu nghiệp chướng. Nghiệp chướng là gì? Ngủ nghê là nghiệp chướng, mệt mỏi là nghiệp chướng. Họ niệm đến mức không mệt mỏi, không cần ngủ, đó là hiện tượng nghiệp chướng tiêu trừ. Lần này, tôi sang Bắc Kinh, có mấy vị đồng tu niệm Phật, tôi cũng chẳng quen biết họ. Lần đầu tiên họ nghe nói tới tôi, bèn đến tìm tôi. Họ đến từ Thiên Tân Cư Sĩ Lâm, nghe băng thâu âm lời giảng của chúng tôi thuở trước ở Đồ Thư Quán, chỉ có nửa bộ đầu, chẳng có nửa bộ sau. Sau khi nghe xong nửa bộ đầu, họ bèn y giáo phụng hành, nghiễm nhiên cũng có người hai mươi bốn tiếng đồng hồ chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp, nghiệp chướng tiêu trừ giống y hệt, chẳng mệt, chẳng chán, rất khó có! Họ nói: “Thưa pháp sư! Chúng con làm theo lời thầy dạy, quả nhiên thầy chẳng lừa dối chúng con. Những lời thầy đã giảng chúng con đều chứng thực, nghiệp chướng tiêu trừ, phước huệ tăng trưởng”. Họ rất phát tâm, lần lượt lưu thông băng thâu âm ấy. Thâu nhập của họ hết sức ít ỏi, mỗi tháng chỉ là hơn một trăm Nhân Dân Tệ[73], họ bớt ăn bớt xài để mua băng thâu âm lưu thông, thật sự đáng kính phục! Tôi thấy vậy vô cùng cảm động. Tiếp theo đây là nói theo tỷ dụ.
(Sao) Cứ thử.
(鈔)據此。
(Sao: Dựa theo đó).
Căn cứ theo những điều Đại Kinh đã nói.
(Sao) Tắc như trữ quân tạm tại Đông Cung, tất thiệu nam diện,
phi dư bách quan triển chuyển thăng tấn, chỉ thị vị cực nhân thần chi tỷ dã.
(鈔)則如儲君暫在東宮,必紹南面,非餘百官展轉陞進,止是位極人臣之比也。
(Sao: Giống như thái tử ở tạm tại Đông Cung, ắt sẽ nối ngôi hoàng đế[74], chẳng như bá quan lần lượt thăng chức, [tối đa là] chỉ đạt tới địa vị tột bậc trong hàng bầy tôi mà hòng sánh bằng).
Dùng chế độ trong quá khứ để nói. Người cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới ví như hoàng thái tử. Hoàng thái tử tuy ở Đông Cung, trong tương lai, sau khi hoàng đế đã chết, nhất định sẽ kế thừa vương vị. Trọn chẳng giống bá quan văn võ thông thường dần dần thăng chức, thăng lên tới địa vị cao nhất cũng bất quá là Tể Tướng mà thôi, không thể làm hoàng đế. Chẳng thể sánh bằng! Đây là tỷ dụ điều gì? Quý vị tu các pháp môn khác giống như văn võ bá quan, có thân phận như vậy. Quý vị cầu sanh Tịnh Độ giống như thân phận vương thái tử[75]. Dùng chuyện này để tỷ dụ, chúng ta thấy rất dễ hiểu! Cầu sanh Tịnh Độ và tu học các pháp môn khác không thể cùng xếp ngang hàng để bàn luận được, chẳng thể so sánh!
(Sao) Thử đẳng Bồ Tát, hàm giai vãng sanh, bạc liệt Tây
Phương, bất sủy thậm hỹ.
(鈔)此等菩薩,咸皆往生,薄劣西方,不揣甚矣。
(Sao: Các vị Bồ Tát ấy thảy đều vãng sanh. Những kẻ khinh thường Tây Phương sao chẳng xét suy quá đỗi!)
“Thử đẳng Bồ Tát” (Các vị Bồ Tát ấy) là nói tới các vị Đẳng Giác Bồ Tát, giống như trong kinh Hoa Nghiêm, Văn Thù và Phổ Hiền còn mong sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Văn Thù và Phổ Hiền là Đẳng Giác Bồ Tát trong thế giới Hoa Tạng, các Ngài đến Tây Phương Cực Lạc thế giới để làm gì? Chúng ta đọc kinh Hoa Nghiêm, suy đi nghĩ lại, chỉ thấy có một lý do: Để thành Viên Giáo Phật. Đẳng Giác Bồ Tát nếu tiến lên cao hơn sẽ thành Phật. Nếu chẳng vì thành Phật, Ngài có lý do gì mà vãng sanh thế giới Tây Phương? Chẳng có lý do! Nói như vậy, ngoài thế giới Tây Phương, [nếu ở trong] thế giới Hoa Tạng sẽ chẳng thể thành Viên Giáo Phật ư? Có lẽ cũng thành được, nhưng có thể là thời gian rất lâu, chẳng được nhanh chóng như trong thế giới Tây Phương. Có lẽ là cũng có thể thành, nhưng Đẳng Giác Bồ Tát trong thế giới Hoa Tạng có thể chẳng nhiều như trong thế giới Tây Phương, thật đấy! Do đó, chẳng có ai không hy vọng vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Hàm giai vãng sanh”, chúng ta thấy hiện tượng như vậy, vẫn chẳng phát nguyện cầu sanh Tây Phương thì thầy Lý nói kẻ như vậy “chẳng phải là ngu si, thì là cuồng vọng”, đó là kẻ có vấn đề. Một người thần trí rất bình thường, thấy hiện tượng này, nhất định phát tâm cầu sanh Tây Phương. “Bạc liệt Tây Phương”: “Bạc liệt” (薄劣) là gì? Coi rẻ thế giới Tây Phương, thấy thế giới Tây Phương thấp kém. Người như vậy, nói theo kiểu hiện thời là “rất thiếu tự lượng sức”. “Bất sủy thậm hỹ” (Chẳng suy xét quá đỗi), quá sức thiếu tự lượng!
Hiện thời, [thiên hạ đa số] xem thường thế giới Tây Phương, chẳng coi trọng, nhất là bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ của lão cư sĩ Hạ Liên Cư, nhiều người chẳng thèm ngó tới! Thế gian hiện thời là đời loạn, chúng ta cũng chẳng thể miễn cưỡng biện bác cùng kẻ khác. Gắng sức biện bác về giáo pháp cùng kẻ khác chỉ tổn hại, chẳng có lợi ích. Không biện bác vẫn tốt hơn! Lục Tổ đại sư nói rất hay: Nếu chẳng phù hợp căn cơ, hãy chắp tay khiến cho kẻ ấy hoan hỷ, chẳng cần phải tranh luận. Họ tu pháp của họ, chúng ta tu pháp của chúng ta; như thế là tốt đẹp. Chúng ta cung kính tán thán họ. Họ phê bình, chỉ trích, hủy báng chúng ta, chúng ta vẫn cứ thật thà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Chúng ta không bàn chuyện quá khứ, thấy những người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới trước mắt, đó là chứng cứ, chẳng giả! Tại Đại Lục, tại Hương Cảng, ở Tân Gia Ba cũng có, ở Đài Loan nhiều nhất. Bốn mươi năm qua, bao nhiêu người niệm Phật vãng sanh. Đứng mất, ngồi mất, biết trước lúc mất, không ngã bệnh mà mất. Những chuyện ấy ngàn vạn phần xác đáng, tuyệt đối chẳng phải là giả, rất ư là nhiều! Nói thật ra, những người ấy đã hiện thân thuyết pháp, [thế mà] vẫn chẳng tin thì hết cách! Tam chuyển pháp luân trong Phật pháp là thị chuyển, khuyến chuyển, và tác chứng chuyển. Những người ấy đã chứng minh cho quý vị, nhưng quý vị vẫn chẳng tin, hết cách rồi! Thật sự là phường Nhất Xiển Đề, chẳng có thiện căn. Hôm nay tôi giảng tới chỗ này!
Tập 206
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm mười hai:
(Sớ) Vấn: Bỉ xứ Quán Âm, thứ đương bổ Phật, thứ nãi Thế Chí. Thế Chí chi hậu, bất văn bổ giả. Kim ngôn “Bổ Xứ thậm đa”, hà nhật đương bổ? Hựu Bổ Xứ giả, Bồ Tát địa tận, trụ Đẳng Giác vị, như tinh trung nguyệt, hà đắc thậm đa, nhi tại bỉ quốc?
(疏)問:彼處觀音,次當補佛,次乃勢至,勢至之後,不聞補者,今言補處甚多,何日當補;又補處者,菩薩地盡,住等覺位,如星中月,何得甚多,而在彼國。
(Sớ: Hỏi: Trong cõi ấy, ngài Quán Âm sẽ kế tiếp bổ xứ làm Phật, rồi đến ngài Thế Chí. Sau ngài Thế Chí, chẳng nghe nói có vị Bổ Xứ nào! Nay nói “Bổ Xứ thật nhiều”, đến khi nào sẽ được bổ nhiệm? Lại nữa, Bổ Xứ là trọn hết địa vị Bồ Tát, trụ trong địa vị Đẳng Giác, như vầng trăng giữa các ngôi sao, cớ sao có thể hiện diện thật nhiều trong nước ấy?)
Đoạn này nêu ra hai nghi vấn:
– Thứ nhất là hoài nghi thế giới Tây Phương có Bổ Xứ Bồ Tát nhiều ngần ấy, tới năm nào, tháng nào họ mới được bổ làm Phật?
– Vấn đề thứ hai là hoài nghi số lượng. Thông thường, trong kinh điển chúng ta thấy trong một thế giới Phật, Hậu Bổ Phật là một vị, hai vị thì quá lắm rồi! Cớ sao thế giới Tây Phương có Hậu Bổ Phật đông đảo như thế?
“Bỉ xứ” là nói đến Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tây Phương Cực Lạc thế giới Quán Thế Âm Bồ Tát là Hậu Bổ Phật trong thế giới Cực Lạc. Trong tương lai, A Di Đà Phật nhập Bát Niết Bàn, Quán Âm Bồ Tát liền thị hiện thành Phật trong thế giới Tây Phương. Sau khi đã thành Phật, Quán Âm Bồ Tát cũng có ngày nhập diệt. Sau khi Ngài nhập diệt, Đại Thế Chí Bồ Tát liền hậu bổ thành Phật. Sau Đại Thế Chí, [vị Bồ Tát nào sẽ được bổ làm Phật], trong kinh, Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng nói tới! [Đoạn kinh nói tới] chuyện Quán Âm và Thế Chí hậu bổ thành Phật được chúng tôi đưa vào Tịnh Độ Ngũ Kinh Độc Bản, chư vị xem sẽ biết. Người ta có nghi vấn ở chỗ này: Sau ngài Đại Thế Chí, chẳng nghe nói thế giới Tây Phương có Hậu Bổ Phật. Nay kinh nói thế giới Tây Phương có Hậu Bổ Phật nhiều ngần ấy, bèn hoài nghi: Vậy thì họ phải đến lúc nào mới tới phiên? A Di Đà Phật thọ mạng vô lượng vô biên, Quán Âm Bồ Tát thành Phật thọ mạng cũng là vô lượng vô biên, tuyệt đối chẳng kém A Di Đà Phật. Thọ mạng dài như vậy mà nói “đến cõi kia bèn chứng đắc Hậu Bổ Phật”, cũng chẳng biết tới ngày nào mới được bổ nhiệm?
Vấn đề hoài nghi thứ hai là “Bồ Tát địa tận”, đây là địa vị tột đỉnh trong hàng Bồ Tát. Địa vị tột đỉnh là địa vị Hậu Bổ Phật, chúng ta gọi địa vị ấy là Đẳng Giác Bồ Tát, giống như mặt trăng giữa các ngôi sao. Đây là tỷ dụ, ví Phật như thái dương, ví Hậu Bổ Phật như vầng trăng. Địa cầu của chúng ta chỉ có một vầng trăng, chẳng phải là rất nhiều. Đương nhiên cách nói này là nói theo phía chúng sanh trên địa cầu. Đức Phật thuyết pháp ở nơi này, nhất định ứng với căn cơ của chúng sanh nơi đây, không thể nói theo thế giới khác hoặc tinh cầu khác. Chúng ta biết tinh cầu khác có đến mười mấy mặt trăng, chẳng phải là không có, nhưng địa cầu chỉ có một vầng trăng, chỉ có một vệ tinh. Vì sao Tây Phương Cực Lạc thế giới có nhiều Hậu Bổ Phật ngần ấy? Giống như có nhiều vầng trăng dường ấy! Đó là hai vấn đề, chúng ta xem lời giải đáp như dưới đây.
(Sớ) Đáp: Bổ Xứ bất tất định bổ Di Đà chi xứ. Thập phương thế giới vô tận, chư Phật Niết Bàn vô tận, Bổ Xứ Bồ Tát diệc vô tận, trụ bỉ quốc trung, nhi đãi Bổ Xứ, hề vi bất khả!
(疏)答:補處不必定補彌陀之處,十方世界無盡,諸佛涅槃無盡,補處菩薩亦無盡,住彼國中,而待補處,奚為不可。
(Sớ: Đáp: Bổ Xứ không nhất định phải bổ làm Phật nơi chỗ Phật Di Đà. Mười phương thế giới vô tận, chư Phật nhập Niết Bàn vô tận, Bổ Xứ Bồ Tát cũng vô tận, họ ở trong cõi ấy để đợi Bổ Xứ, có gì là không thể được?)
Trong hết thảy các cõi Phật, chỉ riêng thế giới Tây Phương là rốt ráo viên mãn. Do vậy có thể biết, từ đoạn kinh văn này, chúng ta có thể suy tưởng: Hậu Bổ Phật trong mười phương thế giới ở chỗ nào? Thảy đều đến Tây Phương Cực Lạc thế giới; do vậy, Tây Phương Cực Lạc thế giới có Hậu Bổ Phật đông đảo! Đông đến mức độ nào? Kinh nói là chẳng có cách nào tính toán, vô lượng vô biên! Những vị Đẳng Giác Bồ Tát ấy vốn còn nhiều hơn số người vãng sanh. Đó gọi là “chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ” (các vị thượng thiện nhân ở chung một chỗ), chúng ta đã được chứng minh. Câu này có nghĩa là: Hậu Bổ Phật trong mười phương vô lượng vô biên các cõi Phật đều tụ hội trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tây Phương Cực Lạc là câu lạc bộ của các vị Hậu Bổ Phật trong mười phương cõi nước, các Ngài đều đến đó. Đương nhiên là thế giới ấy thập phần viên mãn, hiếm có, khó gặp! Do vậy, những vị Bổ Xứ Bồ Tát hoàn toàn chẳng phải là ở nơi đó để chờ được bổ nhiệm vào ngôi vị Phật của A Di Đà Phật, chẳng phải vậy! Mười phương thế giới, nơi nào có Phật nhập Niết Bàn, vị Bổ Xứ Bồ Tát nào có duyên với thế giới ấy, đáng nên dùng thân Phật để độ, bèn đến đó thị hiện tám tướng thành đạo, thị hiện thành Phật độ chúng sanh. Chuyện là như thế đó. Vì thế, đối với chuyện Phật, Bồ Tát ứng thế, kinh Hoa Nghiêm đã nói rất thấu triệt: “Do chúng sanh cơ cảm”, [nghĩa là] chúng sanh có cảm, những vị Bổ Xứ Bồ Tát bèn có ứng. Vì lẽ đó, khi chúng ta tu hành nơi nhân địa, phải kết pháp duyên rộng rãi với chúng sanh. Vì sao? Chẳng có duyên với chúng sanh thì trong tương lai quý vị thành Hậu Bổ Phật, đạt đến Đẳng Giác Bồ Tát, mười phương chúng sanh đều chẳng có cảm, quý vị cũng vĩnh viễn chẳng làm Phật. Vì sao? Chẳng ai cầu quý vị. Có thể thấy là kết pháp duyên rất trọng yếu. Vấn đề thứ nhất đã được giải quyết! Lại xem phần giải đáp cho vấn đề thứ hai.
(Sớ) Hựu chư Phật thượng như vi trần, vô hữu cùng tận, huống phục Bồ Tát, kỳ số thậm đa, vô túc nghi dã, như Đại Bổn trung thuyết.
(疏)又諸佛尚如微塵,無有窮盡,況復菩薩,其數甚多,無足疑也,如大本中說。
(Sớ: Lại nữa, chư Phật còn nhiều như vi trần, chẳng có cùng tận, huống là Bồ Tát, số ấy thật nhiều, há đáng nghi ư, như trong kinh Đại Bổn đã nói).
Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ. Mười phương thế giới, thế giới vô lượng vô biên, mỗi thế giới đều có một vị Phật. Do thế giới vô biên, nên chư Phật cũng vô lượng vô biên. Do Phật là vô lượng vô biên, đương nhiên Bồ Tát cũng là vô lượng vô biên. Chuyện này không đáng để hoài nghi, kinh Vô Lượng Thọ đã nói rất rõ ràng. Liên Trì đại sư trích lục chương cuối cùng trong kinh Vô Lượng Thọ:
(Sao) Đại Bổn vân: Phật cáo Di Lặc: – Thử thế giới trung, hữu thất bách nhị thập ức Bồ Tát sanh bỉ, nhất nhất dĩ tằng cúng dường vô ương số Phật.
(鈔)大本云:佛告彌勒,此世界中,有七百二十億菩薩生彼,一一已曾供養無央數佛。
(Sao: Kinh Đại Bổn nói: “Phật bảo Di Lặc: – Trong thế giới này, có bảy trăm hai mươi ức Bồ Tát sanh về cõi ấy, mỗi vị đã từng cúng dường vô ương số Phật”).
Đây là Bồ Tát vãng sanh, Bồ Tát nào vậy? Đẳng Giác Bồ Tát.
“Thử thế giới” là thế giới Sa Bà. Có bảy trăm hai mươi ức Đẳng Giác Bồ Tát vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Những vị Bồ Tát ấy thiện căn vô cùng sâu dầy, “dĩ tằng cúng dường vô ương số Phật” (đã từng cúng dường vô ương số Phật).
(Sao) Như Di Lặc giả.
(鈔)如彌勒者。
(Sao: Như Di Lặc).
Có địa vị giống như Di Lặc Bồ Tát. Nói rõ: Đó là hàng Đẳng Giác Bồ Tát.
(Sao) Chư tiểu Bồ Tát, bất khả thắng kỷ.
(鈔)諸小菩薩,不可勝紀。
(Sao: Các vị tiểu Bồ Tát chẳng thể kể xiết).
Tiểu Bồ Tát, tức là các vị Bồ Tát thấp hơn Đẳng Giác, vãng sanh chẳng thể kể xiết. Số lượng quá nhiều, nói chẳng thể hết được!
(Sao) Tha phương thế giới, đệ nhất Quang Viễn Chiếu Phật sở, hữu bát thập ức Bồ Tát, giai đương vãng sanh. Đệ nhị Bảo Tạng Phật sở, hữu cửu thập ức. Đệ tam Vô Lượng Âm Phật sở, hữu nhị bách nhị thập ức. Triển chuyển chí thập tứ Phật sát, dĩ cập vô lượng Phật sát, vãng sanh giả bất khả phục kế, đản thuyết Phật danh, cùng kiếp bất tận, huống kỳ Bồ Tát đương vãng sanh giả, ngôn như Di Lặc, tắc thậm đa Bổ Xứ, ích khả vi chứng.
(鈔)他方世界,第一光遠照佛所,有八十億菩薩,皆當往生;第二寶藏佛所,有九十億;第三無量音佛所,有二百二十億;展轉至十四佛剎,以及無量佛剎,往生者不可復計。但說佛名,窮劫不盡,況其菩薩當往生者,言如彌勒,則甚多補處,益可為證。
(Sao: Các thế giới phương khác, thứ nhất là ở nơi Quang Viễn Chiếu Phật, có tám mươi ức Bồ Tát sẽ đều vãng sanh. Thứ hai là ở chỗ Bảo Tạng Phật có chín mươi ức. Thứ ba là ở chỗ Vô Lượng Âm Phật có hai trăm hai mươi ức. Lần lượt cho tới cõi Phật thứ mười bốn cùng với vô lượng cõi Phật, người vãng sanh không thể tính đếm được. Chỉ nói danh hiệu Phật đã là trọn hết kiếp cũng không thể nói hết, huống hồ là [nói tới số lượng] các vị Bồ Tát vãng sanh. Ví như ngài Di Lặc, [trong cõi Cực Lạc] hàng Bổ Xứ Bồ Tát rất đông, [điều này] càng chứng minh [rõ rệt hơn]).
Chúng ta đọc đoạn kinh văn này trong kinh Vô Lượng Thọ liền liễu giải: Nói thật thà, hàng Đẳng Giác Bồ Tát sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới đông nhất, vì sao? Vì Đẳng Giác Bồ Tát liễu giải y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới rõ ràng nhất. Nếu chẳng hiểu, trong hội Hoa Nghiêm, Văn Thù và Phổ Hiền là Đẳng Giác Bồ Tát, vì sao các Ngài cầu vãng sanh? Vì các Ngài biết hoàn cảnh ấy quá rõ ràng! Nói theo phương diện tu học, mười phương thế giới, hoàn cảnh tu học trong bất cứ cõi Phật nào đều chẳng sánh bằng Tây Phương Cực Lạc thế giới, cho nên đến nơi đó (cõi Cực Lạc) để tu hành. Tuy ở trong thế giới Tây Phương, nói thật ra, chẳng lìa cõi mình, giống như Di Lặc Bồ Tát trong thế giới này. Di Lặc Bồ Tát đang ngự trên Đâu Suất Thiên, trong tương lai sẽ hạ sanh. Đấy là vị Phật thứ năm trong Hiền Kiếp tại thế giới Sa Bà, Phật Thích Ca là vị Phật thứ tư. Hiện thời Ngài ở nơi đâu? Ngài ở trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng là ở trong Đâu Suất Nội Viện. Nói thật ra, các Ngài qua lại trong vòng một niệm. Vì thế, Đâu Suất Nội Viện có Di Lặc Bồ Tát, mà Tây Phương Cực Lạc thế giới cũng có Di Lặc Bồ Tát.
(Sớ) Như thượng y chánh nhị báo, hoặc kinh văn trung hữu, bổn nguyện trung vô. Hoặc bổn nguyện trung hữu, kinh văn trung vô, hỗ kiến vô ngại.
(疏)如上依正二報,或經文中有,本願中無;或本願中有,經文中無,互見無礙。
(Sớ: Đối với y báo và chánh báo như vừa nói trên đây, hoặc là trong phần kinh văn có, nhưng bổn nguyện không có, hoặc trong bổn nguyện có, nhưng kinh văn chẳng có, xem đối chiếu lẫn nhau vô ngại).
Đối với các thứ y báo và chánh báo của thế giới Tây Phương như vừa nói trên đây (y báo là hoàn cảnh vật chất, chánh báo là hoàn cảnh nhân sự), hoặc là trong kinh nói cặn kẽ, có nhắc tới, nhưng trong bốn mươi tám nguyện chẳng nói, hoặc là trong bốn mươi tám nguyện có nói, nhưng kinh văn chẳng nói đến. [Do đó], ắt phải đối chiếu lẫn nhau.
Trong đoạn này, Liên Trì đại sư nêu rõ: Thuở tại thế, Phật Thích Ca đã nhiều lần tuyên giảng kinh Vô Lượng Thọ, mà kết tập cũng là kết tập nhiều lần. Bởi lẽ, nguyên bản tiếng Phạn của kinh này có nhiều loại, chẳng phải chỉ là một loại được truyền đến Trung Hoa. Cổ nhân khảo chứng, đã thừa nhận là tối thiểu có ba bản gốc bất đồng. Tại Trung Hoa, có mười hai bản dịch. Nếu là cùng một bản gốc, cần gì phải phiên dịch nhiều lượt như vậy? Do nguyên bản bất đồng, [mỗi bản dịch trần thuật] y báo và chánh báo tường tận hay đại lược. Có điểm bản này có, bản kia chẳng có, hoặc bản kia có, bản này chẳng có. Chính vì như vậy nên mới cần phải hội tập. Hiện thời, có rất nhiều người phê phán bản hội tập, cho rằng đọc kinh Vô Lượng Thọ thì phải nên đọc bản dịch gốc, chứ bản hội tập nói chung là do người đời sau biên tập, thường là chẳng đúng pháp cho lắm. Đọc kinh văn nguyên bản có được hay không? Được chứ! Đọc bản gốc thì nhất định là phải đọc cả năm loại bản gốc thì ý nghĩa mới viên mãn. Quý vị đọc bản này, sẽ sót mất câu kinh văn kia. [Vì lẽ đó], hội tập là cần thiết. Đời Tống, cư sĩ Vương Long Thư mở màn đầu tiên. Nếu quý vị bảo bản hội tập sai lầm, là chuyện chẳng nên làm, [thế thì] cư sĩ Vương Long Thư đứng vãng sanh, biết trước lúc mất. Đấy là lão nhân gia hiện thân thuyết pháp, nhằm nói rõ chính mình chẳng phạm sai lầm. Nếu ông ta đã phạm sai sót to tát trong Tịnh Độ Tông, làm sao có thể vãng sanh cho được? Do đó, [điều này] chứng tỏ hội tập chẳng sai!
Tuy hội tập là chuyện tất yếu, nhưng trong các bản hội tập của cổ nhân có chỗ đáng tiếc là những chỗ chọn lấy và gạt bỏ chẳng thích đáng, có những phần kinh văn rất quan trọng bị bỏ sót, chưa thể thấy một bản hoàn chỉnh. Một điều đáng tiếc nữa là [người hội tập] thường sửa đổi chữ dùng trong nguyên văn, điều này bị người đời sau phê bình. Nay chúng ta xem bản này của lão cư sĩ Hạ Liên Cư, chư vị đối chiếu với năm bản dịch gốc, [sẽ thấy bản hội tập của cụ Hạ] lấy bỏ hết sức thích đáng. Nói cách khác, [bản ấy] là tổng hợp viên thành của năm bản dịch gốc. Y báo và chánh báo trang nghiêm, nguyện văn và kinh văn đều đạt tới cảnh giới viên mãn, lại chẳng sửa đổi chữ nào, toàn là kinh văn trích từ các bản dịch gốc.
Do đó, người đời sau đọc đến bản này, tán thán là bản kinh Vô Lượng Thọ viên mãn nhất, hoàn thiện nhất. Sau khi bản này ra đời, trong giới Phật giáo, người tán thán hết sức nhiều. Thuở ấy, pháp sư Từ Châu dùng bản này để giảng tại Tế Nam; Sư còn viết Khoa Phán. Bản này do lão cư sĩ Hoàng Lư Sơ đem từ Đại Lục đến (sau này, cụ Hoàng theo pháp sư Từ Hàng xuất gia, tức là pháp sư Luật Hàng), cụ mang đến Đài Loan giao cho lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam. Lý lão cư sĩ giảng ở Đài Trung một lần, lại còn viết lời mi chú đơn giản. Đọc đoạn kinh văn này liền biết hội tập kinh Vô Lượng Thọ xác thực là chuyện tất yếu. Đến hiện thời mới có một bản hoàn thiện như vậy, bản này khó có, đúng là Tam Bảo gia trì. Tại Đài Loan, từ Nam đến Bắc [bản này] đều được phổ biến tuyên dương, người đọc tụng rất nhiều, người nương theo phương pháp trong kinh điển này để tu hành rất đông. Đây là một chuyện hết sức hiếm có, là nhân duyên thù thắng.
(Sao) Nhược cứ mộ Phật phát nguyện, mãn nguyện thành Phật.
(鈔)若據慕佛發願,滿願成佛。
(Sao: Nếu do ngưỡng mộ Phật mà phát nguyện, nguyện viên mãn sẽ thành Phật).
“Mộ” (慕) là ngưỡng mộ. Ngưỡng mộ Phật pháp, phát nguyện học
Phật, nguyện viên mãn bèn thành Phật.
(Sao) Tắc bỉ phương chủng chủng sở hữu, giai bỉ Phật nguyện nguyện sở thành, tất ưng khế hợp.
(鈔)則彼方種種所有,皆彼佛願願所成,悉應契合。
(Sao: Vậy thì tất cả các thứ bên cõi ấy đều do mỗi nguyện của đức Phật ấy tạo thành, cho nên ắt phải khế hợp).
Nguyện của A Di Đà Phật vô lượng, y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới vô lượng. Nói thật ra, những điều do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong năm bản ấy để giới thiệu Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng bất quá là một giọt nước trong biển cả đó thôi. Có thể giới thiệu trọn hết hay không? Giới thiệu hoàn toàn thì nói suốt một kiếp vẫn nói không xong, cho nên nói đại lược những điều trọng yếu và khái quát. [Muốn biết] tình hình thật sự chi tiết, ắt là chính mình phải đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thì mới biết được.
(Sao) Kim minh hỗ vi hữu vô giả, dĩ văn tuy tiểu thù, nhi ý tắc cụ túc dã.
(鈔)今明互為有無者,以文雖小殊,而意則具足也。
(Sao: Nay nói [giữa các bản dịch] lần lượt là có hoặc không[76], chính là nói “văn tự sai khác đôi chút, nhưng ý nghĩa trọn đủ”).
Nói cặn kẽ hay đại lược khác nhau, nhưng ý nghĩa đều viên mãn, đầy đủ.
(Sao) Hựu như Pháp Tạng nguyện vân: “Ngã tác Phật thời, sát trung chư thiên, nhân dân, nhất thiết vạn vật, giai nghiêm tịnh quang lệ, hình sắc thù đặc, cùng vi cực diệu, vô năng xưng lượng giả, tuy đắc thiên nhãn, bất năng biện kỳ danh số”.
(鈔)又如法藏願云:我作佛時,剎中諸天人民,一切萬物,皆嚴淨光麗,形色殊特,窮微極妙,無能稱量者,雖得天眼,不能辨其名數。
(Sao: Lại như ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi tôi làm Phật, chư thiên, nhân dân trong cõi nước và hết thảy vạn vật đều trang nghiêm, thanh tịnh, sáng ngời, đẹp đẽ, hình sắc thù thắng đặc biệt, vi diệu tột cùng, không ai có thể diễn tả, suy lường được. Dẫu đắc Thiên Nhãn, cũng chẳng thể biện định tên gọi và số lượng của chúng”).
Mấy câu này là lời nguyện trích từ phần bốn mươi tám nguyện. Trong lời nguyện có nói Thiên Nhãn của người trong Tây Phương Cực Lạc thế giới tối thiểu cũng là từ Thất Địa Bồ Tát trở lên, chẳng phải là Thiên Nhãn của phàm nhân; [thế mà] họ cũng chẳng thể phân biệt y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Những điều khác lại càng chẳng cần phải nói nữa!
(Sao) Quán thử, tắc chánh báo, y báo, nhiếp vô bất tận, bất khả câu văn nhi hạn nghĩa dã.
(鈔)觀此,則正報依報,攝無不盡,不可拘文而限義也。
(Sao: Xét theo đó, chánh báo và y báo bao quát không gì chẳng trọn hết, chớ nên câu nệ văn tự để rồi hạn cuộc ý nghĩa vậy).
Quyết định đừng nên chấp chết cứng kinh văn, phải biết trong ấy bao hàm cảnh giới rộng lớn vô biên. Y báo và chánh báo trang nghiêm chẳng có cùng tận.
(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh quyết định thành Phật, thị Nhất Sanh Bổ Xứ nghĩa.
(疏)稱理,則自性決定成佛,是一生補處義。
(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh quyết định thành Phật chính là ý nghĩa Nhất Sanh Bổ Xứ).
Chúng ta thấy đại sư trích dẫn một đoạn trong Hoa Nghiêm Kinh Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm Biệt Hành Sớ Sao của vị tổ thứ năm trong tông Hoa Nghiêm là Khuê Phong đại sư. Lời Sao do Khuê Phong đại sư soạn.
(Sao) Khuê Phong vân: “Kim tri tâm thị Phật tâm, định đương tác Phật, nhiên nhi bổn lai thành Phật, phi tác đắc cố”.
(鈔)圭峰云:今知心是佛心,定當作佛,然而本來成佛,非作得故。
(Sao: Ngài Khuê Phong nói: “Nay biết tâm là tâm Phật, nhất định sẽ làm Phật, nhưng là vốn sẵn thành Phật, chẳng phải là do sẽ chứng đắc mà làm Phật).
Người biết sự thật này chẳng nhiều. Chúng ta tuy nghe nói, có phải là thật sự biết hay không? Chưa chắc! Vì sao? Nếu thật sự biết, quý vị sẽ có cái nhìn khác hẳn đối với người, sự, vật. Nếu nói nông cạn, rõ ràng hơn một chút, sẽ là chắc chắn quý vị chẳng xử sự bằng cảm tình. Nếu quý vị xử sự, đãi người, tiếp vật vẫn luôn bị tình cảm chi phối, thì nói cách khác, quý vị chẳng hiểu rõ chuyện này. Vì chuyện này là tri kiến của Phật; nhập Phật tri kiến là Phần Chứng Phật. Lẽ đâu Phần Chứng Phật còn xử sự theo tình cảm? “Tâm thị Phật tâm” (Tâm là tâm Phật). Tâm chúng sanh và tâm Phật là một, chẳng hai. Nhà Thiền thường nói: “Nếu người hiểu biết tâm, đại địa không tấc đất”. Quý vị có thật sự nhận biết cái tâm hay không? Nhận biết cái tâm là minh tâm, minh tâm là kiến tánh, kiến tánh là thành Phật, nhà Thiền có nói “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Vì vậy, tâm xác thực là có, nhưng bản thân chúng ta không biết. Nếu biết, chắc chắn quý vị sẽ đối đãi vạn sự vạn vật bằng cái tâm bình đẳng vì tâm là bình đẳng. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, Tây Phương Cực Lạc thế giới đều là vật do tự tánh biến hiện, lẽ nào bất bình đẳng? Đương nhiên là bình đẳng.
Nay cái tâm chúng ta bất bình đẳng đối với hết thảy vạn vật, bất bình đẳng là gì? Chính là vọng tâm, là tâm phân biệt, tâm chấp trước, là tâm ý thức, chẳng phải là chân tâm. Chân tâm là Phật tâm, tâm chúng ta là vọng tâm. Vọng tâm là giả tâm, chính là phàm phu tâm. Vọng tâm do đâu mà có? Vọng tâm do chân tâm bị mê mất mà biến hiện. Chẳng mê thì là chân tâm; đã mê thì chân tâm bèn là vọng tâm. Đã mê bèn xử sự theo tình cảm, chẳng liễu giải chân tướng của hết thảy sự thật. Đã giác ngộ, sẽ là xử sự thuần túy bằng trí huệ, sẽ là Bát Nhã, chuyển phiền não thành Bồ Đề. Bồ Đề là giác tâm, không mê. Nói theo kiểu này, chư vị vẫn thấy rất khó lãnh hội, chúng tôi lại giảng rõ ràng, giảng rành rẽ hơn một chút. Mê là gì? Giác là gì? Phàm là niệm nào cũng suy nghĩ vì chính mình thì là mê. Niệm nào cũng vì ta, vì nhà của ta, vì đạo tràng của ta, đều là mê! Niệm nào cũng vì hết thảy chúng sanh, đó là giác ngộ. Quý vị hãy tự kiểm điểm một phen, quý vị là giác hay mê? Sẽ biết ngay! Cách kiểm nghiệm này khá dễ dàng, cũng rất đáng tin cậy! Quý vị khởi tâm động niệm là nghĩ vì mình hay là nghĩ tới người khác? Mê hay ngộ phân định ở ngay chỗ này!
Giác tâm trọn khắp hết thảy mọi nơi. Đó là chân tâm. Tâm mê rất nhỏ, có phân biệt, có chấp trước, đã mê rồi! Kinh Lăng Nghiêm nói tâm giác ngộ giống như biển cả, tâm mê như một cái bọt nước trồi lên trong biển. Kẻ ấy chấp trước bọt nước là chính mình, quên bẵng biển cả. Khi nào bọt nước vỡ tan, mới biết tâm lớn dường ấy. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật” là nói theo góc độ này, nói từ chỗ này. “Thành Phật phi tác đắc cố” (Thành Phật chẳng phải là do chứng đắc mà làm Phật): Thành Phật thì quý vị có thật sự làm Phật hay không? Có đạt được Phật quả hay không? Chẳng có! Vì sao? Quý vị vốn là Phật. Vốn là Phật, [nếu] lại đạt được Phật quả, đó gọi là “trên đầu chồng thêm cái đầu nữa”, lại mê hoặc, điên đảo mất rồi!
(Sao) Tắc đản kiến Thỉ Giác tân lai, bất tri Bổn Giác cố hữu, khả vị bổ tắc quyết định bổ, thành tắc thật bất thành!
(鈔)則但見始覺新來,不知本覺固有,可謂補則決定補,成則實不成。
(Sao: Chính là chỉ thấy Thỉ Giác mới đạt được, chẳng biết Bổn Giác vốn sẵn có, có thể nói là “bổ xứ bèn quyết định là bổ xứ, nhưng thành Phật thì thật sự chẳng thành”).
Phải chú tâm lãnh hội lời này. Thỉ Giác là bắt đầu giác ngộ. Xét từ phía phàm phu chúng ta trong hiện thời, hiện tiền chúng ta có giác hay không? Đương nhiên là có giác. Nếu quý vị chẳng có Thỉ Giác, mà là bất giác, làm sao quý vị có thể đến đây nghe kinh? Tối nay quý vị từ nhà đến đây nghe kinh, chứng minh quý vị đã giác ngộ; đó là Thỉ Giác. Quý vị hằng ngày đều giác ngộ; vì thế, mỗi ngày đều là Thỉ Giác. Từ phàm phu mãi cho đến Đẳng Giác Bồ Tát, vẫn là Thỉ Giác. Đẳng Giác Bồ Tát thành Phật, Thỉ Giác hợp với Bổn Giác. Đạt đến thành Phật viên mãn thì hai chữ Thỉ Giác chẳng còn nữa, chẳng nói được. Chưa thành Phật viên mãn, mỗi ngày đều đang giác ngộ. Vì lẽ đó, Thỉ Giác chẳng phải là nói “bắt đầu vào một ngày nào đó”, mà là “mỗi ngày đều là bắt đầu”. Đấy là ý nghĩa của Thỉ Giác.
“Đản kiến Thỉ Giác tân lai” (Chỉ thấy Thỉ Giác vừa mới đạt được): Trong quá trình tu học, chúng ta mỗi ngày giác ngộ, mỗi ngày có cảnh giới mới, mỗi ngày có sự khải thị mới mẻ. Điều này hết sức rõ rệt, quý vị mỗi ngày đều đang tiến bộ. Hiện tượng tiến bộ nhất định là phiền não nhẹ đi, trí huệ tăng trưởng, phân biệt, chấp trước, vọng tưởng ngày càng ít hơn, thanh tịnh, bình đẳng, trí huệ ngày càng tăng thêm; đó là cảnh giới tốt đẹp. Nếu chẳng có cảnh giới này thì chẳng được rồi! Nói cách khác, quý vị học Phật chẳng phải là ngưng tại đó, mà là đang thụt lùi. Có cảnh giới ấy, mỗi ngày đều tiến bộ, cảnh giới ấy là cảnh giới tốt đẹp.
Vì Bổn Giác là cố hữu, vốn sẵn có, nên ở đây, cổ đại đức bảo chúng ta “bổ tắc quyết định bổ”, “bổ” (補) là gì? Thị hiện. Đến khi quý vị thành Phật, vì chính quý vị có bổn nguyện độ chúng sanh, nên sau khi thành tựu, chắc chắn sẽ dùng hạnh để thực hiện nguyện ấy. Quý vị sẽ thực hiện đại nguyện của chính mình. Nơi nào có chúng sanh mong mỏi quý vị tới giúp họ, quý vị nhất định đến đó. Vì thế, “bổ tắc quyết định bổ”. “Thành tắc thật bất thành”: Thành và bất thành đều chẳng có. Vì sao? Thành Phật và chẳng thành Phật là hai pháp; Lục Tổ đại sư nói: “Hai pháp chẳng phải là Phật pháp, Phật pháp là pháp bất nhị”. Quý vị có Thành thì sẽ có cái tương phản của nó là “chẳng thành”, đúng như nhà Phật đã nói: “Động niệm liền trật”, không cho phép quý vị khởi tâm động niệm! Khởi tâm động niệm còn chẳng thể, thì ngôn ngữ đương nhiên càng không thể đạt đến được. Đó gọi là “mở miệng bèn trật, động niệm liền sai”. Nhất định phải hiểu rõ ý nghĩa chân thật này. Vì lẽ đó, hết thảy ngôn thuyết đều là phương tiện thuyết, có nói đến chỗ chân thật hay không? Chẳng có! Chẳng nói một chữ nào! Những ngôn ngữ nói ra đều là hòn ngói để gõ cửa, là cột mốc chỉ đường, quý vị phải thấu hiểu nghĩa chân thật từ những điều ấy. Nghĩa chân thật không ở trong ngôn ngữ, cũng giống như vậy, nó chẳng ở trong văn tự! Nghĩa chân thật nhất định là lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự (lìa văn tự), lìa tướng tâm duyên. Trong tâm chẳng thể tưởng, hễ tưởng bèn lại chấp tướng. Phải là “hết thảy đều chẳng chấp trước” thì mới có thể ngộ nhập. Vì thế, thật sự khế nhập cảnh giới. Khế nhập cảnh giới là nhập pháp môn Bất Nhị, nhập pháp môn Bất Nhị là như kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Nhập bất tư nghị giải thoát cảnh giới”. Cảnh giới bất tư nghị giải thoát còn gọi là Nhất Chân pháp giới. Trong Tịnh Độ Tông, đắc nhất tâm bất loạn liền “nhập nhất”, [nghĩa là] từ đấy trở đi, chẳng còn có hai! Hai là gì? Khởi tâm động niệm là hai. Nói cách khác, trong hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, thật sự chẳng khởi tâm, không động niệm. Chẳng khởi tâm, không động niệm thì vạn pháp như nhau, pháp nào cũng đều đúng, pháp nào cũng đều như, đó là thật sự bình đẳng. Do đó nói: “Thành tắc thật bất thành”. Nếu chư vị lãnh hội một chút ý nghĩa này thì quý vị mới có thể hiểu rõ lời này. Câu này có ý nghĩa rất sâu!
Chánh thị nguyện hạnh linh tri tu chứng.
正示願行令知修證。
(Chỉ thẳng vào nguyện hạnh khiến cho [người nghe] biết tu chứng).
Khai thị đại nguyện và đại hạnh của Phật Di Đà, nêu gương cho chúng ta, hòng khiến cho chúng ta hiểu rõ tu như thế nào, chứng như thế nào. Kinh văn chia thành bốn đoạn:
Sơ phát nguyện, nhị khởi hạnh, tam cảm quả, tứ kết khuyến.
(Kinh) Xá Lợi Phất! Chúng sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc.
初發願,二起行,三感果,四結勸。
(經)舍利弗。眾生聞者。應當發願。願生彼國。
(Một là phát nguyện, hai là khởi hạnh, ba là cảm quả, bốn là tiểu kết nhằm khuyên lơn.
Kinh: Này Xá Lợi Phất! Chúng sanh nghe vậy hãy nên phát nguyện, nguyện sanh về cõi ấy).
Trong đoạn này, đức Phật rát miệng buốt lòng khuyên dạy chúng ta. Trong phần trên đã nói lắm lời lẽ như vậy, mục đích là để khuyên chúng ta cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ.
(Sớ) Thượng trần y chánh nhị báo.
(疏)上陳依正二報。
(Sớ: Trong phần trên đã trần thuật y báo và chánh báo).
“Trần” (陳) là trần thuyết (陳說), nói rõ sự tốt đẹp nơi hoàn cảnh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Y báo là hoàn cảnh vật chất, chánh báo là hoàn cảnh nhân sự. [Y báo và chánh báo] tốt đẹp đến tột cùng, chẳng có tơ hào khiếm khuyết. Vì thế gọi là thế giới Cực Lạc.
(Sớ) Kim ngôn chúng sanh đắc văn thử giả.
(疏)今言眾生得聞此者。
(Sớ: Nay nói chúng sanh được nghe điều này).
Chúng ta chẳng nghe nói sẽ không biết, vậy thì đành chịu; nhưng đã nghe, đã hiểu rõ, cớ sao chẳng hâm mộ? Lẽ đâu chẳng nên cầu sanh?
(Sớ) Ưng đương phát khởi đại nguyện, nguyện sanh bỉ quốc.
(疏)應當發起大願,願生彼國。
(Sớ: Hãy nên phát khởi nguyện lớn, nguyện sanh về cõi ấy).
Đại nguyện là gì? Nguyện sanh về cõi ấy là đại nguyện.
(Sớ) Thị vi đệ nhất trùng khuyến, hậu nãi phản phúc thân minh.
(疏)是為第一重勸,後乃反覆申明。
(Sớ: Đây là khuyên lần thứ nhất, sau đó, lại lặp đi lặp lại vấn đề hòng giảng rõ).
Trong kinh này, đức Phật trước sau ba lượt khuyến khích chúng ta cầu sanh Tịnh Độ, đây là lần đầu tiên. Một rồi hai, hai rồi ba, rát miệng buốt lòng khuyên bảo. Lời Sao dưới đây giảng rõ về ba lượt khuyến cáo.
(Sao) Đệ nhất trùng khuyến giả, kinh trung phản phúc khuyến văn, khuyến tín, khuyến nguyện, ước hữu tứ trùng.
(鈔)第一重勸者,經中反復勸聞、勸信、勸願,約有四重。
(Sao: “Khuyên lần thứ nhất”: Trong kinh nhiều lượt nhắc đi nhắc lại khuyên hãy nghe, khuyên hãy tin, khuyên hãy nguyện, có khoảng bốn lần [như vậy]).
Tôi vừa mới nói là ba lượt, trên thực tế là bốn lần. Bốn lần khuyên lơn, khích lệ chúng ta cầu sanh Tây Phương.
(Sao) Kim đương tối sơ.
(鈔)今當最初。
(Sao: Nay là lần đầu tiên).
Đoạn kinh văn này là khuyên lần đầu tiên.
(Sao) Thị văn y chánh trang nghiêm thắng diệu công đức chi thuyết nhi phát nguyện dã.
(鈔)是聞依正莊嚴勝妙功德之說而發願也。
(Sao: Tức là do nghe nói công đức thù thắng nhiệm mầu nơi y báo và chánh báo trang nghiêm mà phát nguyện).
Nghe đức Phật nói đoạn kinh văn trên đây bèn có thể phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, đó là hạng người bậc nhất. Hạng người bậc nhất là ai? Các vị Đẳng Giác Bồ Tát trong mười phương thế giới. Các Ngài vừa nghe liền lập tức phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Vì lẽ đó, trong thế giới Tây Phương mới có nhiều vị Đẳng Giác Bồ Tát như vậy! Có thể nói là các vị Đẳng Giác Bồ Tát trong mười phương thế giới vô lượng vô biên các cõi Phật đều tụ hội trong thế giới Tây Phương. Các Ngài vừa nghe liền tin tưởng, hiểu rõ, phát nguyện cầu vãng sanh.
(Sao) Nhị ngôn văn thị thuyết giả, thị văn nhất tâm trì danh quyết định vãng sanh chi thuyết nhi phát nguyện dã.
(鈔)二言聞是說者,是聞一心持名決定往生之說而發願也。
(Sao: Hai là [chánh kinh] nói “người nghe nói như thế” chính là [nói tới những người] nghe nói “nhất tâm trì danh quyết định vãng sanh” bèn phát nguyện).
Trong bốn lần khuyên, ở đây là tổng thuyết (nói tổng quát), khi đến các phần kinh văn trong phần sau, chúng ta sẽ đọc từng đoạn. Lần khuyên thứ hai ở trong chương này, đức Phật bảo chúng ta: “Nhất tâm trì danh, sẽ quyết định vãng sanh”, nghe điều tốt đẹp này, người ấy bèn phát nguyện cầu sanh. Đó là hạng thiện căn sâu dầy, chúng ta thường nói là bậc “thượng căn lợi trí”. Vì sao? Từ địa vị phàm phu tu thành Phật quả phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp, kinh thường nói như vậy. Nói theo kinh Hoa Nghiêm, sẽ chẳng phải là ba A-tăng-kỳ kiếp, mà là vô lượng kiếp. Vì sao trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật nói chẳng giống với những kinh khác? Chư vị phải hiểu, thành Phật thì Phật có bốn loại là Tạng, Thông, Biệt, Viên. Phật nói “ba đại A-tăng-kỳ kiếp thành Phật” là nói tới Tạng Giáo Phật, Thông Giáo Phật và Biệt Giáo Phật, Hoa Nghiêm nói “vô lượng kiếp thành Phật” tức là Viên Giáo Phật. Phật có rất nhiều chủng loại, rốt cuộc quý vị thành loại Phật nào? Cần thời gian dài ngần ấy, vừa nghe kinh này nói “nhất tâm trì danh quyết định vãng sanh”, đó là thành tựu ngay trong một đời, quý vị ngẫm xem, người thông minh lẽ nào chẳng tuyển chọn pháp môn này? Trước kia, tu hết thảy các pháp môn, [nay] nghe pháp môn này, lập tức buông xuống, bỏ sạch, chuyên tu pháp môn này, vì sao? Pháp môn này dễ dàng, thành tựu rất nhanh chóng, lại còn thành tựu ổn thỏa, thích đáng, quyết định thành tựu. Người thông minh lợi căn bèn chọn lựa pháp môn này.
(Sao) Tam ngôn văn thị kinh giả, thị văn trì danh Phật hộ bất thoái Bồ Đề chi thuyết nhi tín thọ dã, bất ngôn nguyện giả, tín thọ tức nguyện cố.
(鈔)三言聞是經者,是聞持名佛護不退菩提之說而信受也。不言願者,信受即願故。
(Sao: Ba là nói “kẻ nghe kinh này”, tức là [nói tới những kẻ] nghe nói “trì danh thì đức Phật sẽ hộ trì khiến cho Bồ Đề chẳng thoái thất” bèn tin nhận. Chẳng nói tới “nguyện”, vì hễ đã tin nhận bèn nguyện).
Khuyên lần thứ ba, nghe nói “niệm Phật, mười phương chư Phật, Bồ Tát gia hộ quý vị”, nghe có công đức và lợi ích thù thắng như vậy mới phát tâm. Người Hoa nói “hộ” (護: bảo vệ, gìn giữ) là “bảo hựu” (保佑). Niệm một câu Phật hiệu A Di Đà Phật, mười phương ba đời hết thảy chư Phật, Bồ Tát đều gia hộ quý vị, vì sao? Vì A Di Đà Phật được hết thảy chư Phật tôn kính nhất. Hết thảy chư Phật thành Phật đều do niệm A Di Đà Phật mà thành Phật. Vì lẽ đó, quý vị niệm A Di Đà Phật, đương nhiên chư Phật hoan hỷ, đương nhiên là hộ niệm quý vị. Nói thật thà, quý vị niệm Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, chưa chắc chư Phật đã gia hộ quý vị. Quý vị niệm kinh A Di Đà, niệm kinh Vô Lượng Thọ, niệm A Di Đà Phật, chư Phật nhất định gia hộ quý vị, thật vậy! Quý vị niệm chú Đại Bi, niệm chú Lăng Nghiêm, cũng chẳng thể nào được hết thảy chư Phật đều gia hộ quý vị. Công đức và lợi ích thù thắng như vậy đến đâu để tìm cho ra? Kẻ bình phàm chẳng hiểu chuyện này!
Do vậy, pháp môn này là pháp môn bậc nhất để hết thảy chư Phật độ chúng sanh thành Phật đạo. Trong một bài kệ, cụ Hạ Liên Cư có viết: “Ức vạn nhân trung, nhất nhị tri” (Trong ức vạn người, [chỉ có] một, hai kẻ biết), nói lời này chẳng sai chút nào! Nay quý vị tu pháp môn này, gặp một số pháp sư đại đức khuyên quý vị đừng nên tu pháp môn này, khuyên quý vị chớ nên niệm kinh này, lời lẽ ấy có kỳ quái hay không? Chẳng kỳ quái! Vì sao? Trong ức vạn người, [chỉ] có một hai kẻ biết. Vì sao họ biết? Huống hồ trong kinh luận hoặc trong chú sớ, tổ sư đại đức đã bảo ban chúng ta, như Thiện Đạo đại sư đã nói: “Ba bậc chín phẩm là hiện tượng nẩy sanh do chúng ta gặp duyên bất đồng”. Quý vị gặp duyên thù thắng, quý vị có thể là thượng phẩm thượng sanh trong một đời này. Gặp duyên chẳng thù thắng, sẽ là hạ phẩm vãng sanh. Thù thắng là gì? Đối với y báo và chánh báo trang nghiêm cùng hết thảy sự lý đều có thể hiểu rõ Lý, tin sâu, chẳng nghi, đó là thù thắng. Có thể gặp một vị thiện tri thức giảng giải rành mạch, chúng ta nghe xong bèn hiểu rõ, chẳng có mảy may nghi vấn nào, hoàn toàn tiếp nhận, đấy là quý vị gặp duyên thù thắng. Nói thật ra, các đồng tu đời này có duyên thù thắng hơn cổ nhân trong quá khứ quá nhiều! Thù thắng ở chỗ nào? Chúng ta gặp kinh này, đó là duyên trọng yếu bậc nhất. Các vị đại đức từ xưa có mấy vị xem trọn các bản dịch và bản hội tập của kinh Vô Lượng Thọ? Nếu không thể đọc trọn khắp, duyên ấy còn khiếm khuyết, chẳng thù thắng. Lão hòa thượng Đạo Nguyên suốt một đời hoằng dương Tịnh Độ, kinh Vô Lượng Thọ có chín bản, Sư chỉ được xem bốn bản, còn năm bản kia chưa xem qua. Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam suốt một đời hoằng dương Tịnh Độ, cụ chỉ xem năm bản, còn bốn bản chưa được đọc, quý vị nghĩ xem: Gặp duyên khó lắm! Nay chúng tôi thâu thập cả chín bản, in vào trong Tịnh Độ Ngũ Kinh Độc Bản, mọi người đều được xem, duyên của quý vị vượt trội pháp sư Đạo Nguyên và cư sĩ Lý Bỉnh Nam. Đặc biệt là bản hội tập của lão cư sĩ Hạ Liên Cư xuất hiện trong thế gian còn chưa đầy năm mươi năm. Người năm mươi năm trước chẳng biết có bản này, người năm mươi năm sau biết đến bản này cũng chẳng có mấy. Trong vòng hai ba năm nay, chúng ta cực lực tuyên dương, nên bản này được đồng tu Đài Loan phổ biến biết đến.
(Sao) Tứ ngôn “nhược hữu tín giả” thị tổng kết văn dĩ thâm tín, tín hữu nguyện giả, vô nhất bất sanh chi thuyết nhi phát nguyện dã.
(鈔)四言若有信者,是總結聞已深信,信有願者無一不生之說而發願也。
(Sao: Bốn là nói “nếu có kẻ tin tưởng” nhằm tổng kết chuyện nghe nói “đã nghe rồi tin sâu, do đã tin bèn có nguyện, không một ai chẳng vãng sanh” bèn phát nguyện).
Hạng này xem như thiện căn kém cỏi nhất, nhưng còn có tư cách vãng sanh. Nếu chúng ta dựa theo cấp bậc Giáp, Ất, Bính, Đinh thì những người này thuộc loại Đinh. Hạng Đinh còn có thể vãng sanh. Thấp hơn hạng Đinh sẽ chẳng thể vãng sanh. Họ tin tưởng “người có nguyện thì không một ai chẳng vãng sanh”. Ta phát nguyện, phát nguyện thì sẽ vãng sanh, đúng như vậy đó!
Hôm nay, có đồng học đến nói với tôi, tại Đạm Thủy[77] có một người niệm Phật vãng sanh, suốt đời chưa hề tiếp xúc Phật pháp. Đã thế, [người ấy] phẩm tánh chẳng tốt, ác khẩu, suốt đời tạo tội nghiệp rất nhiều. Khi lâm chung, đầu óc ông ta rất tỉnh táo, có hai vị xuất gia khuyên người ấy niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Người ấy tiếp nhận, nghiễm nhiên cũng biết trước lúc mất, nói với pháp sư: “Lúc bốn giờ, A Di Đà Phật sẽ đến tiếp dẫn tôi”. Họ bèn niệm đến bốn giờ. Tới bốn giờ, Phật chẳng đến tiếp dẫn, liền hỏi người ấy: “Sao ông lại lừa người xuất gia?” Ông ta nói: “Bốn giờ sáng”. Họ nghĩ là bốn giờ chiều. Đến ngày hôm sau ư? Được rồi, lại tiếp tục niệm. Quả nhiên chẳng sai, đến bốn giờ sáng ngày hôm sau, ông ta vãng sanh. “Do có lòng tin mà phát nguyện, không một ai chẳng vãng sanh”, người ấy thuộc về loại này. Thụy tướng vãng sanh là các đồng tu trợ niệm đều ngửi thấy mùi hương lạ. A Di Đà Phật đến tiếp dẫn người ấy, người khác chẳng trông thấy, nhưng chính người ấy trông thấy. Đã thế, A Di Đà Phật còn bảo bốn giờ sẽ đến tiếp dẫn ông ta, tức là cách lúc được tiếp dẫn mười mấy tiếng đồng hồ, cũng coi như là ông ta biết trước lúc mất. Đây là khi bệnh nặng, gặp thiện hữu chỉ dạy, ông ta mới biết.
(Sao) Văn văn chuyển thâm, nguyện nguyện bội thiết, ngữ tuy phản phúc, nghĩa bất lôi trùng, mẫn vật tình thâm, hối nhân bất quyện.
(鈔)聞聞轉深,願願倍切,語雖反覆,義不雷重,憫物情深,誨人不倦。
(Sao: Mỗi lần nghe lại càng sâu hơn, mỗi lần nguyện càng thiết tha gấp bội. Lời lẽ tuy lặp đi lặp lại, nghĩa chẳng trùng lặp, lòng thương xót chúng sanh sâu xa, dạy bảo người khác chẳng mệt mỏi).
Mấy câu này là lời tán thán vô thượng đối với Thích Ca Mâu Ni Phật. Đức Phật rát miệng buốt lòng khuyên bảo chúng sanh, nói một lần rồi nhắc lại lần thứ hai, nói lần thứ hai lại nói lần thứ ba, nói lần thứ ba rồi nhắc nhở lần thứ tư hòng khuyên lơn, khích lệ chúng ta, hy vọng chúng ta sẽ giác ngộ. Giác ngộ là gì? Thật sự phát nguyện, nguyện sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, thưa cùng chư vị, đó chính là đại triệt đại ngộ, là triệt để giác ngộ. Thật sự phát nguyện vãng sanh, ắt phải lạnh nhạt đối với thế gian này, chẳng lưu luyến thế gian này. Trước khi vãng sanh, chúng ta tận tâm tận lực hoằng dương pháp môn này, giúp người khác nhận biết pháp môn này, giúp người khác phát nguyện vãng sanh. Đó chính là “thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ” (trên đền bốn ân nặng, dưới cứu khổ ba đường). Chúng ta hoằng dương pháp môn này chính là “trên đền bốn ân”, hy vọng hết thảy chúng sanh có được pháp môn này, mọi người đều niệm Phật vãng sanh, đó là “dưới cứu khổ ba đường”. Chúng ta phải làm như vậy thì mới được! Trừ chuyện này ra, thế gian này chẳng có chuyện gì là có ý nghĩa. Chỉ có báo Phật ân, chỉ có giúp chúng sanh triệt để giác ngộ cầu sanh Tây Phương, đó là chuyện có ý nghĩa, là chuyện chúng ta phải nên làm. Nói cách khác, trừ chuyện này ra, những thứ khác đều chẳng nên làm, chẳng có ý nghĩa gì!
(Sớ) Hựu văn nhiếp tín nghĩa, nguyện nhiếp hạnh nghĩa, tam sự tư lương, tất bị ư thử.
(疏)又聞攝信義,願攝行義,三事資糧,悉備於此。
(Sớ: Lại có nghĩa là “nghe bao gồm tín; nguyện bao gồm hạnh”. Ba sự tư lương thảy đều đầy đủ trong ấy).
Ba điều kiện trọng yếu nhất của Tây Phương Tịnh Độ là Tín, Nguyện, Hạnh. Trong Văn (nghe) bao gồm Tín. Nếu nói nghe xong mà chẳng tin, như vậy thì chẳng gọi là Nghe. Cớ sao nghe xong chẳng tin? Chẳng nghe rõ ràng, nghe chẳng hiểu rõ, đó chẳng gọi là Nghe. Nhất định phải làm cho đối phương thật sự triệt để nhận thức, hiểu rõ, sanh khởi tín tâm, đấy mới là nghe pháp, thật sự nghe. Trong Nguyện bao gồm Hạnh: Nếu người ấy đã nguyện vãng sanh, lẽ đâu chẳng niệm Phật? Nguyện vãng sanh mà không niệm Phật, nguyện ấy chẳng phải là nguyện thật sự. Trong mười hai thời, một câu Phật hiệu quyết chẳng gián đoạn thì mới là nguyện thật sự. Tín, Nguyện, Hạnh “tam sự tư lương, tất bị ư thử” (ba sự tư lương đều trọn đủ trong ấy). “Ư thử” là chỉ câu kinh văn trong phần trên: “Chúng sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc” (Chúng sanh nghe rồi hãy nên phát nguyện, nguyện sanh về cõi ấy). Trong một câu này, ba điều kiện thảy đều đầy đủ.
(Sao) Văn nhiên hậu tín, phỉ văn tắc tín tự hà sanh?
(鈔)聞然後信,匪聞則信自何生。
(Sao: Nghe xong mới tín. Nếu không nghe, tín từ đâu sanh ra?)
Do vậy có thể biết, nếu chúng ta muốn hết thảy chúng sanh thật sự tin tưởng pháp môn này, chỉ có một phương pháp: Phải giảng cặn kẽ kinh điển này cho người khác nghe, vì sao? Họ mới có thể tin tưởng. Nếu quý vị chẳng giảng cặn kẽ cho họ nghe, họ chẳng tin! Phát nguyện hoằng kinh là pháp bậc nhất, thù thắng nhất để báo ân Phật. Có lẽ sẽ có đồng học nói: “Tôi rất ngu, chẳng đủ trình độ, làm sao có thể hoằng kinh? Làm sao có thể giảng kinh được?” Người ở Nam Phổ Đà Phật Học Viện kể với tôi: “Phật học viện ấy có mười mấy vị đồng học đã tốt nghiệp Đại Học, những người khác đã tốt nghiệp Cao Trung (cấp ba, Trung Học Đệ Nhị Cấp), hoặc có bằng chuyên khoa trở lên, trình độ cao, hay quá! Họ giảng cho tôi, tôi không màng, vì sao? Vì tôi chẳng có trình độ cao như vậy!” Thuở ấy, thầy Lý mở lớp dạy chúng tôi học giảng kinh, trong nhóm ấy, người đã học Đại Học (vẫn chẳng biết là có tốt nghiệp hay chưa) chỉ có một người, Cao Trung được hai ba người, ngoài ra phần lớn là vừa xong Tiểu Học hoặc tốt nghiệp Sơ Trung, có trình độ như vậy. Tuổi tác thì sao? Từ ba mươi trở lên là trẻ nhất. Tuổi cao thì như bà Lâm Khán Trị đã sáu mươi tuổi, học hết Tiểu Học, tham dự lớp ấy với chúng tôi. Khi bà Lâm Khán Trị học giảng kinh ở đó, cháu nội gái của bà là cô giáo trường tiểu học quốc lập; bà Lâm đã thuộc hàng bà nội mà còn bắt đầu học giảng kinh với chúng tôi tại đó. Hai mươi mấy người chúng tôi, trong hai năm được thầy Lý huấn luyện, ai nấy đều lên bục giảng, giảng vẫn khá lắm! Có thể thấy là chuyện này chẳng cần trình độ rất cao, tuổi cao trọn chẳng trở ngại!
Khi đó, thầy Lý bảo chúng tôi, khuyến khích chúng tôi như sau: “Học những thứ thuộc về thế gian thì đóng tuồng Bình Kịch khó nhất”. Cụ bảo: “Hát Bình Kịch khó nhất, khó hơn giảng kinh rất nhiều”. Vì sao? Hát Bình Kịch, nói chung, quý vị chẳng thể cầm kịch bản lên sân khấu đọc được, quyết chẳng thể được! Khi giảng kinh, có thể bày kinh bổn và chú giải trên giảng đài, dễ dàng hơn! Còn một điều nữa, khi diễn tuồng, mỗi chữ, mỗi câu chẳng thể hát sai, lại còn phải thuộc động tác, phải phối hợp nhịp nhàng theo tiết tấu của thanh la và trống. Khó quá! Không chỉ là khó gấp mười lần so với giảng kinh. Cụ nói: “Chuyện đó mà còn có người có thể học được, há còn có chuyện gì khó khăn nữa ư?” Có thể học được hát tuồng như thế nào? Cụ bảo: Xưa kia, tại Đại Lục, gia cảnh rất nghèo hèn, con thơ nuôi không nổi, bèn bán cho gánh hát để theo học tuồng. Bán cho gánh hát, trong khế ước có một điều: “Đánh chết chẳng đền mạng”. Lão nhân gia nói: “Thiên hạ chẳng có gì không học được”. Vì sao? Đòn vọt, khi bị đánh quý vị liền ghi nhớ. Chỗ này quý vị nhớ không được, bị đánh bèn đặc biệt ghi nhớ. Trong lớp học giảng kinh của chúng tôi, thầy Lý không chỉ chửi bới, mà còn đánh nữa. Tuổi tác chúng tôi rất lớn, người ngoài nhìn vào thấy khó coi. Vì vậy, chúng tôi lên lớp đều đóng chặt cửa, không cho người khác xem. Không chỉ là chẳng thể cho người khác xem, mà bên ngoài có sai người dò la, chẳng cho họ tiếp cận, [bởi lẽ], trong lớp học có đánh, có chửi! Chỉ cần quý vị phát tâm, chẳng có ai không học được! Không cần trình độ rất cao!
Thuở trước, tại Hương Cảng, pháp sư Diễn Bồi muốn thâu nhận mấy đồ đệ, điều kiện của Ngài là: “Chỉ cần thật thà, nghe lời, tốt nghiệp Sơ Trung là được rồi”. Người ta hỏi Sư: “Người khác nhận học trò đều phải là tốt nghiệp Đại Học, hoặc là Tiến Sĩ xuất gia. Sao lão nhân gia ra điều kiện thấp như vậy?” Cụ Diễn Bồi nói: “Trình độ của tôi rất thấp”. Nói lời ấy có lý lắm. Trình độ cao, mắt trợn ngược lên đỉnh đầu, không nghe lời, thứ gì cũng chẳng thể học được! Thật sự phát tâm, Tam Bảo gia trì. Vì vậy, chỉ cần có nguyện, chẳng có ai không thành tựu!
Phải phát tâm hoằng kinh, giảng rõ ràng, minh bạch kinh điển thì mới có thể làm cho người nghe dấy lòng tin. Nếu quý vị giảng bộ kinh này, thính chúng chẳng có một ai tin tưởng, quý vị đã hoàn toàn thất bại. Nếu trong thính chúng có người tin tưởng, quý vị đã thành công, chẳng uổng công giảng kinh này, đó là bước đầu tiên, là thành công nho nhỏ. Thành công bậc trung là trong số đó có người phát nguyện. Thành công bậc thượng là trong thính chúng có người vãng sanh. Có người quyết định vãng sanh thì giảng kinh như vậy có công đức thượng thừa, đúng là tiếp dẫn vãng sanh.
Điều này nhằm nói rõ tầm trọng yếu của việc phát nguyện hoằng kinh.
(Sao) Nguyện nhiên hậu hành, vô nguyện tắc hạnh hà diêu khởi? Hạ văn tín hạnh, thử vi bổn nguyên.
(鈔)願然後行,無願則行何繇起。下文信行,此為本原。
(Sao: Nguyện rồi sau đó bèn hành. Không có nguyện thì hạnh do đâu mà khởi được? Tín và hạnh trong phần kinh văn phía sau có cội nguồn từ chỗ này).
Nghe pháp là cội nguồn.
(Sao) Tín hạnh nguyện tam, Tịnh Độ tư lương, sung túc vô khiếm.
(鈔)信行願三,淨土資糧,充足無欠。
(Sao: Ba điều Tín, Hạnh, Nguyện là tư lương Tịnh Độ được trọn đủ chẳng thiếu hụt).
Ba điều kiện đầy đủ. Có các đồng học phát tâm giảng kinh thường đến hỏi tôi: Làm như thế nào thì mới giảng kinh này cho hay được? Chẳng có cách nào học được điều này! Tôi thật thà bảo cùng mọi người: Tôi học kinh với thầy Lý ở Đài Trung, trước khi xuất gia, tôi theo thầy một năm ba tháng, đường lối kỹ thuật và phương pháp biểu diễn của thầy trên bục giảng tôi đều biết hết. Điều này giống như học binh pháp, tôi đã học binh pháp nhuyễn nhừ, nhưng như thế nào? Chẳng thể đánh giặc! Trên giảng đài, tôi không thể dùng được! Tôi ở dưới phê bình, điều gì tôi cũng đều có thể phê bình, vì sao? Tôi biết. Nhưng khi tôi lên giảng đài, chẳng thể sử dụng, vì sử dụng chẳng thích hợp. Sau khi xuất gia, tôi lại đến Đài Trung, theo học với thầy bảy, tám năm. Trong bảy, tám năm ấy, học những gì? Hoàn toàn quan sát, phỏng theo thầy. Thầy giảng như thế nào thì kinh này tôi cũng có thể giảng. Ở trên bục giảng, tôi giảng theo cách nào? Nghe theo thầy, thầy giảng theo cách nào? Tôi nghe là nghe những thứ ấy, trọn chẳng phải là nghe thầy giảng kinh văn. Phương pháp nghe kinh ấy, trong các học trò của lão nhân gia chẳng có người thứ hai. Đối với nội dung của kinh điển, cụ cũng tham khảo chú giải. Các bản chú giải tôi đều có, thậm chí tôi thâu thập các bản chú giải còn nhiều hơn cụ. Cụ lên bục giảng, diễn giải những tài liệu ấy ra sao, tôi quan sát điều ấy. Chư vị ngẫm xem, học lấy đường lối, học phương pháp, trong hai giờ tôi học hiểu; nhưng phải học sao cho trên giảng đài, chính mình có thể vận dụng linh hoạt, sử dụng thuận theo lòng muốn. Tôi quan sát thầy Lý suốt bảy, tám năm, chính mình luyện tập trên giảng đài mười năm mới sử dụng theo đúng lòng muốn, mọi việc đều thuận lợi. Đây chẳng phải là chuyện đơn giản, chẳng phải là ai cũng có thể học được!
Tôi quy kết một trọng điểm, trọng điểm chính là thái độ học tập, đó là nhân tố quyết định. Phương pháp và sự khéo léo kém quan trọng hơn, chúng đương nhiên là trọng yếu, nhưng chẳng phải là quan trọng nhất. Quan trọng nhất là thái độ tu học. Trong [giảng] kinh, chúng tôi thường khuyên các đồng tu hãy buông bỏ chính mình, tuyệt đối chẳng vì tiếng tăm, lợi dưỡng của chính mình, hết thảy nhằm báo ân Phật ân, nhằm báo ân chúng sanh. Quý vị sử dụng tâm thái như vậy thì mới có thể cảm ứng đạo giao cùng chư Phật, Bồ Tát, trên giảng đài mới được chư Phật, Bồ Tát gia trì, mới có thể giảng hay, giảng đến nỗi có thể chạm đúng tiếng tơ lòng của người nghe.
Nói thật ra, chạm đúng tiếng tơ lòng của người nghe có phải là năng lực của chính mình hay không? Chẳng phải, đó là do Phật, Bồ Tát gia trì! Không chỉ là người giảng được Phật, Bồ Tát gia trì, mà người nghe cũng được Phật, Bồ Tát gia trì. Nếu Phật, Bồ Tát chẳng gia trì, làm sao quý vị nghe hiểu cho được? Quý vị có thể nghe thông hiểu, nghe hoan hỷ là do Phật, Bồ Tát gia trì. Điều này chứng tỏ thiện căn từ vô lượng kiếp trong đời quá khứ đã phát hiện. Quý vị chẳng có thiện căn, Phật, Bồ Tát có muốn gia trì cũng chẳng thể gia trì! Chính mình thật sự có thiện căn, hiện thời được Tam Bảo gia trì, người nói và kẻ nghe mới có thể đạt được lợi ích thù thắng. Lợi ích thù thắng là sanh khởi chân tín, nguyện thiết, y giáo phụng hành, trong đời này quyết định vãng sanh thế giới Cực Lạc. Điều hết sức quan trọng là phải bỏ sạch hết thảy phân biệt, chấp trước, vọng tưởng!
Tu Tịnh Độ, tuy Tịnh Độ có năm kinh một luận, nhưng nếu chư vị thật sự mong quyết định sanh về Tịnh Độ trong một đời này thì đối với năm kinh một luận, chỉ có thể chọn lấy một thứ. Năm kinh một luận là sáu thứ, chọn bất cứ một thứ nào cũng đều được, đều có thể quyết định thành tựu, thâm nhập một môn. Sau khi đã thâm nhập một môn, năm thứ khác chắc chắn sẽ thông suốt. Không chỉ là thông suốt năm thứ khác, mà tất cả hết thảy Đại Thừa Phật pháp cũng nhất định sẽ thông đạt. Không chỉ là thông đạt Đại Thừa Phật pháp, mà lại thưa cùng quý vị, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng có gì không thông đạt. Vì sao? Vì hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều là “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, quý vị thật sự chứng được thanh tịnh, bình đẳng, há lẽ nào chẳng thông đạt? Chứng đắc thanh tịnh, bình đẳng là chứng đắc nhất tâm bất loạn, là minh tâm kiến tánh, là đại khai viên giải. Sau khi đã thông đạt hết thảy, khi đó, quý vị vẫn đại từ đại bi hoằng dương một môn, vì sao? Nêu gương cho kẻ chưa ngộ, khiến cho họ có một con đường chánh đáng để noi theo. Đó là từ bi. Chúng ta thấy bao nhiêu vị tổ sư đại đức từ xưa, suốt đời chuyên hoằng truyền một bộ kinh, hoặc một bộ luận, tối đa là chẳng vượt quá mười bộ. [Những vị hoằng truyền] mười bộ hết sức hiếm có, quá nửa là chuyên hoằng truyền một bộ hoặc hai bộ. Các Ngài có thành tựu thù thắng ngần ấy, đều nêu gương cho chúng ta, đấy cũng là các vị tổ sư đại đức đại từ đại bi; chẳng phải là các Ngài không biết, thứ gì các Ngài cũng đều thông hiểu!
Nói tới chỗ này, ba điều kiện đầy đủ. Hễ ba điều kiện đầy đủ, chắc chắn sẽ vãng sanh. Phẩm vị vãng sanh cao hay thấp, tùy thuộc quý vị có công phu cạn hay sâu! Công phu là gì? Công phu chẳng phải là niệm Phật hiệu bao nhiêu, không do điều này, mà là độ thuần nơi cái tâm thanh tịnh trong niệm Phật. Tâm càng thanh tịnh, càng bình đẳng, công phu càng sâu. Công phu cạn hay sâu phụ thuộc mức độ thanh tịnh của cái tâm; nói theo kinh Vô Lượng Thọ sẽ là “thanh tịnh, bình đẳng, giác”, ba chuyện này có mức độ cao thấp, sâu cạn sai khác. Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này.
Tập 207
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm mười lăm:
(Sớ) Hựu nguyện chi vi lực, bất khả tư nghị, bỉ Phật Tịnh Độ diệc diêu nguyện cố. Lâm chung vãng sanh, duy trượng nguyện cố. Tam giới nhân quả, tất tùy nguyện cố. Chư đại Bồ Tát giai nguyện sanh cố.
(疏)又願之為力,不可思議,彼佛淨土,亦繇願故;臨終往生,惟仗願故;三界因果,悉隨願故;諸大菩薩,皆願生故。
(Sớ: Nguyện lại có sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn. Cõi Tịnh Độ của đức Phật ấy cũng do nguyện mà có. Lâm chung vãng sanh chỉ cậy vào nguyện. Nhân quả trong ba cõi đều tùy thuộc nguyện. Các đại Bồ Tát đều do nguyện mà vãng sanh).
Đoạn Sớ này nêu rõ nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn. Nguyện lực là niệm lực, tức là ý niệm trong cái tâm của chúng ta. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường nói tới y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới. Nói cách khác, tận hư không khắp pháp giới do đâu mà có? Đều sanh từ trong tâm tưởng của hết thảy chúng sanh. Chúng ta biết nguyên lý này, khẳng định nguyên lý ấy, sẽ biết: Đối với chuyện trong thế gian này, có lắm chuyện kỳ quái; nếu chúng ta hỏi: “Có chuyện ấy hay không?” Đương nhiên là có! Vì sao? Tâm có thể biến, có thể sanh, hết thảy vạn vật là cái được biến, cái được sanh. Sức mạnh của cái tâm có thể biến ấy (năng biến tâm) chẳng có cùng tận; do vậy, biến ra vô lượng vô biên các hiện tượng. Tịnh Độ cũng chẳng ra ngoài lệ ấy, cũng chẳng rời lìa tâm tưởng. Chúng ta xem đoạn giải thích dưới đây:
(Sao) Bỉ Phật Tịnh Độ giả.
(鈔)彼佛淨土者。
(Sao: Cõi Tịnh Độ của đức Phật ấy).
Nói tới Tây Phương Cực Lạc thế giới Tịnh Độ.
(Sao) Pháp Tạng dĩ nhân trung tứ thập bát nguyện, kim thành Phật đạo, quảng độ chúng sanh, tắc Như Lai vô tận công đức, giai tùng nguyện sanh, cố vân bất khả tư nghị.
(鈔)法藏以因中四十八願,今成佛道,廣度眾生,則如來無盡功德,皆從願生,故云不可思議。
(Sao: Do ngài Pháp Tạng đã phát ra bốn mươi tám nguyện trong lúc tu nhân, nay thành Phật đạo độ chúng sanh rộng khắp, vô tận công đức của Như Lai đều sanh từ nguyện, nên nói là “chẳng thể nghĩ bàn”).
Điều này xuất phát từ Đại Kinh, tức là kinh Vô Lượng Thọ. Nói thật ra, tinh vi, đẹp đẽ nhất, tinh hoa nhất, thù thắng nhất trong toàn thể Phật pháp, không gì hơn bốn mươi tám nguyện. Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng, tâm tưởng nơi bốn mươi tám nguyện ấy, niệm nào cũng đều là “chỉ ư chí thiện” (止於至善), nghĩa là đức Phật đã nghĩ tới chỗ tốt đẹp tột bậc, tốt lành đến tận cùng, niệm niệm trụ nơi chí thiện! Vì thế nói “bốn mươi tám nguyện thù thắng, tinh vi đẹp đẽ nhất, và cũng là tinh hoa nhất”. Chúng ta niệm bốn mươi tám nguyện, phải biến bốn mươi tám nguyện trở thành tư tưởng của chính mình, biến chúng thành tâm tưởng của chính mình. Phật Di Đà có thể tạo ra thế giới Cực Lạc, lẽ đâu chúng ta chẳng thể tạo thành thế giới Cực Lạc? Thế giới Cực Lạc do chúng ta tạo và thế giới Cực Lạc do A Di Đà Phật đã tạo chẳng hai, chẳng khác, hoàn toàn tương ứng, do điều này bèn quyết định vãng sanh! Không chỉ là vãng sanh, mà thật sự là vãng sanh trong bậc thượng, quyết định là vãng sanh trong ba phẩm thượng. Bốn mươi tám nguyện của Phật Di Đà, nguyện nào cũng phổ độ chúng sanh, làm sao chúng ta có thể đối lập với chúng sanh? Làm sao có thể đối địch với chúng sanh? Không chỉ là đừng nên đối địch nơi hành vi, mà trong tâm hơi có đôi chút ngăn cách thì đã sai mất rồi. Sai không ở nơi cảnh giới, mà là do tư tưởng và kiến giải của chính chúng ta đã sai. Vì sao? Chẳng phải là chí thiện. Dẫu là thiện, nhưng thiện chưa đạt tới viên mãn, chẳng thể coi là chí thiện. Vì lẽ đó, kinh Vô Lượng Thọ xác thực là “chỉ ư chí thiện”, hãy dùng bản kinh này để uốn nắn tư tưởng, kiến giải và hành vi của chúng ta sao cho đích xác là viên mãn bậc nhất. Đấy là lý do vì sao chúng tôi phải đặc biệt đề xướng bộ kinh này. Trong kinh Pháp Diệt Tận[78], Thích Ca Mâu Ni Phật có dạy: Trong tương lai, toàn thể Phật pháp đều tiêu diệt hết, kinh này còn lưu lại trong thế gian một trăm năm. Trong kinh Vô Lượng Thọ cũng có đoạn kinh văn ấy. Đức Phật bảo: Trong tương lai, Phật pháp sẽ diệt mất, bộ kinh bị tiêu diệt đầu tiên là kinh Lăng Nghiêm, kinh bị diệt cuối cùng là kinh Vô Lượng Thọ. Do vậy, điều khẩn yếu là phải biến nguyện của A Di Đà Phật thành bổn nguyện của chính chúng ta. Trong mỗi niệm, chúng ta đều phải giúp đỡ hết thảy chúng sanh, tin tưởng và yêu thích pháp môn này, phát nguyện cầu sanh. Nếu chẳng thể giúp họ phát nguyện cầu sanh, tối thiểu cũng là làm cho họ biết có pháp môn này. Biết có pháp môn này thì gọi là “gieo chủng tử thù thắng bậc nhất trong A Lại Da Thức”. Nhiều đời nhiều kiếp sau trong tương lai, khi chủng tử ấy gặp duyên bèn dấy lên hiện hành, người ấy có thể thành tựu. Ý nghĩa này hết sức sâu rộng, hy vọng chúng ta có thể lãnh hội cặn kẽ!
(Sao) Lâm chung vãng sanh giả. Hạnh Nguyện phẩm ngôn: “Thị nhân lâm mạng chung thời, nhất thiết chư căn, tất giai bại hoại, dĩ chí thân thuộc, oai thế, tượng mã, trân bảo đẳng, tất giai tán diệt. Duy hữu nguyện vương bất tương xả ly, nhất thiết thời trung dẫn đạo kỳ tiền, nhất sát-na gian, tức đắc vãng sanh Cực Lạc thế giới”. Cố vân bất khả tư nghị.
(鈔)臨終往生者,行願品言:是人臨命終時,一切諸根,悉皆敗壞,以至親屬威勢,象馬珍寶等,悉皆散滅;惟有願王不相捨離,一切時中引導其前,一剎那間,即得往生極樂世界。故云不可思議。
(Sao: “Lâm chung vãng sanh”: Phẩm Hạnh Nguyện có nói: “Người ấy khi mạng chung, hết thảy các căn đều hư hoại, cho đến thân thuộc, oai thế, voi, ngựa, đồ quý báu v.v… đều tan diệt. Chỉ có nguyện vương chẳng hề lìa bỏ, trong hết thảy các thời, nó luôn dẫn đường đằng trước, trong khoảng sát-na liền được sanh về thế giới Cực Lạc. Vì thế nói là “chẳng thể nghĩ bàn”).
Trong phần trên đã nói thế giới Cực Lạc được thành tựu bởi nguyện lực của A Di Đà Phật, mà cũng là được thành tựu bởi nguyện lực của mỗi người vãng sanh. Phật và chúng sanh có cùng một tâm, cùng một nguyện, cùng một kiến giải, cùng một tư tưởng mà thành tựu. Nay chúng ta nói tới Lục Hòa Kính thì Lục Hòa Kính trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đạt được một trăm phần trăm, là Lục Hòa Kính viên mãn, chẳng bị khiếm khuyết mảy may! Đối với thế gian này, nói theo thời Mạt Pháp, Lục Hòa Kính hữu danh vô thực! Hai người ở chung với nhau bèn bất hòa, hàng tại gia thì vợ chồng bất hòa, cha con bất hòa, người xuất gia thì thầy trò bất hòa, sư huynh sư đệ bất hòa. Đó là hiện tượng bình thường, tức là hiện tượng [cho thấy] Phật pháp và pháp thế gian đều suy đồi đến cùng cực. Nếu chính mình thật sự mong vãng sanh Tịnh Độ trong một đời này, hãy nên làm theo cách như thế nào, chính mình phải hiểu rõ chuyện này!
Khi vãng sanh, phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện đã nói: “Thị nhân lâm mạng chung thời” (Người ấy lúc lâm chung), tức là nói về người niệm Phật, “nhất thiết chư căn tất giai bại hoại” (hết thảy các căn đều hư hoại), “chư căn” là lục căn, tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, đó là vật chất. Sau khi con người tắt hơi hai ba ngày liền hôi thối, bảy tám ngày liền rữa nát. Chưa đầy nửa năm, thịt chẳng còn nữa, biến thành một đống xương trắng. “Nhất thiết chư căn tất giai bại hoại” (Hết thảy các căn thảy đều hư hoại) là nói thân thể chẳng thể giữ vững được! “Thân thuộc” (親屬) tức là người nhà, quyến thuộc của quý vị. “Oai thế” (威勢): Khi còn sống, địa vị, thế lực của quý vị dẫu cao tới mấy đi nữa, đến lúc này đều chẳng còn. Khi sống làm hoàng đế, làm Tổng Thống, lúc chết sẽ đều giống như tiểu quỷ. Chẳng thể còn có người tôn trọng quý vị, mà quỷ cũng không tôn trọng. Tài vật của quý vị, “tượng mã trân bảo”, voi ngựa là công cụ giao thông vào thời cổ, hiện thời trong nhà của chính mình có xe cộ. Người có tiền thì có máy bay riêng, trân bảo (珍寶) [là những vật quý báu], những tài sản ấy quý vị chẳng thể đem theo món nào được, “tất giai tán diệt” (thảy đều tan diệt). Nói cách khác, thân thể và hết thảy các vật mà quý vị sở hữu, chẳng có thứ gì mang theo được cả! Tục ngữ Trung Hoa có câu: “Sanh không mang gì đến, chết chẳng đem gì đi!”
Có những kẻ làm con, cảm thấy người già chết rồi sẽ làm quỷ, bèn đốt nhiều tiền vàng mã, đốt nhiều nhà giấy để họ có thể hưởng thụ trong cõi âm! Chư vị ngẫm xem, họ có thể hưởng thụ hay không? Dương thế và âm gian chẳng sai khác cho mấy, cõi trời cũng tương tự. Nói chung, chư vị phải hiểu rõ một đạo lý: Quý vị có phước, sẽ luôn được hưởng thụ. Quý vị thiếu phước, người ta tặng cho, quý vị vẫn chẳng thể hưởng thụ được! Quý vị đốt nhiều cách mấy, nếu người ấy chẳng có phước báo, chỉ sợ thiêu cho nhiều, vẫn bị kẻ khác cướp đi, đoạt mất; thậm chí đã thành quỷ vẫn bị kẻ khác mưu sát. Vì sao? Trong loài quỷ cũng có mưu mô chiếm đoạt tài sản mà hại tánh mạng, cũng có cường đạo, thổ phỉ! Quý vị chẳng có gì, họ chẳng tìm đến quý vị. Khi quý vị có gì đó, họ chuyên môn tìm đến. Không chỉ là chẳng có lợi lộc, mà ngược lại còn gây hại cho người [đã khuất] ấy. Quý vị hiểu đạo lý này: Tu phước là quan trọng nhất. Con người nhất định phải có phước báo! Không tu phước thì làm sao được? Tục ngữ có câu: “Nhân toán bất như thiên định” (Người tính chẳng bằng trời định). Trời định [có nghĩa là] trong mạng quý vị có hay không, chẳng phải do chính mình có thể tính toán được! Nhất định phải biết tu phước.
Vì vậy, học Phật thì bắt đầu học từ đâu? Học từ Liễu Phàm Tứ Huấn. Chúng tôi học Phật lâu ngần ấy, càng học càng cảm thấy Ấn Quang đại sư rất lỗi lạc. Thuở sinh tiền, lão nhân gia cực lực đề xướng Liễu Phàm Tứ Huấn. Đối với Liễu Phàm Tứ Huấn, An Sĩ Toàn Thư, và Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, thuở tại thế, lão pháp sư đã in ba bộ sách ấy đến hơn ba trăm vạn cuốn, nhằm bảo chúng ta: “Học Phật thì phải học từ chỗ này”. Học Phật phải khởi đầu bằng học làm người, phải học từ tu phước, học từ đoạn ác tu thiện. Chư vị phải biết: Phật là đấng Nhị Túc Tôn, phước trọn đủ, huệ cũng viên mãn. Do hai môn phước và huệ đều viên mãn, nên gọi là Nhị Túc Tôn. Trong thế gian lẫn xuất thế gian, Phật có phước báo lớn bậc nhất! Nếu chúng ta chẳng tu phước, làm sao có thể thành Phật cho được? Cố nhiên, tu huệ là trọng yếu, nhưng chẳng tu phước thì huệ cũng chẳng tu thành. Vì sao? Quý vị chẳng tu phước, quý vị chẳng có cái ăn, chẳng có cái mặc, chẳng có nơi để ở, làm sao có thể tu huệ cho được? Phật môn Trung Hoa có một câu tục ngữ: “Pháp luân vị chuyển, thực luân tiên” (Chưa chuyển pháp luân, phải lo cái ăn trước). Ăn uống là chuyện khẩn yếu bậc nhất! Chẳng ăn no, làm sao có thể tu Phật pháp cho được? Điều này nói rõ tu phước trọng yếu ngần ấy! Tu phước, nhất định phải nghiêm túc chiếu theo Liễu Phàm Tứ Huấn để tu học.
Khuyên dạy đại chúng trong xã hội, nói thật ra, Liễu Phàm Tứ Huấn có hiệu quả quyết định thù thắng hơn hết thảy các kinh. Chẳng phải là hết thảy các kinh chẳng bằng Liễu Phàm Tứ Huấn, [nói “quyết định thù thắng”] là nói tới chuyện khế cơ. Trong quá khứ, mọi người đọc sách của Khổng Tử, tốt hơn nhiều, đối với luân lý và đạo đức đều có khái niệm. Hiện thời, chẳng đọc sách Khổng Tử, lòng người chẳng có chỗ nương về, chân, giả, tà, chánh, đúng, sai, lợi, hại đều chẳng thể phân biệt, làm thế nào được nữa! Vì thế, cái để nhanh chóng cứu vãn tình thế trước mắt chính là nhân quả. Sách Liễu Phàm Tứ Huấn giảng điều gì? Giảng về nhân quả báo ứng. Thật sự tin tưởng nhân quả báo ứng, chúng ta đối với khởi tâm động niệm sẽ tự mình kiềm chế đôi chút. Vì sao? Nghĩ ta làm như thế này, trong tương lai sẽ mắc quả báo như thế nào! Vì sợ ác báo trong tương lai, nên đối với khởi tâm động niệm và hết thảy tạo tác của chính mình, chẳng thể không cẩn thận. Đó là cứu tế chuyện cấp bách! Dựa trên cơ sở này để tu học Phật pháp, nhất định sẽ có thể đạt được lợi ích thù thắng nơi Phật pháp. Vì lẽ đó, vào đầu thời Dân Quốc, lão pháp sư [Ấn Quang] đặc biệt đề xướng ba bộ sách ấy nhằm tạo căn cơ học Phật cho chúng ta. Đó là đại trí huệ, chúng ta quyết định chớ nên xem nhẹ ba tác phẩm ấy.
Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm là pháp tu của Pháp Thân đại sĩ trong thế giới Hoa Tạng, chẳng phải là pháp tu của kẻ bình phàm. Pháp Thân đại sĩ cũng chẳng phải là ngoại lệ, vẫn phải phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Do đó, từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta đạt đến một kết luận, trong kinh luận đức Phật thường nói tới chuyện này. Tu Tiểu Thừa, Tiểu Thừa gần với A La Hán, đức Phật đã dạy: A La Hán sẽ chẳng vĩnh viễn làm A La Hán. Trong toàn thể Phật pháp, A La Hán được gọi là “tiêu nha bại chủng” (焦芽敗種: mầm cháy, hạt giống lép), đây là một kiểu quở trách của đức Phật. Thật ra, từ kinh Đại Thừa, đức Phật đã dạy rất minh bạch: A La Hán phải sau hai vạn kiếp mới có thể hồi Tiểu hướng Đại, tu Bồ Tát đạo. Bích Chi Phật phải sau một vạn kiếp mới có thể quay đầu. Nói cách khác, A La Hán trong hai vạn kiếp chẳng thể tiến lên, dừng nghỉ ở chỗ này. Bích Chi Phật dừng nghỉ ở chỗ này một vạn kiếp, công phu chẳng thể tiến bộ, có tình hình giống như Trường Thọ Thiên[79]. Đó gọi là “đọa Niết Bàn khanh” (đọa trong hầm Niết Bàn), có ý nghĩa này. Nhưng sau hai vạn kiếp, các Ngài vẫn hồi Tiểu hướng Đại, tu học Đại Thừa. Đại Thừa bất luận là pháp môn hay tông phái nào, kết quả cuối cùng đều ở trong thế giới Hoa Tạng. Nói cách khác, đến thế giới Hoa Tạng, nhất định sẽ gặp gỡ Văn Thù và Phổ Hiền, Phổ Hiền Bồ Tát nhất định khuyên họ cầu sanh Tịnh Độ. Chư vị hãy ngẫm xem: Vòng qua đảo lại, đến cuối cùng vẫn vòng đến pháp môn Tịnh Độ. Chúng ta mới thật sự biết: Cực Lạc Tịnh Độ là chỗ quy túc rốt ráo trong sự tu học của tất cả Bồ Tát. Trạm cuối cùng là ở nơi đây, những nơi khác đều là các trạm giữa đường.
Ở đây, kinh văn nói “duy hữu nguyện vương bất tương xả ly” (chỉ có nguyện vương chẳng hề rời lìa), “nguyện” ở đây chính là mười đại nguyện vương. Nói thật thà, mười đại nguyện vương rất khó diễn giải, mà cũng chẳng dễ hiểu, lại càng chẳng dễ thực hiện, xác thực là cảnh giới của Pháp Thân đại sĩ. Các Ngài tu học chẳng khó, chúng ta tu học rất khó, khó ở chỗ nào? Tâm lượng của chúng ta quá nhỏ. Tâm lượng trong nguyện nào của mười đại nguyện vương cũng đều to như hư không pháp giới. Vì thế, các Ngài có thể thực hiện, chúng ta chẳng thể làm được, học kiểu nào cũng chẳng giống! Đạo lý ở chỗ này. Nguyện ấy, niệm ấy chẳng hề rời lìa. Nguyện ấy, niệm ấy hướng dẫn họ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. “Nhất thiết thời trung dẫn đạo kỳ tiền, nhất sát-na gian, tức đắc vãng sanh Cực Lạc thế giới” (Trong hết thảy các thời, nó dẫn dắt đằng trước, trong khoảng sát-na liền được vãng sanh thế giới Cực Lạc). Ở đây, đại sư trích dẫn một đoạn kinh văn trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm để thuyết minh vãng sanh là do nguyện lực, chỉ nhằm nói rõ chuyện này.
Do vậy cũng có thể biết: Chúng ta chớ nên đánh mất nguyện tâm cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ một giờ một khắc nào, vì sao? Chẳng có nguyện tâm ấy, sẽ chẳng thể vãng sanh. Nếu thời thời khắc khắc nguyện sanh Tịnh Độ, đối với hết thảy người, hết thảy sự, hết thảy vật trong thế gian này, quý vị có còn riết róng so đo hay chăng? Quý vị riết róng so đo thì nói cách khác, quý vị chẳng có nguyện cầu sanh Tây Phương! Niệm nào cũng đều muốn sanh về Tây Phương, thế giới này còn có điều gì đáng để so đo? Chẳng so đo! Tâm đã thật sự thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là Phật tâm. Nguyện từ nơi cái tâm thanh tịnh là chân nguyện, chẳng phải là suy nghĩ loạn xạ. Tâm không thanh tịnh, dẫu có phát nguyện thì cũng đều là suy nghĩ loạn xạ, chẳng chân thật, biến hóa trong từng sát-na: Một hồi nghĩ như thế này, một hồi nghĩ như thế khác, đều chẳng chân thật! Do đó, phải hiểu đạo lý này.
(Sao) Tam giới nhân quả giả.
(鈔)三界因果者。
(Sao: Nhân quả trong ba cõi).
“Tam giới” là Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, nói tới lục đạo trong thế giới Sa Bà.
(Sao) Nguyện thọ thiên lạc, tắc bần mẫu thượng sanh.
(鈔)願受天樂,則貧母上生。
(Sao: Do nguyện hưởng sự vui trong cõi trời, nên người đàn bà nghèo được sanh lên trời).
“Nguyện thọ thiên lạc” là [mong muốn] hưởng thụ sự sung sướng trên cõi trời. “Tắc bần mẫu thượng sanh”: Đây là một câu chuyện được sách Diễn Nghĩa ghi lại. [Chuyện này trích từ] kinh Ca Diếp Độ Bần Mẫu[80], trong Đại Tạng Kinh có một bộ kinh như vậy. Bộ kinh này phân lượng không nhiều lắm, có ghi chép câu chuyện này.
(Diễn) Tích hữu bần nữ, xử ư phẩn tụ, dĩ nhân dân sở khí tàn trấp vi thực. Ca Diếp tùng khất, dĩ trấp cúng dường. Tôn giả vấn kỳ sở nguyện, vân dục sanh thiên. Sổ nhật mạng chung, sanh Đao Lợi, phước thắng dư thiên.
(演)昔有貧女處於糞聚,以人民所棄殘汁為食,迦葉從乞,以汁供養。尊者問其所願,云欲生天,數日命終生忉利,福勝餘天。
(Diễn: Xưa kia có một người đàn bà nghèo sống nơi chỗ chứa phân, dùng những thứ cơm thừa canh cặn của người khác vứt bỏ để làm thức ăn. Ngài Ca Diếp đến đó khất thực, bà ta bèn cúng dường cơm thừa canh cặn ấy. Tôn giả hỏi bà ta nguyện gì, đáp “muốn sanh lên trời”. Mấy hôm sau bèn mạng chung, sanh lên trời Đao Lợi, phước vượt trỗi các vị trời khác).
Trích lục khéo lắm! Một bộ kinh dài ngần ấy, dùng mấy câu đã nêu bày rõ rệt toàn bộ ý nghĩa của bộ kinh ấy. Người đàn bà nghèo ấy là ăn mày, tuổi tác cũng rất cao, hết sức khổ sở. Sống ở chỗ nào? “Phẩn tụ” (糞聚) là ở bên cạnh hầm phân, kết một cái chòi tranh sống ở đó. Người ta thấy bà ta đáng thương, nên họ đem cho bà những thứ cơm thừa canh cặn, gần như là những thứ người ta dùng để nuôi lợn, bà ăn những thứ đó. Khi tôn giả Ca Diếp khất thực, có đi qua chỗ bà ta. Trên thân bà ta cũng chẳng có quần áo mặc, nên cũng không dám bước ra, liền cầu xin tôn giả Ca Diếp. Tôn giả Ca Diếp thương xót, tiếp nhận sự cúng dường của bà. Bà ta đem những thứ chính mình ăn còn thừa cúng dường tôn giả Ca Diếp. Sau khi tiếp nhận, tôn giả liền hỏi: “Bà mong cầu điều gì?” Bà đáp: “Nhân gian quá khổ, nghe nói trên trời rất sung sướng, con mong được sanh lên trời”. Tôn giả Ca Diếp chúc nguyện cho bà. Bảy ngày sau, người đàn bà nghèo ấy chết, sanh lên cõi trời, sanh trong trời Đao Lợi. Đây là một chút phước cúng dường, là phước báo do cúng dường một vị A La Hán. Bảy ngày sau, bà ta sanh thiên.
(Sao) Nguyện tác minh vương, tắc ngục thần trị quỷ.
(鈔)願作冥王,則獄神治鬼。
(Sao: Nguyện làm vua trong cõi âm, bèn làm thần cai trị quỷ trong địa ngục).
Đây cũng là một công án.
(Diễn) Nguyện tác minh vương giả, Tỳ Sa quốc vương, dữ Duy Đà Như Sanh Vương cộng chiến bất thắng, nhân lập thệ nguyện: “Nguyện ngã lai thế vi địa ngục chủ, trị thử tội nhân”. Thập bát đại thần nguyện diệc như thị. Kim địa ngục chủ, Tỳ Sa Vương thị, thập bát ngục chủ, thập bát đại thần thị.
(演)願作冥王者,毘沙國王,與維陀如生王共戰不勝,因立誓願,願我來世為地獄主,治此罪人,十八大臣願亦如是。今地獄主毘沙王是,十八獄主十八大臣是。
(Diễn: “Nguyện làm vua trong cõi âm”: Quốc vương Tỳ Sa đánh nhau với vua Duy Đà Như Sanh chẳng thắng. Do vậy, lập thệ nguyện: “Nguyện trong đời sau, tôi sẽ làm chủ địa ngục để trừng trị những tội nhân này”. Mười tám vị đại thần cũng phát nguyện như thế. Nay chủ cõi địa ngục là vua Tỳ Sa, chủ của mười tám ngục là mười tám vị đại thần [thuở ấy]).
Đây là một trường hợp. Người Hoa gọi “minh vương” (冥王: vua cõi âm) là Ngũ Điện Diêm Vương (五殿閻王), tức Diêm La Vương cai quản địa ngục. Hiện thời, những quỷ vương trong địa ngục trên thế gian do đâu mà có? Cũng là do trước kia đã phát nguyện, nguyện ấy cũng thật sự được thực hiện. Quốc vương Tỳ Sa đánh nhau với vua Duy Đà Như Sanh, bị thua trận. Sau khi thất bại, bèn phát ra lời nguyện hung tợn ấy. Do niệm lực kiên cố, niệm niệm chẳng quên, hễ có cơ hội bèn báo thù.
Chư vị đọc lịch sử nhà Thanh, nhà Thanh mất nước bởi tay Từ Hy Thái Hậu. Từ Hy Thái Hậu thuộc thị tộc Diệp Hách Na Lạp (Yehenara)[81]. Khi nhà Thanh dựng nước đã tiêu diệt bộ tộc này. Tù trưởng của bộ tộc ấy bèn phát thệ: “Nếu bộ tộc ta còn sót lại một đứa con gái thì trong tương lai cũng phải tiêu diệt đất nước của nhà Đại Thanh”. Hoàng thất nhà Thanh khi đó đều biết chuyện này, nên nhà Thanh có một điều luật lệnh: Không được phép thông hôn với Na Lạp Thị (người thuộc thị tộc Diệp Hách Na Lạp). Cuối cùng, đến đời vua Hàm Phong nạp phi tử thuộc thị tộc Na Lạp, khiến nhà Thanh bị tiêu diệt! Nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn! Nhìn theo nhân quả trong Phật pháp, đây là một thí dụ rất rõ rệt, có lịch sử để làm căn cứ, xác thực là đúng với lời phát nguyện của kẻ ấy trong thuở đó.
Chư vị lại xem Từ Bi Tam Muội Thủy Sám, đầu gối Ngộ Đạt quốc sư nổi mụn ghẻ mặt người. Tôn giả Ca Nặc Ca (Kanaka-vatsa) khi trị ghẻ mới giảng rõ tiền nhân hậu quả. Đó là oan gia trái chủ của Sư truy lùng Sư đến mười đời, mỗi đời đầu thai đều toan báo cừu. Đời trước, hai người bọn họ kết cừu oán lúc nào? Vào thời Cảnh Đế (188-141 trước Công Nguyên) nhà Hán, [khi các nước chư hầu] Ngô và Sở làm phản. Hán đế theo mưu kế của Viên Áng (袁盎) giết chết Triều (Tiều) Thố (晁錯)[82]. Triều Thố bị chết vì hãm hại, ôm hận trong tâm, niệm niệm mong báo thù. Nào ngờ về sau, Viên Áng xuất gia làm cao tăng, có thần hộ pháp bảo vệ, đời đời kiếp kiếp đều có đạo đức, đều nghiêm túc tu hành. Đến đời thứ mười, Ngài làm quốc sư, tức là Ngộ Đạt quốc sư, là thầy của hoàng đế. Hoàng đế cúng dường Sư một tòa báu bằng trầm hương, chúng ta biết hiện thời một cân trầm hương đến mấy chục vạn đồng! Sư tiếp nhận tòa báu trầm hương, sanh một tâm niệm ngạo mạn, cảm thấy chính mình ghê gớm lắm. Do một tí tâm ngạo mạn ấy nẩy sanh mà công đức tu hành trong mười đời đều mất sạch. Một niệm nẩy sanh tâm ngạo mạn, tự cho mình là đúng, thần hộ pháp bỏ đi, oán quỷ quấn thân, gần như mất mạng!
Quý vị hiểu sự thật này, giữa con người với nhau, chớ nên kết oán! Kết oán thì đời đời kiếp kiếp đều phiền phức, mấy đời tu hành, chướng ngại trên đường Bồ Đề gọi là ma chướng! Quý vị phải chịu rất nhiều vùi dập. Vì lẽ đó, đức Phật dạy chúng ta nhẫn nhục, dạy chúng ta tu Định, dạy chúng ta tâm địa phải thanh tịnh, bình đẳng, phải từ bi, nhường nhịn. Như vậy thì chính mình tu hành mới tương đối thuận lợi đôi chút. Do oai thần của Tam Bảo gia trì, nên cũng có thể nẩy sanh hiệu lực. Nếu không, nghiệp chướng của quý vị nặng nề, Phật, Bồ Tát cũng chẳng có cách nào gia hộ quý vị! Oán thân trái chủ của quý vị quá đông, Phật, Bồ Tát cũng chẳng thể không đếm xỉa lý lẽ, quý vị đáng phải chịu báo mà! Do đó, chính mình phải nghiêm túc tu hành, phải nhẫn nhục, phải nhường nhịn người khác, chớ nên nổi nóng. Chuyện này hết sức trọng yếu.
(Sao) Chủng chủng tùy nguyện, mạc vi nhi vi. Cố vân bất khả tư nghị.
(鈔)種種隨願,莫為而為。故云不可思議。
(Sao: Các thứ thuận theo nguyện, không làm mà làm. Vì thế, nói là “chẳng thể nghĩ bàn”).
Nhìn từ đoạn văn này, chúng ta có thể hiểu rõ, thế gian và xuất thế gian, trên là từ thế giới Cực Lạc, thế giới Hoa Tạng, dưới là cho tới ba ác đạo, đều chẳng lìa khỏi nhân quả. Pháp sư Ấn Quang đề xướng nhân quả là có lý, có căn cứ. Đề xướng nhân quả, Ngài không nói gì khác, chỉ nói tới Liễu Phàm Tứ Huấn. Đấy là vì từ cuối đời Minh cho đến đầu đời Thanh, trong hơn ba trăm năm, ai cũng biết đến tác phẩm Liễu Phàm Tứ Huấn. Xưa kia, hễ là người đọc sách thì gần như chẳng có ai không đọc sách này, cho nên đề xướng [hành theo sách ấy] sẽ hết sức thuận tiện. Sách ấy lại còn nói thấu triệt. Cư sĩ Liễu Phàm hiện thân thuyết pháp, sửa đổi vận mạng của chính mình như thế nào? “Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”. Ông ta có thể làm được, mà cũng có thể cầu được. Những điều ông ta mong cầu, trong mạng chẳng có, nhưng ông có thể cầu được thì mới gọi là “cầu”. Trong mạng đã có thì chẳng gọi là cầu. Trong mạng chẳng có mà ông ta có thể cầu được, cầu bằng cách nào? Tin nhân quả sửa đổi vận mạng của chính mình, đặc biệt lấy chuyện này để giáo hóa kẻ sơ học, sửa đổi xã hội, xác thực là đã sanh ra hiệu quả rất lớn. Xã hội hiện thời cũng là [một xã hội] rối loạn đến tột cùng. Làm thế nào để cứu vãn xã hội? Mọi người đều có thể đề xướng Liễu Phàm Tứ Huấn, đều có thể thực hành Liễu Phàm Tứ Huấn, tôi tin tưởng là trong hai ba năm, xã hội sẽ an tường, hòa thuận. Sự an hòa lợi lạc như chánh phủ đang đề xướng có thể thực hiện, chuyện này phải cậy vào sự nỗ lực của mọi người.
(Sao) Bồ Tát nguyện sanh giả, Phổ Hiền tụng vân: “Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời, tận trừ nhất thiết chư chướng ngại, diện kiến bỉ Phật A Di Đà, tức đắc vãng sanh An Lạc sát”.
(鈔)菩薩願生者,普賢頌云:願我臨欲命終時,盡除一切諸障礙,面見彼佛阿彌陀,即得往生安樂剎。
(Sao: “Bồ Tát nguyện sanh”: Bài kệ của ngài Phổ Hiền có đoạn: “Nguyện tôi lúc mạng sắp lâm chung, tận trừ hết thảy các chướng ngại, gặp gỡ đức Phật A Di Đà, liền được vãng sanh cõi An Lạc”).
“Ngã” là Phổ Hiền Bồ Tát tự xưng. “An Lạc Sát” là thế giới Cực Lạc. Đây là Phổ Hiền Bồ Tát phát nguyện, lời nguyện này ở trong kinh Hoa Nghiêm. Phổ Hiền và Văn Thù là hai vị trợ thủ của Tỳ Lô Giá Na Phật trong thế giới Hoa Tạng. Trong toàn thể Phật pháp, các Ngài có địa vị tối cao vô thượng, [thế mà] vẫn phải cầu sanh Tịnh Độ. Đã thế, trong lời kệ phát nguyện còn nói: “Tận trừ hết thảy các chướng ngại”. Chúng ta đọc câu này, trong tâm có cảm tưởng gì? Đẳng Giác Bồ Tát còn có chướng ngại gì? Ngài còn phải trừ chướng ngại, chúng ta làm thế nào? Chúng ta có quá nhiều chướng ngại, có trừ cũng trừ không hết. Nhưng chư vị đừng sợ, nếu chúng ta hiểu rõ sự thật, sẽ có thể yên tâm. Chướng ngại gì vậy? Chẳng tin, chẳng nguyện, chẳng chịu niệm A Di Đà Phật, đó là chướng ngại! Chúng ta có những chướng ngại ấy hay không? Có! Chúng ta cũng chẳng tin pháp môn này, mà cũng chẳng phát nguyện, cũng không chịu niệm Phật. Nếu quý vị chẳng có chướng ngại, sẽ là một câu A Di Đà Phật suốt ngày từ sáng đến tối hai mươi bốn tiếng đồng hồ chẳng gián đoạn. Quý vị còn niệm Phật gián đoạn, còn quên bẵng niệm Phật, chứng tỏ quý vị có chướng ngại, ba phương diện Tín, Nguyện, Hạnh đều có chướng ngại. Từ chỗ này, có thể kiểm điểm chính mình. Đừng tự cho là “ta đã không còn chướng ngại, ta đã tin tưởng rất kiền thành”. Thật ra, tín căn của quý vị có vấn đề to lớn! Hễ có chuyện gì xảy đến, [bèn nghĩ] “chuyện này quan trọng hơn niệm Phật”, đó là chướng ngại!
Có chuyện nào trọng yếu hơn niệm Phật? Chẳng có! Dẫu là chuyện bất đắc dĩ, tạm thời buông Phật hiệu xuống để làm việc. Hễ làm xong chuyện, liền tiếp tục niệm Phật hiệu ngay, đó là đúng. Tận hết sức giảm thiểu những chuyện không cần thiết. Có những kẻ bảo người niệm Phật là Tiểu Thừa, có những người nói người niệm Phật là phường chỉ lo tự giải thoát cho riêng mình, người niệm Phật rất tiêu cực, vì sao? Người niệm Phật lục thân[83] chẳng nhận, thù tạc với thân thích bằng hữu đều chẳng có. Vì thế, người ta chê quý vị là tiêu cực. Sợ người ta chê là tiêu cực, hừm! Lại thù tạc, Phật hiệu cũng tạm thời vứt qua một bên, vứt riết rồi quên bẵng. Những thứ vây quanh quý vị toàn là ma chướng, chướng ngại quý vị niệm Phật, quý vị phải hiểu nhé!
Nói thật thà, chúng ta niệm A Di Đà Phật, kẻ khác nói ta là Tiểu Thừa, Tiểu Thừa có sao đâu! Kẻ khác nói ta tiêu cực, tiêu cực cũng được! Kẻ khác chê ta vô tình vô nghĩa, kệ họ nói sao thì nói, ta cứ niệm một câu A Di Đà Phật tới cùng, sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, thả chiếc bè Từ trở lại, thành Bồ Tát, thành Phật đến độ hết thảy chúng sanh, có phải là tiêu cực hay không? Có phải là Tiểu Thừa hay không? Người thế gian chẳng thấy chuyện này! Nay chúng ta nghe những lời lẽ đó, tâm chính mình bị dao động thì nói cách khác: Ba món Tín, Nguyện, Hạnh của quý vị đều chưa thể trông cậy được! Đó là chướng ngại. Nay chúng ta chỉ cần quét sạch những chướng ngại ấy, nhất tâm nhất ý niệm A Di Đà Phật. Đừng nói là pháp thế gian chẳng thể chướng ngại được, hết thảy xuất thế gian Phật pháp cũng chẳng thể chướng ngại được. Quý vị nói Thiền hay, chúng tôi rất cung kính, Thiền hay lắm! [Quý vị nói] Giáo hay, [tôi cũng tán thán] Giáo cũng khá lắm. Mật cũng hay, thứ gì cũng đều hay. “Quý vị học pháp của quý vị, tôi học pháp của tôi, tôi tuyệt đối chẳng bị lay động!” Đó là diệt trừ chướng ngại, tâm quý vị thật sự định, như vậy thì mới chắc chắn thành tựu. Do đó, bí quyết niệm Phật là “quyết định chẳng hoài nghi, chẳng gián đoạn, không xen tạp”, há lẽ nào chẳng thành công? Phổ Hiền và Văn Thù phải trừ khử hết thảy chướng ngại, cũng là trừ những chướng ngại ấy!
(Sao) Nãi chí nguyện mông thọ ký, quảng lợi chúng sanh đẳng, chí như Văn Thù phát nguyện vãng sanh sở thuyết chi kệ, diệc vân: “Nguyện ngã mạng chung thời, diệt trừ chư chướng ngại, diện kiến Di Đà Phật, vãng sanh An Lạc sát”, dữ Phổ Hiền nhược hợp phù tiết.
(鈔)乃至願蒙授記,廣利眾生等,至如文殊發願往生所說之偈,亦云:願我命終時,滅除諸障礙,面見彌陀佛,往生安樂剎。與普賢若合符節。
(Sao: Cho đến “nguyện được thọ ký, lợi ích chúng sanh rộng rãi” v.v… Như ngài Văn Thù nói bài kệ phát nguyện vãng sanh, cũng nói: “Nguyện tôi lúc lâm chung, diệt trừ các chướng ngại, gặp gỡ Phật Di Đà, vãng sanh cõi An Lạc”, phù hợp khít khao với ngài Phổ Hiền).
“Phù tiết” (符節)[84] là một loại ấn tín. Văn Thù Bồ Tát phát nguyện chẳng khác Phổ Hiền Bồ Tát, hoàn toàn giống nhau.
(Sao) Tha như Thiên Thân, Long Thọ đẳng, đa nan tất trần, cố vân “bất khả tư nghị”.
(鈔)他如天親龍樹等,多難悉陳,故云不可思議。
(Sao: Những vị khác như Thiên Thân, Long Thọ v.v… nhiều đến nỗi khó thể kể xiết. Do đó nói là “chẳng thể nghĩ bàn”).
Nói tới những vị khác như Thiên Thân Bồ Tát, Long Thọ Bồ Tát, các vị này là người ngoại quốc[85]. Thiên Thân và Vô Trước là anh em, Vô Trước là anh. Thiên Thân Bồ Tát cũng thông minh tột bậc. Thuở đầu, Ngài học Tiểu Thừa, có thành tựu rất lớn trong Tiểu Thừa. Về sau, Ngài hồi Tiểu hướng Đại. Ngài soạn năm trăm bộ luận Tiểu Thừa, đối với Đại Thừa cũng soạn năm trăm bộ luận. Đấy là hai vị đại Bồ Tát lỗi lạc tái hưng Phật pháp sau thời Thích Ca Mâu Ni Phật. Sau ngài Thiên Thân là Long Thọ, Long Thọ là tổ chung của tám tông phái Đại Thừa, tám tông phái Đại Thừa ở Trung Hoa đều do Long Thọ Bồ Tát truyền. Vị này cũng là người thông minh tuyệt đỉnh! Các Ngài đến cuối cùng đều niệm Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục có truyện ký của các Ngài. Các vị tổ sư đại đức như vậy cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ quá nhiều, từ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Vãng Sanh Truyện ta đều có thể xem thấy.
“Cố vân bất khả tư nghị” (Nên nói là chẳng thể nghĩ bàn), ý nói nguyện lực chẳng thể nghĩ bàn. Quý vị có nguyện vọng kiên cố, chẳng có gì không đạt được, đúng là “có nguyện ắt thành”. Có nguyện ắt thành thì nguyện phải có hạnh. Nguyện mà thiếu hạnh sẽ là nguyện rỗng tuếch, nguyện ấy chẳng thể thành tựu. Sau nguyện phải có hành động, dùng hạnh để thực hiện nguyện. Có nguyện ắt thành, chúng ta phải làm! Ta có nguyện cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, ta nhất định phải niệm Phật. Nếu ta niệm Phật chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp, nguyện ấy quyết định thành tựu. Nếu quý vị chẳng làm được, tức là nguyện suông, suốt một đời này vẫn chẳng thể vãng sanh được!
(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh hoàn quy bản thể, thị nguyện sanh bỉ quốc nghĩa.
(疏)稱理,則自性還歸本體,是願生彼國義。
(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh trở về bản thể chính là ý nghĩa “nguyện sanh về cõi ấy”).
Ý nghĩa này sâu xa, đây là nói xứng tánh. Trong phần trước là nói theo sự tướng, còn đoạn này nói theo tâm tánh. Nếu từ sự tướng mà lại có thể quy vào tâm tánh, vãng sanh Tịnh Độ sẽ là thượng phẩm thượng sanh, sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm, phẩm vị cao cả. “Tự tánh hoàn quy bản thể” là gì?
(Diễn) Tự tánh hoàn quy bản thể giả, nhược bất minh bản thể, duy yếm thử Sa Bà hân Cực Lạc, tắc tùy cảnh thiên di, trục vật lưu chuyển, phi chân sanh bỉ quốc cố vân dã.
(演)自性還歸本體者,若不明本體,唯厭此娑婆忻極樂,則隨境遷移,逐物流轉,非真生彼國故云也。
(Diễn: “Tự tánh trở về bản thể”: Nếu không hiểu rõ bản thể, chỉ chán nhàm thế giới Sa Bà này, yêu thích Cực Lạc, sẽ bị chuyển dời theo cảnh, lưu chuyển theo vật, chẳng phải là thật sự sanh về cõi kia, cho nên nói như vậy).
Chúng ta xem mấy câu này, vừa xem xong bèn sanh hoài nghi. Vì sao? Nhà Thiền nói “minh bản thể” là minh tâm kiến tánh. Nếu chẳng thể kiến tánh, tuy chán lìa Sa Bà, ưa cầu Cực Lạc, vẫn chẳng thật sự sanh về cõi ấy, đấy chẳng phải là một nỗi phiền phức to lớn ư? Nhìn vào chuyện này, chúng ta đều chẳng có hy vọng gì! Trong tương lai, chúng ta sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế giới rốt cuộc là sanh vào chỗ nào? Chẳng phải là thế giới Cực Lạc thật, chẳng lẽ còn có một thế giới Cực Lạc giả ư? Do đó, ở chỗ này có một vấn đề, lại còn là một vấn đề rất lớn. Chẳng thể giải quyết vấn đề này, chúng tôi vừa mới nói niệm Phật có ba điều kiện, [trong đó, đối với điều kiện] không hoài nghi, quý vị đã hoài nghi. Tuy hoài nghi, nhưng quý vị thật sự còn có thể [niệm Phật] chẳng gián đoạn, không xen tạp, thì vẫn có thể vãng sanh, sanh vào biên địa, kinh Vô Lượng Thọ có nói chuyện này. Biên địa cũng khá lắm, bất quá ở nơi đó tới năm trăm năm, vẫn dự vào phẩm vị vãng sanh y hệt, vẫn là rất may mắn, vẫn là rất hạnh phúc. Sanh vào biên địa cũng tuyệt diệu, thù thắng khôn sánh, chỉ là lâu hơn người ta năm trăm năm, như thế mà thôi! Do đó, chúng ta chớ nên coi thường biên địa. Ở đây, xác thực là phải hiểu rõ sự thật này. Thông thường, người niệm Phật hễ niệm đến mức biết trước lúc mất, chẳng bị bệnh khổ mà vãng sanh, thưa cùng chư vị, đại khái đều là đã kiến tánh. Họ cũng chẳng nói là họ đã minh tâm kiến tánh, chúng ta cũng chẳng nhìn ra họ đã minh tâm kiến tánh, nhưng họ thật sự minh tâm kiến tánh. Vì sao? Chỉ có một câu A Di Đà Phật, niệm đến mức phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, ưu lự, vướng mắc thảy đều hết sạch. Quý vị ngẫm xem, người ấy đã đắc Niệm Phật tam-muội, đã đắc Định, nói theo Tịnh Độ Tông sẽ là Sự nhất tâm bất loạn. Trong sát-na vãng sanh, khi Phật đến tiếp nghênh, Phật quang vừa chiếu rọi, công phu của người ấy liền được nâng cao gấp bội.
Trong nguyên bản tiếng Phạn, kinh Di Đà chẳng có chữ “nhất tâm bất loạn”, Huyền Trang đại sư dịch là “nhất tâm hệ niệm”. Cưu Ma La Thập đại sư dịch là “nhất tâm bất loạn”, chẳng phải là ý nghĩa trong kinh văn nguyên thủy. La Thập đại sư dịch ý, Huyền Trang đại sư chẳng nói ngài La Thập dịch sai. Điều này chứng tỏ, phàm là người vãng sanh đều là nhất tâm bất loạn. Chúng ta thường nói mức độ niệm Phật thấp nhất là phải niệm đạt tới công phu thành phiến. Công phu thành phiến thì khi vãng sanh, Phật đến tiếp dẫn, do Phật quang chiếu gội, công phu của quý vị được nâng cao thành Sự nhất tâm bất loạn. Do nhìn từ chỗ này, Cưu Ma La Thập đại sư dịch thành “nhất tâm bất loạn” chẳng sai! Nhất tâm bất loạn là do được Phật lực gia trì, chúng ta mới đạt tới. Công phu của chúng ta đạt mấp mé nhất tâm bất loạn, Phật vừa gia trì, bèn nâng cao, đạt tới nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn bèn khai huệ, khai huệ bèn minh tâm kiến tánh.
Dẫu là một bà cụ chẳng biết chữ, điều gì cũng không biết, nhưng bà thật thà niệm một câu A Di Đà Phật, niệm mấy năm, đứng mất, ngồi mất, quyết định là kiến tánh. Nếu chẳng kiến tánh, chẳng thể nào có công phu như vậy. Vị đồ đệ của lão hòa thượng Đế Nhàn niệm A Di Đà Phật ba năm bèn đứng mất. Sau khi vãng sanh, thân thể còn đứng sững suốt ba ngày, chờ thầy mình đến lo liệu hậu sự. Nếu chẳng kiến tánh, sao có thể làm được? Do vậy, cụ Đế Nhàn tán thán ông ta, tán thán người ấy chẳng uổng công xuất gia, tán thán người ấy thành tựu vượt trỗi các pháp sư giảng kinh thuyết pháp cả nước, vượt trỗi những vị trụ trì các nơi danh sơn bảo sát (các chùa nổi tiếng) quá nhiều, những người ấy đều chẳng thể sánh bằng ông ta! Đấy là lời thật, chẳng phải hư giả. Trong kinh Lăng Nghiêm, chúng ta cũng có một câu kinh văn để chứng minh, “tịnh cực quang thông đạt”. Một câu A Di Đà Phật là tịnh, vị ấy niệm gì cũng đều chẳng có, trừ một câu A Di Đà Phật ra, thứ gì cũng đều chẳng có. Tịnh đến mức tột cùng bèn hoát nhiên khai ngộ, minh tâm kiến tánh. “Quang thông đạt” là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Do đó, chúng ta hiểu: Người niệm Phật khi vãng sanh, đại đa số đều là khai ngộ, nhất là những người biết trước lúc mất, chúng ta có thể đoán định họ chẳng phải là phường tầm thường!
Do vậy, bình thường niệm Phật, há nên xen tạp vọng tưởng? Xen tạp vọng tưởng gây tổn hại rất lớn. Vì sao người ta niệm Phật đôi ba năm bèn thành công, chúng ta niệm mấy chục năm vẫn chẳng thể thành công? Do chúng ta xen tạp vọng tưởng quá nhiều! Dẫu chẳng gián đoạn, nhưng trong ấy hãy còn xen tạp. Vì thế, công phu chẳng thể thành tựu. Người thật sự niệm Phật, trong Phật hiệu chẳng có xen tạp, thuần túy là một câu Phật hiệu, là một niệm ấy. Vì vậy, họ thành tựu thù thắng. Nếu chẳng có công phu như vậy, sẽ thật sự giống như hai câu nói ở đây: “Tùy cảnh thiên di, trục vật lưu chuyển” (Đổi dời theo cảnh, lưu chuyển theo vật). “Cảnh” là hoàn cảnh vật chất, quý vị thời thời khắc khắc bị hoàn cảnh bên ngoài dụ dỗ, mê hoặc. “Trục vật lưu chuyển” là trong tâm quý vị chẳng thể tự chủ. Đấy chính là phiền não dấy lên hiện hành, đồng tu tại gia thuộc trong tình cảnh này, mà người xuất gia cũng thuộc tình cảnh này! Người khác tán thán quý vị một câu, bèn đắc ý vênh váo, đáng sợ quá! Tự cho mình là đúng, [người khác] mắng quý vị mấy câu, tức tối mấy hôm chẳng thể nguôi nổi! Khen ngợi hay hủy báng là cảnh giới bên ngoài, quý vị đã bị ngoại cảnh ảnh hưởng. Trong tâm quý vị động, hoan hỷ hay nóng giận là trong tâm quý vị chấn động, mất mấy ngày chẳng thể khôi phục bình thường! Lưu chuyển theo vật như vậy, làm sao có thể nói tới công phu cho được? Làm sao quý vị có thể niệm Phật hiệu tốt đẹp cho được? Chẳng thể nào!
Nếu hỏi niệm Phật theo cách nào ư? Cảnh giới bên ngoài vừa động bèn “A Di Đà Phật”. Ngoại cảnh lẫn nội tâm đều quy hết vào A Di Đà Phật, hóa giải nơi A Di Đà Phật, đều chẳng còn nữa. Đó gọi là niệm Phật, là biết niệm, là công phu, chẳng bị ngoại cảnh xoay chuyển, thật sự có thể niệm mất sạch phiền não và tập khí. Đã đắc Định rồi thì mới có thể khai trí huệ, có trí huệ thì mới có thể phá vô minh, thấy bản thể, bản thể là tự tánh.
(Diễn) Hựu hoàn quy giả, vô bất tùng thử pháp giới lưu, vô bất hoàn quy thử pháp giới dã.
(演)又還歸者,無不從此法界流,無不還歸此法界也。
(Diễn: Lại nữa, “hoàn quy” là không gì chẳng từ pháp giới này lưu xuất, không gì chẳng trở về pháp giới này).
“Pháp giới” là gì? Là nhất tâm, là chân tâm của chính mình. Ai nấy đều có chân tâm, chân tâm là một, chân tâm như nhau. Vọng tâm khác hẳn, vọng của mỗi cá nhân đều khác biệt. Chân tâm giống như nước khi nó tĩnh lặng, chẳng cuộn sóng, hoàn toàn tương đồng. Toàn thể biển cả đều giống hệt như nhau. Vọng tâm là sóng cuộn, mỗi con sóng đều khác nhau. Hết thảy chúng sanh dùng vọng tâm, Phật dùng chân tâm. Chúng ta học Phật thì phải bỏ vọng tâm, dùng chân tâm. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Nên quán tánh pháp giới, hết thảy do tâm tạo). Đó chính là ý nghĩa của hai câu này.
Y báo và chánh báo trang nghiêm của mười pháp giới đều thuộc trong tự tánh, do chân tâm biến hiện ra, duy tâm sở hiện. Pháp giới do chân tâm biến hiện có lìa khỏi chân tâm hay không? Chẳng hề lìa khỏi; vì vậy, “hoàn quy thử pháp giới” (trở về pháp giới này). Giống như ban đêm ngủ rồi nằm mộng, mộng cảnh giống như mười pháp giới, cái tâm có thể nằm mộng ví như chân tâm. Trong lúc quý vị đang nằm mộng, nếu chúng ta hỏi tâm quý vị giống như thế nào ư? Cảnh giới được hiện [trong giấc mộng] chính là hình dạng của cái tâm. Tâm quý vị đã biến thành một cảnh giới, dáng vẻ [của cảnh giới ấy] chính là hình dạng của cái tâm quý vị. Tâm là cảnh, cảnh là tâm, chẳng hai, chẳng khác. Hễ tỉnh giấc, cảnh ấy chẳng có, trở về nhất tâm. Trong Phật pháp thường nói “toàn vọng chính là chân, toàn chân chính là vọng”. Chân là năng biến (cái có thể biến), vọng là sở biến (cái được biến). Năng biến và sở biến là một, không hai. Năng tức là Sở, Sở tức là Năng; mộng là tâm, tâm là mộng, điều này khá dễ hiểu!
Cùng một đạo lý như vậy, cảnh giới mà nay chúng ta đang trông thấy chính là do Chân Như bản tánh của chúng ta biến hiện. Nếu hỏi quý vị, chân tâm của quý vị có hình dạng ra sao? Vũ trụ như quý vị đang thấy chính là chân tâm của quý vị, vì vũ trụ do chân tâm biến hiện. Quý vị nói xã hội chẳng tốt, tức là tâm quý vị chẳng tốt. Nếu tâm quý vị tốt, lẽ nào biến thành cảnh giới ấy? Do lẽ đó, há có nên chê trách cảnh giới không tốt? Đức Phật nói có lý lắm, hãy quay lại sửa đổi cái tâm. Tâm thanh tịnh, cảnh giới liền thanh tịnh. Vì vậy, trong mắt Phật, Ngài thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật, chúng sanh thấy Phật, Bồ Tát cũng là chúng sanh, là do đạo lý này. Trong cái nhìn của quỷ, hết thảy đều là quỷ. Bậc thiện nhân chân chánh sẽ thấy hết thảy mọi người đều là thiện nhân, kẻ ác thấy hết thảy mọi người chẳng có ai không ác! Đây cũng là đạo lý được nói trong kinh Hoa Nghiêm: “Một chính là hết thảy, hết thảy chính là một”.
(Diễn) Tùng nhất tâm trung lưu xuất tứ thánh lục phàm, tắc tứ thánh lục phàm nhưng cựu hoàn quy nhất tâm. Hựu tự tánh tức thị bản thể, nhi vân hoàn quy giả, dĩ tự tánh nhất hướng bất thủ tự tánh, ngũ đạo tùy duyên, cố kim ưng đương hoàn quy dã.
(演)從一心中流出四聖六凡,則四聖六凡仍舊還歸一心。又自性即是本體,而云還歸者,以自性一向不守自性,五道隨緣,故今應當還歸也。
(Diễn: Từ trong nhất tâm lưu xuất tứ thánh lục phàm, nên tứ thánh lục phầm vẫn trở về nhất tâm y như cũ. Tự tánh lại chính là bản thể, nhưng nói “trở về” là do tự tánh một mực chẳng giữ lấy tự tánh, tùy duyên trong năm đường, cho nên [nói] “nay hãy nên trở về” vậy).
Nói thật ra, những lời này là do đức Phật đã rát miệng buốt lòng, bất đắc dĩ nói phương tiện cùng chúng ta. Nếu nói lời thật, chúng ta sẽ chẳng hiểu, chẳng có cách nào thấu hiểu. Nói thật ra, thưa cùng chư vị, chẳng có lưu xuất, mà cũng chẳng có quy hoàn, cũng chẳng có năng biến, mà cũng chẳng có sở biến. Nhưng chúng ta chẳng hiểu điều này, do nó vượt khỏi thường thức của chúng ta quá nhiều! Do lẽ đó, đức Phật chẳng thể không thuyết pháp thuận theo thường thức của bọn chúng sanh chúng ta. Nếu chúng sanh muốn thật sự lãnh hội ý nghĩa chân thật của Phật, nhất định phải tuân theo lời dạy của Mã Minh Bồ Tát trong Khởi Tín Luận: “Lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng văn tự, lìa tướng tâm duyên”, quý vị mới có thể thật sự thấu hiểu nghĩa chân thật do đức Như Lai đã nói. Trong ba điều trên, chỉ cần chấp trước một điều, sẽ chẳng thể hiểu nghĩa chân thật do Như Lai đã nói, quý vị chỉ có thể nghe hiểu một chút bề ngoài mà thôi! Nếu quý vị cứ chiếu theo [cách hiểu hời hợt như vậy] để nói, nói y chang như thế thì sai bét mất rồi, quý vị vẫn phải chịu trách nhiệm nhân quả.
Người hiện thời thích giảng kinh, thuyết pháp, thích biểu hiện, đây là căn bệnh chung của người hiện thời. Cổ nhân dẫu có thể giảng kinh, thuyết pháp, nhưng quý vị thỉnh họ, họ chẳng dám giảng, vì sao? Cổ nhân sợ nhân quả. Còn hiện thời thì là “nhân quả sợ”, [tức là] nhân quả sợ quý vị! Cổ nhân hiểu “nói sai một chữ chuyển ngữ, đọa làm thân chồn hoang năm trăm đời”. Họ làm sao dám tùy tiện giảng? Họ chẳng dám giảng. Người hiện thời chẳng tin nhân quả báo ứng; chẳng tin nhân quả báo ứng thì vẫn trốn không thoát nhân quả báo ứng. Nói cách khác, họ đáng phải chịu quả báo ra sao thì vẫn phải chịu đúng như thế đó. Chẳng thể nói “không tin thì sẽ không chịu quả báo”, chẳng có lẽ ấy! Vẫn phải chịu quả báo, điều này vô cùng đáng sợ. Muốn nói Phật pháp mà chẳng phạm phải sai lầm thì chính mình phải hữu chứng! Quý vị chẳng nhập cảnh giới này mà mong nói pháp chẳng phạm sai lầm, quá khó! Thầy Lý dạy bọn sơ học chúng ta hãy nương theo chú giải của cổ nhân, một câu cũng chẳng thể trái nghịch. Nói cách khác, dịch lời chú giải của cổ nhân thành văn nói, dịch sang văn Bạch Thoại. Từng câu, từng chữ đều có căn cứ, như vậy thì nếu quý vị nói sai, đó là chú giải sai, cổ nhân phải chịu trách nhiệm, quý vị chẳng gánh trách nhiệm. Nếu không căn cứ như vậy, chính mình nói trật, chẳng thể nào không gánh trách nhiệm. Do đó, chính mình nhất định phải thật sự hữu tu hữu chứng, nêu ra tâm đắc do sự tu chứng của chính mình thì mới thật sự được mấy phần tương ứng, mới có thể miễn trừ khuyết điểm. Nếu không, đúng là chẳng dễ dàng! Kẻ trẻ tuổi hiện thời đến đâu cũng dám nói [cho sướng miệng], chứ người thuộc thế hệ già hơn chẳng dám làm theo kiểu đó.
“Bất thủ tự tánh” là gì? Kinh Lăng Nghiêm nói điều này rất nhiều.
Giáo Hạ thường nói “Chân Như bất thủ tự tánh” là “nhất niệm bất giác, nhi hữu vô minh” (do một niệm bất giác, bèn có vô minh). Chẳng giữ lấy tự tánh chính là một niệm bất giác, là một niệm mê. Mê là không giữ lấy tự tánh, giác là tự tánh hiện tiền, tức là mê và giác! Giác tâm thanh tịnh, giác tâm bình đẳng. Tâm chúng ta bất bình đẳng trong hết thảy các pháp thì là mê, tâm bất tịnh trong hết thảy các pháp là mê. Tâm bất tịnh là gì? Tâm chuyển động, hễ động thì là mê. Giác tâm bất động, cho nên giác tâm là thanh tịnh tịch diệt. Đây là nói vì sao Phật pháp phải tu Định, Định là giác tâm. Huệ là gì? Huệ là Định khởi tác dụng, Định khởi tác dụng là Huệ. Giống như nước, chúng ta đối trước Phật, Bồ Tát dâng cúng nước nhằm biểu thị ý nghĩa này. Nước phải thanh tịnh, nước phải bình lặng. Nói thật ra, đó chính là “thanh tịnh, bình đẳng, giác” trong tựa đề kinh Vô Lượng Thọ, nước biểu thị ý nghĩa ấy. Tâm của ta thanh tịnh, bất nhiễm, tâm của ta bình đẳng, bất động, cái tâm ấy đối ứng cảnh giới bên ngoài, sẽ được gọi là “chiếu kiến”. Đó là “chiếu kiến” như Tâm Kinh đã nói. Nếu chẳng giữ lấy tự tánh, bèn gọi là “tình kiến”. Tình là động, tình là mê. Cái Thấy ấy sẽ chẳng phải là chân tướng, mà là hư vọng tướng. Chiếu kiến là chân tướng, là Thật Tướng của các pháp, khác hẳn! Đó mới gọi là “hoàn quy”. Nay chúng ta từ “chẳng thanh tịnh” khôi phục thanh tịnh, từ bất bình đẳng khôi phục bình đẳng, đó là khôi phục tự tánh. Khôi phục tự tánh, quý vị nhìn lại y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới, sẽ hoàn toàn hiểu rõ chân tướng sự thật. Khi ấy, nếu vì hết thảy chúng sanh thuyết pháp, quyết định chẳng phạm sai lầm. Vì sao? Quý vị đích thân chứng nhập cảnh giới, tri kiến hoàn toàn giống như tri kiến của Phật, há có thể sai được ư?
Thời gian trôi qua quá nhanh, phía sau hãy còn một nửa. Nửa ấy cũng chẳng thể giảng bằng mấy câu là xong được! Nhưng tuy vậy, đoạn này có ý nghĩa vô cùng sâu rộng, vẫn phải nói nhiều, có thể lãnh hội một phần thì xác thực là sẽ giúp chúng ta đoạn nghi sanh tín. Nói thật ra, nay chúng ta công phu chẳng đắc lực. Không gián đoạn, không xen tạp, đó là Sự. Vì sao Sự mà chẳng làm được? Chẳng hiểu rõ Lý! Nếu thấu triệt Lý, Sự sẽ chẳng khó! Biết khó, hành dễ. Chẳng gián đoạn, không xen tạp là “hành”. Chẳng hoài nghi là biết, biết khó, hành dễ. Thật sự lý giải thấu triệt, thì chẳng xen tạp, không gián đoạn sẽ làm được, chẳng khó! Có một hạng người, tuy không biết, nhưng vẫn có thể làm được, đó là người thiện căn đặc biệt sâu dầy. Thầy dạy họ ra sao, họ tin tưởng thầy, chẳng có một tí hoài nghi nào. Tìm đâu ra người như vậy? Nếu là người phục tùng thầy một trăm phần trăm, chẳng giảm bớt tí nào, tìm chẳng ra! Pháp sư Đế Nhàn suốt một đời cũng chỉ gặp được một học trò như vậy. Nghe lời chính là thiện căn đặc biệt sâu dầy. Người bình phàm đối với thầy nói chung ít nhiều đều đánh một loạt dấu hỏi, chẳng thể hoàn toàn tiếp nhận, chẳng thể hoàn toàn tin tưởng. Do vậy, nhất định là phải đoạn nghi sanh tín. Giảng kinh, nghiên cứu giáo nhằm mục đích đoạn nghi, kiến lập tín tâm, từ tín tâm kiến lập nguyện tâm, từ nguyện tâm kiến lập diệu tâm trì danh niệm Phật. Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này.
Tập 208
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm mười sáu.
(Sao) Nhược tri bản thể bất ly đương xứ, tắc phi sanh bỉ quốc, nãi sanh thử quốc nhĩ.
(鈔)若知本體不離當處,則非生彼國,乃生此國耳。
(Sao: Nếu biết bản thể chẳng lìa đương xứ thì chẳng phải là sanh về cõi kia mà là sanh trong cõi này).
Trong đoạn kinh văn này, điều cần chú ý nhất là quyết định đừng nên hiểu lầm ý nghĩa. Hiểu lầm ý nghĩa, sẽ phạm lỗi quá lớn. Hiểu lầm ý nghĩa bèn đả phá Tịnh Độ, vậy là không được rồi! “Bản thể” là nói tự tánh; tận hư không khắp pháp giới là vật do tự tánh biến hiện. Các cõi Phật trong mười phương, kể cả thế giới Cực Lạc, chẳng có gì là ngoại lệ, đều ở trong tự tánh. Vì lẽ đó, ở đây, đại sư nói “nhược tri” (nếu biết), [hàm ý] giả sử quý vị thật sự hiểu rõ: Bản thể là tự tánh, “bất ly đương xứ” (chẳng lìa đương xứ), ở ngay nơi đây trong hiện tiền là do tự tánh biến ra, mà mười phương pháp giới cũng do tự tánh biến ra. Tây Phương Tịnh Độ vẫn do tự tánh biến ra. Đó gọi là “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Tâm tánh là một, không hai, đều là vật được biến hiện bởi tâm tánh. Nói theo tự tánh, có vãng sanh hay không? Chúng tôi nêu một thí dụ. Chúng ta ví giảng đường này như phạm vi của tự tánh; nay quý vị đi từ cái bàn này sang cái bàn khác, tôi hỏi quý vị nhé: Quý vị có vãng sanh hay không? Chẳng rời khỏi tự tánh! Đấy là ý nghĩa [của đoạn kinh văn] này. Do đó, phải hiểu: Vạn pháp duy tâm, vạn pháp duy thức. Kinh Đại Thừa thường nói: “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”, đó là dạy chúng ta chân tướng sự thật.
Do vậy, người thật sự kiến tánh, người thật sự giác ngộ, sẽ chẳng có quan niệm tương đối. Tương đối là gì? Đây kia là tương đối. Thế giới Sa Bà là cõi này, cõi kia là thế giới Cực Lạc. Đây kia là hai pháp, hai pháp chẳng phải là Phật pháp. Vì sao chẳng phải là Phật pháp? Phật pháp là pháp triệt để giác ngộ, hiểu rõ; “chẳng phải là Phật pháp” tức là quý vị còn chưa hiểu rõ, còn chưa giác ngộ, vẫn là pháp mê hoặc, điên đảo. Chỉ trong mê hoặc, điên đảo mới có hai, ba. Thật sự giác ngộ, quyết định chẳng rớt vào hai, ba. Pháp giới là Nhất Chân, tâm tánh như một, đó là chân tướng sự thật. Sau khi đã minh tâm kiến tánh, há còn có đây kia? Chẳng có quan niệm đây kia, chẳng phân biệt, chấp trước có thế giới Sa Bà và thế giới Cực Lạc.
Chúng ta hỏi: Những vị minh tâm kiến tánh có còn vãng sanh hay không? Vẫn vãng sanh! Văn Thù và Phổ Hiền đều phát nguyện vãng sanh; vì thế mới nói: “Sanh thì quyết định sanh, đi thì thật sự chẳng đi”. Giống như quý vị ở trong giảng đường này, từ cái bàn này sang cái bàn kia, quý vị đến nơi đó, diệt từ nơi đây, sanh từ nơi đó. Sanh thì quyết định sanh; đi thì thật sự chẳng đi. [Bởi lẽ], quý vị chẳng rời khỏi căn phòng này, vẫn ở nơi đây! Đừng nói là thế giới Cực Lạc và mười vạn ức cõi Phật chẳng rời khỏi tâm tánh, tận hư không khắp pháp giới cũng chẳng rời khỏi tự tánh! Vì lẽ này, Thiền Tông mới nói “nếu ai hiểu cái tâm, đại địa không tấc đất”. “Tấc đất” là gì? Là phân biệt, chấp trước của quý vị. “Không có tấc đất” là chẳng có mảy may phân biệt, chấp trước, nói lên ý nghĩa này, chẳng phải là nói một tấc đất trọn chẳng có!
Chớ nên hiểu lầm chỗ này, chớ nên nhìn bề ngoài của văn tự. “Tắc phi sanh bỉ quốc, nãi sanh thử quốc” (Tức là chẳng sanh về cõi kia, mà là sanh trong cõi này). Tu tập cả buổi, chúng ta vẫn chẳng đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, vẫn ở trong thế giới Sa Bà; [hiểu kiểu] này sẽ sanh ra hiểu lầm rất lớn, khiến cho tín tâm đối với chuyện vãng sanh bị dao động, trở thành lỗi lầm to tát. Câu này được chú giải dưới đây [như sau]:
(Diễn) “Bất ly đương xứ” giả, cổ vân: “Bất ly đương xứ thường trạm nhiên, mịch tức tri quân bất khả kiến”.
(演)不離當處者,古云:不離當處常湛然,覓即知君不可見。
(Diễn: “Chẳng lìa đương xứ”: Cổ nhân nói: ‘Chẳng lìa đương xứ thường tĩnh lặng, tìm tòi liền biết chẳng thể thấy’).
Câu này rất khó hiểu. Vì sao khó hiểu? Điều này thật sự là Phật tri Phật kiến. Kinh Bát Nhã nói “Thật Tướng của các pháp”, tức là chân tướng của hết thảy các pháp. Chân tướng là gì? Những câu kinh hình dung chân tướng rất nhiều. Chẳng hạn như Tâm Kinh nói: “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Sắc chính là Không, Không chính là Sắc”, hình dung chân tướng. Đó chính là “bất ly đương xứ thường trạm nhiên”, cách nói khác nhau, nhưng ý nghĩa y hệt, cảnh giới như nhau. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận” (Sanh ra ở chỗ nào, diệt tận ngay chỗ đó) cũng là ý nghĩa này. Lại nói “đương thể tức không” (ngay nơi bản thể chính là Không), vẫn là ý nghĩa này. Kinh Kim Cang nói: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, cũng là ý nghĩa này. Quý vị tham cứu thấu suốt, [sẽ thấy] xác thực là đương xứ thường tĩnh lặng. Phật ở chỗ nào? Ở chính ngay nơi đây. Thế giới Cực Lạc ở chỗ nào? Cũng chính là ngay nơi đây. Thế giới Hoa Tạng ở đâu? Cũng chính là ở ngay nơi đây. Tiếp đó nói: “Mịch tức tri quân bất khả kiến”, [nghĩa là] nếu quý vị muốn tìm kiếm, chắc chắn sẽ tìm chẳng thấy, vì sao? Tìm kiếm tức là quý vị khởi tâm động niệm! Đó gọi là “mở miệng liền trật, động niệm liền sai”. Quý vị khởi tâm động niệm, đến nơi đâu để tìm? Khởi tâm động niệm tức là quý vị đã biến chân tâm thành vọng tâm. Chẳng khởi tâm, không động niệm, đó là chân tâm. Do chân tâm bèn thấy cảnh giới chân thật, vọng tâm bèn thấy vọng cảnh, chẳng phải là cảnh giới chân thật. Vì lẽ đó, nói thật thà, Phật pháp chẳng thể xen tạp mảy may vọng!
Người bình phàm tu hành thật sự dụng công, đến một giai đoạn nào đó, sẽ xuất hiện vấn đề, nẩy sanh phiền phức, vấn đề mắc mứu ở chỗ nào? Nói thật thà, vẫn là do vọng tâm, chấp trước. Trước kia, khi chưa học Phật, chấp trước hết thảy các pháp là thật sự có; nay đã học Phật, vạn pháp đều không, thảy đều buông bỏ, dường như chính mình rất tự tại! Tự tại một hồi, bỗng nhiên cảm thấy lại chẳng tự tại nữa, vấn đề lại xuất hiện! Thật ra, người ấy thật sự chẳng tự tại. Vì sao? Người ấy lại chấp trước Không, lại chấp trước có tự tại, luôn luôn là phân biệt, chấp trước! Đối với tự tại, cũng chớ nên chấp trước. Hễ động một niệm, có một chấp trước, đấy là cái gốc bệnh, trọn chẳng trừ khử gốc bệnh! Chúng ta phải hiểu: Đó là cội nguồn của sai lầm. Vì vậy, học Phật thì phải dùng cái tâm bình thường để học, phải gìn giữ sự bình thường. Nói thật ra, tựa đề kinh Vô Lượng Thọ đã nêu ra rất hay: “Thanh tịnh, bình đẳng”. Trong tâm khởi niệm là cuộn sóng, là chẳng thanh tịnh, là bất bình đẳng. Kẻ ấy có vọng niệm, một niệm là một nhiễm ô, là chẳng thanh tịnh, là bất bình đẳng. Đạt đến “thanh tịnh, bình đẳng” là một niệm chẳng sanh. Nói thật thà, một niệm chẳng sanh cũng là nhiễm ô, cũng là bất bình đẳng, vì sao? Người ấy có “một niệm chẳng sanh”, cũng là phiền phức! Tôi chỉ nói tới đây, quý vị hãy thấu hiểu cặn kẽ: Hễ có “một niệm chẳng sanh” thì cũng không được. [Nếu cảm thấy] “nay ta rất thanh tịnh”, thôi rồi, quý vị chấp trước thanh tịnh, vướng mắc nơi thanh tịnh, sự thanh tịnh ấy chính là chẳng thanh tịnh, cũng không được!
Trong pháp Đại Thừa thường nêu tỏ đạo lý này. Các vị xem Lục Tổ Đàn Kinh, sẽ thấy thiền sư Ngọa Luân rơi vào đó, ngay lập tức Lục Tổ cứu Sư ra. Thiền sư Ngọa Luân nói: “Ngọa Luân hữu kỹ lưỡng, năng đoạn bách tư tưởng” (Ngọa Luân có tài khéo, đoạn được trăm tư tưởng). Có thể đoạn là gì? Sư chấp trước, hãy còn có cái để có thể đoạn, còn có cái bị đoạn. Đấy là đã không thanh tịnh, bất bình đẳng. Huệ Năng đại sư nói ngược lại: “Huệ Năng một kỹ lưỡng, bất đoạn bách tư tưởng” (Huệ Năng không tài khéo, chẳng đoạn trăm tư tưởng). Bài kệ này cứu thiền sư Ngọa Luân. Sư mắc bệnh ấy, Tổ dùng bài kệ này để cứu Sư, [sư Ngọa Luân đã phạm] sai lầm. Nếu chẳng nói tới Ngọa Luân, chỉ nói tới ngài Huệ Năng thì Huệ Năng lại sai mất rồi. Đúng là “mở miệng liền trật, động niệm liền sai”. Đó gọi là “mịch tức tri quân bất khả kiến” (tìm tòi liền biết chẳng thể thấy được). Vì vậy, chớ nên khởi tâm động niệm. Trong hết thảy vạn pháp, chẳng khởi tâm, không động niệm, mắt thấy rành mạch, tai nghe rành mạch. Trong ấy, chẳng có phân biệt, chấp trước; đó là cảnh giới Hiện Lượng. Tánh Thấy bèn thấy sắc tánh, tánh Nghe bèn nghe thanh tánh, đó chính là minh tâm kiến tánh. Vừa động niệm bèn khiến tâm trở thành thức, biến cảnh giới thành sáu trần, sự chuyển biến ấy quá nhanh chóng, chẳng biết mau hơn tốc độ của ánh chớp bao nhiêu lần! Quý vị biến chân cảnh thành vọng cảnh, biến nhất tâm thành vọng thức, đó là tạo nghiệp.
(Diễn) Hựu vân: “Âu sanh âu diệt vô phi thủy, vân lai vân khứ bất ly không”.
(演)又云:漚生漚滅無非水,雲來雲去不離空。
(Diễn: Lại nói: “Bọt nước sanh diệt vẫn là nước, mây trôi qua lại chẳng lìa trời”).
Hai câu này đều là tỷ dụ. Âu (漚) là bọt nước. Trong một ao nước, bọt nước sanh khởi hoặc diệt mất. Bọt nước sanh ra thì nó vẫn là nước. Diệt mất, cũng vẫn là nước, chẳng hề rời khỏi [nước]! Sanh và diệt là một, không hai. “Vân lai, vân khứ” (Mây trôi qua lại), chẳng rời khỏi hư không. Cõi này và Tây Phương chẳng lìa khỏi bản thể, chẳng lìa rời tâm tánh.
(Diễn) Nhược năng liễu thử, tắc sanh bỉ quốc giả, phi sanh bỉ quốc, sanh thử tự tánh An Lạc quốc dã.
(演)若能了此,則生彼國者,非生彼國,生此自性安樂國也。
(Diễn: Nếu có thể hiểu điều này thì sanh về cõi kia chẳng phải là sanh trong cõi nước ấy, mà là sanh trong cõi An Lạc nơi tự tánh).
Câu nói này là lời thật, vì sao? Tây Phương Cực Lạc thế giới do tự tánh biến hiện, chẳng phải là sanh về Tây Phương Tịnh Độ của ai khác, mà là sanh vào Tịnh Độ trong tự tánh. Nghe nói tới Tịnh Độ trong tự tánh, cũng có lẽ lại hoài nghi, rốt cuộc là Tây Phương có Tịnh Độ hay không? Tự tánh Di Đà, vậy thì Tây Phương Cực Lạc thế giới có Phật Di Đà hay không? Chúng ta có còn nên lễ Tây Phương A Di Đà Phật hay không? Có vẫn nên cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới hay không? Xưa kia, lão pháp sư Đàm Hư có một người học trò nghe Đàm lão pháp sư giảng về Tây Phương Cực Lạc thế giới, nói “duy tâm Tịnh Độ, tự tánh Di Đà”. Ông ta nghe xong, ngủ chẳng được, suy nghĩ mấy ngày rồi đến hỏi lão hòa thượng: “Đã đều là tự tánh, chúng ta có cần phải cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ nữa hay không?” Lão hòa thượng trả lời rất tuyệt, hỏi ngược lại ông ta: “Biên giới giữa tự tánh Tịnh Độ và Tây Phương Tịnh Độ là ở chỗ nào?” Ông ta nghe xong, nghĩ ngợi cả buổi, thưa: “Chẳng tìm thấy biên giới”. Tìm chẳng thấy biên giới, không phải là như một ư? Những chỗ giống như vậy dễ nẩy sanh hiểu lầm nhất. Vì thế, đoạn này chẳng dễ nói. Nếu nói ra, sẽ khiến cho quý vị nẩy sanh hiểu lầm, ngay cả Tịnh Độ cũng không tin tưởng.
(Sao) Tuy vân thập vạn ức trình.
(鈔)雖云十萬億程。
(Sao: Tuy nói là đường xa mười vạn ức [cõi nước]).
Nói đến khoảng cách giữa thế giới Sa Bà và thế giới Cực Lạc là mười vạn ức cõi Phật, nên bảo là “thập vạn ức trình”.
(Sao) Hà tằng chỉ xích động bộ, cố vị bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương dã.
(鈔)何曾咫尺動步,故謂不勞彈指到西方也。
(Sao: Chưa từng cất bước trong gang tấc, nên nói là “chưa nhọc sức trong một cái khảy ngón tay đã đến Tây Phương”).
Có những kẻ chẳng mong vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, lại còn khuyên kẻ khác chớ nên cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, vì sao? Thế giới Tây Phương rất xa, mười vạn ức cõi Phật, khi nào mới có thể đến được? Họ khuyên quý vị cầu sanh Tịnh Độ của ngài Di Lặc. Tịnh Độ của ngài Di Lặc gần gũi, ở ngay trong tầng trời thứ tư của Dục Giới, lại còn chê bai quý vị “bỏ gần cầu xa, ngu si quá!” Họ nói chẳng sai! Vì sao chẳng sai? Có xa gần, xa gần là hai pháp, họ rớt vào hai pháp. Chúng ta cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ chẳng có xa hay gần. Chẳng có xa hay gần thì là pháp bất nhị, cõi này và phương khác là một, chẳng hai! Vì vậy, “hà tằng chỉ xích động bộ” (chưa từng cất bước trong gang tấc). “Chỉ” (咫)[86] là gần, nói cách khác, quý vị còn chưa giở một bước chân, trong khoảng một cái khảy ngón tay đã đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, vì sao? Chuyển biến cảnh giới, lập tức đến đó. Nếu chẳng phải là tự tánh diệu dụng không ngằn mé, làm sao có thể đến đó trong một niệm cho được?
Không chỉ là trong một niệm có thể đến Tây Phương, mà là một niệm trọn khắp pháp giới! Người biết sự thật này rất ít. Nếu một niệm chẳng thể trọn khắp pháp giới, Phật, Bồ Tát trong khắp pháp giới làm sao có thể biết khởi tâm động niệm của chúng ta? Có thể thấy là một niệm của chúng ta giống như làn sóng điện, ngay lập tức truyền khắp pháp giới. Vì vậy, Phật, Bồ Tát ở bất cứ góc nào trong pháp giới đều tiếp nhận làn sóng điện ấy, đều biết. Tây Phương Cực Lạc thế giới cách chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Kinh Vô Lượng Thọ cho biết người trong cõi ấy (cõi Cực Lạc), tất cả mọi người, chẳng có một ai là ngoại lệ, hết thảy chúng sanh trong mười phương thế giới khởi tâm động niệm, họ đều biết. Quý vị hỏi vì sao họ biết ư? Do mỗi tâm niệm của chúng ta đều trọn khắp pháp giới, giống như làn sóng điện trọn khắp pháp giới. Họ khởi tâm động niệm cũng trọn khắp pháp giới, nay chúng ta chẳng biết, là vì bộ máy tiếp nhận của chúng ta bị trục trặc, chẳng nhanh nhạy. Trục trặc là gì? Trục trặc là ô nhiễm, đức Phật gọi [sự ô nhiễm ấy] là vọng tưởng, chấp trước. Do chúng ta có vọng tưởng, chấp trước, nên lục căn mới nẩy sanh trục trặc. Chỗ hơi xa một chút bèn chẳng biết, chẳng thâu nhận được. Chỗ gần cũng chẳng thâu nhận được! Quý vị ngồi ngay trước mặt tôi, trong tâm quý vị nghĩ điều gì, tôi đều không biết, bị trục trặc quá nghiêm trọng! Trừ khử vọng tưởng, chấp trước, sẽ chẳng còn trục trặc nữa, năng lực liền khôi phục, bất cứ chuyện nhỏ nhặt nào trong mười phương thế giới chúng ta đều biết rành mạch, rõ ràng.
(Sao) Như kỳ Chân Như bất thủ tự tánh, ngũ đạo tùy duyên, tắc thị cùng tử lữ bạc tha hương, ưng quy cố lý.
(鈔)如其真如不守自性,五道隨緣,則是窮子旅泊他鄉,應歸故里。
(Sao: Nếu Chân Như chẳng giữ lấy tự tánh, tùy duyên trong năm đường, sẽ là đứa con nghèo túng phiêu bạt quê người, hãy nên quay về quê cũ).
Chẳng thể không có mấy câu này. Nếu chẳng có những câu này, đoạn khai thị này của Liên Trì đại sư sẽ có khuyết điểm. Hai câu trước nói về chân tướng sự thật, là cảnh giới của bậc giác ngộ. Tuy nói với chúng ta, chúng ta chưa ngộ, người chưa ngộ thì như thế nào? Người chưa ngộ thì phải thật thà niệm Phật cầu sanh về thế giới Tây Phương. Nay chúng ta tuy hiểu một tí đạo lý, nhưng phải hiểu bất quá chỉ là một chút tri giải mà thôi, chứ công phu lẫn địa vị đều chưa đạt tới, đúng như thế đó! Vì vậy, quyết định chớ nên có tâm ngạo mạn chút nào! “Chân Như chẳng giữ lấy tự tánh” chính là mê hoặc, điên đảo, cũng là “một niệm bất giác” như Khởi Tín Luận đã nói. Một niệm bất giác là Chân Như chẳng giữ lấy tự tánh.
(Diễn) Như kỳ hạ kết khuyến.
(演)如其下結勸。
(Diễn: Từ chữ “như kỳ” trở đi là phần tổng kết lời khuyên).
Đoạn văn từ câu “như kỳ Chân Như bất thủ tự tánh” trở đi là phần kết khuyến.
(Diễn) Nhược quả năng liễu tri bản thể bất ly đương xứ, tắc cao sơn bình địa tổng Tây Phương, hà tu nguyện sanh bỉ quốc? Như cổ vân: “Chánh niệm A Di Đà Phật thời, bảo trì, thụ ảnh nhật trì trì. Cánh trì tâm niệm sanh Tây độ, hựu thị trùng tài nhãn thượng my”, thị dã.
(演)若果能了知本體不離當處,則高山平地總西方,何須願生彼國。如古云:正念阿彌陀佛時,寶池樹影日遲遲,更馳心念生西土,又是重栽眼上眉,是也。
(Diễn: Nếu thật sự có thể biết bản thể chẳng lìa đương xứ, ắt núi cao hay đất bằng đều là Tây Phương, cần gì phải nguyện sanh về cõi ấy? Như cổ nhân nói: “Ngay trong khi niệm A Di Đà Phật, ao báu, bóng cây ngày ngày cảm nhận. Tâm niệm cứ khăng khăng sanh về cõi trời Tây, chính là trên mắt gắn thêm đôi mày”, chính là ý này vậy).
Những câu này nói về bậc thật sự minh tâm kiến tánh. Người minh tâm kiến tánh mà cũng làm theo cách giống như bọn sơ học chúng ta thì gọi là “trên đầu chồng thêm cái đầu”. Đoạn này có ý nghĩa như vậy. Nhưng người minh tâm kiến tánh, những vị đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền trong hội Hoa Nghiêm vẫn phải phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, chẳng phải là “trên mắt gắn thêm đôi mày” ư? Có phải là trên đầu chồng thêm một cái đầu nữa, vẽ rắn thêm chân ư? Đó là đa sự! Có phải là đa sự hay không? Chẳng phải! Các Ngài đại từ đại bi, nêu gương cho kẻ chưa giác ngộ. Người thật sự giác ngộ cần gì lại đến thị hiện trong thế gian? Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành Phật, có ý nghĩa gì? Huống hồ lại chẳng ngừng thị hiện? Trong kinh Phạm Võng, lão nhân gia nói Ngài thị hiện thành Phật trong thế giới Sa Bà lần này là lần thứ tám ngàn, đến thị hiện trùng lặp như vậy nhằm ý nghĩa gì? Có phải là quá thừa thãi hay chăng? Chẳng phải, [Ngài đến thị hiện] nhằm tiếp dẫn chúng sanh, khơi gợi, phát khởi chúng sanh. Chính Ngài có làm hay không? Bản thân Ngài thật sự chẳng làm! Chúng ta phải hiểu điều này; đấy mới là chân tướng thật sự. Phật, Bồ Tát không làm mà làm, làm mà không làm, các Ngài đến biểu diễn cho chúng ta thấy. Tây Phương thế giới là do Phật, Bồ Tát biểu diễn, lẽ nào thế giới Hoa Tạng lại chẳng phải là biểu diễn? Thảy đều là biểu diễn. Do đó, sau khi đã ngộ, trong tâm chẳng còn có phân biệt, chấp trước nữa. Lìa phân biệt, chấp trước, há còn có cõi này và phương khác ư? Cõi này và phương khác là do phân biệt, chấp trước nên mới có. Ở đây nói “cao sơn bình địa tổng thị Tây Phương” (núi cao hay đất bằng đều là Tây Phương) chính là đạo lý này. Thật sự chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, chẳng có vọng tưởng, cảnh giới là thanh tịnh, bình đẳng như một, nói lên ý nghĩa này, tức là Tịnh Độ trong tự tánh hiện tiền. Tự tánh Tịnh Độ đã hiện tiền, vẫn phải niệm Phật cầu sanh Tây Phương, đó là đại từ đại bi phổ độ chúng sanh.
(Diễn) Như kỳ Chân Như bất thủ tự tánh, ngũ đạo tùy duyên.
(演)如其真如不守自性,五道隨緣。
(Diễn: Nếu Chân Như chẳng giữ lấy tự tánh, tùy duyên trong năm đường).
Nói đơn giản, “bất thủ tự tánh” là chẳng khai ngộ, chẳng kiến tánh. Thưa cùng chư vị, giải ngộ chẳng sử dụng được! Giải ngộ là ta liễu giải những điều này rất rõ ràng, rành rẽ, và cũng có thể nói đến nỗi hoa trời rơi tán loạn, pháp nào cũng là đạo. Tuy hiểu rõ đạo lý, nhưng phiền não chẳng đoạn, tình chấp chẳng quên, chẳng phải là thật sự đoạn. Đối với tín giải hành chứng, ta chỉ làm được giải, chẳng có hành, hành là gì? Hành là thật sự đoạn phiền não; hành là thật sự tu tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng. Ta chẳng vận dụng công phu này, sẽ chẳng thể đạt đến thanh tịnh, bình đẳng, do thiếu hành! Chẳng có hành, lấy đâu ra chứng? Nói cách khác, dẫu quý vị hiểu nhiều đến mấy, vẫn là lục đạo phàm phu, quyết định chẳng thoát khỏi tam giới, chính mình phải hiểu rõ điều này. Ngàn vạn phần đừng nghĩ chính mình hiểu kinh giáo đôi chút, biết nói này nọ, [bèn vênh váo]: “Ta là Bồ Tát tái lai”, “ta là vị La Hán nào đó tái lai”, đáng kinh sợ quá! Sẽ tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp. Không chỉ là chúng ta chẳng thể tự nói về bản thân [như vậy], mà đối với các vị tổ sư đại đức cũng chớ nên ca tụng quá lố! Ca tụng quá lố, sẽ như pháp sư Ấn Quang đã nói: “Không phải là tô son trát phấn cho người ta, mà là đặt một đống phân lớn lên đầu họ!” Nhất là trong thời đại hiện tại, dẫu là Bồ Tát tái lai, quý vị cũng chẳng cần phải nói các Ngài là Bồ Tát tái lai. Vì sao? Vì kẻ giả mạo Phật, Bồ Tát trong thế gian này đông quá. Bồ Tát thật sự tái lai, quý vị nói ra, [kẻ khác sẽ dè bỉu]: “Gã ấy vẫn là mạo nhận y chang”, chẳng có ai tin tưởng! Sao lại khiến cho kẻ khác tạo nghiệp? Phàm phu là phàm phu, giống như diễn tuồng, ở trên sân khấu [được giao] diễn vai gì bèn diễn vai đó, chẳng cần quan tâm phía sau sân khấu [thân phận thật sự của] họ là như thế nào! Đó là dùng Sự để luận Sự, đấy là đúng. Như vậy thì sẽ giảm thiểu khuyết điểm đến mức thấp nhất.
Mê hoặc, điên đảo, bèn “ngũ đạo tùy duyên”. Ngũ đạo là lục đạo. Nói “ngũ đạo” tức là chẳng nói tới A Tu La, A Tu La ở trong đường nào bèn tính gộp vào đường ấy. Nói thông thường thì là “lục đạo”, tức là cũng coi các vị A Tu La trong cõi trời là một đạo. Nói “ngũ đạo” là đem A Tu La trong cõi trời gộp vào trong chư thiên. Thiên, nhân, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục là ngũ đạo, cũng là lục đạo luân hồi. Lục đạo luân hồi rất đáng thương!
(Diễn) Tắc thị cùng tử xả phụ đào thệ, lưu lạc tha hương.
(演)則是窮子捨父逃逝,流落他鄉。
(Diễn: Tức là đứa con nghèo túng bỏ cha trốn đi, lưu lạc chốn quê người).
Hai câu tỷ dụ này xuất phát từ kinh Pháp Hoa. “Phụ” (cha) là sánh ví Chân Như tự tánh. Nay quý vị mê mất tự tánh, giống như đứa bé mê mất gia đình, chạy ra ngoài. Nếu mong được an ổn, bình an, vẫn là ngay lập tức ngoan ngoãn trở về nhà, phải tìm đường trở về nhà! Do đã mê mất tự tánh, nên lưu chuyển trong lục đạo. Chỉ có một phương pháp thì quý vị mới có thể trở về tự tánh, phương pháp gì vậy? Cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
(Diễn) Tắc ưng yếm thử ngũ trược, hân bỉ Tây Phương, phát nguyện vãng sanh bất khả hoãn dã.
(演)則應厭此五濁,欣彼西方,發願往生不可緩也。
(Diễn: Tức là hãy nên chán cõi năm trược này, yêu thích cõi Tây Phương kia, phát nguyện vãng sanh, chớ nên trì hoãn!)
Lại chẳng thể trì hoãn. Trì hoãn lần này, lần sau lại gặp gỡ cơ duyên này, chẳng biết là đời nào, kiếp nào? Chuyện này rất đáng sợ! Lời khuyên cuối cùng của đại sư hay lắm, những câu kết lại lời khuyên đều là nói về trạng huống của chúng ta trong hiện thời, chúng ta hãy nên thấu hiểu thâm ý chỉ dạy của Liên Trì đại sư. “Ưng quy cố lý” (Hãy nên về quê cũ), “quê cũ” là nói tới Tây Phương Cực Lạc thế giới.
Nhị, xuất kỳ sở dĩ.
二出其所以。
(Hai, là nêu nguyên do).
Nêu rõ vì sao chúng ta phải vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tuy chúng ta mê hoặc, điên đảo, nhưng các thế giới của chư Phật trong mười phương rất nhiều, vì sao không cầu sanh về các Tịnh Độ khác của chư Phật, cứ khăng khăng cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, do lý do nào? Có thể thấy tầm trọng yếu của đoạn văn này. Đoạn văn này nhằm trả lời nghi vấn ấy!
(Kinh) Sở dĩ giả hà? Đắc dữ như thị chư thượng thiện nhân, câu hội nhất xứ.
(經)所以者何。得與如是諸上善人。俱會一處。
(Kinh: Vì cớ sao vậy? Được cùng với những vị thượng thiện nhân như vậy ở cùng một chỗ).
Đạo lý ở chỗ này. Ngay cả Văn Thù, Phổ Hiền, quý vị hỏi các Ngài vì sao muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng là do lý do này. Các cõi Phật ở phương khác tốt đẹp, nhưng chẳng có bậc thượng thiện nhân đông đảo ngần ấy! “Thượng thiện” là gì? Đẳng Giác Bồ Tát. Trong các cõi Phật ở những thế giới phương khác, Đẳng Giác Bồ Tát quá ít, hiếm hoi! Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, Đẳng Giác Bồ Tát quá đông, khắp mọi nơi đều có. Ở chung với những vị ấy, chúng ta mới có thể chẳng bị thoái chuyển, mới có thể tiến bộ. Đó là hoàn cảnh tu học tốt nhất, đạo lý là như thế đó.
(Sớ) Thử nhiếp tiền trưng khởi, hà cố giáo nhân phát nguyện sanh bỉ, dĩ bỉ quốc thị chư thượng thiện nhân đồng hội chi xứ, đắc sanh bỉ quốc, tắc nhập như thị thắng hội. Cố đương cầu sanh.
(疏)此躡前徵起,何故教人發願生彼,以彼國是諸上善人同會之處,得生彼國,則入如是勝會,故當求生。
(Sớ: Đoạn này thâu nhiếp ý trong phần trước để gạn hỏi: Vì sao dạy người khác phát nguyện sanh về cõi ấy? Ấy là vì cõi ấy là nơi các vị thượng thiện nhân cùng tụ hội. Được sanh về cõi ấy, sẽ dự vào hội thù thắng như vậy. Vì thế, hãy nên cầu sanh).
Nêu bày trọn hết đạo lý này cho chúng ta. Trong sách Diễn Nghĩa có chú giải. Trong lời chú giải có một câu quan trọng nhất, tức là chúng ta sẽ dự vào hội của các vị thượng thiện nhân. Chúng ta sẽ gia nhập làm hội viên của hội ấy, cùng tu một chỗ với các Ngài. Vì thế, câu cuối cùng này là câu quan trọng nhất.
(Diễn) Thượng nãi tường trần y chánh chủng chủng trang nghiêm.
(演)上乃詳陳依正種種莊嚴。
(Diễn: Trên đây đã trình bày cặn kẽ các thứ trang nghiêm nơi y báo và chánh báo).
Tiếp nối những ý về sự trang nghiêm nơi y báo và chánh báo trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đã nói trong các phần kinh văn trên đây.
(Diễn) Cố khuyến phát nguyện cầu sanh.
(演)故勸發願求生。
(Diễn: Là để khuyên phát nguyện cầu vãng sanh).
Khuyên chúng ta phát nguyện cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
(Diễn) Kim xuất kỳ sở dĩ trung.
(演)今出其所以中。
(Diễn: Nay nêu ra lý do).
Trong phần trên khuyên chúng ta hãy vãng sanh; ở đây, nêu rõ nguyên nhân và đạo lý vãng sanh. Nếu quý vị hiểu rõ, [sẽ thấy] không thể chẳng vãng sanh! Tuy y báo và chánh báo trang nghiêm tốt đẹp, ta sống trong một cái chòi tranh nhỏ cũng yên tâm thoải mái, ta chẳng mong vãng sanh! Hạng người như vậy cũng rất nhiều! Quý vị có nhà cao cửa rộng sang trọng, đẹp đẽ, nguy nga, tráng lệ, nhường cho họ ở, họ chẳng muốn ở. “Quý vị cho tôi một căn nhà to, tôi không muốn ở. Vì sao? Quét dọn phiền toái quá, tôi chẳng muốn ở!” Vì thế, họ chẳng thể động tâm. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, y báo và chánh báo trang nghiêm, cung điện bảy báu, có rất nhiều người thấy vậy mà chẳng động tâm, vẫn chẳng muốn đến đó. Nay thấy điều này: Các vị thượng thiện nhân cùng tụ hội một chỗ, không thể nào chẳng đi!
(Diễn) Đản vân đắc dữ chư thượng thiện nhân, đồng hội nhất xứ, bất ngôn đắc thọ chủng chủng diệu lạc, duy cử chánh nhi bất cập y giả, dĩ lạc sự phi trân, thiện hữu vi trân.
(演)但云得與諸上善人,同會一處,不言得受種種妙樂,唯舉正而不及依者,以樂事非珍,善友為珍。
(Diễn: Chỉ nói “được ở cùng một chỗ với các vị chư thượng thiện nhân”, chẳng nói “được hưởng các thứ vui sướng nhiệm mầu”, chỉ nêu chánh báo mà chẳng nhắc tới y báo, vì chuyện vui chẳng quý báu, bạn lành mới là quý báu).
Tôi vừa mới nói, tuy sung sướng, nhưng có rất nhiều người vẫn không mong muốn: “Nói tới chuyện hưởng thụ, tôi thấy chẳng có gì là hay ho, hoàn toàn chẳng thích thú!” Trân bảo, chuyện vui thú hoàn toàn chẳng phải là ai cũng đều coi trọng. “Trân” (珍) là coi rất trọng! Có rất nhiều người chẳng để vào mắt, “thiện hữu vi trân” (bạn lành là quý báu), thật vậy! Một người sống trong thế gian, nói thật thà, trong một đời có thể gặp một tri kỷ, tri tâm, chẳng sống uổng phí một đời này! Suốt một đời chẳng có kẻ tri giao, đã sống uổng đời này, đúng như vậy đó! Có thể thấy bạn lành trân quý, chẳng giả tí nào, chỉ có thể gặp, chứ không thể cầu. Tiếp đó, dẫn một câu chuyện từ cổ thư:
(Diễn) Đại Học vân: “Sở quốc vô dĩ vi bảo, thế nhân thượng bất bảo châu ngọc, nhi bảo thiện nhân”. Hà huống xuất thế chi giáo, cố cử chánh nhi bất cập y dã.
(演)大學云:楚國無以為寶,世人尚不寶珠玉,而寶善人,何況出世之教,故舉正而不及依也。
(Diễn: Sách Đại Học chép: “Nước Sở chẳng coi thứ gì là quý báu, người đời chẳng quý trọng châu ngọc, mà quý trọng người lành”. Huống hồ giáo pháp xuất thế gian? Vì thế, chỉ nói tới chánh báo, chẳng nhắc tới y báo).
Người thật sự có đạo đức, có học vấn trong thế gian rất hờ hững đối với những thứ trân bảo trong cõi đời, trọn chẳng có tâm tham luyến, trông thấy mà chẳng động lòng. Quý vị kể với họ Tây Phương Cực Lạc thế giới tốt đẹp dường ấy, [họ sẽ bảo] “tôi chẳng mong hưởng thụ”, chẳng để những thứ ấy vào mắt! Nhưng nói đến thiện nhân, họ liền hoan hỷ, do coi trọng bậc thiện nhân. Pháp thế gian còn như thế, huống hồ pháp xuất thế! Vì lẽ đó, khuyên lơn ở chỗ này, dùng chuyện “thiện nhân đông đảo” để khuyến khích chúng ta, chẳng nói tới những điều khác. Y báo và chánh báo trang nghiêm như đã nói trong phần trước khiến kẻ tham cầu hưởng thụ động lòng: “Tốt đẹp dường ấy, chúng ta đi ngay lập tức!” Người đức hạnh cao, tâm địa thanh tịnh, chẳng tham cầu trân bảo, nói những chuyện trên đây, họ chẳng động tâm. Nói “chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ”, họ động tâm, cũng muốn cầu sanh thế giới Tây Phương. Đấy là mới thích hợp khắp ba căn, lợi căn lẫn độn căn thâu nhiếp hoàn toàn, thảy đều khuyên bảo.
(Sao) Trưng hữu nhị nghĩa.
(鈔)徵有二義。
(Sao: Gạn hỏi là vì có hai ý nghĩa).
“Trưng” (徵) là gạn hỏi. “Sở dĩ giả hà” là câu hỏi, [ý nói] vì sao phải khuyên quý vị vãng sanh. Trong lời nghi vấn ấy có hai ý nghĩa:
(Sao) Nhất giả, Sa Bà diệc thị Phật bang, hà tất viễn ly cố quốc?
(鈔)一者娑婆亦是佛邦,何必遠離故國。
(Sao: Một là Sa Bà cũng là cõi Phật, cớ gì cứ phải xa lìa nước cũ?)
Thế giới Sa Bà là Tịnh Độ của Thích Ca Mâu Ni Phật, nội viện của Di Lặc Bồ Tát cách chúng ta không xa. Vì sao chẳng cầu sanh trong nước mình mà qua thế giới Cực Lạc? Đây là một nghi vấn.
(Sao) Nhị giả, thập phương vô tận Phật sát, nhược vị thiên hướng Tây Phương? Cố trưng kỳ diêu.
(鈔)二者十方無盡佛剎,若為偏向西方?故徵其繇。
(Sao: Hai là mười phương cõi Phật vô tận. Vì sao thiên trọng Tây Phương? Vì thế, gạn hỏi nguyên do).
Các Tịnh Độ khác trong mười phương thế giới vô lượng vô biên, vì sao không cầu sanh trong thế giới của Đông Phương Dược Sư Phật? Vì sao cứ phải nhất định cầu sanh về Tây Phương? Dưới đây, đại sư giải đáp hai nghi vấn ấy.
(Sao) Kim dung nhi đáp chi, phục hữu tam nghĩa.
(鈔)今融而答之,復有三義。
(Sao: Nay dung hội để đáp thì lại có ba nghĩa).
Dung hợp hai vấn đề ấy để giải thích. Trong lời giải thích, có ba ý nghĩa.
(Sao) Nhất giả, hoặc hữu quốc độ, nhân, súc, quỷ, ngục chi sở cộng cư, vị tất giai nhân cố.
(鈔)一者,或有國土,人畜鬼獄之所共居,未必皆人故。
(Sao: Một là hoặc có những cõi nước là nơi người, súc sanh, quỷ, địa ngục cùng ở, chưa chắc đã đều là người).
Giống như thế giới Sa Bà, lục đạo chúng sanh sống xen tạp trong ấy, luân chuyển trong lục đạo khổ khôn kể xiết, quý vị ưa thích thế giới này hay chăng? Đấy là sự thật.
(Sao) Nhị giả, hoặc hữu quốc độ, tuy thuần nhân sở cư, vị tất giai thiện cố.
(鈔)二者,或有國土,雖純人所居,未必皆善故。
(Sao: Hai là cũng có quốc độ, tuy thuần là người cư trụ, nhưng chưa chắc đã đều là thiện nhân).
Xác thực là có những cõi Phật toàn là loài người, chẳng có ba ác đạo, mà cũng chẳng có chư thiên, nhưng những người ấy chưa chắc đều là thiện nhân. Hiện nay, chúng ta sống trong xã hội này, chỗ nào cũng đều cảm thấy chẳng an toàn, nguyên nhân ở chỗ nào? Chưa chắc đều là người lành! Đến đâu cũng đều có cướp bóc, trộm cắp, có nguy cơ đối với sanh mạng và tài sản. Xã hội Trung Hoa có kẻ ác, mà xã hội ngoại quốc cũng có người ác. Hiện thời, đi xa, có đề phòng cũng chẳng đề phòng nổi! Mỗi lần chúng ta mất hành lý, mất giấy tờ, mất tiền bạc tại phi trường, ngày nào chẳng có? Hằng ngày đều có, mỗi ngày chẳng biết đã trông thấy bao nhiêu lần! Chưa chắc đều là tốt lành, đó là một nguyên nhân.
(Sao) Tam giả, hoặc hữu quốc độ, tuy thuần thiện nhân sở cư, vị tất giai thượng thiện cố.
(鈔)三者,或有國土,雖純善人所居,未必皆上善故。
(Sao: Ba là hoặc có quốc độ, tuy thuần là người lành cư trụ, nhưng chưa chắc đã đều là bậc thượng thiện).
“Thượng thiện” là chẳng có ai cao hơn được. Thượng thiện là nói bậc Đẳng Giác Bồ Tát, không phải là nói kẻ tầm thường. Đến nơi nào để tìm thấy một thế giới toàn là bậc Đẳng Giác Bồ Tát nhóm họp? Chẳng tìm thấy! Chỉ riêng có Tây Phương Cực Lạc thế giới là câu lạc bộ của các vị Hậu Bổ Phật trong hết thảy các cõi Phật, các Ngài đều đến bên ấy. Nếu quý vị đến nơi ấy, Đẳng Giác Bồ Tát trong mười phương hết thảy các cõi Phật thảy đều gặp mặt. Di Lặc Bồ Tát trong thế giới này cũng chẳng phải là ngoại lệ, Ngài cũng ở bên đó.
(Sao) Kim viết chư thượng thiện nhân, tắc bất độc vi nhân trung chi thiện, diệc phục thiện trung chi thiện dã.
(鈔)今曰諸上善人,則不獨為人中之善,亦復善中之善也。
(Sao: Nay nói “chư thượng thiện nhân” tức là không chỉ là người lành, mà còn là người lành nhất trong các người lành).
Giảng rõ “thượng thiện” là gì? Thượng thiện là thiện nhất trong các thiện nhân.
(Sao) Như thượng sở liệt Thanh Văn, Bồ Tát, nãi chí Bổ Xứ.
(鈔)如上所列聲聞菩薩,乃至補處。
(Sao: Những vị Thanh Văn, Bồ Tát, cho đến hàng Bổ Xứ như vừa liệt kê trên đây).
Họ đều là bậc tu hành chứng quả, nên gọi là “thượng thiện”.
(Sao) Thử đẳng chư thượng thiện nhân, kim đắc vãng sanh, tức dữ câu hội nhất xứ.
(鈔)此等諸上善人,今得往生,即與俱會一處。
(Sao: Đối với các bậc thượng thiện nhân như vậy, nay đã được vãng sanh bèn liền cùng tụ hội một chỗ với họ).
Nay quý vị cũng là hễ sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn ở chung với họ. Những lời tiếp theo đây là sự thật, chẳng phải là ca ngợi.
(Sao) Sở vị Quán Âm, Thế Chí, bả thủ cộng hành, Văn Thù, Phổ Hiền, thân vi thắng hữu.
(鈔)所謂觀音勢至,把手共行;文殊普賢,親為勝友。
(Sao: Đó gọi là Quán Âm, Thế Chí nắm tay nhau cùng đi, Văn Thù, Phổ Hiền đích thân làm bạn thù thắng).
Tới Tây Phương Cực Lạc thế giới, nay chúng ta thấy tượng đức Quán Âm bèn đảnh lễ Ngài, sang cõi kia, sẽ cùng Quán Âm Bồ Tát nắm tay cùng đi dạo. Quán Âm Bồ Tát là Đẳng Giác Bồ Tát, chúng ta sang bên ấy, hạ hạ phẩm vãng sanh vẫn là người hay trời, người hay trời mà có thể cùng với Bồ Tát tay cầm tay cùng nhau đi dạo. Trong các thế giới khác, chẳng thể nào có được; chỉ riêng thế giới Tây Phương là có. Có muốn sanh về đó hay chăng? Chẳng thể nào không vãng sanh! Những vị Bồ Tát ấy có khá nhiều vị là cổ Phật tái lai, đều đã thành Phật từ lâu. Hằng ngày chúng ta có thể ở chung với các vị Bồ Tát tại một chỗ, hằng ngày cùng với những vị ấy như hình với bóng chẳng rời. Quý vị ngẫm xem: Lẽ nào quý vị có thể thoái chuyển cho được? Lẽ đâu quý vị chẳng thành Phật trong một đời? Dưới đây là nêu một tỷ dụ.
(Sao) Dụ như đăng Long, dự Doanh, thế sở hy cố.
(鈔)喻如登龍與瀛,世所希故。
(Sao: Ví như lên Long Môn, dự vào Doanh Châu, hiếm có trong đời).
Đây là hai câu chuyện.
(Diễn) Đăng Long giả, Đông Hán Lý Ưng.
(演)登龍者,東漢李膺。
(Diễn: “Lên Long Môn” là nói tới Lý Ưng[87] thời Đông Hán).
Người này sống vào thời Đông Hán[88], là một vị ẩn sĩ, là người đọc sách.
(Diễn) Thượng khí tiết cô cao tuấn bạch, thiểu sở giao du.
(演)尚氣節孤高峻白,少所交游。
(Diễn: Khí tiết cao thượng, không xu nịnh, thanh khiết, ít giao du).
Có học vấn, có đạo đức, chẳng dễ dãi tiếp nhận kẻ khác, rất ít kết bạn với kẻ khác. Người có thể kết bạn với ông ta đều được người đời bội phục.
(Diễn) Nhân bị kỳ dung tiếp giả, dĩ vi đăng Long Môn vân.
(演)人被其容接者,以為登龍門云。
(Diễn: Người được ông ta chấp nhận, coi như được lên Long Môn[89]).
Khó khăn ngần ấy, ông ta có thể coi trọng quý vị là chuyện chẳng dễ dàng. Nêu lên một thí dụ như thế đó.
(Diễn) Dự Doanh giả, Đường Thái Tông khai Hoằng Văn Quán.
(演)與瀛者,唐太宗開宏文館。
(Diễn: “Dự vào Doanh Châu”: Đường Thái Tông mở Hoằng Văn Quán).
Đường Thái Tông mở Hoằng Văn Quán; đây là một sự nghiệp thuần túy văn học của Đường Thái Tông, giống như viện nghiên cứu trung ương trong hiện tại, hoặc giống như Hàn Lâm Viện trong đời sau, mời mọc văn nhân trong thiên hạ họp mặt.
(Diễn) Dĩ Đỗ Như Hối đẳng, thập bát nhân vi học sĩ.
(演)以杜如晦等,十八人為學士。
(Diễn: Chọn mười tám người như ông Đỗ Như Hối[90] v.v… làm học sĩ).
Học sĩ của Hoằng Văn Quán.
(Diễn) Nhân tiện kỳ vinh, dĩ vi Doanh Châu chi tuyển.
(演)人羨其榮,以為瀛州之選。
(Diễn: Người ta hâm mộ vinh dự ấy, coi như họ được tuyển vào Doanh Châu[91]).
Đều khá khó khăn. Nay chúng ta vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, giống như thế tục nói là “đăng Long Môn” “Doanh Châu chi tuyển”! Được trúng tuyển, vinh dự ngần ấy, đó là “thế sở hy cố” (hiếm có trong cõi đời). Trong toàn thể hư không khắp pháp giới, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là chuyện hiếm có, thật vậy, chẳng giả! Người học Phật tuy nhiều, có mấy ai sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới? Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới rất ít ỏi! Chẳng phải là A Di Đà Phật và các vị thượng thiện nhân cõi Tây Phương nhất định muốn nâng cao thân phận của chính mình, chẳng phải vậy; bởi lẽ, các Ngài chẳng phải là hạng người như Lý Ưng hay Đường Thái Tông. A Di Đà Phật giang rộng hai tay hoan nghênh quý vị đến đó, nhưng chính quý vị chẳng đến thì còn có cách nào nữa đây? Chọn lựa là do chính chúng ta, chẳng do A Di Đà Phật. Quyền tuyển chọn dự vào Long Môn hay Doanh Châu chẳng do chúng ta, mà do người khác [quyết định], còn thế giới Tây Phương do bản thân chúng ta, chẳng do Phật, Bồ Tát, tùy thuộc bản thân chúng ta có muốn đến đó hay không!
(Sao) Thị dĩ đại sĩ cầu đăng liên lục, huống phục phàm phu.
(鈔)是以大士求登蓮錄,況復凡夫。
(Sao: Do vậy, bậc đại sĩ còn xin ghi tên vào sổ sen, huống hồ phàm phu).
Đây cũng là một công án.
(Diễn) Trường Lô Trách thiền sư kiến liên xã.
(演)長蘆賾禪師建蓮社。
(Diễn: Thiền sư Trường Lô Trách lập liên xã).
Trong Thiền Tông có vị sau khi đại triệt đại ngộ, bèn quay về phát tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Trong Thiền Tông có khá nhiều vị đại đức tới cuối cùng trở về Tịnh Độ rất đông. Như ngài Vĩnh Minh Diên Thọ là tổ sư đời thứ sáu trong Tịnh Độ Tông, là bậc sau khi đã đại triệt đại ngộ minh tâm kiến tánh trong Thiền Tông bèn quay về Tịnh Độ. Ở đây, [ngài Trường Lô Trách] lập liên xã, mời mọc những người cùng chí hướng tu pháp môn Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Diễn) Nhất tịch mộng nhất nhân ô cân bạch y.
(演)一夕夢一人烏巾白衣。
(Diễn: Một đêm mộng thấy một người mũ đen, áo trắng).
“Cân” (巾) là mũ[92], [‘ô cân”] là đội mũ màu đen, mặc áo trắng. Buổi tối, Ngài mộng thấy như vậy.
(Diễn) Phong mạo thanh mỹ.
(演)風貌清美。
(Diễn: Phong thái, dung mạo thanh tú, đẹp đẽ).
“Phong” (風) là phong độ, dung mạo hết sức thanh tú. [Ngài Trường Lô Trách] mộng thấy một người như vậy.
(Diễn) Ấp nhi viết.
(演)揖而曰。
(Diễn: Vái chào, thưa).
Chắp tay hành lễ, thưa với Sư:
(Diễn) Nguyện nhập liên xã khất thư nhất danh.
(演)願入蓮社乞書一名。
(Diễn: Muốn vào liên xã, xin cho ghi danh một chỗ).
Ông ta muốn ghi danh vào liên xã, mong tham gia liên xã để niệm Phật.
(Diễn) Trách vấn hà danh? Viết Phổ Huệ.
(演)賾問何名?曰普慧。
(Diễn: Ngài Lô Trách hỏi tên là gì? Thưa là Phổ Huệ).
Thiền sư liền hỏi: “Ông tên gì?” Ông ta đáp là Phổ Huệ.
(Diễn) Hựu vân gia huynh Phổ Hiền, diệc khất thư danh.
(演)又云家兄普賢,亦乞書名。
(Diễn: Lại nói: “Gia huynh là Phổ Hiền cũng xin ghi tên”).
Ông ta đã đến, lại còn ghi danh thay cho anh mình. Ông ta nói: Anh tôi tên Phổ Hiền, tôi tên Phổ Huệ.
(Diễn) Giác nhi tư Hoa Nghiêm hữu nhị Bồ Tát danh.
(演)覺而思華嚴有二菩薩名。
(Diễn: Tỉnh giấc, nghĩ tới kinh Hoa Nghiêm có tên hai vị Bồ Tát ấy).
Sư tỉnh giấc, suy nghĩ: Trong kinh Hoa Nghiêm có tên hai vị Bồ Tát ấy. Hai vị Bồ Tát ấy đều đến ghi danh.
(Diễn) Toại dĩ vi liên lục chi thủ.
(演)遂以為蓮錄之首。
(Diễn: Liền ghi tên hai Ngài đứng đầu sổ liên hữu).
Danh sách trong liên xã ấy, mở đầu bằng Phổ Hiền Bồ Tát và Phổ Huệ Bồ Tát. Bồ Tát đến ghi danh, có thể thấy trong tương lai, nhất định là liên hữu trong liên xã ấy vãng sanh đông đảo. Đó là đạo tràng thật sự. Nếu trong đạo tràng kèn cựa, đấu đá, chỉ treo chiêu bài Phật giáo, muốn gây tạo tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, kẻ đến ghi danh sẽ là yêu ma quỷ quái, sẽ khiến cho quý vị một mực hồ đồ! Người ta chỉ dùng cái tâm chí thành, thật sự mong cầu sanh về Tịnh Độ. Chúng ta phải đặc biệt chú ý điều này.
(Sao) Bốc cư do trạch lý nhân, thẩn vân học đạo, như tư thắng hội, khả vật nguyện dư?
(鈔)卜居猶擇里仁,矧云學道,如斯勝會,可勿願歟。
(Sao: Chọn chỗ ở còn lựa láng giềng nhân từ, huống hồ học đạo! Hội thù thắng như thế, há có thể chẳng nguyện [sanh về đó] ư?)
“Bốc” (卜) tuyệt đối chẳng phải là xủ quẻ, xem bói, xem Phong Thủy. “Bốc cư” (卜居) là chọn lựa chỗ ở, hãy nên hiểu “bốc cư” là “tuyển trạch” (chọn lựa). Chọn lựa chỗ để ở, phải chọn xem xóm giềng có thiện nhân hay không, chúng ta phải ở với thiện nhân cùng một chỗ. Hễ có thiện nhân cư trụ bèn là chỗ Phong Thủy tốt đẹp; nơi chẳng có thiện nhân tồn tại, còn nói đến Phong Thủy chi nữa? “Bốc cư do trạch lý nhân”, “lý” là “lân lý” (鄰里: xóm giềng, hàng xóm), trong chốn lân lý có bậc quân tử nhân từ hay không? Có người như vậy hay không? Chúng ta phải làm hàng xóm với bậc quân tử nhân từ. Cổ nhân tuyển chọn chỗ ở, lấy điều này làm mục tiêu. Nay thì phải dùng la bàn xem Phong Thủy, lẩn quẩn làm những chuyện ấy, nói thật thà, chưa chắc đã gặp người đạo đức, nhân từ, mà [sẽ gặp] rất nhiều yêu ma quỷ quái. Yêu ma quỷ quái tin tưởng những thứ ấy! Người ta muốn tránh dữ, hướng lành, mong tiêu tai miễn nạn, chẳng cầu từ nơi hành vi đức hạnh trong thường ngày, lại cầu quỷ thần giúp đỡ, há có lẽ ấy! Từ xưa tới nay đã có bói toán nhằm để cho chúng ta tham khảo. Nếu bói được quẻ xấu thì phải làm sao? Chính mình hãy phản tỉnh rất sâu, ta phạm những lầm lỗi nào? Sửa lỗi đổi mới là né dữ, hướng lành. Vì thế, chẳng phải là sửa ở bên ngoài, mà là sửa trong nội tâm. Sách Liễu Phàm Tứ Huấn giảng sự lý này rất rõ ràng. Người hiện thời chẳng hiểu đạo lý này, hoàn toàn sửa đổi nơi hình thức bên ngoài. Đã sửa rồi vẫn không được, vẫn là vô dụng, đáng thất bại vẫn là thất bại, đáng mất mát vẫn bị mất mát. Chúng ta thấy những chuyện như vậy rất nhiều, hãy nên biết phản tỉnh. Lại xem đoạn kế tiếp, đại sư giả lập một đoạn vấn đáp, cũng nhằm đoạn trừ nghi vấn cho chúng ta.
(Sớ) Vấn: Sanh Cực Lạc giả, kỳ loại bất nhất, hà đắc khái xưng thượng thiện?
(疏)問:生極樂者,其類不一,何得概稱上善。
(Sớ: Hỏi: Người sanh về Cực Lạc thuộc nhiều loại khác nhau, há nên nhất loạt gọi là thượng thiện?)
Điều này đích xác cũng là một nghi vấn. Người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới rất nhiều, thiện ác cũng chẳng nhất định. Có bậc thiện nhân vãng sanh, mà cũng có kẻ ác lâm chung mười niệm vãng sanh. Nếu người vãng sanh thiện lẫn ác đều có, nhất là [pháp môn Tịnh Độ] thích hợp khắp ba căn, gồm thâu lợi căn lẫn độn căn, trên là A La Hán, Bồ Tát vãng sanh, dưới là ngạ quỷ, địa ngục cũng vãng sanh, có thể nào đều gọi họ là thượng thiện được chăng? Nêu ra câu hỏi này, chúng ta nghe thấy cũng rất có lý. Liên Trì đại sư đáp rất khéo.
(Sớ) Đáp: Dĩ giai đắc bất thoái chuyển cố.
(疏)答:以皆得不退轉故。
(Sớ: Đáp: Do đều đắc bất thoái chuyển).
“Bất thoái chuyển” là thiện hạnh của những người ấy chẳng thoái chuyển, đương nhiên có thể gọi họ là bậc thượng thiện.
(Sao) Loại bất nhất giả.
(鈔)類不一者。
(Sao: Chủng loại chẳng phải chỉ có một).
Trước hết, giải thích về chủng loại bất nhất.
(Sao) Vị hữu thánh, hữu phàm, hữu đại, hữu tiểu.
(鈔)謂有聖有凡,有大有小。
(Sao: Có nghĩa là có thánh, có phàm, có đại căn, có tiểu căn).
Có Đại Thừa, có Tiểu Thừa.
(Sao) Thượng trung hạ phẩm, phân vị trật nhiên.
(鈔)上中下品,分位秩然。
(Sao: Thượng phẩm, trung phẩm, hạ phẩm, phân chia địa vị theo trật tự rành rành).
Phân chia địa vị theo một thứ tự rành mạch, rõ ràng. Hãy nên hiểu “nhiên” (然) là rõ ràng hoặc hiểu rõ.
(Sao) Nãi lược kỳ trung hạ, khái viết thượng thiện, cố vị thử nạn.
(鈔)乃略其中下,概曰上善,故為此難。
(Sao: Do bỏ qua trung căn và hạ căn, cứ nhất loạt nói là thượng thiện, nên mới cật vấn chuyện này).
Bắt bẻ “trung hạ căn quý vị đều chẳng nhắc tới, luôn nói là thượng thiện, chẳng lẽ ai nấy đều là thượng thiện ư?”
(Sao) Kim minh chúng sanh sanh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí.
(鈔)今明眾生生者,皆是阿鞞跋致。
(Sao: Nay nói rõ chúng sanh vãng sanh đều là A Bệ Bạt Trí).
Không riêng gì kinh Tiểu Bổn Di Đà có câu này, mà kinh Đại Bổn Vô Lượng Thọ cũng có, trong nhiều bản đều có. Chắc chắn chẳng phải là phiên dịch sai lầm, trong nhiều bản dịch khác nhau đều thấy điều này, có thể thấy lời này là thật, tuyệt đối không phải là sai lầm. Đã là A Bệ Bạt Trí thì đương nhiên là bậc thượng thiện. A Bệ Bạt Trí là tiếng Phạn, chúng ta thường dịch là từ Thất Địa trở lên. Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới xác thực là có bốn cõi, xác thực là có chín phẩm, phẩm vị xác thực là có cao hay thấp, nhưng trí huệ, thần thông, đạo lực bằng bậc Bồ Tát từ Thất Địa trở lên, hy hữu thay! Điều này chẳng thể nghĩ bàn. Rõ ràng phàm phu, cớ sao có năng lực giống như bậc Thất Địa trở lên? Nếu chẳng phải là từ Thất Địa trở lên, há Thiên Nhãn có thể thấy thấu suốt? Há Thiên Nhĩ có thể nghe thông suốt? Túc Mạng Thông của A La Hán chỉ biết tới năm trăm đời. Năm trăm đời là giới hạn; trước năm trăm đời, Ngài sẽ chẳng biết. Năng lực của nhân, thiên trong Tây Phương Cực Lạc thế giới đều chẳng bị hạn chế, vượt trỗi A La Hán quá nhiều. Đó là những cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, mà cũng là sự thật chẳng thể nghĩ bàn.
(Sao) Tắc cứu cánh giai thành Vô Thượng Chánh Giác, thị Phật cảnh giới, cố vô biệt dã.
(鈔)則究竟皆成無上正覺,是佛境界,故無別也。
(Sao: Cho nên rốt ráo đều thành Vô Thượng Chánh Giác, là cảnh giới của Phật. Vì lẽ đó, chẳng khác biệt gì).
Kết luận này càng hay hơn nữa. Phàm là người sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng có ai không thành Phật viên mãn trong một đời. Đã là thành Phật viên mãn trong một đời, đương nhiên có thể gọi là “thượng thiện”. Nho gia nói “chỉ ư chí thiện” (an trụ trong sự tốt lành cùng tột). Nói thật ra, đối với “chỉ ư chí thiện” như Nho gia đã nói, chỉ có trong pháp môn Tịnh Độ mới là “chỉ ư chí thiện” danh phù hợp thực. Nếu chẳng cầu sanh Tịnh Độ, “chỉ ư chí thiện” là hữu danh hoàn toàn chẳng có thực chất, chẳng làm được. Đó là lý tưởng của Nho gia, chẳng phải là sự thật; nhưng trong Tịnh Độ Tông, nó đã được biến thành sự thật, xác thực là “chỉ ư chí thiện” chân thật. Trong hết thảy các kinh, kinh nào cũng đều là tối thiện, nhưng kinh Vô Lượng Thọ và kinh Di Đà là “chỉ ư chí thiện”, đã đạt đến rồi an trụ trong đó, chẳng có gì cao hơn được! Trong tất cả các pháp môn, một câu A Di Đà Phật là chỉ ư chí thiện. Trong tất cả hết thảy các thành tựu, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là thành tựu điều lành “chỉ ư chí thiện”. Người niệm Phật rất đông, nhưng người hiểu rõ ràng, rành rẽ chuyện này trọn chẳng có mấy ai! Vì lẽ đó, niệm Phật mới bị ngã lòng, mới bị chuyển biến. Thường nói thông tục là đúng, sai, chân, vọng, tà, chánh, tốt, xấu đều chẳng phân biệt rõ rệt, há có cách nào ư? Người đời tầm mắt ngắn ngủi, nông cạn, chỉ nhìn bề ngoài, chẳng biết tới bên trong!
Tối hôm qua, cư sĩ Giản Phong Văn và tôi nói chuyện; hiện thời, ông ta tu hành lại tăng tấn cao hơn, mỗi lần tăng tấn luôn gặp những nỗi khó khăn, nên đến tìm tôi mong được giải đáp. Trong câu chuyện, ông ta nói có nhiều người muốn theo học với tôi, nhưng không dám đến, do hai nguyên nhân: Một là tôi không thường ở trong nước. Hai là có những người chẳng muốn đến Đồ Thư Quán. Tôi bảo ông ta: Những người ấy có muốn đến, tôi cũng chẳng mong gặp họ. Vì sao chẳng cần họ? Tu hành thì phải chịu thử thách để trừ diệt sạch trơn phiền não và tập khí, quý vị sẽ thành công. Quý vị chẳng muốn bị thử thách, còn nói đến chuyện tu hành chi nữa? Quý vị hãy tìm nơi thoải mái, ở đây, tôi chẳng cần quý vị! Tôi cũng chẳng có nhiều thời gian ngần ấy để lãng phí cùng quý vị!
Cổ nhân giáo học, quý vị đọc Thiền Lâm Bảo Huấn sẽ biết. Cổ nhân nếu coi trọng học trò, sẽ nghĩ đủ mọi cách trù dập, đả kích nó, xem nó có thể chịu đựng nổi hay không! Chịu không nổi, bỏ đi, khi trò bỏ đi, vị thầy ấy sẽ tuyệt đối chẳng đau lòng. Vì sao? Chẳng thành pháp khí được! Nhất định là người trăm lần thất bại chẳng ngã lòng thì mới thành tựu! Do đó, người hiện thời ngu si, thiếu tầm nhìn xa, thiếu trí huệ! Họ có thể học được đạo gì? Có thể thành tựu gì? Nghe băng thâu âm [những lời giảng], cứ ngỡ học như vậy bèn thành công. Pháp sư Diễn Bồi gọi [những người như vậy] là thuộc phe phái gì? Phe phái băng thâu âm! Thuộc vào phe phái băng thâu âm thì có thể học hiểu hay chăng? Chẳng thể nào! Chẳng có sư thừa, quyết định là sẽ học chẳng hiểu! Thậm chí còn có rất nhiều kẻ lấy trộm băng thâu âm, biến thành trộm pháp. Không chỉ thuộc về phe phái băng thâu âm mà còn thuộc vào phường trộm băng thâu âm, chẳng thể thành tựu! Giản cư sĩ liễu giải, hiểu biết. Hiện thời, Đồ Thư Quán của chúng ta xác thực là một đạo tràng tốt đẹp, một đạo tràng rất lý tưởng. Nếu có thể chịu nổi sự khảo nghiệm ở nơi đây sẽ rất có thành tựu. Chẳng chịu nổi khảo nghiệm, quyết định chẳng thể thành tựu. Nếu chúng tôi đối với các vị đồng tu, quý vị đến, tôi liền hoan hỷ, quý vị bỏ đi, tôi bực bội, tôi liền đọa lạc, lại biến thành phàm phu. Quý vị đến cũng thế mà đi cũng vậy, tôi quyết chẳng động tâm. Quý vị đến, tôi chiếu cố quý vị, đấy là trách nhiệm của tôi. Quý vị có thể thành tựu hay không, nói thật thà, là do Tam Bảo gia trì!
Hiện thời, sống trong xã hội như vậy, trong một xã hội phức tạp dường ấy, sức dụ dỗ, mê hoặc to mạnh ngần ấy, nếu ai có thể chống nổi sự dụ dỗ, mê hoặc, chịu đựng khảo nghiệm, nói thật thà, sẽ là bậc tái lai, chẳng phải là người thường! Chẳng phải là bậc tái lai, muốn thành tựu trong xã hội này sẽ khó hơn lên trời. Tiếng tăm, lợi dưỡng, ngũ dục, lục trần, có thể động tâm hay chăng? Hơi bị lôi kéo, dẫn dụ liền lay động, thứ gì cũng đều chẳng cần phải nói nữa! Có gì đáng bàn nữa đây? Trong cái nhìn của kẻ bình phàm, phải lập đại đạo tràng, xây chùa to lớn, hôm qua tôi đã cùng Giản cư sĩ phân tích. Tôi nói điều đó không quan trọng, chuyện quan trọng là bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp. Có thể bồi dưỡng mấy người? Dăm ba người, tuyệt diệu lắm rồi! Quý vị còn mong ngóng bồi dưỡng rất nhiều, chính là dấy vọng tưởng. Thầy Lý ở Đài Trung bốn mươi năm, bồi dưỡng được ba học trò! Có thể gặp, chẳng thể cầu! Chẳng dễ dàng! Chúng ta hy vọng đạo tràng này có thể thành tựu ba người thì sẽ chẳng khiến cho Phật, Bồ Tát thất vọng, chẳng khiến lịch đại tổ sư thất vọng.
Hoàng lão cư sĩ cứ khuyên tôi mãi. Cụ bảo tôi hãy bớt giảng kinh, phải nghĩ cách dạy học, bồi dưỡng nhân tài kế tục. Mục tiêu là “tông thuyết câu thông”. Người có thể nói thông suốt rất nhiều, kẻ biết nói rất đông, chẳng có người thật sự tu hành! Chẳng có người tu hành chứng quả! Tu hành chứng quả là “Tông thông”. Thử hỏi, nay quý vị có nắm chắc vãng sanh hay chăng? Chẳng nắm chắc, vậy là chẳng được rồi! Nay quý vị biết giảng, đã làm được mấy phần những điều quý vị đã nói? Chẳng làm được, uổng công! Câu giáo huấn nào trong kinh điển cũng đều làm được, đó là “Tông thông”. Nay chúng ta cầu điều này, tuyệt đối chẳng cầu hình thức, tuyệt đối không cầu bề ngoài. Kẻ chẳng chịu nổi dụ dỗ, mê hoặc thì là phàm phu, không có chi là lạ, đó là một hiện tượng rất bình thường. Có thể ở trong dụ dỗ, mê hoặc mà chẳng lay động, ta biết người ấy thật sự đáng quý, trong vạn người khó có được một, hai kẻ, chúng ta phải quý trọng, phải hộ trì. Hôm nay chúng tôi giảng tới đây.