A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa – Quyển 7 – Tập 209-214

A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA

QUYỂN 7 – Tập 209-214

Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong

— o0o —

Tập 209

 

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm mười chín:

 

(Sớ) Xứng Lý, tắc tự tánh vạn thiện đồng quy, thị đồng hội nhất xứ nghĩa.

()稱理,則自性萬善同歸,是同會一處義。

(Sớ: Xứng Lý thì tự tánh vạn thiện đồng quy là ý nghĩa “ở cùng một chỗ”).

“Tự tánh vạn thiện đồng quy” là gì, sách Diễn Nghĩa có chú giải:

 

(Diễn) Vạn thiện đồng quy giả, hằng sa Tánh Đức bất ly Chân Như, thị tánh thiện đồng quy dã.

()萬善同歸者,恆沙性德不離真如,是性善同歸也。

(Diễn: Vạn thiện đồng quy: Hằng sa tánh đức chẳng lìa Chân Như chính là cùng quy vào các điều thiện nơi tánh).

Câu này giải thích đơn giản, rõ ràng, xác đáng, giải thích hết sức hay! Tánh là nói tới Chân Như bản tánh của chính mình. Trong Phật pháp thường nói “tự tánh”, tự tánh là tự thể, “Tánh” cũng có thể hiểu là Thể. Nhà Thiền nói “diện mạo vốn có trước khi được cha mẹ sanh ra” chính là nói đến tự tánh. Tìm cho ra cái mà ta sẵn có trước khi được cha mẹ sanh ra chính là gì vậy? Tánh là con người thật sự, là Chân Ngã của chúng ta. Phật pháp nói “vô ngã”, vô ngã chính là nói “thân này chẳng phải là Ta”, tánh mới là Chân Ngã. Tánh là cái Ngã (cái Ta) thật sự, “bất sanh, bất diệt, chẳng đến, chẳng đi, bất cấu, bất tịnh”, đó là Chân Ngã. Tự tánh vốn có vô lượng trí huệ, vô lượng năng lực, vô lượng đức năng, vô lượng tài nghệ. Vì vậy, dùng hai chữ “hằng sa” (恆沙) để tỷ dụ. “Hằng sa” là nói [gọn của] “Hằng hà sa số” (恆河沙數: số cát trong sông Hằng). Thuở đức Phật tại thế, Ngài thường giảng kinh, hoằng pháp trong lưu vực (drainage basin) sông Hằng. Sông Hằng là một con sông rất lớn tại Ấn Độ, giống như Trường Giang và Hoàng Hà của Trung Hoa, sông dài đến mấy ngàn dặm, lại còn có bề rộng rất lớn. Cát trong sông Hằng hết sức mịn, gần giống như bột mì, mịn hơn các loại cát chúng ta thường thấy rất nhiều. Quý vị nói xem một giải sông Hằng có bao nhiêu cát! Vì vậy, hễ nói đến số lượng nhiều, đức Phật thường dùng “Hằng hà sa” (cát sông Hằng) để tỷ dụ. Đức năng sẵn có trong bản tánh của chúng ta nhiều như cát sông Hằng; trí huệ, năng lực, tài nghệ nhiều như vậy chẳng hề rời lìa bản tánh. Chân Như là bản tánh, [những thứ như trí huệ, năng lực, tài nghệ v.v…] chẳng rời khỏi bản tánh. Do vậy, bản tánh khởi tác dụng, [các tác dụng ấy] trở về bản tánh, trở về chính là ý nghĩa “đồng quy”, “vạn thiện đồng quy”.

 

(Diễn) Tùng tánh khởi tu, toàn tu tức tánh, tắc tu thiện diệc đồng quy hỹ.

()從性起修,全修即性,則修善亦同歸矣。

(Diễn: Từ tánh khởi tu, toàn thể tu chính là tánh, nên tu thiện cũng đồng quy vậy).

Hai câu này thoạt nhìn thì thấy dễ dàng, thực hiện chẳng dễ dàng. Vì sao chẳng dễ dàng? Do quý vị chẳng kiến tánh. Chẳng kiến tánh tức là tâm quý vị chẳng “minh”, Thiền gia nói “minh tâm kiến tánh”, tâm chúng ta chẳng minh. Vì sao tâm chẳng minh? Tâm có ô nhiễm; hễ có ô nhiễm sẽ chẳng minh. Giống như một tấm gương, gương bị nhuốm bẩn, soi vào sẽ không thấy. Ô nhiễm gì vậy? Có Vô Minh ô nhiễm, có Trần Sa ô nhiễm, có Kiến Tư ô nhiễm. Hơn nữa, có thể nói là những thứ ô nhiễm ấy hết sức nghiêm trọng. Chúng ta có thể “từ tánh khởi tu” hay không? Đây là một vấn đề rất lớn! Trong Phật pháp, không chỉ riêng Thiền Tông yêu cầu minh tâm kiến tánh, mà bất cứ tông phái nào cũng đều nhắm đến mục đích “minh tâm kiến tánh”. Nếu chẳng minh tâm kiến tánh, sẽ chẳng phải là Phật pháp, sẽ không gọi là Phật giáo. Chỉ là phương cách để đạt tới minh tâm kiến tánh [trong mỗi tông phái] khác nhau, chứ mục tiêu quyết định là nhất trí. “Minh tâm kiến tánh” trong nhà Thiền nói theo Giáo Hạ sẽ là “đại khai viên giải”. Nói bằng những danh từ khác nhau, thật ra vẫn là cùng một chuyện. Chư vị hãy ngẫm xem, nếu không minh tâm kiến tánh, làm sao có thể đại khai viên giải cho được? “Hằng sa Tánh Đức bất ly Chân Như”, đó mới là đại khai viên giải, nói theo Tịnh Độ Tông sẽ là Lý nhất tâm bất loạn. Cách nói khác nhau, danh xưng khác nhau, phương pháp tu hành khác nhau, thật ra là cùng một chuyện.

Do vậy có thể biết kiến tánh rất trọng yếu. Không chỉ là học Phật là phải nhấn mạnh kiến tánh, xưa kia, học sách Khổng Tử cũng nhấn mạnh kiến tánh. Trẻ nhỏ đi học, học Tam Tự Kinh: “Nhân chi sơ, tánh bổn thiện; tánh tương cận, tập tương viễn” (Con người thoạt đầu tánh vốn lành, tánh thì gần giống nhau, do được dạy dỗ mà trở thành khác xa nhau). “Tánh” là nói đến chân tánh, chân tánh tương cận, [nghĩa là] chân tánh tương đồng. Tập tánh tương viễn (khác xa nhau), tập tánh là ô nhiễm. Do mức độ ô nhiễm của quý vị dầy hay mỏng khác nhau, nên tập tánh sẽ chẳng giống nhau. Chư vị phải biết: “Tập” (習) là ô nhiễm, nên nó mới càng ngày càng xa. Làm như thế nào để bỏ sạch tập tánh, khôi phục bản tánh? Nho gia cũng nói đạo lý này. Dùng phương pháp gì? Nói thật thà, phương pháp được Nho gia sử dụng và phương pháp được sử dụng trong Tịnh Độ Tông của Phật môn đại đồng tiểu dị (xét theo đại cương là giống nhau, khác nhau ở những điểm nhỏ nhặt): Trước hết là tu tâm thanh tịnh, chớ nên có vọng tưởng. Vọng tưởng là tập tánh. Do tập tánh đã quá lâu, nên trở thành thân thuộc. Học Phật chẳng có gì khác, [chỉ là] đổi chỗ sống sít thành chỗ chín rục, lại đổi chỗ chín rục thành chỗ sống sít, sẽ thành công. Hằng ngày dấy vọng tưởng, đó là chín rục; niệm Phật thì niệm niệm bèn đứt đoạn, quên khuấy. Vì sao? Quá xa lạ! Làm thế nào để có thể biến cái xa lạ thành cái thân thuộc, biến cái thân thuộc thành điều xa lạ, quý vị sẽ thành công.

Vì lẽ đó, Nho gia dạy học trò, học trò nhỏ đi học, trước hết dùng phương pháp gì? Trước hết, dạy quý vị học thuộc lòng sách. Đã thuộc rồi vẫn chưa coi là xong, đã thuộc rồi thì còn phải thuộc nhuần nhuyễn hơn, vẫn phải đọc. Nói thật ra, trẻ nhỏ học thuộc sách chẳng khó khăn cho mấy. Thầy dạy cho trò một bài trong sách, trò đọc dăm ba lần bèn thuộc. Vì thế, đã thuộc lòng thì hiện thời ứng phó trong thi cử sẽ rất đơn giản. Thầy đốc thúc, sau khi đã thuộc, trò vẫn phải đọc một trăm lần hoặc hai trăm lần. Lại còn phải niệm ra tiếng; chẳng niệm ra tiếng, nó sẽ dấy vọng tưởng. Niệm ra tiếng, thầy nghe thấy, [biết] trò đang đọc sách tại đó, chẳng dấy vọng tưởng. Vì vậy, thầy buộc trò mỗi ngày đọc mấy giờ, tức là trong mấy giờ, trò chẳng dấy vọng tưởng, huấn luyện điều này. Huấn luyện như vậy năm, sáu năm, thật vậy, trò bớt vọng tưởng, tâm dần dần thanh tịnh. Nhà trường xưa kia là Tiểu Học, trên Tiểu Học là Đại Học, chẳng có Trung Học. Học xong Tiểu Học bèn có thể học Đại Học. Tiểu Học học gì vậy? Tiểu Học tu tâm thanh tịnh, chẳng học điều gì khác, khóa trình của chúng nó là tâm thanh tịnh. Tâm địa thanh tịnh sẽ có thể tiếp nhận đại pháp. Vì vậy, khi vào trường Thái Học (tức Đại Học hiện thời)[93], thầy giảng giải cho trò, những điều được giảng chính là những thứ trò đã học từ Tiểu Học. Tiểu Học học Tứ Thư, Ngũ Kinh, [các tác phẩm của] chư tử bách gia, chỉ học chứ không nghe giảng. Đến khi vào Đại Học, tâm trò thanh tịnh, [thầy] vừa nói trò bèn hiểu ngay, có thể lãnh hội, có thể khai ngộ. Nay [sinh viên] trường đại học hoặc nghiên cứu sinh đọc cổ văn vẫn chẳng thể khai ngộ. Vì sao? Tâm họ trước nay chưa hề thanh tịnh một ngày nào! Tuyệt đối chẳng phải là người hiện thời chẳng thông minh như cổ nhân, [hoặc là do] người hiện thời chẳng có phước báo to như cổ nhân, tôi tuyệt đối chẳng thừa nhận [những lập luận như vậy]! Sở dĩ người hiện thời chẳng bằng cổ nhân là do [sử dụng] phương pháp sai lầm.

Từ chỗ này, chư vị bèn hiểu: Nếu quý vị muốn thật sự có một chút ngộ xứ trong Phật pháp, chẳng tu tâm thanh tịnh sẽ vô dụng. Nghe giảng chẳng thể khai ngộ, quý vị chỉ có thể nghe được một chút Phật học thường thức mà thôi. Nếu quý vị thật sự niệm Phật ba năm, niệm sao cho cái tâm định lại, đừng nói là tôi phải giảng cho quý vị nghe hết một bộ kinh, có thể là giảng cho quý vị một hai tiếng đồng hồ, quý vị liền hoảng nhiên đại ngộ, bèn khai ngộ. Vì sao? Tương ứng với cái tâm của quý vị. Nếu không, giảng nhiều năm như thế, tôi giảng suốt ba mươi năm, chẳng thấy một ai khai ngộ. Hãy xem thời cổ, các bậc cao tăng đại đức giảng kinh thuyết pháp chưa đầy mấy năm, học trò dưới tòa khai ngộ cả đống, chẳng ít người! Do vậy có thể biết, quyết định là chẳng thể thực hiện trình tự giáo học sai sót. Nay chúng ta đã đảo lộn thứ tự thuận chiều, hiện thời, nói thật thì là mọi người chẳng tin tưởng, không chịu tiếp nhận. Lừa gạt quý vị, quý vị rất vui thích, rất hoan hỷ. Người hiện thời nhận giả, chẳng nhận thật, nghe lừa, chẳng nghe khuyên. Người hiện thời đáng thương, chẳng có phước báo! Có những vùng, người ta thật sự mong học, nhưng chẳng đủ điều kiện, cơ duyên chưa chín muồi! Mong học mà thiếu hoàn cảnh, chẳng có một vị thầy tốt đẹp chỉ dạy. Chúng ta ở đây đầy đủ điều kiện, có cơ duyên, nhưng chính mình chẳng tin tưởng, tức là chính mình chẳng có thiện căn và phước đức. Tuy có nhân duyên, cũng chẳng thể thành tựu. Ắt phải có đầy đủ ba điều kiện là thiện căn, phước đức, và nhân duyên thì mới có thể thành tựu.

Sau khi đã kiến tánh, chúng tôi hạ thấp tiêu chuẩn kiến tánh một chút, [tức là] sau khi cái tâm thanh tịnh, sẽ tu hành khác hẳn, hoàn toàn chẳng tương đồng. Tuy chẳng phải thật sự là “từ tánh khởi tu, toàn thể tu chính là tánh”, ít nhiều thì cũng có chút phần tương ứng, chẳng phải là thật sự [kiến tánh] thì cũng là tương tự. Đối với Phần Chứng [Tức] Phật và Tương Tự Tức Phật trong Lục Tức Phật như tông Thiên Thai đã nói, người ấy cũng có thể đạt đến Tương Tự Tức [Phật], cách chân thật chẳng xa! Có thể thấy tâm thanh tịnh trọng yếu lắm. Chư vị phải biết: Tu hành là tu tâm thanh tịnh; ngoài cái tâm thanh tịnh ra, toàn là giả. Vì sao? Vọng tâm biến ra lục đạo luân hồi, quý vị đang tạo sự luân hồi lục đạo trong ấy, biến ra lục đạo luân hồi, tự làm, tự chịu. Tâm thanh tịnh tương ứng với tịnh nghiệp, tương ứng với Tịnh Độ. Một người thật sự tu hành, há có thời gian để quản chuyện vớ vẩn của kẻ khác được ư? Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đã nói: “Nếu người thật tu đạo, chẳng thấy lỗi người khác”. Người tu đạo chân thật há còn công sức đâu để dấy vọng tưởng, suốt ngày tưởng Đông nghĩ Tây, tưởng trước nghĩ sau! [Những kẻ vọng tưởng, lo chuyện bao đồng] đều là phường chẳng thật thà!

Người chẳng thật thà không thể ở trong một Tăng đoàn thật sự hòa hợp. Các thành viên trong một Tăng đoàn thật sự hòa hợp chắc chắn là chẳng có vọng tưởng. Trong một đạo tràng niệm Phật, trong mười hai thời, trong tâm chỉ có mỗi A Di Đà Phật. Hễ còn có những thứ khác xen tạp vào đó, sẽ chẳng hòa hợp. Đạo tràng Thiền Tông hằng ngày nếu chẳng tham thoại đầu thì sẽ quán tâm, đó là biết dụng công, công phu đắc lực. Trong thế gian hiện thời, tôi học Phật gần bốn mươi năm, đã tới nhiều nơi trong và ngoài nước, chẳng thấy một đạo tràng nào [thật sự hòa hợp]. Thật sự là một chuyện rất đáng tiếc. Tràng thì có, đạo chẳng có! Dẫu có thì tâm chẳng đặt nơi đạo, đạo là tâm thanh tịnh. Tâm chẳng thanh tịnh, sẽ chẳng có đạo! Vì vậy, “tu thiện cũng đồng quy”, thảy đều quy vào Chân Như bản tánh.

 

(Diễn) Bất đạt thử lý, xả thử ác tụ, xu bỉ thiện tụ, khả vị khí chân trục vọng, Đông Tây trì tẩu dã.

()不達此理,捨此惡聚,趨彼善聚,可謂棄真逐妄,東西馳走也。

(Diễn: Chẳng thông đạt lý này, bèn bỏ ác tụ này, hướng đến thiện tụ kia, có thể nói “vứt chân, đuổi theo vọng”, rảo chạy Đông Tây!)

 Câu này hay lắm! Nếu quý vị chẳng liễu giải chân tướng sự thật, Lý là chân tướng sự thật, quý vị nói Sa Bà không tốt, chúng ta bỏ Sa Bà, Cực Lạc tốt đẹp, chúng ta lại sang Cực Lạc. Cực Lạc là thiện tụ (nơi điều lành nhóm họp), Sa Bà là ác tụ, người ác đông đảo; chúng ta ngay lập tức rời khỏi nơi đây sang bên đó, bên đó là chỗ các vị thượng thiện nhân cùng tụ họp. Quý vị bỏ nơi đây sang bên đó, chính là “khí chân, trục vọng” (bỏ chân, đuổi theo vọng). Quý vị chẳng biết cõi này và cõi kia đều do tự tánh biến hiện, há có này kia! Giới hạn giữa cõi này và cõi kia rốt cuộc ở chỗ nào? Xác thực là chẳng có giới hạn! Nhưng tổ sư đại đức dạy chúng ta bỏ cõi này, tiến sang cõi kia, có thể vãng sanh hay không? Có thể! [Tuy vẫn có thể vãng sanh, nhưng] phẩm vị thấp, vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư.

Nếu quý vị hiểu rõ đạo lý này, có còn phải cầu vãng sanh hay không? Vẫn cầu vãng sanh! Vì sao? Lý chẳng phế Sự, Sự chẳng ngại Lý. Do đó, người không hiểu đạo lý này có thể vãng sanh, chấp trước sự tướng mà niệm Phật vẫn có thể vãng sanh. Kẻ hiểu đạo lý này, chẳng niệm Phật, chẳng cầu vãng sanh, [chính là] lầm lẫn đặc biệt to tát, vẫn là chẳng thông đạt lý này, chấp trước bên này, nghĩ bên kia chẳng có, chẳng biết Lý Sự viên dung. Chẳng lẽ Đẳng Giác Bồ Tát không hiểu rõ đạo lý này ư? Liên Trì đại sư hiểu được, lẽ nào Đẳng Giác Bồ Tát không hiểu ư? Đẳng Giác Bồ Tát vẫn niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Liên Trì đại sư đã hiểu, Ngài cũng niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, chẳng phải là không niệm Phật. Liên Trì đại sư cũng là mỗi ngày niệm Phật hiệu mười vạn câu. Tôi nói cho chư vị biết: Lão nhân gia không niệm kinh mà cũng chẳng niệm chú, Ngài trì Phật hiệu, lại còn chỉ niệm bốn chữ. Suốt ngày từ sáng đến tối là một câu Phật hiệu. Đó là phương pháp tu hành của Liên Trì đại sư.

Quý vị xem truyện ký của Ngài. Đạo tràng của Ngài là chùa Vân Thê ở Hàng Châu. Suốt cả một đời, từ trước đến nay, Ngài chưa hề dựng một ngôi chùa. Vân Thê là một quả núi. Ngài đến nơi đó, thấy phong cảnh núi ấy rất đẹp, hoàn cảnh rất thanh tịnh, u nhã, bèn tự dựng một cái chòi tranh để tấn tu. Về sau, Ngài bị người khác nhận biết, [tìm đến hỏi chuyện] xem thử vị pháp sư này ăn nói ra sao? Khi họ hướng về Ngài thỉnh giáo, Ngài nói rất hữu lý. Thanh danh của pháp sư dần dần lan xa như thế đó, có rất nhiều kẻ mong đến thân cận Ngài; dù sao đất rất nhiều, Ngài đã cất chòi tranh ở đấy, họ cũng cất chòi tranh nơi đó. Ngài là từ chòi tranh mà hình thành [đạo tràng], chẳng có ý nghĩ muốn dựng chùa. Về sau, do đông người, bèn có thí chủ, [tức là] hàng tại gia cư sĩ có tiền, có thế lực, hết sức kính ngưỡng đại sư, mong dựng một ngôi chùa cho Ngài. Do vậy, suốt một đời, pháp sư Vân Thê chưa từng hóa duyên, chẳng xòe tay xin người khác một đồng nào! Người ta muốn xây dựng, lão nhân gia gật đầu, được! Ở chỗ này, ông dựng đại điện tại đây, chỗ kia là điện gì, nói chung là có người muốn đến dựng, các vị xây dựng là được rồi. Ngôi chùa của Ngài được thành công như thế đó. Vì vậy, đừng sợ chẳng có chùa, chỉ sợ chẳng có đạo! Quý vị thật sự có đạo, thường nói là “long thiên hộ trì”. Chính mình chẳng bận tâm chút nào về đạo tràng; hễ bận lòng, tâm sẽ chẳng thanh tịnh. Dựng đạo tràng là do các cư sĩ xây dựng, liên quan gì tới ta? Quý vị dựng xong xuôi, tôi đến đây giảng kinh, thuyết pháp, tôi đến đây cộng tu niệm Phật cùng mọi người. Dựng theo kiểu nào ư? Quý vị thích dựng kiểu nào thì dựng theo kiểu đó. Nếu tôi yêu cầu phải dựng theo kiểu này, hoặc phải dựng theo kiểu nọ, cái tâm lại chẳng thanh tịnh. “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật” mà còn xen tạp dựng kiểu này, cất kiểu nọ, chẳng phải là đã hỏng bét rồi ư? Người chân thật niệm Phật, [danh hiệu] A Di Đà Phật [của người ấy niệm] chẳng thể xen tạp chút gì trong ấy, đó là như pháp. Đấy là người thật sự tu đạo, là điển hình, là gương mẫu cho chúng ta. Chúng ta học Phật, hãy lấy [những tấm gương ấy làm] tiêu chuẩn, hãy  nên  tu  học  như  vậy  thì mới có thể đạt được thành tựu.

Do vậy, nhất tâm nhất ý chỉ duyên theo Tây Phương, [sẽ thấy] đối với hoàn cảnh, có hoàn cảnh nào chẳng tốt đẹp? Hoàn cảnh nào cũng đều tốt! Vì thế, chẳng cần phải rảo Đông chạy Tây. Quý vị nói hoàn cảnh không tốt đẹp. Nói thật thà, chính là do bản thân có quá nhiều vọng tưởng, thấy cái này chẳng tốt, thấy cái kia không tốt. Tâm thanh tịnh, nơi chốn nào cũng đều là đạo tràng. Chúng ta nhất định phải nhớ kỹ điều này. Người chẳng có phước báo, chọn lựa hoàn cảnh như thế nào đi nữa, chọn tới chọn lui, đến cuối cùng vẫn phải chịu tội, vẫn chẳng đạt được điều gì! Cớ gì cứ phải lãng phí tinh thần và thời gian như vậy? Đạo tràng ở chỗ nào? Đạo tràng ở trong tâm địa, chẳng ở bên ngoài. Cư sĩ Duy Ma nói “trực tâm là đạo tràng, tâm thanh tịnh là đạo tràng, tâm từ bi là đạo tràng”. Đạo tràng ở trong tâm địa, há ở bên ngoài!

 

(Sao) Bách xuyên hội ư nhất hải, chúng cảnh hội ư nhất không, chư thượng thiện nhân, bất hội thử chi nhất xứ, nhi tương hề hội.

()百川會於一海,眾景會於一空,諸上善人,不會此之一處,而將奚會。

(Sao:   Trăm sông hội tụ trong một biển,  các cảnh hội quy một hư không, các vị thượng thiện nhân chẳng tụ hội trong một chỗ này, sẽ nhóm về chỗ nào đây?)

Hoàn toàn nói xứng tánh; hai câu này chính là “từ tánh khởi tu, toàn thể tu chính là tánh”. “Bách xuyên” (Trăm sông) là nói các dòng nước. Trung Hoa ở phía Tây Thái Bình Dương, tất cả sông ngòi đều xuôi về Đông đổ vào biển Đông, sông lớn dòng nhỏ thảy đều chảy vào biển cả. Sánh ví biển cả như Chân Như bản tánh, tỷ dụ trăm sông như các vị thượng thiện nhân, thảy đều hội quy biển cả. Điều này nhằm nói rõ hết thảy các vị thượng thiện đều do tự tánh của quý vị lưu xuất. Trở về tự tánh có ý nghĩa này. “Chúng cảnh” (Các cảnh): Cảnh là cảnh vật, chẳng rời khỏi hư không. Ví hư không như chân tánh, sánh ví các cảnh như chư thượng thiện nhân, chẳng lìa khỏi hư không. “Chư thượng thiện nhân, bất hội thử chi nhất xứ, nhi tương hề hội” (Các vị thượng thiện nhân không nhóm họp ở một chỗ này, sẽ hội về chỗ nào?), đến chỗ nào để nhóm họp? Chư thượng thiện nhân nhóm họp ở nơi đâu? Nhóm họp trong một chân tâm. Vì thế, chỉ cần cái tâm quý vị đã chân, tự nhiên các điều thiện cùng nhóm họp. Tâm quý vị chẳng chân, tà ác cùng nhóm họp! Cầu chân tâm thì trước hết là cầu tâm thanh tịnh. Tâm đã thanh tịnh, tiến thêm một bước nữa là tu tâm bình đẳng. Nếu lại tiến thêm bước nữa, sẽ là đại giác rạng ngời, đó chính là “chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ”.

 

Nhị, khởi hạnh.

二起行。

(Hai là khởi hạnh).

Một đoạn lớn trên đây nhằm khuyên chúng ta phát nguyện, nói rõ ưu điểm của Tây Phương Cực Lạc thế giới, ưu điểm thù thắng nhất là các vị thượng thiện nhân tụ hội một chỗ, chúng ta chẳng thể không đến đó. Nếu nay hỏi: Ta mong đến đó, nhưng đến đó bằng cách nào? Phải bảo cho chúng ta biết phương pháp. Vì vậy, đoạn tiếp theo đây là một đoạn trọng yếu nhất trong bộ kinh này.

 

(Kinh) Xá Lợi Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên đắc sanh bỉ quốc.

()舍利弗。不可以少善根福德因緣。得生彼國。

(Kinh: Này Xá Lợi Phật! Chẳng thể do ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cõi ấy).

Đức Thế Tôn nói ra điều kiện vãng sanh, gồm ba điều kiện là thiện căn, phước đức, và nhân duyên. Thiếu một thứ nào trong ba thứ ấy đều chẳng thể vãng sanh. Các đồng tu chúng ta có muốn vãng sanh thế giới Tây Phương hay không? Nếu thật sự muốn vãng sanh thế giới Tây Phương, hãy đặc biệt lưu ý đoạn này. Có thể vãng sanh hay không? Có nắm chắc vãng sanh hay không? [Những điều ấy] đều [được nói] trong đoạn kinh văn này. Liên Trì đại sư giải thích rất cặn kẽ!

 

(Sớ) Thừa thượng ngôn “phàm quần dị tựu, thiện tụ nan thân”, hà huống tối thượng thiện nhân chi hội.

()承上言凡群易就,善聚難親,何況最上善人之會

(Sớ: Nối tiếp ý đã nói trong phần trên: Lũ phàm dễ nhóm, người lành tụ hội khó thân cận, huống hồ là bậc thiện nhân tối thượng tụ họp).

 Nêu rõ phàm phu tụ hội dễ dàng, người lành tụ tập khó khăn. Nay chúng ta đọc kinh A Di Đà ở đây, nghiên cứu chú giải của Liên Trì đại sư, quý vị xem có bao nhiêu người tham gia? Rạp xi-nê, sàn khiêu vũ, quý vị thấy bao nhiêu người? “Phàm quần dị tựu, thiện tụ nan thân” (Lũ phàm dễ nhóm, người lành tụ hội khó thể thân cận). Kẻ làm những chuyện giả trất, đông lắm! Nói những điều chân thật, chẳng ai nghe! Kể ra Đài Loan còn khá lắm, mỗi lần giảng kinh còn có nhiều người đến nghe như vậy. Sang ngoại quốc giảng kinh, tuyệt đại đa số các đạo tràng, mười phần hết tám phần là có hai mươi người đến nghe kinh thì đã khá lắm rồi, đã khá nhiều. Năm mươi người quá hiếm có, là tình cảnh long trọng chưa hề có. Ba bốn người đến nghe là chuyện rất bình thường. “Hà huống tối thượng thiện nhân chi hội” (Huống hồ là bậc thiện nhân tối thượng tụ hội) đến đâu để tìm cho ra? Chẳng dễ dàng!

Tôi thưa cùng chư vị đồng tu, trong quá khứ, tôi cầu học ở Đài Trung. Tại Đài Trung, pháp duyên của thầy Lý vô cùng thù thắng. Trong danh sách liên hữu của liên xã có ghi tên họ, địa chỉ, số điện thoại, gần như là đến hai mươi lăm vạn người. Thầy Lý mở lớp dạy học tại đó, bồi dưỡng đồng tu giảng kinh, hy vọng mọi người sẽ hăng hái đến ghi danh, chỉ có hai mươi mấy người gom hết dũng khí đến dự, những người khác chẳng dám đến. Tôi ở Đài Trung mười năm, bản thân chúng tôi còn có một lớp nhỏ, lớp ấy đem những gì thầy Lý đã giảng cùng nhau nghiên cứu, thảo luận, lật đi lật lại vấn đề, hòng thâm nhập, lãnh hội. Lớp học ấy có bao nhiêu người? Bảy người! Chúng tôi mười năm giống như một ngày, bảy người cùng tu với nhau suốt mười năm, ông Từ Tỉnh Dân và Châu Gia Lân ở Đài Trung hiện thời là thành viên của lớp học nhỏ gồm bảy người ấy. Thật sự là khó! Tôi hy vọng trong tương lai chúng ta cũng có một đoàn thể nhỏ, có mười người thật sự phát tâm hoằng pháp lợi sanh, suốt đời chẳng làm Trụ Trì hoặc Đương Gia, chẳng quan tâm đến những chuyện rỗi hơi trong thế gian hay xuất thế gian, mà sẽ đọc kinh, nghiên cứu kinh giáo, giảng kinh, thuyết pháp, hy vọng có mười người chúng ta có thể thường ở cùng một chỗ. Nơi nào mời giảng kinh, chúng ta sẽ đến giảng, giảng xong sẽ quay về. Có một căn nhà nhỏ để có thể che mưa đụt gió, ăn no, mặc ấm là đủ rồi, đó là chuyện vui sướng nhất trong đời người. Vì thế, “tối thượng thiện nhân chi hội” đích xác là khó gặp gỡ!

 

(Sớ) Khởi khả dĩ thiểu thiện, thiểu phước nhi đắc sanh dã.

()豈可以少善少福而得生也。

(Sớ: Há có thể nào do chút thiện, chút phước mà được vãng sanh ư?)

Thiện căn và phước đức ít ỏi sẽ không được.

 

(Sớ) Ư trung.

()於中。

(Sớ: Trong ấy).

Nay phải giải thích cho chúng ta biết thiện căn là gì, phước đức là gì?

 

(Sớ) Linh Chi dĩ thiện căn vi chánh hạnh, thuộc chi trì danh, dĩ phước đức vi trợ hạnh, thuộc chi Tịnh nghiệp tam phước.

()靈芝以善根為正行,屬之持名,以福德為助行,屬之淨業三福。

(Sớ:  Ngài Linh Chi coi thiện căn là chánh hạnh thuộc về trì  danh, coi phước đức là trợ hạnh, thuộc về ba phước trong Tịnh nghiệp).

Nhắc tới lời giải thích của các bậc cổ đại đức. Ngài Linh Chi[94] sống vào đời Tống, nghiên cứu giới luật rất kỹ, nên có người gọi Ngài là Linh Chi Luật Sư. Ngài coi thiện căn là chánh hạnh, thiện căn là gì? Trì danh là thiện căn. Phước đức là trợ hạnh, phước đức là gì? Tịnh nghiệp tam phước. Lão nhân gia coi Tịnh nghiệp tam phước được nói trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật là trợ hạnh.

 

(Sớ) Hải Đông, tắc tổng dĩ đa thiện đa phước vi chánh hạnh, vân thị phát Bồ Đề tâm, dĩ thiểu thiện thiểu phước vi trợ hạnh, vân thị chấp trì danh hiệu.

()海東,則總以多善多福為正行,云是發菩提心;以少善少福為助行,云是執持名號。

(Sớ: Ngài Hải Đông gộp chung nhiều thiện nhiều phước thành chánh hạnh, bảo đó là phát Bồ Đề tâm; coi ít thiện ít phước là trợ hạnh, bảo là chấp trì danh hiệu).

Hai vị này kiến giải hoàn toàn khác nhau. Pháp sư Hải Đông (Nguyên Hiểu) coi “nhiều thiện căn, nhiều phước đức” là phát Bồ Đề tâm, coi “ít thiện căn, ít phước đức” là chấp trì danh hiệu. [Theo quan điểm này], chấp trì danh hiệu đâm ra biến thành ít thiện căn, ít phước đức. Hai vị này đều là bậc đại đức trong Tịnh Độ Tông, kiến giải khác nhau. Dưới đây là ý kiến của Liên Trì đại sư:

 

(Sớ) Nhị nghĩa tương vi.

()二義相違

(Sớ: Hai nghĩa trái nghịch).

Cách nói của hai Ngài hoàn toàn tương phản, Liên Trì đại sư cũng rất viên dung. Ngài cũng chẳng nói vị nào đúng, vị nào sai, Ngài dung hợp hai ý thuyết ấy.

 

(Sớ) Kim song vi hòa hội.

()今雙為和會。

(Sớ: Nay hòa hợp, dung hội hai thuyết ấy).

Ngài hòa hợp, dung hội chúng.

 

(Sớ) Vị dục sanh bỉ quốc, tu đa thiện, đa phước. Kim trì danh, nãi thiện trung chi thiện, phước trung chi phước, chánh sở thị vị phát Bồ Đề tâm, nhi vi sanh bỉ quốc chi đại nhân duyên dã.

()謂欲生彼國,須多善多福。今持名,乃善中之善,福中之福,正所是謂發菩提心,而為生彼國之大因緣也。

(Sớ: Nghĩa là muốn sanh về cõi ấy, cần phải có nhiều thiện, nhiều phước. Nay trì danh chính là điều thiện nhất trong các điều thiện, là điều phước nhất trong các điều phước, chính là “phát Bồ Đề tâm” như [ngài Hải Đông] đã nói, là đại nhân duyên để sanh về cõi ấy).

Ngài hòa hợp, dung hội hai ý kiến, coi phát Bồ Đề tâm là chánh hạnh, trì danh cũng là chánh hạnh, phát Bồ Đề tâm là trợ hạnh, trì danh cũng là trợ hạnh. Chánh và trợ như nhau, thảy đều là “phát Bồ Đề tâm, chấp trì danh hiệu”. Liên Trì đại sư hòa hợp, dung hội như vậy, chúng ta chẳng còn nghi ngờ, lo âu nữa. Tiếp theo đấy, trong lời Sao, Ngài lại giảng cặn kẽ chuyện này.

 

(Sao) Tương vi giả.

()相違者。

(Sao: Trái nghịch là).

Giải thích [vì sao] hai ý nghĩa mâu thuẫn với nhau.

 

(Sao) Nhất dĩ trì danh thuộc chánh.

()一以持名屬正。

(Sao: Một thuyết coi trì danh là chánh hạnh).

Ngài Linh Chi chủ trương thuyết này.

 

(Sao) Nhất dĩ trì danh thuộc trợ.

()一以持名屬助。

(Sao: Thuyết kia coi trì danh là trợ hạnh).

Ngài Hải Đông chủ trương thuyết này.

 

(Sao) Nhị thuyết mâu thuẫn, nhi thử kinh đại chỉ, chánh trọng trì danh.

()說矛盾。而此經大旨,正重持名。

(Sao: Hai thuyết mâu thuẫn, nhưng ý chỉ chánh yếu của kinh này là chuyên chú trọng trì danh).

 Chúng ta quan sát từ kinh này, kinh Di Đà khuyên chúng ta chấp trì danh hiệu, kinh Vô Lượng Thọ cũng khuyên chúng ta chấp trì danh hiệu, có thể thấy chánh hạnh của Tịnh Tông xác thực là chấp trì danh hiệu.

 

(Sao) Nhược trì danh vi trợ hạnh, tắc hạ văn “văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh hiệu”, nghĩa vân hà thông?

()若持名為助行,則下文聞說阿彌陀佛,執持名號,義云何通。

(Sao: Nếu trì danh là trợ hạnh thì phần kinh văn kế đó nói “nghe nói tới A Di Đà Phật bèn chấp trì danh hiệu”, giải thích ý nghĩa thế nào cho suông sẻ được?)

Quý vị coi chấp trì danh hiệu là trợ hạnh, sẽ chẳng thể nói thông suốt được!

 

(Sao) Trợ hạnh trì danh, đoán vô thử lý.

()助行持名,斷無此理。

(Sao: Coi trì danh là trợ hạnh, quyết chẳng có lẽ này).

Quyết định là nói chẳng thông suốt, chẳng có đạo lý này.

 

(Sao) Hựu Linh Chi dĩ Quán Kinh tam phước phối thử phước đức, tắc đệ tam phước phát Bồ Đề tâm nãi thành trợ hạnh, dữ Hải Đông Bồ Đề tâm vi chánh hạnh, nhị diệc mâu thuẫn.

()又靈芝以觀經三福配此福德,則第三福發菩提心乃成助行,與海東菩提心為正行,二亦矛盾。

(Sao: Ngài Linh Chi lại coi ba phước trong Quán Kinh là “phước đức” được nói trong kinh [A Di Đà] này, vậy thì “phát Bồ Đề tâm” trong phước thứ ba trở thành trợ hạnh, cũng mâu thuẫn với chuyện ngài Hải Đông coi Bồ Đề tâm là chánh hạnh).

Hai vị giảng về chánh hạnh và trợ hạnh đều chẳng giống nhau.

 

(Sao) Nhi Quán Kinh dĩ tam phước vi Tịnh nghiệp chánh nhân, tắc trợ hạnh Bồ Đề, diệc vô thử lý.

()而觀經以三福為淨業正因,則助行菩提,亦無此理。

(Sao: Nhưng Quán Kinh coi tam phước là chánh nhân của Tịnh nghiệp, vậy thì coi Bồ Đề là trợ hạnh cũng là vô lý).

Nếu nói “phát Bồ Đề tâm” trong ba phước là trợ hạnh thì cũng nói không suông! Trong bản chú giải kinh Vô Lượng Thọ của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, khi giảng về tông chỉ, tông chỉ là cương lãnh tu hành, lão nhân gia đã dùng hai câu “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm” [làm Tông của kinh Vô Lượng Thọ], hoàn toàn phù hợp khít khao với ý nghĩa này của Liên Trì đại sư. “Phát Bồ Đề tâm” là chánh hạnh, “nhất hướng chuyên niệm” là chánh hạnh. Ngài hòa hợp, dung hội khéo quá!

 

(Sao) Kim song vị hòa hội giả, hoàn dĩ trì danh vi chánh hạnh, phục dĩ trì danh vi phát Bồ Đề tâm, tắc song thủ lưỡng gia, nhi hòa hội kỳ nghĩa dã.

()今雙為和會者,還以持名為正行,復以持名為發菩提心,則雙取兩家,而和會其義也。

(Sao: Nay nhằm hòa hợp, dung hội cả hai thuyết, vẫn coi trì danh là chánh hạnh, lại coi trì danh là phát Bồ Đề tâm, tức là sử dụng ý kiến của cả hai vị, dung hợp, hòa hội các nghĩa ấy).

Sau khi đã hiểu rõ ý nghĩa chánh yếu này, [quý vị xem] đoạn văn sau đây trong sách Diễn Nghĩa [sẽ thấy pháp sư Cổ Đức] lại giảng giải cặn kẽ hơn nữa.

 

(Diễn) Quán Kinh tam phước, vi Tịnh nghiệp chánh nhân giả, văn vân: “Dục sanh bỉ quốc giả, đương tu tam phước: Nhất giả hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập Thiện Nghiệp”.

()觀經三福,為淨業正因者,文云:欲生彼國者,當修三福:一者孝養父母,奉事師長,慈心不殺,修十善業。

(Diễn: “Quán Kinh tam phước là chánh nhân Tịnh nghiệp”: Kinh văn ghi: “Người muốn sanh về cõi ấy thì hãy nên tu ba phước: Một là hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”).

Ba điều này gồm tất cả mười một câu, ví như tòa cao ốc mười một tầng, tầng sau bao gồm tầng trước, tầng trước chẳng thể bao gồm tầng sau. Giống như tầng cao ốc thứ hai nhất định bao gồm tầng thứ nhất, tầng thứ nhất chưa chắc đã bao gồm tầng thứ hai, vì không xây tầng thứ hai cũng được! Quý vị bèn hiểu tầng thứ nhất là căn bản của căn bản, chẳng làm được điều này, những tầng sau đều chẳng có. Phát Bồ Đề tâm thuộc tầng thứ tám, nếu bảy tầng trước đều chẳng có, lấy đâu ra Bồ Đề tâm? Chẳng có Bồ Đề tâm, dẫu niệm A Di Đà Phật, cũng chưa chắc có thể vãng sanh, vì sao? Chánh nhân để vãng sanh là “phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm”, cái hạnh chánh tu của quý vị chỉ có một nửa, thiếu mất một nửa, chẳng đảm bảo vãng sanh! Nghĩ tới chỗ này, đích xác là chúng ta không lạnh mà run, mới thật sự hiểu rõ vì sao người niệm Phật đông như vậy, người vãng sanh lại ít ngần ấy! Trước kia, thầy Lý đã từng nói: Một vạn người niệm Phật, hằng ngày cầm chuỗi niệm “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, thật sự vãng sanh cũng chẳng hơn đôi ba người, tỷ lệ không tương xứng! Nguyên nhân ở chỗ nào? Người ấy suốt ngày từ sáng đến tối niệm Phật, chỉ niệm một nửa, chẳng có Bồ Đề tâm! Bồ Đề tâm là gì? Bồ Đề tâm là cái tâm hiểu rõ, cái tâm giác ngộ. Tâm kẻ ấy vẫn hồ đồ, mông lung, vẫn điên đảo, vọng tưởng; niệm Phật kiểu đó làm sao vãng sanh cho được? Bồ Đề có nghĩa là giác, Bồ Đề tâm là giác tâm, giác chứ không mê. Tuy người ấy niệm Phật, vẫn mê chứ không giác; vì thế, chẳng thể vãng sanh. Như thế nào thì mới giác? Chẳng tu bảy tầng dưới sẽ là bất giác. Do đã giác, bảy tầng dưới đã viên mãn, tầng thứ tám đã dựng xong [tức là] bảy tầng dưới đương nhiên đã được dựng, đó là đạo lý nhất định. Chẳng biết Bồ Đề tâm là gì, chẳng biết giác tâm là gì, quý vị hãy từ chỗ này mà lãnh hội sẽ hiểu rõ.

Điều thứ nhất là “hiếu dưỡng phụ mẫu”, chúng ta có làm được hay không? Câu này hết sức không đơn giản. Trên phương diện cuộc sống vật chất của cha mẹ, đối với chuyện phụng dưỡng cha mẹ hết thảy [mọi thứ cần dùng], chúng ta có thể làm được thì có coi là hiếu dưỡng hay chăng? Quý vị thấy trong Luận Ngữ, Khổng lão phu tử đã nói: Nếu coi đó là hiếu dưỡng thì súc sanh cũng có thể làm được! Do đó, một người hiểu lý, một người đọc sách phải nuôi dưỡng chí nguyện của cha mẹ, tức là đối với những điều cha mẹ trông mong nơi quý vị, quý vị có thể chẳng phụ lòng trông mong ấy, bèn gọi là “hiếu thuận”. Nhưng nay chúng ta nói ngược lại, cha mẹ hiện thời kỳ vọng con cái những gì? Đúng là có vấn đề. Trong cổ lễ, đặt tên cho con thơ, tên gọi là niềm kỳ vọng của cha mẹ đặt nơi con, hy vọng trong tương lai, khi quý vị khôn lớn, danh sẽ phù hợp thực. Do vậy, cổ nhân đặt tên cho con cái, chẳng phải là đặt tùy tiện. Nay chúng ta thấy rất nhiều người đặt tên cho con bằng tên ngoại quốc. Chúng tôi thấy vậy, cảm thấy lạ lùng, cha mẹ hy vọng con cái đều trở thành người ngoại quốc! Đúng là do chẳng mảy may biết đến văn hóa truyền thống cố hữu của Trung Hoa nên mới phạm khuyết điểm này!

Xét chữ Hiếu theo nhà Phật, nếu cha mẹ đời sau vẫn phải luân hồi trong lục đạo thì con là đại bất hiếu. Hiếu tử thật sự lẽ đâu nhẫn tâm để cha mẹ đời sau vẫn phải đọa trong lục đạo. Do vậy có thể biết, Phật tử đại hiếu là phải độ cha mẹ lìa khỏi tam giới. Hiếu hạnh bậc nhất là phải khuyên cha mẹ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đó là chân hiếu. Cha mẹ không chịu niệm, cha mẹ chẳng thể tiếp nhận, quý vị phải tìm ra nguyên nhân. Tiêu trừ nguyên nhân ấy, cha mẹ liền vui vẻ tiếp nhận, mới biết chỗ tốt đẹp [của pháp môn] này. Cha mẹ yêu thương con tha thiết, nhất là đã già cả rồi, lẽ đâu con dối gạt cha mẹ? Bất quá trong hiện thời, con cái gạt gẫm cha mẹ quá nhiều, khiến cho cha mẹ cũng không tin tưởng. Trước kia, lừa gạt người khác thì có, chứ lừa cha mẹ chính là đại nghịch bất đạo, tội lỗi ngập trời! Do vậy, rất ít kẻ lừa gạt cha mẹ. Khuyên cha mẹ niệm Phật chính là đại hiếu, chẳng có gì rốt ráo hơn được!

Từ chỗ này chúng ta biết phải nên hiếu thuận cha mẹ ra sao. Hiếu nhất định phải nói tới “thuận”, thuận lòng cha mẹ. Anh em bất hòa, cha mẹ rất đau lòng, đó là bất hiếu. Chị em bạn dâu bất hòa, cũng là bất hiếu. Thường nói là “gia hòa vạn sự hưng”, gia đình hòa thuận, lòng cha mẹ khoan khoái. Con cái đứa nào cũng đều có thể tu dưỡng phẩm đức, theo đuổi những nghề nghiệp chánh đáng, chẳng phạm pháp, chẳng trái nghịch quy củ, đó là hiếu thuận cha mẹ. Xóm giềng làng nước tôn trọng quý vị, càng tôn trọng cha mẹ của quý vị hơn nữa, đó là “hiếu thân” (hiếu thảo với cha mẹ). Vì vậy, hai chữ “hiếu thuận” đích xác là chẳng dễ thực hiện! Nhưng chư vị phải biết: Nếu quý vị chẳng thực hiện căn bản to lớn của việc học Phật thì nói cách khác, quý vị chẳng mong thoát khỏi tam giới, vẫn mong đời sau luân hồi trong lục đạo! Thật sự mong thoát khỏi tam giới, thật sự chẳng phải luân hồi nữa, quý vị phải thực hiện từ chỗ này. Người nhà, anh em trai, chị em bạn dâu chẳng hiểu, ta làm như thế nào? Nhường nhịn. Vì vậy, người Hoa hễ nói đến hiếu, nhất định sẽ nói tới vua Thuấn, lấy vua Thuấn làm gương. Quý vị đọc truyện ký của vua Thuấn, [thấy] người nhà đối xử với ông ta bằng thái độ man rợ, ngang ngược, tệ ác như thế, ông ta chỉ một mực chân thành cung kính đối với bất cứ ai trong nhà. Lâu ngày chầy tháng, sau mười mấy năm, cả nhà đều bị ông ta cảm động, khiến cho cả nhà hòa thuận. Đó mới gọi là “hiếu dưỡng phụ mẫu”. Đối với chuyện hiếu dưỡng phụ mẫu, Đại Thuấn làm được, chúng ta chẳng biết làm như thế nào! Do vậy, niệm Phật suốt mấy chục năm, ngay cả tin tức vãng sanh cũng chẳng có, quý vị nói còn làm sao được nữa, đáng sợ quá! Chúng ta sai lầm, mà chẳng tìm thấy sai lầm ở chỗ nào, đáng thương quá! Nói thật ra, do phạm lỗi chẳng đọc kinh, kinh đã nói rành mạch, rõ ràng, quý vị cũng niệm, nhưng niệm theo kiểu miệng liến láu đọc ào ào cho qua, chẳng hiểu ý nghĩa thật sự,  chẳng biết tầm quan trọng như thế nào,  cách thực hiện  ra sao lại càng chẳng cần phải nói nữa, đáng ngán quá!

Câu thứ hai là “phụng sự sư trưởng”, câu này khó lắm! Chẳng thể hiếu thảo cha mẹ, sẽ không thể kính trọng thầy. Vì vậy, đây là tầng lầu thứ hai. Sư đạo được kiến lập trên cơ sở hiếu đạo. Tôn sư trọng đạo, vì sao? Vì chẳng tôn sư là bất hiếu với cha mẹ. Hiện thời, thầy ở nơi đâu? Hiện tại chẳng có thầy! Lứa tuổi tôi còn thấy mấp mé. Thuở bé, tôi đi học tại quê nhà, học trường tư bốn tháng, một thầy dạy hai mươi mấy học trò. Cha dẫn tôi đến đó bái sư, cầm theo lễ vật, ăn mặc tươm tất, trường bào, mã quải[95]. Trước tiên, đối trước bài vị của Khổng lão phu tử ba lần quỳ, chín lần khấu đầu, sau đó thỉnh thầy ngồi chính giữa, lạy thầy ba lần quỳ, chín lần khấu đầu. Gia trưởng lạy thầy, tức là phó thác con thơ cho thầy, cầu thầy hãy nghiêm túc dạy bảo. Thầy nhận lễ vật và lễ tiết long trọng như vậy từ gia trưởng, nếu chẳng nghiêm túc giáo huấn đứa trẻ ấy, lẽ nào chẳng có lỗi với gia trưởng, đã phạm lỗi mất rồi! Vì vậy, hiện thời chẳng thấy sư đạo!

Khi chúng tôi học Phật, đến Đài Trung bái sư vẫn dùng cổ lễ để bái. Ở Đài Trung, có một năm nọ, thầy Lý mở lớp nghiên cứu nội điển, mời sáu vị giáo sư, tôi cũng là một người trong số đó. Thầy Lý mời chúng tôi làm thầy, thay mặt cho gia trưởng của học trò, mời sáu người chúng tôi ngồi ghế trên, thầy cung kính ở dưới lễ ba lạy, chúng tôi cũng đành phải nhận lễ, nhận lễ mà cảm thấy rất ngại ngùng. Lễ chẳng thể thiếu, khiến cho những học trò theo sau thầy [phải cung kính theo]. Quý vị ngẫm xem, chúng tôi có thể nào không nghiêm túc dạy học hay chăng? Đối với trường học hiện thời thì không được, thầy nghiêm khắc với học trò đôi chút, sẽ bị thưa kiện liền, thầy còn phải bị xử phạt, phiền phức lắm! Do đó, thầy chẳng muốn dạy. Chẳng có sư đạo, chẳng dễ gì thực hiện phụng sự sư trưởng.

Trong “phụng sự sư trưởng”, điều quan trọng nhất là y giáo phụng hành, đến đâu để tìm được một đứa học trò y giáo phụng hành? Tìm chẳng ra! Trong quá khứ, một mình tôi giảng kinh bên ngoài rất cô đơn, cũng rất vất vả. Mỗi lần về Đài Trung thăm thầy Lý, tôi đều khuyên lão nhân gia dạy nhiều học trò hơn để chia bớt gánh nặng của chúng tôi. Tôi nói lời này hơn mười mấy lần, nói lúc đầu, thầy Lý gật đầu, đúng thế! Đến lần cuối cùng, chắc là thầy nghe đã chán ngấy, liền bảo tôi: “Anh tìm học trò cho tôi đi”. Từ đấy về sau tôi không nói nữa, vì sao? Tìm chẳng ra! Đến đâu để tìm được một học trò phục tùng thầy một trăm phần trăm? Chẳng có, tìm không ra. Thầy Lý nói: Sư tư đạo hợp (thầy trò hợp đạo) chẳng dễ dàng, học trò mong cầu thầy, chỉ có thể gặp, chứ chẳng thể cầu, chẳng dễ gì cầu được! Chẳng dễ gì cầu được một vị thiện tri thức thật sự. Một vị thầy thật sự tốt đẹp muốn tìm được học trò, cụ Lý bảo tôi, còn khó hơn trò cầu thầy. Tôi thấu hiểu sâu xa chuyện này. Tìm đâu ra một học trò thật thà như vậy?

Hiện thời, học trò có trình độ càng cao càng không nghe lời. Vì sao? Kẻ ấy có vọng tưởng càng nhiều, thành kiến càng sâu, càng khó dạy dỗ. Do đó, pháp sư Diễn Bồi tuyển học trò, Ngài chỉ cần tuyển kẻ thật thà, ngờ nghệch, chẳng cần phải rất thông minh, tốt nghiệp Sơ Trung (cấp Hai, Trung Học Đệ Nhất Cấp) là được rồi. Tại Hương Cảng, Ngài đưa ra điều kiện này, rất nhiều người đều lấy làm lạ, người khác đòi hỏi đồ đệ phải tốt nghiệp đại học, có học vị tiến sĩ. Ngài nói: “Tôi thuộc trình độ [thấp kém] ấy”. Mấy ai hiểu ý Ngài? Trình độ càng cao, càng không nghe lời, bề ngoài tuân phụng, bên trong chống trái. Bên ngoài thì gật đầu [vâng dạ] với quý vị, quay lưng đi bèn làm theo ý riêng của hắn, chẳng thể thành tựu! Kẻ có trình độ càng thấp, sẽ càng khiêm hư, vì sao? Người ấy có mặc cảm tự ty, luôn cảm thấy chính mình chỗ nào cũng thua kém người khác, nên có thể phát phẫn tiến lên, có thể tiếp nhận sự chỉ đạo của thầy. Càng đọc sách nhiều, kiến thức càng rộng, kiêu căng, ngã mạn, kẻ ấy chẳng thể thành tựu. Quý vị hãy nghĩ xem, hiện thời, thầy chẳng tìm được học trò, trò cũng chẳng tìm thấy thầy, hy vọng vãng sanh rất mờ mịt.  Hai câu này là căn bản của căn bản, đúng  là  chẳng  dễ dàng!

Thân cận một vị thiện tri thức, thật sự gặp được thầy, nếu giữa các đồng học có va chạm, có ý kiến [khác biệt], đó chẳng phải là phụng sự sư trưởng. Vì sao? Khiến cho sư trưởng phải bận tâm, giống như chẳng hiếu thuận với sư trưởng vậy, có cùng một ý nghĩa. Anh em trong nhà tụ hội, số người vẫn chẳng nhiều lắm. Các đồng học tụ tập thường là vượt hơn số lượng anh em, làm thế nào để có thể cư xử hòa thuận? Đối với Lục Hòa Kính trong Tăng đoàn Phật pháp, nếu chẳng thực hiện Lục Hòa Kính, sẽ chẳng thể gọi là phụng sự sư trưởng. Chúng ta hãy suy nghĩ, người nào trong số chúng ta làm được Lục Hòa Kính? Từ chỗ này, hãy nghiêm túc suy nghĩ cặn kẽ, mới biết vãng sanh chẳng dễ dàng. Nhưng quý vị thật sự muốn vượt thoát tam giới, liễu sanh tử, viên thành Phật đạo trong một đời này, mà chẳng đi theo con đường này, sẽ chẳng có con đường thứ hai nào để dễ đi cả!

Lại thưa rõ cùng chư vị, mười một câu này là “chánh nhân Tịnh nghiệp của tam thế chư Phật”. Nói cách khác, bất luận quý vị học tông nào, bất luận quý vị học pháp môn nào, mười một điều này là căn bản to tát. Đến khi nào mới phân chia [tông phái]? Kể từ sau “phát Bồ Đề tâm” trở đi mới phân tông, chia phái. Trước [khi nói tới] “phát Bồ Đề tâm”, tám câu ấy chẳng thể phân biệt, chúng là khoa mục tu học chung cho bất cứ tông nào hay bất cứ pháp môn nào!

Đương nhiên, hiện thời nói đến các vấn đề, bất luận là tại gia hay xuất gia, ở trong gia đình thì đối với gia đình bèn bất mãn, bụng đầy ắp nỗi cay đắng, chẳng có chỗ nào giãi bày. Trong đạo tràng cũng là đầy dạ khổ sở, buồn bực, ủy khuất. Tôi hiểu chuyện này rất rõ ràng, rành rẽ, ai cũng chẳng che mắt tôi được! Quý vị hãy đi tìm, hãy chọn lựa, đương nhiên, trong gia đình thì chẳng có cách nào, vì khi đầu thai, quý vị đã chọn lầm, không dễ gì thay đổi. Nhưng đạo tràng nơi quý vị xuất gia chẳng hạn chế nghiêm ngặt như vậy. Đạo tràng này chẳng vừa ý, quý vị tìm đến đạo tràng khác, hãy chọn lựa, tìm tòi! Khó lắm, thật sự là khó!

Vì sao chúng ta có những sự gặp gỡ như vậy? Nói chung, do đời trước, tu phước đức và nhân duyên ít ỏi, đã tạo nhiều ác niệm và ác hạnh, nên đời này, dù tại gia hay xuất gia, điều gì cũng đều chẳng như ý. Hãy nên quay đầu, thành tâm sám hối, nơi nào cũng đều có thể quay lại chê trách chính mình, đừng đòi hỏi người khác. Đó là thật sự tu hành, như vậy thì mới có thể thật sự tu hành, mới có thể bù đắp lầm lỗi. Nếu còn khởi tâm động niệm dòm ngó lỗi lầm  của  kẻ  khác, kẻ  như  vậy  đã  hết cách cứu!

Vì lẽ đó, trong Đại Thừa Phật pháp, chẳng tu mười nguyện Phổ Hiền sẽ không thể viên thành Phật đạo. Tịnh Độ Tông đặc biệt coi trọng mười nguyện Phổ Hiền, tuy là ở nơi đây, trong giai đoạn hiện tiền, chúng ta chưa thể tu được. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, thảy đều tu mười nguyện Phổ Hiền. Mười nguyện Phổ Hiền được kiến lập trên cơ sở pháp bình đẳng, trên cơ sở cái tâm bình đẳng. Tâm địa thật sự thanh tịnh, bình đẳng, giác chứ không mê thì mới có thể tu. Chư vị nghĩ xem, nghĩ coi hai câu này khó khăn chừng nào. Khó khăn, nhưng như thế nào? Nhất định phải làm. Chẳng thể kêu khó rồi ta làm qua quít đôi chút; nếu [qua loa, tắc trách] như vậy, những điều sau thảy đều chẳng có.

Hiện thời có nhiều gia đình phản đối con cái học Phật. Vì sao? Sau khi đã học Phật bèn chẳng hiếu thuận. Tôi đã từng thấy, họ còn đến kể với tôi, tự mình còn cảm thấy rất đắc ý, [cứ tưởng] chính mình đã làm rất đúng! “Trong nhà, cha mẹ hôm nay lại mổ cá, ngày mai lại giết gà. Cha mẹ đã tạo sát nghiệp, trong tương lai đều phải chịu ác báo”. Cha mẹ bèn nói: “Đứa nhỏ này còn giáo huấn ta, còn trù ẻo ta, nói ta sẽ chịu ác báo, đều là do bị nhà chùa dạy hư”. Vì thế, cha mẹ nẩy sanh tâm lý phản kháng, chỉ e sợ con cái của chính mình hễ đến chùa, sẽ học lấy những điều xấu, về nhà chuyện gì cũng phê bình. Những lời ấy cũng chẳng nghe lọt tai, thấy người nhà hệt như cừu nhân, nhìn kiểu nào cũng thấy không thuận mắt. Thấy đồng tu còn thân thiết hơn mẹ ruột, người nhà thấy vậy ghen tỵ quá: “Tao nuôi mày lớn ngần ấy, mày xem mày đối xử với tao kiểu đó. Người kia có quan hệ gì với mày, sao lại có thể thân thiết dường ấy?” Tôi thấy rất nhiều [trường hợp như vậy], cho nên tôi thường dạy người khác: Quý vị hãy đem một phần thân tình với đồng tu đạo hữu về nhà đối đãi với cha mẹ, cha mẹ sẽ vui thích. Trong chốn chùa chiền, quý vị thấy pháp sư bèn đảnh lễ, cớ sao chẳng thể đảnh lễ cha mẹ? Chư vị hãy khéo phản tỉnh, kiểm thảo từ những chỗ này, sẽ hiểu vì sao người nhà không chủ trương cho quý vị học Phật, có nguyên nhân cả đấy! Nói thật thà, chúng ta thật sự chẳng làm được hai điều này. Thật sự làm được, cha mẹ nào chẳng thích con cái hiếu thuận, [sẽ nghĩ con cái do] tiếp nhận sự giáo dục của đức Phật bèn có đức hạnh tốt đẹp ngần ấy, ước gì tất cả thân thích bằng hữu đều học Phật. Bản thân chúng ta làm sai, khiến cho xã hội hiểu lầm, khiến cho chánh phủ cũng hiểu lầm Phật giáo. Đó là đại bất hiếu! Đúng là đã khiến cho Phật, Tổ mất sạch mặt mũi, mà bản thân chúng ta vẫn tự lấy làm đắc ý, tự cho là Phật tử, đã làm bao nhiêu công đức trong Phật giáo, làm bao nhiêu chuyện tốt, [nào dè] khiến cho mặt mũi [Phật giáo] bị mất sạch mà chính mình vẫn không biết!

Thường niệm kinh văn, trong ấy bao hàm ý nghĩa sâu rộng. Có thể hiếu thảo với cha mẹ, có thể tôn trọng thầy, đương nhiên mới có thể chẳng giết, sanh khởi tâm từ bi, tâm nhân từ đối với hết thảy chúng sanh, chẳng giết hết thảy chúng sanh. “Tu thập thiện nghiệp”, thập thiện nghiệp là tiêu chuẩn cho hành vi trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Chúng ta phải làm người như thế nào, xử sự thế nào, đều tuân theo mười điều mục ấy. Tư tưởng, kiến giải, lời nói và hành vi tạo tác của chúng ta đều có thể phù hợp tiêu chuẩn ấy thì gọi là “tu hành”. Tu hành là sửa đổi hành vi, thân chẳng sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm; miệng chẳng nói dối, không nói đôi chiều. Nói đôi chiều là thêu dệt thị phi; chẳng ác khẩu, ác khẩu là ăn nói thô lỗ, lời nói rất khó nghe. Không ỷ ngữ, ỷ ngữ là hoa ngôn xảo ngữ, lừa gạt người khác. Ý không tham, không sân, không si. Bản thân chúng ta có năng lực phân biệt tà, chánh, phân biệt chân, giả, phân biệt đúng, sai, phân biệt lợi, hại, đó là không si. Chẳng có năng lực phân biệt thì là ngu si. Nếu muốn chẳng si, phải đọc sách, phải hiểu lý, quý vị mới chẳng bị ngu si.

Quý vị chẳng đọc sách thánh hiền, chẳng hiểu lý, sẽ thường điên đảo thị phi. Đặc biệt là trong thời đại này, sai lầm do tích tụ [đã lâu] bèn trở thành đúng, mọi người đều sai, chúng ta ngỡ là rất đúng, rất khó phân biệt, thật sự chẳng dễ dàng! Nếu quý vị thật sự [muốn] có năng lực phân biệt thì phải đọc sách thánh hiền, đơn giản là Tứ Thư, Ngũ Kinh, phức tạp hơn một chút là Thập Tam Kinh của Nho gia, Nhị Thập Ngũ Sử, chư tử bách gia, phải đọc vài chục năm mới có thể hiểu rõ, mới có năng lực này, chẳng kịp thời gian! Chẳng kịp thì cũng có phương pháp bổ cứu, “bổ cứu” là cứu giúp trong lúc cấp bách, cứu giúp nhất thời. Thuở sinh tiền, Ấn Quang đại sư lão nhân gia đã trao cho chúng ta ba thứ để cứu giúp trong khi cấp bách, là thuốc có công dụng đặc biệt để trị căn bệnh ngu si của chúng ta. Ba thứ ấy, thứ nhất là Liễu Phàm Tứ Huấn, thứ hai là Cảm Ứng Thiên Vựng Biên, thứ ba là An Sĩ Toàn Thư, ba bộ sách ấy là thuốc có công dụng đặc biệt, có thể cứu chữa trong cơn cấp bách, rất hữu dụng! Sau đấy mới dùng Nho và Phật để dần dần bồi đắp thì thân thể mới có thể khôi phục. Ba loại ấy cứu mạng, khiến cho quý vị bất tử, đã bất tử lại còn rất vui. Phải dùng Phật pháp Đại Thừa và những kinh luận của Nho gia để thong thả học thêm.

Chẳng đọc sách thánh hiền, hậu quả chẳng kham tưởng tượng nổi. Đó là nền giáo dục chân chánh. Hiện thời, Trung Hoa chẳng có giáo dục. Gia đình chẳng có giáo dục, con cái trong gia đình của quý vị chẳng có tiền đồ. Quốc gia chẳng có giáo dục, quốc gia ấy quyết định sẽ bị mất nước. Giáo dục là gì? Giáo dục là không ngu si, là có năng lực phân biệt đúng, sai, chân, vọng, tà, chánh, đó là giáo dục. Nói cách khác, bồi dưỡng cho quý vị có tư tưởng chánh xác, kiến giải chánh xác, hành vi chánh xác. Tiêu chuẩn của Chánh là gì? Tương ứng với Chân Như bản tánh của quý vị, Phật chính là tiêu chuẩn ấy. Nho gia cũng theo tiêu chuẩn ấy, đó là giáo dục. Vì lẽ đó, Phật pháp là giáo dục, là nền giáo dục của đức Phật. Người hiện thời biến Phật giáo thành tôn giáo, đây là nỗi sỉ nhục lớn lao không gì bằng cho hàng đệ tử Phật, cớ sao lại biến [Phật giáo] thành tôn giáo? Đệ tử Phật chẳng trọn hết trách nhiệm tuyên dương, [khiến cho] xã hội và chánh phủ hiểu lầm, tưởng [Phật giáo] là tôn giáo. Chúng ta hãy xem Phật giáo hiện thời có phải là tôn giáo hay không? Đúng là tôn giáo. Nó vốn là giáo dục, nay bị biến thành tôn giáo, tôn giáo là gì? Tôn giáo là đối với trời, đối với quỷ thần, hằng ngày giao tiếp cùng quỷ thần.

Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, cho đến một ngàn năm sau, lúc Phật giáo truyền đến Trung Hoa, Phật giáo chẳng hề giao tiếp với người chết, chẳng niệm kinh cho người chết, trong đạo tràng cũng chẳng thờ bài vị, chẳng hề có. [Phật giáo] là cơ quan giáo dục, giáo học! Trong đại điện thờ phụng tượng Phật, tượng Bồ Tát, có cùng ý nghĩa như trong lễ đường của các trường học hiện thời treo di ảnh của Quốc Phụ, hoặc hình Tổng Thống, mang ý nghĩa kỷ niệm, chẳng phải là đối đãi Phật, Bồ Tát như thần thánh. Người hiện thời mấy ai hiểu? Do vậy, nói thật ra là đã biến Phật giáo thành tôn giáo, chúng ta đều có tội lỗi, có lỗi với Phật, Bồ Tát, có lỗi với tổ sư đại đức, chúng ta còn mong trong tương lai có thành tựu, quá khó!

Hôm nay tôi giảng cùng chư vị một điều trong tam phước, vì đây là căn bản của căn bản trong sự tu học, chẳng thể không nói cặn kẽ. Do [Tịnh nghiệp tam phước là chánh nhân tịnh nghiệp của] tam thế chư Phật, trong tương lai chúng ta sẽ thành Phật, tức vị lai Phật, đều do chánh nhân này. Chẳng tu những nhân này, quyết định chẳng thể thành tựu; vì vậy, phải nói cặn kẽ ba điều này cùng chư vị.

Hôm nay, tôi giảng tới đây!

 

Tập 210

 Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm hai mươi mốt:

 

(Diễn) Nhị giả, thọ trì Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi.

()二者受持三皈,具足眾戒,不犯威儀。

(Diễn: Hai là thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi).

Trong phần trước, đại sư đã dạy chúng ta phương pháp tu hành trong Tịnh Tông, khai thị minh bạch: “Thiện căn, phước đức, nhân duyên” ắt phải trọn đủ. Chúng ta thực hiện từ chỗ nào? Đại sư dựa theo Quán Kinh để chỉ ra: Tam phước là chánh nhân của Tịnh nghiệp. Ở đây, chúng tôi đã từng thưa trình cùng chư vị, ba điều này không chỉ là cơ sở để tu Tịnh Độ, mà nói thật ra, tất cả các tông phái và vô lượng pháp môn trong Đại Thừa Phật pháp đều chẳng lìa khỏi cơ sở này. Do vậy có thể biết, ba điều gồm mười một câu này vô cùng trọng yếu. Nếu sơ sót đoạn văn này, dẫu siêng khổ tinh tấn tu học, vẫn chẳng có cách nào thành tựu. Vì sao? Nhân và quả không tương ứng, chúng ta phải đặc biệt chú ý chuyện này.

Thật ra, Phật pháp được kiến lập trên cở sở hiếu đạo, do hiếu đạo mà sau đó mới có sư đạo. Mong kẻ bất hiếu với cha mẹ sẽ tôn kính sư trưởng là chuyện không thể được! Lẽ đâu kẻ chẳng tôn kính người thân yêu nhất của chính mình mà lại tôn kính người ngoài ư? Nếu có chuyện ấy, kẻ đó nhất định là có mưu đồ. Chẳng có mưu đồ thì nói theo tình lẫn lý đều chẳng thông! Điều này cho thấy “hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy” chính là căn cội to lớn trong tu hành. Nếu muốn đạt thành tựu nơi pháp thế gian và xuất thế gian, phải cậy vào sư đạo. Trong kinh, đức Phật thường nói, cha mẹ có ân sanh ra nhục thân chúng ta. Thân thể này là do cha mẹ mà có. Thầy có ân đức sanh trưởng Pháp Thân huệ mạng của chúng ta. Pháp Thân huệ mạng do thầy mà có. Tại Trung Hoa, vào thời cổ, thầy và cha mẹ được coi trọng như nhau. Chư vị đọc Lễ Ký, đọc cổ lễ, sẽ biết: Cha mẹ qua đời, con thủ hiếu (để tang) ba năm. Thầy qua đời, trò giữ tâm tang ba năm, chẳng có hình thức, chẳng cần mặc hiếu phục (tang phục). Đó chính là học trò coi thầy chẳng khác cha mẹ. Còn một điều rõ rệt nữa là gọi tên. Vào thời cổ, chỉ có đối với trẻ thơ hoặc người chưa trưởng thành là có thể gọi thẳng tên, có thể gọi kẻ đó bằng tên. Sau khi đã trưởng thành, nếu vẫn gọi thẳng tên tức là rất thiếu cung kính, rất thiếu lễ phép đối với người ấy, nhất là gọi đủ cả tên lẫn họ, càng chẳng có đạo lý ấy. Đó là nhục mạ đến tột cùng!

Nam tử hai mươi tuổi trưởng thành bèn hành lễ gia quan (hoặc nhược quan)[96], [tức là] đội mũ. Đội mũ nhằm biểu thị “đã là người lớn, chẳng còn là trẻ nhỏ”. Quý vị thấy người ấy bèn tôn trọng, chẳng thể gọi kẻ ấy bằng tên. Nữ nhân mười sáu tuổi bèn làm lễ cài trâm[97], tức là bới tóc lên, cô ta đã trưởng thành rồi. Ngày hôm ấy, bậc trưởng thượng, người ngang vai vế, anh chị em của người ấy phải tặng cho người ấy tên tự[98], [thường gọi là] tên chữ. Từ ngày ấy trở đi, mọi người gọi kẻ ấy bằng tên tự, chẳng còn gọi tên. Sau đấy, ai sẽ gọi tên? Chỉ có cha mẹ, cha mẹ suốt đời gọi người ấy bằng tên. Người thứ hai là thầy, thầy suốt đời gọi quý vị bằng tên thật. Trừ hai hạng người ấy ra, ông bà nội, bác, chú, người nhà, quyến thuộc đều gọi quý vị bằng tên tự. Ông bà nội do cách quý vị một đời, nên tôn kính quý vị. “Trưởng ấu hữu tự” (Lớn nhỏ có tôn ty trật tự). Quý vị làm quan trong triều đình, hoàng đế cũng gọi quý vị bằng tên tự. Nếu hoàng đế gọi thẳng tên tức là quý vị có tội, phải chịu hình phạt, chẳng giữ được chức quan. Nếu hoàng đế gọi cả họ lẫn tên, chỉ sợ bị chặt đầu, khó giữ được cái đầu! Vì thế, trong xưng hô, thầy và cha mẹ giống nhau. Từ cổ lễ, có thể thấy rất rõ điều này: Hiếu đạo và sư đạo chẳng thể tách rời. Nay chúng ta chẳng nói tới hiếu đạo, nên sư đạo cũng chẳng có. Chẳng có sư đạo, làm sao có thể thành tựu cho được? Đây là một vấn đề rất nghiêm trọng. Hiện thời, nói thật thà, mấy ai hiểu hiếu đạo? Mấy ai hiểu sư đạo? Trong pháp thế gian đã hoàn toàn vứt bỏ [sư đạo], mà trong Phật pháp hiện thời cũng chẳng tồn tại, cũng chẳng có. Nhìn bề ngoài, dường như tốt đẹp hơn pháp thế gian đôi chút, nhưng chỉ có hình thức, thiếu hẳn nội dung!

Sư đạo nói từ chỗ nào? Hôm nay, câu thứ hai nói cụ thể nội dung của sư đạo. Tôn sư là như thế nào? Trọng đạo là như thế nào? Trước hết là “thọ trì Tam Quy”, “thọ” (受) là thầy truyền trao cho ta, [ta tiếp nhận]. Sau khi ta tiếp nhận, phải có thể phụng hành, phải có thể gìn giữ suốt đời, chẳng thể lìa bỏ. Tam Quy là giới điều cơ bản. Chúng ta thường nói Giới thì Ngũ Giới là Căn Bản Giới, Ngũ Giới lấy Tam Quy làm cơ sở. Chẳng có Tam Quy, lấy đâu ra Ngũ Giới? Trong Phật môn, quý vị thường thọ Tam Quy. Khi quý vị cầu giới, vẫn phải thọ Tam Quy, rồi mới thọ Ngũ Giới. Nếu thọ tỳ-kheo giới, hoặc thọ Bồ Tát giới, vẫn thọ từ Tam Quy. Vì sao? Tam Quy là cơ sở; chẳng có Tam Quy, những điều kế tiếp đó đều chẳng có. Hiện thời, chúng ta có Tam Quy hay không? Nói thật thà, thảy đều chẳng có. Tu hành thì tu khởi đầu từ đâu? Tam Quy. Mọi người chỉ biết theo kiểu hình thức, nội dung chẳng biết một điều gì, đáng sợ quá! Nói đến Tam Quy, các vị đều biết “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”. Ngoài việc biết niệm chín chữ ấy ra, xác thực là chẳng biết gì về nội dung trong ấy! Hễ nói “quy y Phật” bèn nghĩ tới tượng Phật; nói “quy y Pháp” bèn nghĩ tới kinh điển; nói “quy y Tăng” bèn nghĩ tới người xuất gia, hoàn toàn sai bét mất rồi! Một ngàn ba trăm năm trước, vào thời Đường, Thiền Tông Lục Tổ đại sư giảng Tam Quy chỉ sợ người ta hiểu lầm, nên Ngài truyền trao Tam Quy, chẳng nói “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, mà nói “quy y giác, quy y chánh, quy y tịnh”. “Giác,  chánh,  tịnh”  là nói theo ý nghĩa;  Phật,  Pháp,  Tăng là nói theo hình tướng. Thật ra, chỗ quy y chân thật là Tam Bảo trong tự tánh.

Phật có nghĩa là giác. Phật là giác tánh, là Phật tánh sẵn có của chính mình, đó gọi là “quy y Phật”. Có mấy ai biết quy? Chẳng có ai! Đúng là chẳng dễ dàng! Thật sự thực hiện được chuyện quy y Phật thì phải như Giao Quang đại sư đã nói trong sách Lăng Nghiêm Chánh Mạch, “bỏ Thức dùng Căn” sẽ là quy y Phật. Quy (皈) là quay lại, từ đâu mà quay lại? Từ thức quay trở lại. Từ tám thức và năm mươi mốt Tâm Sở mà quay lại. Y (依) là gì? Nương vào giác tánh của chính mình. Giác tánh là gì? Là căn tánh của lục căn, nơi mắt gọi là tánh Thấy, nơi tai gọi là tánh Nghe. Trước khi chúng ta quy y, chúng ta dùng Nhãn Thức để nhìn sáu trần bên ngoài. Hễ quy y bèn quay lại, từ nay chúng ta chẳng dùng Nhãn Thức, mà dùng tánh Thấy để thấy sắc tánh, chẳng thấy sắc trần, đó mới là quy y Phật. Mấy ai có thể làm được? Quy y như vậy, chính mình thuộc địa vị gì? Thưa cùng chư vị, ngay lập tức lắc thân biến hóa, [sẽ là] Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo hoặc Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo, đó mới là quy y Phật. Quy là trở về, quay đầu, mấy ai chịu quay đầu? Chết đến nơi vẫn chẳng chịu quay đầu, quý vị còn có cách nào nữa đây!

Tam Quy đều nói theo hình thức, chứ nội dung và nghĩa thú chân thật của Tam Quy đều không hiểu, làm thế nào đây? Sử dụng tám thức và năm mươi mốt Tâm Sở chính là mê hoặc, điên đảo, chúng ta thường nói là “xử sự theo cảm tình”. “Thức” là tình thức, xử sự theo cảm tình, còn đối với Chân Như bản tánh, tánh là lý tánh. Xử sự, đãi người, tiếp vật thảy đều dùng cảm tình, đó là tạo nghiệp luân hồi trong lục đạo, làm thế nào được nữa! Vì thế, mấy ai biết quy y chân thật? Chúng tôi thường nói, chỉ bảo mọi người hãy từ mê hoặc, điên đảo mà quay lại, [đó là] chúng ta quy y tự tánh giác. Tôi nói không sai, nhưng quý vị nghe chẳng hiểu! Mê hoặc, điên đảo là gì? Tự tánh giác là gì? Nay tôi trích dẫn cách nói theo Lăng Nghiêm, chư vị có thể cảm thấy rõ ràng hơn một chút, nhưng vẫn chưa dễ hiểu. Lại nói nông cạn hơn một chút, [mê hoặc, điên đảo] sẽ là xử sự theo cảm tình. Hãy quay lại, sử dụng lý trí. Nói theo cách hiện thời như vậy, mọi người nghe chắc là sẽ có thể hiểu dễ hơn, nhưng ý nghĩa trong ấy vẫn rất mơ hồ, mông lung. Lý trí là gì? “Không phải lý trí” là gì? Ắt phải hiểu rõ ràng tánh chất của tám thức thì mới thấy dễ hiểu hơn! Thức thứ sáu là ý thức, năm thức trước là tiếp xúc, chẳng khẩn yếu. Mắt tiếp xúc sắc trần bên ngoài, tai tiếp xúc âm thanh bèn khởi tác dụng. Thức thứ sáu phân biệt, thức thứ bảy chấp trước, thức thứ tám giữ lại ấn tượng. Bản tánh chính là căn tánh của lục căn, thưa cùng chư vị, nó chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, mà cũng không giữ lại ấn tượng. Nay khiến cho lục căn của quý vị tiếp xúc cảnh giới lục trần bên ngoài, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mà chẳng phân biệt, không chấp trước, không giữ lại ấn tượng, đó là đã quay lại, đó là quy y giác, là quy y Phật.

Nói cách này rõ ràng hơn nhiều, chúng ta có thể làm được hay không? Hễ làm được, tâm bèn thanh tịnh. Vì sao? Tất cả hết thảy phiền não đều chẳng có, phiền não do đâu mà có? Từ phân biệt, chấp trước mà có. Bỏ sạch hết thảy phân biệt, chấp trước, lẽ nào có thể nẩy sanh phiền não? Không chỉ chẳng có phiền não, mà sanh tử cũng chẳng có. Sanh tử cũng từ phân biệt, chấp trước mà có. Chẳng có phân biệt, chấp trước, sanh tử sẽ chẳng có, luân hồi cũng chẳng có, lục đạo cũng chẳng có. Hễ quay đầu bèn chẳng có, không quay đầu thì thứ gì cũng đều có; bèn có cái để phải hứng chịu. Tổ sư đại đức thường nói: “Quay đầu là bờ”. Phải biết quay đầu. Quy y là quay đầu, như vậy mới là quy y Phật. Quy y Phật khó lắm. Tụng niệm công khóa sáng phải niệm Tam Quy, tụng niệm công khóa tối lại niệm Tam Quy, thời thời khắc khắc nhắc nhở chính mình: “Nhất định phải quay đầu”. Không quay đầu sẽ chẳng phải là đệ tử Phật, chẳng quay đầu sẽ chẳng phải là kính trọng thầy. Không quay đầu sẽ là bất hiếu với cha mẹ. Vì lẽ này, điều thứ hai [trong Tam Phước] lấy điều thứ nhất làm cơ sở. Đã coi Phật là thầy, Phật dạy chúng ta như thế nào, chúng ta liền tiếp nhận như thế ấy, phụng hành đúng như thế đó. Đấy chính là tôn sư, tức là tôn kính thầy, là hiếu thảo đối với cha mẹ. Cha mẹ hy vọng chúng ta sẽ học theo một vị thầy tốt đẹp, Thích Ca Mâu Ni Phật là vị thầy tốt đẹp nhất trong thế gian và xuất thế gian. Tuy Phật chẳng tại thế, chẳng tại thế cũng không sao cả, kinh điển vẫn còn trên thế gian. Nương theo kinh điển để tu học chính là nương theo Phật để học đạo.

Điều thứ hai [trong Tam Quy] là quy y Pháp, Lục Tổ đại sư nói là “quy y chánh”. Chánh là gì? Chánh tri chánh kiến. Chánh tri chánh kiến, chúng ta cũng rất khó hiểu. Tri kiến như thế nào thì gọi là bất chánh? Tiêu chuẩn của tà và chánh là gì? Nói nông cạn, tiêu chuẩn của tà và chánh là Tam Tạng Kinh, Luật, Luận. Kinh và luận là tiêu chuẩn cho tư tưởng và kiến giải, giới luật là tiêu chuẩn của ngôn ngữ và tạo tác. Tư tưởng, kiến giải, ngôn ngữ, tạo tác của chúng ta đều tương ứng với kinh, luật, luận thì tri kiến ấy chính là chánh tri chánh kiến. Nếu cách nghĩ, cách nhìn, cách nói, và cách làm của chúng ta trái nghịch kinh điển, sẽ là tri kiến bất chánh. Nói như vậy, chúng ta có phải đọc trọn hết Đại Tạng Kinh hay không? Không phải vậy! Thuở đức Phật tại thế dạy bảo các đệ tử, nói thật thà là [đệ tử được] khai thị một lần bèn suốt đời phụng hành. Cổ nhân cũng nói: “Nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ” (Một ngày là thầy, suốt đời là cha). Thầy dạy quý vị một ngày là được rồi, quý vị phải tuân thủ suốt cả một đời. Chẳng tuân thủ tức là chẳng tôn kính thầy, chẳng hiếu thảo với cha mẹ. Hết cả một đời phụng hành, trong kinh luận chúng ta thường thấy chuyện này.

Xét đến nguồn cội của kinh điển, tám chín phần trong mười phần là do có người khải thỉnh. “Khải thỉnh” (啟請) là như ta nay gặp phải khó khăn, bèn thưa bày cùng Thích Ca Mâu Ni Phật, xin lão nhân gia chỉ giáo. Đức Phật liền giảng giải, giải quyết vấn đề. Về sau, ghi chép lại thành một bộ kinh. Thuật ngữ “đương cơ” (當機) trong kinh Phật chỉ người đến thỉnh giáo, đức Phật [nói một kinh] là nói với người ấy [nhằm giải quyết nghi vấn của người đó]. Người ấy suốt đời hành theo giáo huấn của đức Phật, sẽ đạt được kết quả thù thắng. Không có ai khải thỉnh, mà đức Phật tự mình chủ động nói kinh thì không nhiều lắm. Kinh A Di Đà là “vô vấn tự thuyết” (không ai hỏi mà tự nói), rất đặc biệt. Kinh Vô Lượng Thọ, nửa bộ đầu do tôn giả A Nan khải thỉnh, nửa bộ sau do A Dật Đa Bồ Tát (tức là Di Lặc Bồ Tát) khải thỉnh. Hai vị này là đương cơ của kinh Vô Lượng Thọ, tức là có đối tượng [thỉnh vấn]. Bộ kinh này do đức Phật vô vấn tự thuyết, tình hình như vậy rất ít. Đức Phật quan sát thấy cơ duyên đã chín muồi, tuy chẳng có ai hỏi, lão nhân gia chủ động nói ra. Do vậy có thể biết, mỗi bộ kinh đều trọn đủ Tam Tạng kinh luật luận. Bất cứ một bộ kinh nào hễ mở rộng ra đều là Tam Tạng to lớn. Thu nhỏ Tam Tạng sẽ thành một bộ kinh. Quý vị hiểu ý nghĩa này, trong các buổi giảng tôi thường nói, kinh Vô Lượng Thọ nếu nói rõ ràng chi tiết sẽ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Chú giải tỉ mỉ của Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh là Đại Tạng Kinh, quý vị bèn hiểu rõ. Do vậy, “một chính là nhiều, nhiều chính là một”. Vì thế, chúng ta chọn lựa một bộ kinh luận, suốt đời nương theo bộ kinh luận ấy để tu sửa tư tưởng, kiến giải, và hành trì của chúng ta thì là đúng. Đó mới là quy y Pháp.

Khóa sớm niệm kinh luận một lần hòng nhắc nhở chính mình: “Ngày hôm nay đừng quên lời Phật giáo huấn, phải y giáo phụng hành”. Khóa tối là phản tỉnh, là kiểm thảo: “Ngày hôm nay ta xử sự, đãi người, tiếp vật, cách nghĩ, cách nhìn, cách làm của ta có trái nghịch với giáo huấn của thầy hay không?” Hễ có vi phạm, phải chân tâm sám hối, sửa lỗi, đổi mới, đó là tu hành. Nếu không, hai buổi khóa tụng sáng tối có ích chi đâu? Hai thời công khóa sáng tối chẳng thiếu, niệm kinh ấy một lượt cho Phật, Bồ Tát nghe: “Con là cục cưng ngoan ngoãn của Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát rất yêu thích con”. Nực cười! Sai lầm to đùng! Không chỉ là bản thân quý vị đã nghĩ sai be bét, mà thật sự còn là tạo tội nghiệp. Phật, Bồ Tát lại chẳng ở đó, [tượng thờ ở đó là] tượng bằng đất nặn hay gỗ khắc, buổi sáng niệm kinh lừa tượng một lần, buổi tối lại niệm một lần lừa gạt chúng. Ngay cả tượng bằng đất nặn, gỗ khắc mà còn nhẫn tâm dối gạt, lẽ nào kẻ ấy chẳng lừa phỉnh người khác? Vì thế, kẻ ấy hằng ngày lừa người, chẳng có gì là lạ. Vì sao? Tượng Phật, Bồ Tát mà kẻ ấy còn lừa, lại còn lừa hai lần mỗi ngày! Chẳng hiểu quy y Pháp là gì, quý vị còn làm sao được nữa!

Điều thứ ba [trong Tam Quy Y] là “quy y Tăng”. Tăng có nghĩa là “thanh tịnh, hòa hợp”. Trong hai ý nghĩa ấy, thanh tịnh là chủ yếu, tâm thanh tịnh bèn hòa hợp. Tâm mỗi người đều thanh tịnh, làm sao bất hòa cho được? Đương nhiên là hòa, tự nhiên là hòa. Giới điều cơ bản của Tăng đoàn là Lục Hòa Kính. Mục đích của Lục Hòa Kính là tâm thanh tịnh, [Tăng đoàn] được gọi là Hòa Hợp Chúng, [ngụ ý] tâm thanh tịnh, thân thanh tịnh, cảnh giới thanh tịnh. Nay chúng ta thấy cảnh giới chẳng thanh tịnh, vì sao chẳng thanh tịnh? Tâm chúng ta chẳng thanh tịnh. Nếu tâm thật sự thanh tịnh như kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Nhược năng chuyển cảnh, tắc đồng Như Lai” (Nếu có thể chuyển cảnh, ắt giống như Như Lai), tâm thanh tịnh sẽ chuyển biến cảnh. Tâm chẳng thanh tịnh bèn bị cảnh chuyển. Tâm chẳng thanh tịnh sẽ bị cảnh giới bên ngoài ảnh hưởng. Tâm thanh tịnh chẳng bị cảnh giới bên ngoài ảnh hưởng. Chẳng bị cảnh giới ảnh hưởng, quý vị sẽ có thể ảnh hưởng cảnh giới. Quý vị có thể ảnh hưởng ngoại cảnh thì gọi là “chuyển cảnh”. Nếu chư vị tham cứu thấu triệt đạo lý này, sẽ hoảng nhiên đại ngộ. Thế giới ngày nay, gần như mọi người trên toàn thế giới hiện thời đều ý thức địa cầu đã bị ô nhiễm hết sức nghiêm trọng. Làm thế nào để có thể tiêu trừ sự ô nhiễm ấy? Thưa cùng chư vị, nếu tâm địa chúng ta ô nhiễm mà chẳng thể khôi phục thanh tịnh, hoàn cảnh bên ngoài sẽ chẳng thanh tịnh. Vì sao? Cảnh chuyển theo tâm. Tâm thanh tịnh sẽ không tạo tác sự ô nhiễm nơi hoàn cảnh; tâm chẳng thanh tịnh thì mới có thể tạo tác sự ô nhiễm nơi hoàn cảnh.

Việc bảo vệ môi trường trên cả thế giới hiện thời toàn là làm những chuyện thuộc về cành lá, chẳng tìm được cội rễ. Cội rễ ở trong tâm địa. Làm thế nào bảo vệ sự thanh tịnh trong cái tâm, bảo vệ cho tinh thần chẳng bị ô nhiễm, hoàn cảnh bên ngoài sẽ có thể tự nhiên khôi phục. Nhiều kẻ trong thế gian chẳng đọc kinh, chẳng biết chân tướng sự lý này. Tuy chúng ta hiểu, nhưng người hiểu quá ít, do người ít nên lời nói không có sức thuyết phục mạnh mẽ, thấy người thế gian tạo nghiệp chịu báo, chẳng có cách nào cứu vãn! Chẳng cứu người khác được, nhất định là phải cứu chính mình, đó là chánh xác. Chính mình đã được cứu giúp, trong tương lai, nhân duyên của chúng sanh chín muồi, chúng ta thả chiếc bè Từ trở lại giúp đỡ họ. Khi nào thì nhân duyên chín muồi? Họ có thể tiếp nhận Phật pháp, có thể nghe lọt tai, nghe rồi hoan hỷ, có thể tin nhận phụng hành, đó là nhân duyên đã chín muồi. Nay họ nghe chẳng lọt tai, chẳng thể tiếp nhận, chẳng thể phụng hành, tức là duyên chưa chín. Khi chưa chín muồi thì phải tự độ, khi duyên đã chín muồi, sẽ lại độ kẻ khác. Đó gọi là quy y Tăng. Quy y Tăng chẳng phải là quy y một vị xuất gia, nhất định phải hiểu rõ điều này.

Kinh điển thì bộ kinh nào cũng đều bao hàm vô lượng nghĩa. Chúng ta đọc bộ Sớ Sao của Liên Trì đại sư liền biết, tác phẩm này nhằm giải thích kinh A Di Đà. Kinh A Di Đà rất ngắn, ba phút đã niệm xong, kinh A Di Đà giảng những gì? Lại xem bộ Sớ Sao của Liên Trì đại sư, đúng là đáng nể, mỗi ngày giảng một tiếng rưỡi, giảng hết một năm vẫn chưa xong. Từ chỗ này, chúng ta mới biết: Trong kinh xác thực là bao hàm vô lượng nghĩa. Kinh A Di Đà bao hàm vô lượng nghĩa, có bộ kinh nào không bao hàm vô lượng nghĩa? Bộ kinh nào cũng đều chẳng phải là ngoại lệ. Đừng nói là giảng một năm chưa xong; nếu nói tỉ mỉ, cả một trăm năm vẫn giảng chẳng xong, thật đấy!

“Thọ trì Tam Quy, trọn đủ chúng giới, chẳng phạm oai nghi” là tín điều tôn sư trọng đạo của đệ tử Phật. Tức là tôn sư trọng đạo, hiếu thuận cha mẹ chính là hành pháp cụ thể, tức phương pháp để tu hành. Nếu chẳng thật sự liễu giải ý nghĩa Tam Quy, chúng ta sẽ quy từ đâu? Chúng ta “y” (nương tựa) gì? Cũng có lẽ các đồng tu lại hỏi: Có rất nhiều bà cụ suốt đời cũng chẳng biết chữ, cũng chẳng hề nghe kinh, niệm một câu A Di Đà Phật, khi lâm chung đứng mất, hoặc ngồi mất, biết trước lúc mất, đó là chuyện như thế nào? Tôi thưa cùng quý vị, tuy bà cụ chưa hề nghe kinh, không biết chữ, cũng chưa từng niệm kinh, nhưng mười một câu của tam phước, cụ đã hoàn toàn làm được. Quý vị hãy quan sát tỉ mỉ, kiểm điểm cặn kẽ, sẽ thấy cụ chẳng khuyết thiếu một điều nào! Người ta suốt ngày từ sáng đến tối một câu A Di Đà Phật, điều gì cũng chẳng nghĩ tưởng, tâm địa thanh tịnh, tức là có “quy y Tăng” trong Tam Quy. Tư tưởng và kiến giải của cụ là A Di Đà Phật, cụ tin sâu Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng nghi, niệm nào cũng đều cầu sanh Tịnh Độ, hy vọng A Di Đà Phật đến tiếp dẫn chính mình. Tri kiến ấy chính là chánh tri chánh kiến. Một câu Phật hiệu chẳng gián đoạn, không xen tạp là giác chứ không mê. Cổ đức dạy: “Cái tâm năng niệm là Thỉ Giác, Phật hiệu được niệm là Bổn Giác”. Niệm Phật là quy y giác, quy y chánh, quy y tịnh. Nguyên lai, một câu Phật hiệu của cụ trọn đủ Tam Quy. Không chỉ là Tam Quy trọn đủ, các giới cũng trọn đủ, Bồ Đề tâm cũng trọn đủ. Quy nạp toàn thể Đại Thừa Phật pháp đến cuối cùng sẽ là bốn chữ A Di Đà Phật, [do vậy] “đọc tụng Đại Thừa” cụ cũng trọn đủ. Cụ vãng sanh như vậy, nêu gương khiến cho người khác trông thấy sẽ cảm động, tức là khuyến hóa kẻ khác cụ cũng trọn đủ. Tự hành, hóa độ người khác, dùng thân để giáo hóa, [đó chính là] “khuyến tấn hành giả”. Quý vị nói xem: Có điều nào cụ không trọn đủ? Điều nào cũng đều trọn đủ. Chúng ta có thể sánh bằng cụ hay không? Chẳng sánh bằng! Chớ nên xem nhẹ người khác!

Nói thật ra, đối với thế gian và xuất thế gian trong hiện thời, sau khi đã vứt bỏ quan niệm đạo đức cơ bản, nói thông thường sẽ là kẻ được hưởng giáo dục càng cao càng phiền phức, đều luôn cho mình là đúng, cuồng vọng, khi dễ người khác. Báo hôm nay đăng tin, tân Thủ Tướng của nước Anh chỉ có trình độ Trung Học, rất đáng khiến cho người khác phản tỉnh sâu xa. Người Hoa thường nói: “Anh hùng bất phạ xuất thân đê” (Anh hùng chẳng sợ xuất thân thấp hèn). Thông thường, người xuất thân thấp hèn bèn khiêm hư, cung kính, luôn nghĩ ta chẳng bằng kẻ khác, nên mới có thể thành tựu; [nếu kẻ nào luôn nghĩ] người khác chẳng bằng ta, thôi rồi, ta còn có thể thành tựu hay không? Còn có thể tiến bộ hay không? Chẳng có! Chư vị xem năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài trong kinh Hoa Nghiêm. Mỗi vị thiện tri thức đều là đại Bồ Tát. Thiện Tài đồng tử đến tham phỏng, sau khi dạy xong, các Ngài bảo: “Vô lượng vô biên pháp môn rất sâu, ta chỉ biết chút này, ta chẳng bằng các vị thiện tri thức, ngươi hãy đi tìm [những vị ấy]”. Chẳng có vị nào không tự khiêm hư, tôn kính người khác, đề cao người khác. Trong năm mươi ba vị thiện tri thức, chẳng tìm thấy vị nào ngạo mạn! Ngay cả Khổng lão tử phu tử cũng nói: Giả sử có người tài hoa giống như Châu Công, “như Châu Công chi tài chi mỹ” (nếu người nào có tài năng hay khéo như Châu Công), Châu Công là vị thánh nhân được Khổng lão phu tử bội phục nhất. “Sử kiêu thả lận”, [nghĩa là giả sử kẻ ấy] ngạo mạn, keo kiệt, nếu kẻ ấy có hai điều đó, “kỳ dư tắc bất túc quán hỹ” (những điều khác chẳng đáng để xét tới nữa), kẻ như vậy chẳng cần phải xét tới nữa! Vì sao? [Những ưu điểm, tài năng của kẻ ấy] toàn là giả, chẳng thật!

Vừa mở đầu sách Lễ Ký, thánh nhân đã dạy: “Ngạo bất khả trưởng” (Chớ nên trưởng dưỡng thói kiêu ngạo). Nho gia nói theo pháp thế gian, chẳng nhấn mạnh đoạn phiền não, nhưng người ta chế phục phiền não, chẳng để cho nó tăng trưởng. Đối với nhà Phật thì phải thoát tam giới, quyết định phải đoạn phiền não. Đoạn phiền não thì khởi sự đoạn từ nơi đâu? Đoạn tập khí ngạo mạn trước! Vì lẽ đó, tu học Phật pháp trước tiên là thử thách quý vị, chiết phục hết sạch tập khí kiêu mạn rồi mới có tư cách học đạo. Tâm đã thanh tịnh thì mới có tâm cung kính người khác, mới thật sự nhún mình, đề cao người khác, mới có thể tiếp nhận, mới trở thành pháp khí, mới có thể tiếp nhận pháp rất sâu. Pháp rất sâu là Như Lai bình đẳng tánh pháp. Hễ có mảy may kiêu mạn, chẳng phải là Phật thiếu từ bi, chẳng phải là Ngài không chịu truyền dạy quý vị, mà vì truyền dạy quý vị cũng vô dụng! Truyền chỗ này, rò rỉ chỗ kia, nên gọi là “hữu lậu”. Lậu (漏) là gì? Là phiền não của quý vị. Vì thế, trước hết, nhất định phải đoạn sạch Kiến Tư phiền não. Sau khi đã đoạn Kiến Tư phiền não thì mới là pháp khí.

Đối với Kiến Tư phiền não, tham lam, sân khuể, ngu si, ngạo mạn, hoài nghi trong Tư Hoặc, hễ có một điều nào trong tham, sân, si, mạn, nghi, sẽ chẳng thể thành tựu. Không chỉ là quý vị chẳng thể thành tựu Phật pháp thông thường, mà niệm Phật cũng chẳng thể vãng sanh, đúng vậy đó! Quý vị niệm Phật mà còn tham tài, tham danh, tham lợi trong thế gian, có thể vãng sanh nổi hay chăng? A Di Đà Phật đến tiếp dẫn ta, [nhưng ta thấy] cổ phiếu chỗ nọ đang lên giá, không thể đi được, phải kiếm tiền đã! Vậy thì làm sao có thể ra đi thành công cho được? Còn có con cháu rất đông, ta còn chưa gặp mặt chúng, còn chưa dặn dò rõ ràng. A Di Đà Phật chẳng thể chờ đợi quý vị. Quý vị có tham, có sân khuể, người này trong quá khứ có lỗi với ta, ta còn chưa trả đũa hắn, vậy thì cũng chẳng đi được! Tham, sân, si, mạn, nghi đều là đại chướng ngại cho việc vãng sanh. Nếu quý vị muốn vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, những thứ ấy đều chớ nên có. Chúng là tập khí, là phiền não, là chướng ngại, là nghiệp chướng!

Mỗi người chúng ta đều biết: “Ta nghiệp chướng rất nặng”. Đúng vậy! Nghiệp chướng rất nặng, người nghiệp chướng nặng nề chẳng thể vãng sanh. Hy vọng một câu Phật hiệu này sẽ tiêu sạch tất cả nghiệp chướng của quý vị. Ý niệm tham, sân, si, mạn, nghi vừa dấy lên, ngay lập tức chuyển nó thành A Di Đà Phật, khiến cho ý niệm ấy bị quên bẵng. Ắt cần phải niệm câu Phật hiệu A Di Đà Phật nhuyễn nhừ, trong mỗi niệm, Phật hiệu đều dấy lên hiện hành, trong mỗi niệm, tham, sân, si, mạn đều giảm bớt, công phu sẽ đắc lực, đó là cảnh giới tốt đẹp. Mỗi ngày niệm mười vạn tiếng Phật hiệu mà vẫn khởi tham, sân, si, mạn, vô dụng! Cổ nhân trào phúng: “Hét toạc cổ họng vẫn uổng công”. Chẳng thể vãng sanh, niệm Phật chỉ là tốt lành ngoài miệng, ý chẳng tốt lành! Vì thế, chư vị nhất định phải hiểu rõ ý nghĩa “thọ trì Tam Quy”, phải tu tập từ chỗ này.

“Cụ túc chúng giới” (Trọn đủ các giới), chữ “chúng” (眾) có phạm vi rất rộng, rất nhiều, chẳng phải chỉ là Tam Tụ Tịnh Giới. Đối với Tam Tụ Tịnh Giới, trọn đủ cả ba tụ là đã rất tốt, cần gì phải là các giới? Giới luật là khuôn phép trong cuộc sống, tinh thần của giới luật là “đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành”. Đừng làm các điều ác là giới Tiểu Thừa, là tự kiềm chế chính mình, đó cũng là “độc thiện kỳ thân” (riêng tốt cho cái thân mình) như Nho gia đã nói. “Độc thiện kỳ thân” là đừng làm các điều ác, “vâng làm các điều lành” là giới Đại Thừa, là giới Bồ Tát, là “xử chúng” (處眾), [tức là] cùng ở chung một chỗ với đại chúng. Nho gia gọi “vâng làm các điều lành” là “kiêm thiện thiên hạ”. Người ấy riêng thân mình tốt lành, ở trong đại chúng bèn khiến cho thiên hạ cũng đều tốt lành. Nói thật ra, nguyên tắc đã nói trong Nho gia chẳng khác gì Phật pháp. Vì thế, tinh thần ấy được biểu hiện nơi sự tướng hết sức rộng rãi. Chúng ta phải tuân thủ những giới điều do đức Phật đã dạy, mà đối với hiến pháp quốc gia, quy chế pháp luật, chúng ta cũng phải tuân thủ, chúng đều thuộc phạm vi của “chúng giới”. Trừ những điều đã có văn bản quy định ra, giới luật thuộc loại bất thành văn là gì? Quan niệm đạo đức, phong tục tập quán trong xã hội toàn bộ đều bao gồm trong một câu này. Ở Trung Hoa, phải tuân thủ phong tục và quan niệm đạo đức của người Hoa. Sang ngoại quốc phải tuân thủ pháp luật ngoại quốc, phong tục, đạo đức, và tập quán ngoại quốc thì mới có thể cư xử hòa hợp, hòa thuận với họ. Do vậy, đối với “giới luật”, quý vị thấy “chúng giới” bèn chấp chết cứng là mấy giới điều như mười giới, hai trăm năm mươi giới, chết cứng trong đó, hoàn toàn sai mất rồi! Học Phật kiểu đó, Thích Ca Mâu Ni Phật trông thấy phải ứa lệ, cớ sao đầu óc đông cứng như vậy? Xưa kia, thầy Lý bảo chúng tôi, đầu óc của người học Phật có hình dạng ra sao? Một quả cầu thủy tinh tròn xoe, phía nào cũng sáng long lanh! Đầu óc cứng còng, vuông chằn chặn, sẽ chẳng thể học Phật, có chuyển cũng không thể động đậy được! Còn làm gì được nữa? Chư vị nhất định phải hiểu rõ [chuyện này].

Giới luật trong giới kinh là những quy ước, chế định đối với hoàn cảnh trong cuộc sống từ ba ngàn năm trước, có thể sử dụng trong hiện thời hay không? Chẳng thể sử dụng. Pháp luật thế gian cứ mỗi hai mươi, ba mươi năm lại phải tu chỉnh một lần; hiện thời do xã hội biến hóa quá lớn, chẳng đợi tới hai, ba mươi năm, cứ dăm ba năm là phải tu chỉnh các văn bản pháp luật một lần. Không tu chỉnh sẽ chẳng phù hợp, xã hội không ngừng tiến bộ, tiến bộ trên quy mô rộng lớn, những quy định trước kia nay chẳng còn phù hợp. Lập Pháp Viện (Quốc Hội) tu chỉnh điều luật mỗi ngày, phải thích ứng nhu cầu của xã hội và đại chúng.

Giới luật nhà Phật truyền đến Trung Hoa, các tổ sư Trung Hoa chế định Thanh Quy. Thanh Quy (清規) là gì? Là giới luật được Hán hóa, là giới luật được hiện đại hóa. Chiếu theo tinh thần của giới luật trong Phật pháp để thích ứng với nhu cầu trong cuộc sống hiện tại, Thanh Quy được ước định như vậy. Khi thể lệ Thanh Quy đã khơi mào, đối với Thanh Quy tại mỗi nơi, mỗi huyện, mỗi tỉnh, mỗi chùa miếu tại Đại Lục, quý vị hãy xem kỹ, luôn luôn có mấy điều khác nhau. Vì sao? Nhất định phải thích hợp với hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta. Ở nơi này có thể áp dụng, nhưng tại huyện khác, không nhất định là có thể áp dụng trôi chảy được! Nhất là Trung Hoa lại có lãnh thổ rất lớn, các dân tộc rất đông, phong tục và tập tánh của mỗi dân tộc cũng không hoàn toàn giống nhau. Ngay như tại Đài Loan, Đài Loan còn có dân tộc [thiểu số] Cao Sơn. Dân tộc Cao Sơn[99] lại chia ra rất nhiều bộ tộc, phong tục tập quán của họ cũng đều chẳng giống hệt như nhau.

Từ chỗ này, quý vị mới có thể thật sự thấu hiểu thâm ý [của câu] “đầy đủ các giới”. Sau đấy mới biết Phật giáo đích xác là siêu thời gian, siêu không gian. Bất luận trong thời đại nào hay quốc gia, dân tộc nào, cũng đều có thể áp dụng thông suốt, vì sao? Nó sống động, chẳng chết ngắc; hễ chấp chết cứng vào một phương pháp nào đó, chắc chắn chẳng thể sử dụng thông suốt được. Vì lẽ này, hiện thời, pháp sư người Hoa hoằng pháp bên ngoại quốc, tôi thấy cũng rất buồn lòng. Vì sao? Đương nhiên hiện thời toàn là dạy người Hoa, vẫn chưa dạy người ngoại quốc. Vì sao chẳng dạy người ngoại quốc? Người ngoại quốc chẳng đến! Vì sao người ngoại quốc chẳng đến?  Đến nghe chúng ta giảng kinh thì phải làm người Hoa, lại còn phải làm người Hoa thời cổ! Quý vị nói xem làm sao chấp nhận được? Đơn giản là đã lái xe giật lùi, làm sao người ngoại quốc có thể tham dự cho được? Chúng ta nương theo chú giải của cổ nhân, những điều nói ra đều để cổ nhân hành theo, vậy là chẳng thể được! Nói cách khác, những điều họ giảng miễn cưỡng coi như khế lý, nhưng chẳng khế cơ! Vì lẽ này, Phật pháp chẳng thể phổ cập, chẳng được hoan nghênh, đạo lý là ở chỗ này. Quý vị thật sự thông đạt, hiểu rõ thì há có nơi nào, dân tộc nào, quốc gia nào bài xích Phật pháp? Họ hoan nghênh [Phật pháp] truyền đến [xứ sở của họ] còn chẳng kịp! Vì sao? Nhất định là có lợi cho quốc gia và dân tộc của họ, có lợi ích chân thật, như kinh Vô Lượng Thọ đã nói: “Huệ dĩ chúng sanh chân thật chi lợi” (Ban cho chúng sanh lợi ích chân thật), ai chẳng cần? Vì vậy, kinh điển và chú sớ của các vị cổ đại đức hoàn toàn là sống động, hoạt bát. Nếu những bản chú sớ ấy chẳng sống động, mà là văn tự chết cứng, chắc chắn chúng chẳng thể được lưu truyền, nhưng thế hệ chúng ta đã giảng chúng thành chết cứng. Chúng chẳng phải là chết cứng, mà là bị chúng ta xem thành chết ngắc, giảng giải theo kiểu chết cứng. Đó là sai lầm, sai lầm ở chỗ này.

Nay chúng ta nói “oai nghi” tức là “nghi biểu” (儀表) hoặc phong độ, [oai nghi] cũng phải theo kịp thời đại. Trong thế gian hiện thời, chúng ta thường thấy TV mỗi năm đều có [các show] biểu diễn các trang phục đang được lưu hành, oai nghi thuộc về những thứ đó. Có thể thấy là đức Phật trọn chẳng dạy chúng ta lái xe lùi lại. Đức Phật không chỉ dạy chúng ta đuổi kịp thời đại, mà còn dạy chúng ta lãnh đạo thời đại, vĩnh viễn đi trước thời đại, chẳng bị lạc hậu. Nay người ta thấy [nói tới] “oai nghi” đều hướng theo oai nghi đời Đường hoặc đời Tống. Nói cách khác, thảy đều hành theo cổ nhân, bày vẽ oai nghi theo kiểu đó. Vì vậy, dọa người ta đến nỗi chẳng có ai dám học Phật. Sai mất rồi! Đã học Phật theo kiểu chết cứng! Nếu thảy đều là như vậy thì Phật giáo truyền đến Trung Hoa, chúng ta hãy nên hoàn toàn dùng oai nghi của Ấn Độ thì mới đúng! Vì sao truyền đến Trung Hoa bèn mặc loại quần áo như thế này? Đó là y phục thời Hán, gọi là “hải thanh”[100], nó chẳng phải là [y phục] của Phật giáo. Người đọc sách đời Hán thuộc giai cấp sĩ đại phu, nay ta gọi là “thành phần trí thức”, mặc y phục là áo dài rộng tay, họ chẳng làm những việc nặng nề!

Hiện thời, có kẻ đề xướng, y phục của người xuất gia có thể thuận theo thế tục, vốn là tùy tục. Như người xuất gia tại Nhật Bản, ăn mặc theo lối Âu Tây, đi giày da. Áo ca-sa hiện thời đã biến thành [chỉ còn] mang tánh chất kỷ niệm. Chúng ta còn đắp cả tấm y, y của người Nhật là một miếng nhỏ xíu, bình thường bỏ trong túi áo của bộ âu phục. Nếu có Phật sự, họ móc túi lấy ra, giống như chúng ta đeo xâu chuỗi trên cổ, họ đắp y kiểu đó. Ba y của họ đều làm thành một miếng nhỏ như thế, thường bỏ trong túi áo của bộ Âu phục. Họ có phạm sai lầm hay không? Chẳng sai lầm, “chẳng phạm oai nghi”, họ thuộc về thế hệ hiện thời, chẳng phải là người sống trong xã hội thuở trước. Vì thế, họ chẳng phạm oai nghi.

Vì sao hiện thời người xuất gia chúng ta không thay đổi cách ăn mặc mà vẫn mặc như thế này? Nói thật ra, mặc trang phục này thoải mái. Nay chúng ta thấy người Âu Tây mặc y phục bó sát thân thể, khó chịu lắm! Áo rộng tay to, xác thực là thoải mái. Bởi lẽ, người Hoa rất biết hưởng thụ. Nói thật thà, đối với chuyện ăn, mặc, ở, đi lại, người Hoa luôn nhấn mạnh sự hưởng thụ. Vì thế, loại y phục này khi đã thiết kế, được thiết kế rất hoàn hảo, người ngoại quốc sau khi đã mặc vào cũng muốn mặc. Họ không biết may cắt, chẳng mua được. Thật đấy! Khi chúng tôi ở ngoại quốc, họ thấy [y phục của người xuất gia] rất hâm mộ. Y phục này mặc được quá, thoải mái, đặc biệt là áo rộng tay. Quả thật là Hải Thanh đặc biệt thoải mái.

Do vậy, câu nào trong những câu này cũng đều là sống động. Do xã hội hiện thời rất loạn, phong khí chẳng tốt, nên Tăng đoàn vẫn bảo trì [cách ăn mặc này]. Y phục chúng ta mặc hiện thời là trang phục đời Minh, chẳng muốn thay đổi lại có ích. Nói theo thân phận người xuất gia, nó có sự ước thúc. Ví như rạp chiếu bóng hoặc nhà hàng, chúng ta mặc loại quần áo này nói chung chẳng tiện bước vào, luôn cảm thấy ngại ngùng. Nếu thay đổi cách ăn mặc như người xuất gia Nhật Bản, vào những chỗ đó ai biết? Chẳng ai biết cả! Lạt-ma Trung Hoa, như Cam Châu Hoạt Phật[101], tôi và Sư thường ở chung một chỗ. Sư mặc áo dài (mã quải là lễ phục, bình thường Sư không mặc mã quải mà mặc trường bào). Khi đó, tôi vừa mới học Phật, thường ở cùng một chỗ với Sư, có lúc chúng tôi đi coi phim, có khi vào quán ăn, chẳng có ai nhận ra Sư. Nếu mặc quần áo như vậy để đi xem phim thì không tiện lắm. Đi ăn tiệm, vì Sư là lạt-ma nên không ăn chay. Khi đó, chúng tôi vừa mới học Phật cũng còn chưa ăn chay, thường ăn bíp-tết với Sư. Tôi và Cam Châu rất thân thuộc, nên về sau, đồ đệ của Cam Châu không muốn tôi lai vãng. Họ nói: “Không được! Chúng tôi giao tiếp với ông sẽ bị thua kém một bậc, vì ông ngang vai với thầy tôi! Tôi thuộc hàng vãn bối của ông”. Vì vậy, mặc loại trang phục này, đích xác là người xuất gia chịu rất nhiều sự bó buộc. Nhất là trong hiện thời, nói thật thà, giới luật trong Tăng đoàn cũng chẳng được nhấn mạnh. Ăn mặc theo kiểu này ra ngoài thì ít nhiều sẽ bị bó buộc rất lớn, có lợi, chẳng có hại. Từng có người đề xướng phải cải cách, có những vị lão hòa thượng không đồng ý, [các Ngài] không đồng ý là có lý, tốt lắm. Tốt đẹp thì chúng ta hãy nên giữ lại. Do vậy, ba câu này có ý nghĩa hết sức sâu rộng. Đừng thấy “chúng giới” bèn nghĩ đến mỗi điều trong giới bổn, thấy “oai nghi” bèn nghĩ tới đời Đường, đời Tống. [Nếu hiểu như vậy thì] sai bét mất rồi!

Lại thưa cùng chư vị đồng tu, trong tương lai, nếu như trong Phật giáo xuất hiện tùng lâm thì cũng là tùng lâm được hiện đại hóa theo kiểu mới, tuyệt đối chẳng phải là như trong quá khứ. Khuôn khổ quy củ, oai nghi trong tùng lâm quá khứ chẳng có ai muốn tuân thủ. Nếu hiện thời quý vị lấy khuôn khổ quy củ, oai nghi đó ra, nói “tôi lập tùng lâm ở nơi đây, hoan nghênh mọi người đến gia nhập”, bảo đảm chẳng có một người nào đến, dẫu một người cũng chẳng đến! Vì sao? Vì mọi người sẽ không quay lại làm người đời Đường hoặc đời Tống, chẳng thể quay lại! Nhất định là phải hiện đại hóa, nhất định là phải bản địa hóa. Hiện thời, nói thật thà, vì giao thông nhanh chóng, tiện lợi, thông tin phát triển, cả thế giới biến thành một khu vực. Trước kia, ta chỉ biết chuyện nơi vùng ta ở là đủ rồi, nay thì không được. Hiện tại, chuyện trên cả thế giới, văn hóa lịch sử, hình thái ý thức và phương thức sống, cho đến các phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, quý vị đều phải biết. Vì hễ khi nào quý vị có dịp đi xa, chẳng hiểu [phong tục, tập quán nơi mình sẽ đến] thì ra ngoài sẽ bị thua thiệt, bị chê cười! Đệ tử Phật nếu muốn đến hoằng pháp mỗi nơi trên thế giới, nếu quý vị không biết rõ, làm sao hoằng dương Phật pháp cho được? Làm sao có thể khiến cho người ta tiếp nhận? Phải biết chuyện này!

Vì lẽ đó, Phật pháp chẳng chết cứng. Chết cứng thì vô giá trị. Phật pháp thù thắng nhất, lỗi lạc nhất, sống động! Giống như nước, đổ vào [đồ đựng có] hình tròn, nó là vật có hình tròn. Đổ vào đồ đựng hình vuông, nó có hình vuông, thiên biến vạn hóa tùy theo cảnh giới bên ngoài. Nguyên tắc và nguyên lý của nó chẳng thay đổi, nhưng hình thức thì biến đổi từng thời, từng khắc, tuyệt diệu thay! Do vậy, học Phật chẳng thể học chết cứng! Hiện thời, các đồng tu chúng ta học Phật gặp nhiều chướng ngại, những chướng ngại ấy từ đâu sanh ra? Nói thật ra, chúng nẩy sanh do quý vị đã vi phạm các giáo huấn của đức Phật, học Phật pháp theo kiểu chết cứng. Vì thế, ở trong gia đình, chẳng được hoan nghênh. Người trong nhà vừa thấy quý vị học Phật đều chê bai: “Kẻ học Phật là bất bình thường”. Còn làm thế nào được nữa? Sai mất rồi! Thuở Thích Ca Mâu Ni Phật tại thế, đức Phật và các đệ tử Phật bất luận đi đến nơi nào đều được đại chúng hoan nghênh, còn chúng ta đến nơi đâu, về nhà thì bị người nhà chán ghét, ra xã hội thì bị người trong xã hội chán ghét, gặp phải tình cảnh như vậy, há Thích Ca Mâu Ni Phật còn có thể hoằng pháp lợi sanh ư? Sai lầm mất rồi! Chẳng phải là Phật pháp sai lầm, mà là do bản thân chúng ta đã hiểu sai ý Phật, hiểu trật vuột, xuyên tạc ý nghĩa của Phật, vẫn cứ ngỡ mình là đúng, quý vị nói xem có hỏng bét hay là không?

Nay chúng ta nói tới Phật học thì phải nói tới Phật học hiện đại, thâm nhập kinh tạng, liễu giải đối với mỗi triều đại, mỗi địa phương trong quá khứ, các vị tổ sư đại đức thuở ấy đã hiện đại hóa, bản địa hóa những điều ấy như thế nào trong thời các Ngài thì mới có thể hoằng dương, mới có thể gây nên ảnh hưởng sâu xa. Chúng ta tham khảo những điều đó, chọn lọc cái mới, hiện tại có cách nói của hiện tại, nói theo kiểu thời này và chỗ này thì mọi người mới có thể đạt được sự thọ dụng chân thật, cảm thấy tu hành Phật pháp chẳng có chút khó khăn nào, hoàn toàn chẳng mâu thuẫn với cuộc sống của chúng ta, chỉ đem lại cho chúng ta một cuộc sống phong phú, viên mãn, hạnh phúc hơn, chẳng có mảy may chướng ngại nào, có kẻ nào chẳng mong tiếp nhận? Hiện thời, mọi người cảm thấy [tu hành Phật pháp] quá đỗi phiền phức, quá nhiều chướng ngại, như thế này cũng không được, như thế kia cũng chẳng được! Thôi đi! Chẳng muốn học nữa! Sai lầm ở chỗ này!

Chẳng phải là kinh Phật sai lầm. Kinh Phật chẳng sai lầm, mỗi chữ đều chẳng sai lầm, mà là do chúng ta nhận thức sai lầm, hiểu sai be bét! Người ta bảo quý vị “chẳng phạm oai nghi”, đâu có tròng thêm câu “chẳng phạm oai nghi thời Thích Ca Mâu Ni Phật”! Nếu thêm câu ấy vào, sẽ chẳng có cách nào hết, nhất định là phải vâng giữ theo thời ấy. Bốn chữ “chẳng phạm oai nghi” sống động. Mỗi thời đại có oai nghi của thời đại ấy, mỗi khu vực có oai nghi của khu vực ấy. Oai nghi cũng là lễ tục (lễ nghi, tập tục), khác nhau! “Cụ túc chúng giới”: Đối với giới vừa nói ấy, cũng chẳng nói là giới trong bộ giới kinh nào, chẳng nói như thế. Chúng ta mới hiểu giới ấy là khuôn phép trong cuộc sống, nói như hiện thời là “lễ nghi của quốc dân”. Lễ nghi của quốc dân là oai nghi, khuôn phép trong cuộc sống chính là “chúng giới”. Chư vị liễu giải ý nghĩa này, tuyên truyền với người khác như vậy, có ai không hoan hỷ? Ai có thể nói Phật pháp là mê tín? Nếu chúng ta nhất định phải nói tới một triều đại nào đó trong quá khứ, [chẳng hạn như] thời đại của Thích Ca Mâu Ni Phật, loại Phật giáo ấy đương nhiên là mê tín, đương nhiên chẳng thể vận dụng trôi chảy được. [Hiểu theo kiểu đó] thì chúng ta không chỉ chẳng thể làm người Hoa, mà còn phải làm người Ấn Độ. Lại còn làm người cổ Ấn Độ từ ba ngàn năm trước, ai bằng lòng làm? Đương nhiên là chẳng muốn!

 

(Diễn) Tam giả phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả.

()三者發菩提心,深信因果,讀誦大乘,勸進行者。

(Diễn: Ba là phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến khích, sách tấn hành giả).

Điều thứ ba là điều thiện của hàng Bồ Tát. Trong ba tầng cấp này, tầng thứ nhất là tiêu chuẩn của nhân, thiên, tầng thứ hai là tiêu chuẩn học Phật, tức là tiêu chuẩn của đệ tử Phật. Mức độ thấp nhất của đệ tử Phật là phải trọn đủ ba điều này. Chẳng có ba điều ấy, sẽ chẳng phải là đệ tử Phật. Từ tiêu chuẩn ấy, lại nâng cao hơn, bèn thành Bồ Tát. Bồ Tát là gì? Là đệ tử nhập thất của Phật. Tầng cấp trước là những đệ tử Phật chưa đăng đường nhập thất, còn đây là các đệ tử đã đăng đường nhập thất của đức Phật. Tầng cấp trước là các đệ tử thông thường, tầng sau là đệ tử truyền pháp của đức Phật, tiêu chuẩn lại chẳng giống nhau!

Thứ nhất là phải “phát Bồ Đề tâm”, Bồ Đề tâm là tâm gì? Trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Nói cụ thể sẽ là Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Tứ Hoằng Thệ Nguyện là Bồ Đề tâm, phải thật sự phát tâm độ chúng sanh. “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, độ là gì? “Độ” là giúp đỡ, hiệp trợ họ. Quan trọng nhất là giúp họ phá mê khai ngộ, đoạn phiền não, giúp họ khôi phục cái tâm thanh tịnh. Điều này quan trọng nhất. Nếu hạ thấp tiêu chuẩn để giúp đỡ họ, bèn dạy họ hiếu thảo với cha mẹ, dạy họ tôn sư trọng đạo, dạy họ từ tâm chẳng giết, dạy họ tu Thập Thiện Nghiệp. Đấy là đặt tiêu chuẩn ở mức thấp nhất nhằm tiếp dẫn các chúng sanh bình phàm. Đối với kẻ chẳng học Phật, phải dùng phương pháp này để dạy họ, đó là pháp nhân, thiên. Đối với người đã học Phật, phải dạy họ thật sự quay đầu. Tam Quy là quay đầu, dạy họ giữ pháp, vâng giữ quy củ, đó là “trọn đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”. Đối với người tu lâu, phải khuyên họ “phát Bồ Đề tâm”, nhất định phải tự hành, dạy người.

Trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện, thệ nguyện thứ nhất là Bồ Tát nguyện, nguyện thứ hai và thứ ba là Bồ Tát hạnh, nguyện thứ tư là quả vị Bồ Tát. Đã phát nguyện rồi, thực hiện từ nơi đâu? Thực hiện từ đoạn phiền não. Chẳng đoạn phiền não, chính mình chẳng thể thành tựu, mà cũng chẳng thể hóa độ chúng sanh. Đã đoạn phiền não rồi mới học pháp môn. Vì thế, người học Phật hiện thời, học mấy chục năm, học suốt một đời, chẳng có thành tựu gì nơi Phật pháp, nguyên nhân ở chỗ nào? Điên đảo thứ tự, vừa bắt đầu bèn “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, chẳng cần tới “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, nên người ấy vĩnh viễn chẳng thể học được! Vì sao? Căn khí của kẻ ấy là hữu lậu, giống như cái chén trà này đáy lủng một lỗ, đổ nước vào cách nào cũng chẳng đổ đầy được! Do bị rò rỉ, nên chẳng thể đổ đầy được. Kẻ ấy có Lậu, Lậu (漏) là tên gọi khác của phiền não. Vì thế, trình tự học Phật là trước hết đoạn phiền não, trước hết là tu tâm thanh tịnh, nhất định phải làm đúng theo trình tự của Phật. Trình tự là Giới, Định, Huệ. “Thọ trì Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm oai nghi” là Giới Học trong Tam Học. “Phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả” là Định Học. “Đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả” là Huệ Học. Nó có thứ tự, chẳng thể vượt cấp. Những điều sau nhất định bao gồm những điều trước, những điều trước chẳng bao gồm các điều sau, nhưng điều sau bao hàm điều trước. Nay chúng ta chẳng hiểu, bèn vượt cấp. Giống như xây một tòa cao ốc, chẳng cần ba tầng dưới, ta xây tầng thứ tư, thứ năm, xây bằng cách nào? Chẳng có cách nào xây cả! Vĩnh viễn cũng chẳng thể xây thành công! Đây là sai lầm to nhất mà người học Phật trong đời này phạm phải!

Nếu chư vị muốn thật sự thành tựu, trước hết hãy đoạn phiền não rồi sẽ học pháp môn. Nay tôi khuyên mọi người niệm kinh Vô Lượng Thọ, niệm kinh có ý nghĩa gì vậy? Nhằm đoạn phiền não. Vì sao? Chẳng niệm kinh bèn suy nghĩ loạn xạ, suy nghĩ loạn xạ là phiền não. Niệm kinh, ta niệm mỗi lần một giờ, tối thiểu là trong một giờ ấy, ta chẳng suy nghĩ loạn xạ, tu Định trong một giờ ấy. Niệm hai giờ sẽ là hai giờ chẳng suy nghĩ loạn xạ. Vì thế, hằng ngày quý vị niệm càng nhiều càng tốt. Quý vị có thể niệm tám giờ mỗi ngày, trong tám giờ không suy nghĩ loạn xạ. Quý vị niệm suốt một năm, hai năm, hoặc ba năm, tâm quý vị thanh tịnh, vọng tưởng dần dần bớt đi. Vọng tưởng giảm thiểu thì mới có thể học pháp môn. Khi ấy, quý vị nghe kinh, tôi vừa giảng, quý vị bèn hoát nhiên khai ngộ, đã khai ngộ. Nay quý vị nghe tôi giảng kinh, nghe suốt ba mươi năm vẫn chẳng khai ngộ, do nguyên nhân gì? Vì quý vị có phiền não tồn tại. Trong khi nghe kinh, quý vị đã xen tạp phiền não. Phiền não chướng ngại ngộ môn, nên quý vị chẳng khai ngộ. Nếu quý vị chẳng có phiền não, nói thật thà, nghe kinh vài lần, nhất định khai ngộ. Sau khi đã ngộ bèn chứng quả.

Cổ nhân giáo học, người xuất gia nói “năm năm học giới”. Năm năm học giới chẳng phải là học giới luật, chẳng phải là học Luật Tạng trong Kinh Luật Luận Tam Tạng. Chẳng phải vậy, mà là tuân thủ răn dạy của thầy. Thầy dạy quý vị điều gì? Nói theo Giáo Hạ là dạy quý vị đọc kinh, bảo quý vị làm lụng, điều gì khác cũng đều không dạy. Thường trụ phân công quý vị làm chuyện gì, quý vị hãy chăm chỉ làm, làm lụng là tu phước. Dạy quý vị đọc kinh, mỗi ngày dạy quý vị niệm bao nhiêu lần, đó là tu Giới, Định, Huệ. Tam Học Giới, Định, Huệ được hoàn thành cùng một lượt. Vì lẽ đó, đọc kinh là tu hoàn tất Tam Học Giới, Định, Huệ cùng một lượt. Do vậy, đọc kinh chớ nên suy nghĩ ý nghĩa trong ấy, chớ nên vừa niệm vừa suy nghĩ, suy nghĩ chính là nghĩ tưởng loạn xạ. Vì sao? Vì kinh chẳng có ý nghĩa. Nếu kinh có ý nghĩa, làm sao có thể có hai cách giảng, hoặc rất nhiều cách giảng cho được? Ví như nói “trọn đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”, ở Đài Loan, chúng tôi có cách giảng theo kiểu Đài Loan, quý vị đến Nhật Bản, sẽ có cách giảng theo kiểu Nhật Bản. Quý vị đến Mỹ, sẽ có cách giảng theo Mỹ. Vì sao? Quan niệm xã hội, đạo đức, pháp luật của họ đều chẳng giống chúng ta. Có thể thấy những điều này là nguyên lý, nguyên tắc, chẳng có ý nghĩa. Chẳng có ý nghĩa mà cứ ương ngạnh gán một ý nghĩa cho nó, đó là dấy vọng tưởng, sai bét mất rồi!

Do vậy, kinh điển này vào lúc nào bèn có cách giảng lúc ấy, ở nơi đâu bèn có cách giảng ở nơi đó, chẳng có cách giảng nhất định, chẳng có ý nghĩa nhất định, quý vị học như thế nào? Thật sự biết học là học tâm thanh tịnh, chuyện gì cũng chẳng nghĩ tới, chỉ là niệm miết, chuyện gì cũng đừng dấy vọng tưởng, đến khi người ta mời quý vị giảng kinh, quý vị thấy người bèn nói tiếng người, thấy quỷ liền nói tiếng quỷ, há còn có thể chuẩn bị những thứ ấy ư? Có nhiều người giảng mà viết thật nhiều bút ký, giống như có bệnh nhân đến, thầy thuốc khám bệnh, nhưng toa thuốc đã viết sẵn từ lâu. Quý vị phải sanh bệnh đúng theo toa thuốc của ta thì mới được. Chẳng phải là toa thuốc của ta sai, mà là quý vị sanh bệnh sai bét rồi! Giảng kinh hiện thời là theo kiểu này, họ đã chuẩn bị sẵn sàng, kê sẵn toa thuốc để cho quý vị chữa bệnh. Quý vị ngẫm xem, có thầy thuốc nào kê sẵn toa chờ quý vị đến khám bệnh? Quý vị bèn thật sự hiểu rõ “nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa” trong bài kệ Khai Kinh chẳng đơn giản. Tôi nói lời thật cùng các đồng học, quý vị thật thà tu Giới, Định, Huệ, tu tâm thanh tịnh, tu giác, chánh, tịnh rồi mới mở kinh bổn ra, tự nhiên liền hiểu, tự nhiên nói khế lý, khế cơ, ta và người đều có thọ dụng, đạt được lợi ích chân thật. Câu “phát Bồ Đề tâm” còn chưa giảng xong, lần sau sẽ lại giảng từ câu này.

 

Tập 211

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm hai mươi mốt:

 

(Diễn) Tam giả phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả.

()三者發菩提心,深信因果,讀誦大乘,勸進行者。

(Diễn: Ba là phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả).

Đây là điều thứ ba trong tam phước được nói trong Quán Kinh. Phước thứ ba có tất cả bốn câu, câu đầu tiên là “phát Bồ Đề tâm”. Điều thứ nhất [trong tam phước] là phước nhân thiên, điều thứ hai là phước của Nhị Thừa và Quyền Giáo Bồ Tát, điều thứ ba là phước của Đại Thừa Bồ Tát. Phước của Đại Thừa Bồ Tát khá khó khăn. Không chỉ là [phước của] Đại Thừa Bồ Tát, [mà phước của] nhân thiên và Nhị Thừa đều chẳng dễ dàng, tức là nói đến“hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng” thì hiện thời có mấy ai làm được? Đây là lý do vì sao người học Phật đông đảo, kẻ thành tựu ít ỏi! Nói gọn một câu là “thiếu phước!” Chư vị ngẫm xem, có vị Phật nào chẳng có phước hay không? Chẳng có! Phật là Nhị Túc Tôn, điều thứ nhất trong Nhị Túc Tôn là phước đức. [Nhị Túc Tôn là] phước đức viên mãn và trí huệ viên mãn. Không chỉ riêng Phật là phước đức viên mãn, mà phước báo của Tiểu Thừa A La Hán cũng rất tuyệt diệu. Điều này nêu rõ căn cơ của phước đức là “hiếu thuận cha mẹ, tôn kính sư trưởng”.

“Phát Bồ Đề tâm”: Chúng ta đã phát tâm Bồ Đề hay chưa? Nếu chư vị đọc kinh Kim Cang hoặc Đại Thừa Khởi Tín Luận, sẽ biết: Hễ phát Bồ Đề tâm, bèn là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Vì thế, xếp nó (phát Bồ Đề tâm) vào điều [phước] thứ ba là có lý. A La Hán và Bích Chi Phật chưa minh tâm kiến tánh; nói cách khác, tâm các Ngài chẳng phải là Bồ Đề tâm. Bồ Đề tâm là chân tâm. Bồ Đề (Bodhi) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là giác. Chân tâm mới giác, vọng tâm bất giác. Chư vị bèn hiểu, trong kinh luận, đức Phật thường dạy: A La Hán, Bích Chi Phật, và Quyền Giáo Bồ Tát vẫn là bất giác. Vì sao? Các Ngài dùng tám thức và năm mươi mốt Tâm Sở. Hễ dùng tám thức và năm mươi mốt Tâm Sở thì đều là bất giác, tiêu chuẩn [giác và bất giác] được kiến lập từ chỗ này. Ắt cần phải phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân thì mới là thật sự giác ngộ, giác chứ không mê. Đối với ba môn bất thoái, Tịnh Độ Tông chẳng nói theo kiểu này, nói theo các pháp môn thông thường thì người ấy vừa mới chứng đắc ba môn bất thoái, đấy là phát Bồ Đề tâm. Có thể thấy là phát Bồ Đề tâm chẳng dễ dàng; nhưng muốn thành Phật mà chẳng có Bồ Đề tâm, chắc chắn là chẳng thể thành Phật được. Chư vị nhất định phải biết điều này.

Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát giảng Bồ Đề tâm là trực tâm, thâm tâm, và đại bi tâm. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, đức Phật dạy [Bồ Đề tâm] là chí thành tâm, thâm tâm, và phát nguyện hồi hướng tâm. Hợp chung kinh và luận để xem, [sẽ thấy] ý nghĩa của Bồ Đề tâm vô cùng rõ rệt, hết sức rành rẽ. Nói theo kiểu người Hoa, sẽ là “chân thành đến tột bậc”, đó là chân tâm, chẳng có mảy may hư vọng nào! Có lúc chúng ta cảm thấy cái tâm của chính mình rất kiền thành, rất chân thật, tâm ta luôn chân thành! Chỉ cần quý vị có một niệm “tâm ta rất chân thành”, sẽ là vọng tâm, vì sao? Chân tâm ly niệm! Chân tâm ly niệm tức là chẳng có ý niệm. Hễ có ý niệm thì đều là vọng niệm, lấy đâu ra chân tâm? Có thể thấy chân thành thật sự chẳng dễ dàng. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư nói “vốn chẳng có một vật”. Vốn chẳng có một vật thì ngay cả câu nói ấy cũng chẳng có, [tức là] ngay cả câu “vốn chẳng có một vật” cũng chẳng có. Nói thật ra, Lục Tổ ở Hoàng Mai chính vì Ngài đã phát Bồ Đề tâm, tâm chân thành hiển lộ, cho nên Ngũ Tổ truyền pháp cho Ngài, chẳng truyền cho Thần Tú. Vì sao? Thần Tú dùng tám thức và năm mươi mốt Tâm Sở, vẫn là “thân thị Bồ Đề thụ, tâm như minh kính đài” (thân là cội Bồ Đề, tâm như đài gương sáng), vẫn rớt vào thức thứ sáu, tức là trong Ý Thức, nên sư Thần Tú chẳng đủ tư cách được [Ngũ Tổ] truyền pháp. Nói theo Nho gia, Bồ Đề tâm là “thành ý, chánh tâm”. Nói theo Phật môn thì là thâm tâm và đại bi tâm, tức là đã tách chánh tâm của Nho gia [thành hai tâm] để nói, chánh chứ chẳng tà. Phật pháp tách ra để nói, đối với chính mình thì là thâm tâm, đó là Chánh như Nho gia đã nói. Đối với người khác sẽ là đại từ đại bi, Nho gia cũng gọi điều này là Chánh. Nho gia hợp hai điều này lại để nói, nói gộp lại thành “chánh tâm”. Phật pháp tách chánh tâm của Nho gia thành hai tâm, một là đối với chính mình, hai là đối với người khác.

Vì sao chúng ta chẳng thể phát Bồ Đề tâm? Có đồng tu nào chẳng mong phát Bồ Đề tâm, nhưng phát không nổi! Phát chẳng nổi là vì có chướng ngại. Quý vị chẳng chịu trừ bỏ các chướng ngại ấy, cho nên chẳng thể phát Bồ Đề tâm được! Chướng ngại gì vậy? Trong kinh luận, đức Phật thường nói tới hai thứ chướng: Một là Phiền Não Chướng, hai là Sở Tri Chướng. Chỉ cần quý vị có hai thứ chướng ngại ấy, Bồ Đề tâm vĩnh viễn chẳng thể phát khởi! A La Hán phá một món trong hai thứ chướng, tức là Ngài đã phá Phiền Não Chướng, chưa phá Sở Tri Chướng. Vì thế, chẳng thể phát khởi Bồ Đề tâm! Quyền Giáo Bồ Tát có thể phá Sở Tri Chướng, nhưng chẳng phá Phiền Não Chướng, nên cũng chẳng thấy tâm tánh. Chư vị hãy nghĩ xem: Phá những thứ này khó lắm! Trong Viên Giáo, trước khi đạt đến các địa vị thuộc về Thập Tín Bồ Tát thì đã phá Phiền Não Chướng, chưa phá Sở Tri Chướng, phải đạt đến Sơ Trụ trong Viên Giáo hoặc Sơ Địa trong Biệt Giáo thì mới phá hết cả hai chướng này, chân tâm hiển lộ, khi ấy mới gọi là “phát Bồ Đề tâm”. Đối với Đại Thừa Khởi Tín Luận của Mã Minh Bồ Tát, Đại Thừa Khởi Tín là vừa mới bắt đầu, vừa mới khởi đầu, chẳng phải là rất sâu, tức là Đại Thừa vừa mới nhập môn, kinh Kim Cang cũng giống như vậy. Kinh Kim Cang là Đại Thừa nhập môn, thích hợp căn tánh như thế nào? Người phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân. Tiêu chuẩn của Khởi Tín rất cao, vì là Đại Thừa. Phước thứ ba nói về Đại Thừa.

Phiền não là nói tới Kiến Tư, [tức là] Kiến Hoặc và Tư Hoặc, chẳng thể không đoạn chúng. Nếu chẳng đoạn những thứ ấy, nói thật thà, vãng sanh chẳng có phần trông cậy! Tu các pháp môn khác [mà chẳng đoạn Kiến Tư], chắc chắn chẳng thể thành tựu. Niệm Phật đến khi lâm chung, [nếu] một niệm tình chấp dấy lên, quý vị sẽ chẳng thể vãng sanh được! Có người nói: “Hiện thời tôi hãy còn trẻ, từ bây giờ cho đến lúc vãng sanh hãy còn sớm quá, nay tôi dấy đôi chút vọng tưởng, có đôi chút tình chấp cũng chẳng sao”. Quan niệm ấy sai lầm quá đỗi, buông xuống khi nào? Phải buông xuống ngay trong hiện tại! Hiện thời chẳng thể buông xuống, khi lâm chung, chính mình sẽ chẳng thể làm chủ được! Chúng tôi đã thấy nhiều người suốt đời niệm Phật, đến lúc lâm chung, do chẳng buông xuống được, lâm chung nghiệp chướng hiện tiền, đáng sợ quá! Vì lẽ này, người niệm Phật đông đảo, người vãng sanh đúng là rất ít. Nguyên nhân tuyệt đối chẳng phải là do kinh điển có sai lầm, mà là do bản thân chúng ta hiểu sai ý nghĩa của kinh, chính mình tu hành chẳng đúng pháp, tạo thành lỗi lầm trọng đại!

Lần này, chúng tôi giảng Tam Phước rất tỉ mỉ, vì chúng rất quan trọng, giống như nền tảng khi dựng một căn nhà vậy. Phải tu như thế nào? Xác thực là nói theo pháp môn Tịnh Tông, pháp này được gọi là “đạo dễ hành”, vì so với bất cứ pháp môn nào, pháp này đều dễ dàng hơn. Nhưng cũng chẳng phải là dễ như quý vị tưởng tượng, nó dễ hơn so với các pháp môn khác, vì trong các pháp môn khác, phải đoạn Kiến Tư phiền não, phá Trần Sa phiền não, tối thiểu là phải phá một phẩm vô minh, khó quá! Pháp môn Tịnh Tông chẳng cần phải phá vô minh, mà cũng chẳng bắt buộc đoạn Trần Sa, cũng không ắt phải đoạn Kiến Tư, cho nên quá dễ dàng, nhưng niệm niệm phải tương ứng với A Di Đà Phật. Chẳng đoạn phiền não cũng không sao cả, vẫn có thể vãng sanh. Trong mười hai thời, khởi tâm động niệm đều là A Di Đà Phật, mấy ai có thể làm được? Chúng ta từ sáng đến tối khởi tâm động niệm, quá nhiều vọng niệm, chúng tôi gọi chuyện này là “niệm Phật bị gián đoạn, xen tạp”. Nói thật ra, vì sao quý vị bị gián đoạn? Vì sao bị xen tạp? Quý vị còn chưa hiểu rõ pháp môn này, vẫn chưa thật sự coi trọng nó, đó là hoài nghi. Gián đoạn, xen tạp, hoài nghi quý vị thảy đều có, cho nên công phu niệm Phật chẳng đắc lực!

Người có công phu thật sự đắc lực, nói thật thà, xác thực là người ấy hết thảy đều buông xuống, há có chuyện gì chẳng thể buông xuống? Từ vô lượng kiếp đến nay, đã vô số lần tu học pháp môn này, chẳng có một lần nào có thể thành công, nguyên nhân ở ngay tại chỗ này: Chẳng buông tình chấp xuống được! Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã nói: “Nhân địa bất chân, quả tao vu khúc” (Tu nhân chẳng chân thật, quả sẽ trở thành tà vạy). Chúng ta tu học, tu nhân chẳng chân thật, khuyết điểm ở chỗ này. Vì thế, người học Phật dùng tâm chân thành để niệm câu Phật hiệu này, bèn có cảm ứng với A Di Đà Phật. [Có những kẻ cứ tưởng rằng]: Chúng ta dùng tâm chân thành niệm Phật, còn xử sự, đãi người, tiếp vật thì tâm có giả dối một chút cũng không sao! Suốt ngày từ sáng đến tối, quý vị dùng hai loại tâm, dùng một loại tâm đối với Phật, còn đối với hết thảy chúng sanh lại dùng một loại tâm khác nữa, tức là đối với Phật, tâm quý vị cũng chẳng chân thành. Có lẽ sẽ có kẻ nói: “Nếu ta đối với người khác bằng chân tâm, họ đều lừa gạt ta, chẳng phải là ta bị thua thiệt, mắc lừa ư?” Quý vị đã học Phật, mong cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới mà còn sợ bị thua thiệt, bị gạt gẫm ư? Sẽ chẳng thể đến Tây Phương Cực Lạc thế giới được! Chúng ta thường mong dùng chân tâm mà chẳng dám dùng, mong dùng chân tâm mà sợ dùng! Nguyên nhân ở chỗ này. Bị thua thiệt mấy lần cũng có sao đâu? Bị lừa gạt mấy lượt cũng chẳng đáng kể chi cả! Sau mấy năm, ta sẽ đến Tây Phương Cực Lạc thế giới mất rồi, thế giới này liên can gì đến ta, còn có gì mà chẳng buông xuống được? Điều này có quan hệ quá lớn.

Đối với Bồ Đề tâm, trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã giảng gần gũi rõ rệt nhất, dễ hiểu nhất, dễ lãnh hội nhất. Lão nhân gia bảo: “Chỉ cần chân thành cầu sanh Tịnh Độ, cái tâm ấy là Vô Thượng Bồ Đề tâm”. Chúng ta đối chiếu lời Ngài với những ý nghĩa được nói trong Quán Kinh và Khởi Tín Luận, xem thử Ngài có sai lầm hay chăng? Sau khi so sánh, sẽ cảm thấy Ngẫu Ích đại sư nói chẳng sai tí nào! Thâm tâm là ưa thiện, chuộng đức, một câu A Di Đà Phật là điều lành nhất trong các điều lành, chẳng có gì tốt lành hơn được. Một niệm tâm cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đó là “chỉ ư chí thiện” (an trụ nơi điều thiện tột cùng), cho nên thâm tâm trọn đủ. Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, đó là đại từ đại bi. Cớ sao là từ bi đến tột cùng? Độ chúng sanh được thành Phật đạo ngay trong một đời này! Chúng ta là chúng sanh, cái thân xác thịt của chúng ta do Tứ Đại hòa hợp sanh ra, [nên chúng ta] là chúng sanh. Tình thức của chúng ta do bốn uẩn là Thọ, Tưởng, Hành, Thức hòa hợp. Thân lẫn tâm của chúng ta đều là chúng sanh, chỉ có đại từ đại bi mới độ được chúng sanh là bản thân ta! Nói cách khác, chẳng chân thành cầu sanh Tây Phương, chẳng cần nói là “đối với người khác”, mà là đối với chính mình cũng chẳng có tí xíu từ bi nào, chẳng thể độ chính mình! Hy vọng chư vị hãy tư duy sâu xa ý nghĩa này, hãy chú tâm lãnh hội. Pháp môn Niệm Phật cầu sanh Tây Phương, tuyệt đối chẳng phải là [pháp môn tu tập của] kẻ chỉ lo giải thoát cho riêng mình, tuyệt đối chẳng phải là Tiểu Thừa. Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật đã giảng rành mạch, [người tu tập Tịnh Độ] xác thực là đệ tử bậc nhất của Như Lai. Đây là nói tới tầm trọng yếu của việc phát tâm.

Câu thứ hai, “thâm tín nhân quả” (tin sâu nhân quả). “Tin sâu nhân quả” ở đây càng có ý nghĩa thù thắng hơn nữa. Nói thật ra, [điều này] cũng rất khó hiểu. Vì điều này [áp dụng cho người] đã là Bồ Tát. Không chỉ là Bồ Tát, mà còn là Pháp Thân đại sĩ, thật sự đã phát Bồ Đề tâm, ba tâm đều đã phát trọn vẹn. Đối với ba tâm, quý vị có thể nói là ba tâm theo Khởi Tín Luận cũng được, tức là trực tâm, thâm tâm, chí thành tâm, hay nói ba tâm theo Quán Kinh cũng được, tức là chí thành tâm, thâm tâm, phát nguyện hồi hướng tâm. “Viên” (圓) là viên mãn, thảy đều phát. Người như vậy mà vẫn chưa tin nhân quả ư? Nói thật thà, có ai chẳng tin nhân quả? Phàm phu chẳng tin nhân quả, những kẻ như chúng ta hằng ngày niệm Phật nhưng vẫn chẳng tin nhân quả. Có lẽ quý vị nghe nói như vậy, sẽ cảm thấy rất lạ lùng! Nếu quý vị thật sự tin sâu nhân quả, trong tâm há còn có thị phi ư? Quý vị có còn thấy ưu điểm của họ Trương, khuyết điểm của họ Lý hay không? Chẳng thể nào! Vẫn thích nói những chuyện ấy thì là chẳng tin nhân quả, có thể thấy chuyện này chẳng dễ dàng. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư đã bảo: “Nếu người thật tu đạo, chẳng thấy lỗi thế gian”. Còn thấy lỗi lầm của kẻ khác, sẽ chẳng phải là người tu đạo thật sự. Lão nhân gia nói hay lắm! “Nhược kiến tha nhân phi, tự phi khước thị tả” (Nếu thấy người khác sai, chính mình sai càng nặng). Tục ngữ có câu: “Lai thuyết thị phi giả, tiện thị thị phi nhân” (Kẻ rao chuyện thị phi, chính là gã thị phi). Ai là kẻ gây nên thị phi? Kẻ rêu rao chuyện thị phi chính là phường thị phi! Từ chỗ này, quý vị hãy suy nghĩ, chúng ta đã tin nhân quả hay chưa? Nhân lành, quả lành; nhân ác, quả báo ác. Không chỉ là thân và miệng tạo tác, mà khởi tâm động niệm đều là nghiệp. Kinh Địa Tạng dạy chẳng sai: “Diêm Phù Đề chúng sanh, khởi tâm động niệm, vô bất thị nghiệp” (Chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề, khởi tâm động niệm không gì chẳng phải là nghiệp), tội nghiệp đấy nhé! Mấy ai kinh sợ? Đã sợ sệt thì đã chẳng dám làm, [nhưng ta thấy họ] hằng ngày vẫn tạo tác, có thể thấy là họ có sợ chi đâu! Đây là nói về nhân quả báo ứng trong thế gian.

Câu này (tức câu “tin sâu nhân quả”) tuyệt đối chẳng phải là nói theo thế gian, há có Phật, Bồ Tát nào chẳng biết đạo lý nhân quả thế gian? Không chỉ là chư Phật, Bồ Tát, [ngay cả] Thanh Văn, Duyên Giác cũng đều hết sức thông đạt nhân quả thế gian. A La Hán có năng lực biết năm trăm đời quá khứ và năm trăm đời trong tương lai. Đối với nhân quả báo ứng, các Ngài thật sự thấy quá rõ ràng, há lẽ nào chẳng biết? Do đó, nhân quả ở đây chẳng phải là nhân quả bình phàm, mà là “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Nhân quả như vậy, xác thực là ngay cả rất nhiều vị Pháp Thân đại sĩ cũng chẳng biết. Nếu Pháp Thân đại sĩ đều biết, trong hội Hoa Nghiêm, cần gì Phổ Hiền Bồ Tát phải nhọc công tốn sức dùng mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc? Do vậy có thể biết: Dùng giáo nghĩa của Hoa Nghiêm để xét, địa vị có mức độ thấp nhất trong Viên Giáo là địa vị Tam Hiền vẫn chưa có tín tâm vẹn mười! Bởi lẽ, kinh Hoa Nghiêm có dạy: “Thập Địa Bồ Tát từ đầu tới cuối chẳng lìa niệm Phật”. Bậc đã đăng địa (chứng từ Sơ Địa trở lên) sẽ biết “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Trước khi đăng địa, [các vị Bồ Tát thuộc] Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng còn phải được Phổ Hiền và Văn Thù khuyên dạy, bậc Địa Thượng Bồ Tát mới nghiêm túc niệm Phật. Điều này đã nêu rõ: Nói thật ra, nhân quả quá ư là sâu!

Bồ Tát thuộc địa vị Tam Hiền đều chẳng biết, Đệ Thập Hồi Hướng Bồ Tát đã đoạn ba mươi phẩm trong bốn mươi mốt phẩm vô minh, chỉ còn lại mười một phẩm vô minh, thế mà bậc Bồ Tát thuộc địa vị sâu xa như vậy vẫn chẳng biết “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Chúng ta gọi pháp môn Niệm Phật là pháp khó tin, thật sự chẳng quá lố! Người bình phàm chẳng tin tưởng pháp môn này, chẳng thể tiếp nhận, [đó là chuyện] hết sức bình thường! Ngay cả bậc Thập Hồi Hướng Bồ Tát trong Viên Giáo mà đều chẳng tin tưởng, làm sao họ có thể tin tưởng cho nổi? Nếu họ tin tưởng, chẳng phải là chuyện kỳ quái ư? Do vậy, chẳng tin tưởng là chuyện hết sức bình thường, chẳng có mảy may kỳ quái nào! Có thể thật sự tin tưởng thì phải như kinh Vô Lượng Thọ đã nói, người ấy thiện căn và phước đức trong đời quá khứ quá dầy! Đức Phật đã nói rõ ràng: Trong đời quá khứ, đã từng cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, chẳng kể nổi số! Nhóm vương tử A Xà Thế trong đời quá khứ đã cúng dường bốn trăm ức Phật, bốn trăm ức là một con số đáng kể, nhưng họ vẫn bị mê khi cách ấm, vẫn bị thoái chuyển, tuy phát nguyện “trong tương lai ta thành Phật, cũng phải giống như A Di Đà Phật”. Lời nguyện ấy chẳng có tác dụng to tát gì! Nếu họ chẳng nghiêm túc niệm Phật, tuy phát nguyện ấy, vẫn chẳng thể vãng sanh. Do vậy, thật sự phát khởi tín nguyện kiên cố, nhất tâm trì danh, buông xuống vạn duyên thì phải là như trong kinh đã nói: Trong đời quá khứ, đã từng cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, vượt trỗi vương tử A Xà Thế quá nhiều! Thiện căn sâu dầy như vậy, lại được Tam Bảo gia trì, cho nên đối với pháp môn này, người ấy có thể tin, có thể hiểu, có thể nguyện, có thể hành, bèn thành công. Có thể có được mấy người? Có mấy ai có phước báo to tát ngần ấy? Câu “tin sâu nhân quả” này quả thật chẳng dễ dàng. Chúng ta hãy chú tâm xem xét các đồng tu chung quanh, hãy nghĩ kỹ về bản thân, [sẽ thấy là] đối với mười một câu này, chẳng làm được một câu nào! Một tí phước cũng chẳng có! Làm sao có thể thành công cho được? Trước kia, tôi thường ca ngợi mọi người có phước báo là để cổ vũ, khích lệ, khuyến khích quý vị. Hôm nay tôi nói lời thật, chúng ta phải phản tỉnh sâu sắc, phải nghiêm túc tu phước hòng xây đắp căn cơ! Nói lời thật, những kẻ mới học đều hoảng hồn, chạy tuốt, chẳng dám đến nghe nữa! Vì thế, người thật sự tin tưởng nhân quả, nhất định sẽ khăng khăng một mực, sẽ nhất định là hết sức nghiêm túc nỗ lực học tập.

Câu thứ ba là “độc tụng Đại Thừa” (đọc tụng Đại Thừa). Đọc tụng Đại Thừa là phương pháp tu hành trọng yếu của Bồ Tát. Hạnh môn của Bồ Tát vô lượng vô biên, trong các kinh Đại Thừa, đức Phật cũng nêu lên rất nhiều cương lãnh. Vì sao chỉ nói đơn độc về đọc tụng? Như kinh Vô Lượng Thọ đã nói, [các hạnh môn] có thọ trì, biên chép, cúng dường, cũng nói rất nhiều, vì sao [trong Quán Kinh] chỉ nói đến đọc tụng? Cớ sao chẳng nói tới thọ trì? Vì sao chẳng nói đến biên chép? Vì sao không nói tới cúng dường? Chúng ta liền hiểu: Trong các thứ cương lãnh do đức Phật đã nói, đọc tụng là quan trọng nhất. Mười một câu này, chúng ta chẳng làm được câu nào, nguyên nhân là vì chẳng hiểu rõ chân tướng sự thật. Do đọc tụng, bèn có thể hiểu rõ. Do đọc tụng, sẽ nghiêm túc niệm. Nói thật thà, Bồ Tát từ sơ phát tâm mãi cho đến địa vị Đẳng Giác, trước khi thành Phật, Ngài đọc tụng kinh điển, hằng ngày đều chẳng phế trừ, mỗi ngày đều phải niệm. Đọc tụng là vạn hạnh đều tu, không chỉ là Tam Học Giới, Định, Huệ, hoàn thành Tam Huệ cùng một lúc, mà là vô lượng vô biên pháp môn đều tu viên mãn trong một lúc. Đó gọi là “viên tu”.

Tôi khuyên mọi người đọc tụng, còn có rất nhiều kẻ có ý kiến này nọ, [đó là vì họ] chẳng biết sự xảo diệu của pháp môn này. Kinh điển Đại Thừa quá nhiều. Tại Trung Hoa, Đại Thừa chia thành tám tông phái. Kinh điển để y cứ của tám tông phái toàn là kinh Đại Thừa. Chúng ta niệm kinh nào? Quý vị tu học tông nào, bèn đọc tụng kinh điển của tông đó. Vì sao? Làm như vậy thì giải và hạnh mới có thể tương ứng, thành tựu nhanh chóng. Trong quá khứ, người học Thiên Thai bèn niệm kinh Pháp Hoa. Kẻ học Hiền Thủ bèn đọc kinh Hoa Nghiêm. Thiền Tông niệm kinh Kim Cang. Tịnh Độ Tông niệm kinh A Di Đà và kinh Vô Lượng Thọ. Quý vị học tông nào, bèn chọn lựa kinh điển chủ tu trong tông ấy để đọc tụng. Trong hết thảy các kinh, trong các buổi giảng, chúng tôi thường giới thiệu với mọi người: “Trong hết thảy các kinh, kinh Vô Lượng Thọ bậc nhất”. Kinh Vô Lượng Thọ và kinh A Di Đà thuộc loại đồng bộ, kinh Vô Lượng Thọ bậc nhất, kinh A Di Đà cũng là bậc nhất, cùng một bộ mà! Vì thế, quý vị niệm kinh Vô Lượng Thọ hoặc niệm kinh A Di Đà đều được. Số lượt niệm kinh A Di Đà phải càng nhiều hơn, hoặc là niệm sách Yếu Giải. Ấn Quang đại sư tán thán sách Yếu Giải là bản chú giải hay nhất trong các bản chú sớ kinh A Di Đà xưa nay, là bản chú giải bậc nhất. Tổ Ấn Quang nói: “Dẫu cổ Phật tái lai để soạn chú giải cho kinh A Di Đà, cũng chẳng thể vượt trỗi tác phẩm này được!” Đấy là tán thán bản chú giải ấy đến tột bậc. Do vậy, niệm kinh Di Đà, chúng tôi hy vọng sẽ niệm cùng với Yếu Giải, phân lượng cũng kha khá. Nếu không, kinh văn quá ngắn, thời gian tu học của chúng ta sẽ ngắn ngủi. Tôi vừa mới nói, niệm kinh là Tam Học và Tam Huệ cùng được hoàn thành, thời gian tu hành càng dài càng tốt.

Đọc tụng là tu hành, khi đọc tụng, đừng nên cầu hiểu nghĩa. Hễ cầu hiểu nghĩa, mục đích đọc tụng hoàn toàn bị phá hoại, vì sao? Hễ quý vị dấy lên phân biệt, sẽ rớt vào trong ý thức, sai mất rồi! Nói thật thà, đọc tụng kinh điển là như Thiền gia đã nói “lìa tâm ý thức để tham cứu”. Chúng ta dùng phương cách khác nhà Thiền, nhưng mục tiêu giống hệt, đều là tham Thiền! Chúng ta dùng phương pháp đọc tụng để tham Thiền, đúng là tuyệt diệu đến tột bậc! Tham Thiền là gì? Lìa tâm ý thức bèn gọi là tham (參: tham cứu). Chúng ta đọc tụng, lìa tâm ý thức! Khi đọc tụng, chẳng phân biệt, chẳng dùng thức thứ sáu, tức Ý Thức; không chấp trước là chẳng dùng thức thứ bảy. Một mực niệm miết, chẳng tư duy, suy nghĩ, cũng chẳng giữ lại ấn tượng, tức là chẳng dùng thức thứ tám. Há chẳng phải là lìa tâm ý thức ư? Mắt thấy rõ ràng, niệm câu kinh văn, tai nghe [tiếng niệm] cũng rõ ràng, cũng chẳng sai sót một chữ nào, chẳng niệm đảo lộn câu nào, thưa cùng chư vị, đấy là “bỏ Thức dùng Căn” như Giao Quang đại sư đã nói. Khi ấy, ta dùng căn tánh của sáu căn, dùng tánh Thấy để thấy sắc tánh. Dùng tánh Thấy để thấy, dùng tánh Nghe để nghe, tu hành ở cấp bậc cao đấy nhé! Mấy ai biết? Bỏ thức dùng căn. Ngồi xếp bằng nhìn vào vách bèn có thể bỏ Thức dùng Căn, đọc tụng Đại Thừa cũng có thể bỏ Thức dùng Căn. Đã sử dụng nhuần nhuyễn, bèn có thể vận dụng vào cuộc sống, mặc áo, ăn cơm, đãi người, tiếp vật, thảy đều bỏ Thức dùng Căn, sẽ là một vị Bồ Tát danh phù hợp thực. Quý vị mới hiểu: Đọc tụng Đại Thừa là một phương pháp tu hành trọng yếu của Bồ Tát. Trong mười tông phái, Thiền Tông chỉ là một tông phái, chín tông kia đều thuộc loại Giáo Hạ, đều chẳng rời khỏi kinh điển. Ở chỗ này, đại sư không viết là quán tâm, hoặc tham Thiền, hay tham thoại đầu, mà viết là “độc tụng Đại Thừa”, tức là nói hàng Đại Thừa Bồ Tát y chiếu kinh luận để tu hành chiếm tuyệt đại đa số. Chỉ là phương pháp khác nhau, nhưng tinh thần, phương hướng, mục tiêu toàn bộ đều là tương đồng, đều là bỏ Thức dùng Căn, đều là lìa tâm ý thức, đó là tu hành thật sự. Đọc kinh là tu hành thật sự, bỏ sạch tâm ý thức, đương nhiên là các Tâm Sở tương ứng với tâm ý thức đều chẳng thể khởi tác dụng được!

Do vậy, đọc kinh bèn có thể nhập Định! Nếu quý vị chẳng tin tưởng, có lẽ đã từng nghe kể Trí Giả đại sư niệm kinh Pháp Hoa bèn nhập Định. Nếu Ngài dùng tâm ý thức để đọc, làm sao có thể nhập Định cho được? Ngài đọc kinh Pháp Hoa có thể nhập Định, vì sao chúng ta niệm kinh chẳng thể nhập Định? Chúng ta dùng cái tâm ý thức để niệm, nên chẳng thể nhập Định, còn người ta lìa tâm ý thức để niệm. Đó là Ngài niệm bằng phương pháp và nguyên tắc mà tôi vừa mới nói, Ngài niệm đến phẩm Dược Vương Bổn Sự bèn nhập Định. Trong Định, Ngài có cảm ứng. Ngài tham dự pháp hội giảng kinh Pháp Hoa của Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài còn nghe hết một thời, xuất Định bảo với người khác: “Thích Ca Mâu Ni Phật trụ tại núi Linh Thứu, một hội Linh Sơn vẫn chưa tan!” Ngài đích thân tham gia. Nói thật ra, mỗi lần pháp hội của Thích Ca Mâu Ni Phật đều chẳng giải tán, vấn đề là quý vị có năng lực tham dự hay không? Pháp hội Di Đà của Thích Ca Mâu Ni Phật cũng không tan, pháp hội kinh Vô Lượng Thọ cũng không tan, tùy thuộc quý vị có năng lực đích thân gặp gỡ pháp hội của đức Thế Tôn hay không? Do không hiểu rõ [ý nghĩa của việc] đọc tụng Đại Thừa, nên họ chẳng muốn niệm, thật sự là do trí huệ nông cạn, ít ỏi, chẳng biết chân tướng sự thật. Niệm đến mức tâm thanh tịnh, niệm đến mức Định Huệ thành tựu, niệm đến mức phá vô minh thấy Pháp Thân, người ấy vẫn niệm, dẫu chứng đến quả vị Đẳng Giác Bồ Tát, người ấy vẫn niệm hằng ngày, từ đầu đến cuối chẳng hề rời lìa. Phương pháp tu hành là như vậy đó.

Trong Tịnh Tông, có lẽ có rất nhiều đồng học đã từng nghe nói có người chẳng hề niệm kinh, chỉ niệm đơn độc một câu Phật hiệu mà thành tựu, chẳng sai! Chỉ niệm một câu Phật hiệu là ai? Người đề xướng đầu tiên là Đại Thế Chí Bồ Tát. Đối với Ngài, một câu A Di Đà Phật, hoặc câu “nam-mô A Di Đà Phật” cũng đều là lìa tâm ý thức. Nếu không lìa tâm ý thức, có gì để gọi là tu hành? Chẳng lìa tâm ý thức, có thể nào “chẳng nhờ vào phương tiện, tự được tâm khai” cho được? Chẳng có đạo lý này! Chư vị phải biết: Niệm một câu Phật hiệu cũng là lìa tâm ý thức mà niệm!

Niệm kinh, niệm Phật là như thế, mà nghe kinh vẫn giống hệt như thế. Mọi người nghe kinh chẳng khai ngộ, vì sao chẳng khai ngộ? Dùng cái tâm ý thức để nghe, đừng nói là suốt một đời này chẳng khai ngộ, mà là đời đời kiếp kiếp, nghe đến vô lượng A-tăng-kỳ kiếp vẫn chẳng khai ngộ! Trong Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát đã nói rất rõ ràng, người nghe kinh phải nghe như thế nào? Lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên. Lìa tướng ngôn thuyết là lìa khỏi thức thứ sáu, tức Ý Thức. Lìa tướng danh tự là lìa thức thứ bảy. Lìa tướng tâm duyên là lìa thức thứ tám, vẫn chẳng phải là bỏ thức dùng căn ư? Đây là đã chỉ dạy rõ rệt cho chúng ta biết: Nghe kinh cũng phải lìa tâm ý thức. Tâm là thức thứ tám, ý là thức thứ bảy, tức Mạt Na thức, “thức” là thức thứ sáu. Nghe kinh cũng phải lìa tâm ý thức để nghe.

Nói thật thà, lìa tâm ý thức là tu hành. Nghe kinh là tu hành. Đọc kinh là tu hành. Niệm Phật là tu hành. Tu cái hạnh gì vậy? Bỏ sạch tâm và Tâm Sở, nhà Thiền gọi chuyện này là “tu từ căn bản”. Chúng ta biết tư tưởng, kiến giải, ngôn ngữ, và tạo tác của chính mình đều phạm lầm lỗi, cội nguồn của lầm lỗi ở chỗ nào? Cội nguồn là tâm và Tâm Sở. Do đó, phương pháp tu hành này là nhổ tận rễ, ngay cả rễ cũng nhổ sạch. Do vậy có thể biết, tuyệt đối chẳng phải chỉ có Thiền gia tu từ căn bản! Thiền Tông thường khinh rẻ Giáo Hạ, khi dễ Tịnh Độ, họ chẳng hiểu “pháp môn bình đẳng, chẳng có cao thấp”. Quý vị dùng phương pháp tham cứu, quán tâm để tu từ căn cội, Giáo Hạ dùng đọc tụng, Niệm Phật dùng chấp trì danh hiệu, cũng là tu từ căn bản, chẳng kém quán tâm, không thua tham thoại đầu. Hễ xem thường người khác, người ấy có thể thành tựu hay chăng? Chắc chắn là kẻ ấy sẽ chẳng thể thành tựu. Vì sao? Vì trong chân tâm chẳng có phân biệt, chẳng có chấp trước, thì lấy đâu ra thói khinh dễ người khác? Có phân biệt, có chấp trước, nên mới khinh dễ! Do vậy có thể biết, dẫu kẻ ấy tham Thiền giỏi cỡ nào đi nữa, do chưa lìa khỏi tâm ý thức, bất luận kẻ ấy tham Thiền kiểu nào đi nữa, vẫn chẳng thể khai ngộ. Đắc Thiền Định thì có thể, vì sao? Dùng tâm ý thức có thể đắc Thiền Định. Tứ Thiền, Bát Định, hoặc Cửu Thứ Đệ Định của A La Hán đều dùng tâm ý thức để tu, đều chẳng lìa tâm ý thức. Lìa tâm ý thức là thượng thượng Thiền; A La Hán và Bích Chi Phật chẳng thể chứng đắc [loại Thiền này].

Nếu quý vị thật sự hiểu, kẻ tham Thiền cười chê quý vị, quý vị vẫn chắp tay “A Di Đà Phật”, chẳng so đo cùng kẻ ấy. Vì sao? Trong tâm chúng ta hiểu rành rẽ, rõ ràng. Gặp phải kẻ bên ngoài chê bai chúng ta là kẻ chỉ lo giải thoát cho riêng mình, quở chúng ta là Tiểu Thừa, chúng ta cũng hoan hỷ “A Di Đà Phật” để tiếp nhận, chẳng cần phải so đo, chẳng cần phải biện bác cùng kẻ ấy. Đúng như Lục Tổ đã nói: “Thấy căn tánh thích hợp, có thể nói với kẻ đó, thì mới có thể nói với họ”. Thấy kẻ ấy căn tánh kém cỏi, chẳng thể nói được, bèn chắp tay khiến cho kẻ đó hoan hỷ là được rồi, chẳng cần phải tranh luận với bất cứ ai! Tranh luận chắc chắn là trái nghịch Phật pháp! Phật pháp là pháp giác ngộ, tranh luận chắc chắn là mê hoặc, điên đảo. Chỉ có kẻ mê mới tranh chấp, người ngộ sẽ chẳng tranh! Trong tâm của kẻ mê mới có ý kiến, trong tâm người ngộ bèn chẳng có ý kiến. Tâm người đã ngộ sạch làu làu, thứ gì cũng chẳng có, vốn chẳng có một vật. Hễ trong tâm còn có cả đống thứ thì là chưa ngộ!

Câu này nói rõ một phương pháp trọng yếu trong nhiều phương pháp tu hành của Bồ Tát, nay đã bảo rõ cùng quý vị. Nếu thật sự niệm kinh điển mà lìa tâm ý thức để niệm, quý vị có thể đắc Định, có thể khai ngộ. Nếu niệm chẳng ít năm, niệm chẳng ít lần: “Cớ sao ta vẫn chưa đắc Định? Cớ sao vẫn chưa khai ngộ?” Tôi biết suốt một đời này, quý vị sẽ chẳng thể đắc Định, chẳng thể khai ngộ. Vì sao? Vì quý vị chẳng lìa tâm ý thức! Vẫn dùng tâm ý thức để niệm. Lìa tâm ý thức là một mực niệm mãi, niệm lần này sang lần khác, trọn chẳng dấy lên một vọng niệm nào, công phu thành thục, nước chảy thành giòng, tự nhiên đắc Định, tự nhiên khai ngộ, đến lúc đó sẽ hoát nhiên thông đạt. Trong tâm thường suy tưởng: “Khi nào ta sẽ khai ngộ? Khi nào đắc Định?” Toàn là dấy vọng tưởng, trong đọc tụng bèn chêm vào vọng tưởng, vọng tưởng ấy chính là chướng ngại. Có người niệm Phật, phát tâm cầu nhất tâm bất loạn, người ấy chắc chắn chẳng thể đắc nhất tâm bất loạn trong một đời này. Vì sao? Trong [khi niệm] A Di Đà Phật, đã xen tạp nhất tâm bất loạn, hỏng bét! Bảo quý vị đừng xen tạp, mà [quý vị vẫn] còn xen lẫn nhất tâm bất loạn. Hết thảy sai lầm, hết thảy những nhân tố khiến chẳng thành tựu, từng điều từng điều một đều phải tìm cho ra. Sau khi đã tìm ra, thảy đều tiêu trừ, chướng ngại của chúng ta sẽ chẳng còn nữa, có nghĩa là nghiệp chướng đã tiêu trừ.

Nói thật thà, [để tiêu trừ] nghiệp chướng, chẳng phải là nói quý vị hãy lạy Lương Hoàng Sám, lạy Thủy Sám, lạy Đại Bi Sám, nghiệp chướng sẽ tiêu sạch. Chẳng tiêu được đâu nhé! Người thuở trước bái sám bèn có thể tiêu trừ, người hiện thời chẳng tiêu được! Người thuở trước niệm kinh có thể tiêu nghiệp chướng, người hiện thời niệm kinh chẳng thể tiêu nghiệp chướng. Người thuở trước niệm A Di Đà Phật bèn tiêu nghiệp chướng, người hiện thời niệm A Di Đà Phật cũng chẳng thể tiêu nghiệp chướng. Quý vị có biết nguyên nhân hay không? Dùng tâm ý thức sẽ chẳng thể tiêu nghiệp chướng. Lìa tâm ý thức, nghiệp chướng bèn tiêu trừ, nguyên nhân ở chỗ này. Quý vị phải hiểu nghiệp chướng là gì? Nghiệp chướng là phân biệt, chấp trước. Dùng phân biệt, chấp trước thì làm sao có thể lìa khỏi phân biệt, chấp trước cho được? Vẫn là chớ nên nghe sai lời này. Hễ nghe sai, sẽ phạm lầm lỗi càng to hơn nữa! Kẻ ấy [nghe nói] “chẳng phân biệt, không chấp trước”, được rồi! [Vậy thì] cha con cũng chẳng phân biệt, nam nữ cũng chẳng phân biệt. Há có được chăng? Quý vị đánh giặc, mà ngay cả kẻ địch và người nhà của chính mình còn chẳng phân biệt được, hỏng bét, đã phạm sai lầm to đùng! Trong tâm của chính mình quả thật là chẳng có phân biệt, nhưng trong cuộc sống hằng ngày, thuận theo sự phân biệt của chúng sanh mà phân biệt, thuận theo sự chấp trước của chúng sanh mà chấp trước, chính mình có [phân biệt, chấp trước] hay chăng? Chính mình quyết định chẳng có. Đó là đúng. “Phật pháp trong thế gian, chẳng hoại pháp thế gian”, pháp thế gian là phân biệt, chấp trước, trọn chẳng phá hoại sự phân biệt và chấp trước của chúng sanh. Chúng sanh có phân biệt, chấp trước thì họ mới có thể kiến lập trật tự xã hội, thế gian mới không đến nỗi loạn tùng phèo! Nếu chúng ta thật sự phân biệt, chấp trước, sai mất rồi, sẽ vĩnh viễn chẳng thể vượt thoát thế gian. Lìa khỏi hết thảy phân biệt, chấp trước, bèn vượt thoát thế gian. Do đó, nhất định phải hiểu rõ chỗ này, chớ nên hiểu lầm.

Trọng điểm của câu này vẫn là khuyến khích, cổ vũ chúng ta phải nghiêm túc đọc tụng, phải biết đọc tụng như thế nào thì mới có thể thu được lợi ích chân thật. Trong mười một câu [Quán Kinh giảng về tam phước] đến chỗ này, mười câu đầu đều là tự lợi, đều thuộc loại tự hành; chỉ có câu cuối cùng là lợi tha, tức là hóa độ người khác. Tự hành hóa tha thì mới là Bồ Tát. Chuyện hóa độ người khác chẳng đơn giản, công đức tự hành đã viên mãn thì mới hóa độ người khác. Hiện thời, có những kẻ trẻ tuổi, công đức tự hành còn chưa có, mà đã nóng lòng đi hóa độ kẻ khác, tâm thật sự là tốt lành, thật sự giống như Địa Tạng Bồ Tát xả thân vì kẻ khác: “Ta chẳng vào địa ngục, ai xuống địa ngục?” Họ thật sự vào địa ngục. Người ấy xuống địa ngục chẳng có lợi gì cho ai cả, Địa Tạng Bồ Tát xuống địa ngục có lợi cho chúng sanh, còn kẻ ấy xuống địa ngục rất oan uổng, chẳng độ được một chúng sanh nào hết!

Chư vị hãy niệm cẩn thận mười một câu này, sẽ thật sự hiểu rõ: Hóa độ chúng sanh chẳng phải là chuyện dễ dàng! Đó là làm người chỉ đường. Nếu quý vị chỉ sai phương hướng và đường nẻo, sẽ làm sao đây? Người biết khuyên người khác, [nếu] chính mình chưa có thành tựu, hãy khuyên người khác niệm A Di Đà Phật, khuyên người ta niệm kinh A Di Đà hoặc niệm kinh Vô Lượng Thọ, chắc chắn sẽ chẳng sai lầm. Vì sao? Đức Phật khuyên người ta như vậy! Chúng ta cũng học theo, vậy thì sẽ chẳng sai lầm, tuyệt đối sẽ chẳng gây sai lầm cho người khác. Dẫu chẳng nói rõ ràng, cũng chẳng có hại gì cho người ấy. Dẫu người ấy niệm Phật chẳng thể vãng sanh, nhưng sẽ chẳng đọa trong ác đạo. Nếu người ấy đọa vào ác đạo, nhất định là do các nhân tố khác mà đọa ác đạo, tuyệt đối chẳng thể nói “do niệm Phật mà đọa ác đạo”, chẳng có lẽ ấy! Vì vậy, khuyên kẻ khác niệm Phật, khuyên người khác niệm kinh Vô Lượng Thọ, niệm kinh A Di Đà, sẽ không sai lầm! Khuyên người khác niệm kinh luận khác, sẽ có đôi chút vấn đề. Vấn đề gì vậy? Sợ là pháp môn ấy chẳng khế cơ. Giống như người bị bệnh, quý vị giới thiệu thuốc cho họ uống, phải chịu trách nhiệm. Quý vị chẳng biết rõ bệnh tình của người ta, cũng chẳng hiểu rõ dược tánh, chỉ thấy người khác mắc bệnh, do uống thuốc ấy bèn lành. Quý vị thấy vậy, người này ngã bệnh, ngay lập tức đem thuốc ấy cho người ta uống. Người ta mắc bệnh khác hẳn, vừa uống vào bèn chết tươi! Quý vị có phải lãnh trách nhiệm hay không? Chẳng phải là chuyện dễ dàng!

Vì lẽ này, ở đây, tôi khuyến cáo các đồng tu, hễ thấy có người bị bệnh, tốt nhất là khuyên người ta đi khám bác sĩ, chớ nên dễ dãi coi thường giới thiệu, đem thuốc đã chế sẵn cho người ấy uống. Thật đấy! Rất nhiều vị pháp sư đã bị tín đồ hại chết. Đích thân tôi trông thấy pháp sư Đạo An đã bị tín đồ thuốc chết, trúng độc mà chết. Tín đồ quá yêu mến thầy, tặng thuốc này, biếu thuốc kia, đều là thuốc tốt, kết quả là thầy uống vào chết đứ đừ! Tôi tương đối thông minh, bất cứ thuốc nào của người khác tặng cho tôi, tôi đều nhận lấy, hôm sau vứt vào giỏ đựng giấy vụn. Tôi cũng chẳng thể tặng cho người khác, tặng cho người khác sẽ hại chết họ, làm thế nào đây? Vì thế, đều coi như rác rưởi. Tôi thưa cùng quý vị, lần sau đừng tặng thuốc nữa, mua những thuốc tốt lành thật sự rất nổi tiếng, đắt tiền, tôi đều coi chúng như rác rưởi. Vì sao? Vạn nhất uống vào bị bệnh thì làm thế nào đây? Ai chịu trách nhiệm? Bởi lẽ, chẳng thể tùy tiện uống thuốc được!

Các pháp môn trong Phật pháp chẳng thể tùy tiện giới thiệu loạn xạ cho người khác được, nhưng A Di Đà Phật thì có thể giới thiệu, pháp này có năng lực thích ứng rất rộng rãi, bệnh gì cũng đều có thể dùng, chỉ có lợi, chẳng có hại, giống như vạn kim du[102], hoặc bát quái đan[103], [giới thiệu pháp này cho bất cứ ai] đều có thể được! Dẫu chẳng thể chữa lành, cũng chẳng khiến cho bệnh tình nặng thêm. Do đó, pháp này là vạn ứng đan (thuốc viên thích hợp cho mọi loại bệnh), giới thiệu pháp này chẳng hại người. Giới thiệu những pháp khác, nếu chẳng khế cơ, sẽ làm hại người ta!

“Khuyến tấn hành giả”: Hành giả là người tu hành. [Khuyến tấn hành giả] là khuyên người ta học Phật, khuyên họ tu hành, giúp họ tiến bộ, giúp họ tinh tấn, chuyện này đòi hỏi phải có trí huệ. Chúng ta thấy bên ngoài có rất nhiều kẻ khuyên người khác tham Thiền, khuyên người ta học Mật, khuyên kẻ khác niệm chú, gặp ai cũng đều khuyên như vậy, rất nguy hiểm! Tâm người ấy cũng rất tốt đẹp, chẳng thể nói là người ấy có tâm hại người, chẳng phải vậy! Người ấy đúng là có lòng tốt, nhưng đích thực là chẳng biết chân tướng sự thật, chẳng liễu giải pháp môn, chẳng liễu giải căn tánh của chúng sanh, cứ mù quáng khuyên bảo người khác, vô cùng nguy hiểm! Dẫu chẳng phải là cố tình tạo tội, nhưng lỗi lầm cũng rất nặng, quyết định là có lỗi lầm. Khuyên người ta học Phật còn khó khăn như vậy, khuyên người khác xuất gia càng chẳng dễ dàng, chịu trách nhiệm càng lớn hơn nữa. Người ấy xuất gia trong tương lai là một vị pháp sư tốt lành, tu hành chứng quả, hoằng pháp lợi sanh, như vậy thì công đức của quý vị quá lớn, vô lượng vô biên! Nếu kẻ ấy trong tương lai sau khi đã xuất gia, sẽ khiến cho Phật môn bị nhục nhã, tạo tác trọng tội, tạo tội nặng gấp bội người thế gian tạo tội nghiệp, thử hỏi quý vị có phải chịu trách nhiệm hay không? Quý vị phải chịu trách nhiệm! Há có nên dễ dãi khuyên người khác xuất gia ư?

Suốt cả một đời, thầy Lý giảng kinh ở Đài Trung hơn bốn mươi năm, chưa bao giờ thầy Lý khuyên người khác xuất gia. Thầy có ba điều không khuyên: Thứ nhất, không khuyên người khác ăn chay. Thứ hai, chẳng khuyên người khác thọ giới. Thứ ba, không khuyên người ta xuất gia. Đó là chuyện của chính quý vị, chính quý vị phát tâm, đối với chuyện này, thầy quyết định chẳng khuyên. Quý vị khuyên người khác ăn chay, có người muốn học Phật, nhưng do chẳng thể ăn chay, người ấy sẽ chẳng đến học. Quý vị cứ nhất định khuyên người ta ăn chay, lần sau họ sẽ không dám đến nữa. Vì thế, thầy chẳng khuyên người khác ăn chay. Thọ giới thì thọ giới dễ dàng, trì giới khó khăn. Vì thế, suốt một đời, thầy chẳng khuyên người khác thọ giới. Chẳng khuyên người khác xuất gia là tuyệt đối chánh xác. Thật sự có huệ nhãn, thật sự hiểu rõ người ấy, cảm thấy người ấy sau khi xuất gia sẽ xác thực là một nhân tài, trong tương lai nhất định có thể hoằng pháp lợi sanh, hoằng dương Phật pháp; thấy chuẩn xác thì mới có thể khuyên kẻ ấy. Sau khi đã xuất gia, cơ duyên cũng khá khó khăn, có gặp được một đạo tràng thật sự tu học hay không? Có gặp một vị thiện tri thức thật sự hay không? Có đồng tham đạo hữu tốt đẹp hay không? Đó là những nhân tố quyết định sự thành bại của người đó. Rất khó! Nếu quý vị đều thấy những vấn đề này, chắc chắn là chẳng dám khuyên người khác xuất gia.

Đến đây là đã giới thiệu xong Tam Phước. Lần này, tôi giảng khá tỉ mỉ cùng mọi người, có trọn hết ý hay không? Còn kém rất xa! Mười một câu này sâu rộng như biển cả, những gì tôi có thể giảng là một giọt nước trong biển cả. Chư vị hãy đọc tụng kỹ càng, suy nghĩ cặn kẽ hòng thấu hiểu: Những điều này xác thực là cơ sở để học Phật, bất luận quý vị học tông nào hay pháp môn nào, trọn chẳng phải là hoàn toàn [chỉ để] nói với người tu Tịnh Độ! Vì sau đó, đức Phật đã nói rất rõ ràng:

 

(Diễn) Thử tam chủng nghiệp, thị tam thế chư Phật, Tịnh nghiệp chánh nhân.

()此三種業,是三世諸佛,淨業正因。

(Diễn: Ba nghiệp này là chánh nhân tịnh nghiệp của tam thế chư Phật).

Do câu này, chúng ta hiểu phạm vi của Tam Phước vô cùng rộng: Bất luận quý vị tu học pháp môn nào, đều chẳng lìa nguyên tắc này. Tam Phước là chánh nhân Tịnh nghiệp của hết thảy chư Phật. Nói cách khác, đây là khoa mục cơ bản ắt phải tu của hết thảy chư Phật, làm sao chúng ta có thể coi thường cho được? Đoạn này nhằm giải thích câu “Tịnh nghiệp tam phước” được nhắc tới trong Sớ Sao. Một dòng tiếp theo nhằm giải thích sự hòa hợp dung hội của Liên Trì đại sư đối với hai cách nói khác nhau của ngài Linh Chi và Hải Đông, đại sư nói [như sau]…

 

(Sao) Hoàn dĩ trì danh vi chánh hạnh, phục dĩ trì danh vi phát Bồ Đề tâm.

()還以持名為正行,復以持名為發菩提心。

(Sao: Đã coi trì danh là chánh hạnh, lại còn coi trì danh là phát Bồ Đề tâm).

Cách nói này, có sự hay khéo “tuy diễn tả khác biệt, nhưng có cùng một công dụng” như cách nói của Ngẫu Ích đại sư, thật sự là hay khéo.

 

(Diễn) Hoàn dĩ trì danh vi chánh hạnh, thị thủ Linh Chi nhất bán. Phục dĩ trì danh vi phát Bồ Đề tâm, thị thủ Hải Đông nhất bán, đồng quy chấp trì danh hiệu, tắc hòa hội kỳ nghĩa dã.

() 還以持名為正行 ,是取靈芝一半 ;復以持名為發

菩提心,是取海東一半。同歸執持名號,則和會其義也。

(Diễn: “Đã coi trì danh là chánh hạnh” tức là lấy một nửa thuyết của ngài Linh Chi, “lại coi trì danh là phát Bồ Đề tâm”, tức là lấy một nửa thuyết của ngài Hải Đông. Cùng quy vào chấp trì danh hiệu, là hòa hợp, dung hội các ý nghĩa ấy).

Cách nói này hay khéo, vì sao? Nói thật ra, phát Bồ Đề tâm và trì danh có mối quan hệ mật thiết. Nói thật thà, Bồ Đề tâm là đại triệt đại ngộ. Chẳng phải là đại triệt đại ngộ, lẽ nào chịu trì danh? Đã nghiêm túc trì danh thì sự trì danh ấy ắt cần phải chẳng hoài nghi, không gián đoạn, không xen tạp. Thật sự đạt được cảnh giới này, nhất định sẽ là triệt để giác ngộ. Do đó, cách hòa hợp dung hội này hết sức thích đáng! Nay chúng ta niệm câu Phật hiệu này chẳng tốt đẹp là do thiếu khuyết Bồ Đề tâm. Nếu lý giải bộ kinh luận này ở một mức độ kha khá, quý vị sẽ khăng khăng một mực niệm Phật, niệm đến một giai đoạn [nào đó], Bồ Đề tâm sẽ hiện tiền. Niệm đến giai đoạn nào? Niệm đến mức nhất tâm bất loạn. Sự nhất tâm bất loạn thì quý vị có thiện căn và phước đức vượt trỗi A La Hán. Lý nhất tâm bất loạn bèn chứng đắc Pháp Thân đại sĩ. Vì lẽ này, Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói rất hay: “Chẳng cậy vào phương tiện, tâm được tự khai”. Tâm khai là cảnh giới đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, cũng là Pháp Thân đại sĩ. “Chẳng nhờ vào phương tiện” là không cần cậy vào phương pháp nào khác, mà là một câu Phật hiệu niệm tới cùng.

Niệm kinh cũng giống hệt như vậy. Người thích niệm kinh bèn niệm kinh, người chuộng niệm Phật bèn niệm Phật. Người niệm Phật cũng chớ nên nói kẻ niệm kinh là sai lầm, người niệm kinh cũng đừng nói kẻ niệm Phật sai be bét! Đều là đúng, ai sai? Nói người khác là sai lầm, tức là quý vị vẫn đang có phân biệt, chấp trước, chẳng hiểu rõ chân tướng sự thật, đúng là sai lầm! Bất luận là niệm kinh hay niệm Phật, nói chung đều phải niệm đến mức không xen tạp, không gián đoạn, không hoài nghi. Niệm Phật hiệu là như thế, mà niệm kinh cũng là như thế. Vừa niệm kinh, vừa suy tưởng loạn xạ, không được rồi!

Do vậy, tôi khuyên các đồng tu mới học hãy nên thực hiện bằng niệm kinh, vì niệm kinh sẽ cảm nhận vọng niệm của chính mình dễ dàng. Niệm Phật mà một câu Phật hiệu miệng cứ liến láu niệm qua, có dấy lên một hai vọng tưởng, xen tạp vọng tưởng vẫn chẳng biết. Niệm kinh thì xen tạp vọng tưởng sẽ phát giác dễ dàng, vì một vọng niệm nẩy lên, sẽ niệm kinh trật lất! Trong nửa năm đầu mới tu, chỉ cần quý vị niệm kinh nhuần nhuyễn, trong khi niệm bị xen tạp vọng tưởng chẳng sao cả! Nửa năm sau, hy vọng mọi người niệm kinh phải theo đúng đường lối tu hành, đường lối tu hành ở chỗ nào? Là quý vị niệm kinh, hễ niệm sai một câu, lần niệm ấy chẳng tính, niệm lại từ đầu. Niệm xong bộ kinh này từ đầu đến cuối chẳng có một vọng niệm nào, đó là công phu. Nếu trong thời gian đầu thì nhất định là cả ngày quý vị chẳng niệm xong một bộ kinh, vì sao? Niệm niệm đều dấy lên vọng niệm, chắc chắn là một bộ kinh quý vị niệm chẳng xong! Do đó, trong nửa năm đầu, hy vọng quý vị niệm thuần thục, có dấy vọng tưởng cũng chẳng sao. Sau khi đã thuần thục, quyết định là chớ nên có vọng tưởng, đó gọi là công phu! Công phu ấy sẽ kiên cố hơn công phu niệm Phật, mà cũng khó nhiếp tâm hơn so với khi niệm Phật. Dẫu sao [thời gian] niệm [một câu] Phật hiệu rất ngắn, nhất là một câu Phật hiệu bốn chữ A Di Đà Phật quá dễ dàng, có dấy vọng tưởng thì câu kế tiếp vẫn là A Di Đà Phật, quý vị nói xem có xen tạp hay không? Khi quý vị đọc kinh, hễ có một vọng niệm bèn chẳng tính lần niệm ấy, lại bắt đầu từ đầu, quý vị liền biết là phải khó hơn niệm Phật hiệu nhiều lắm, nhưng nói theo phía người tu hành, công đức và lợi ích ấy xác thực là vượt trỗi [công đức và lợi ích do trì niệm] Phật hiệu. Thoạt đầu, hy vọng là dùng công phu này để thật sự đạt được tâm địa thanh tịnh. Dùng công phu này để huấn luyện trong một khoảng thời gian, [sao cho] vọng niệm chẳng sanh, sau đó, quý vị chẳng đọc kinh nữa, chỉ niệm A Di Đà Phật. Câu A Di Đà Phật cũng chẳng xen tạp vọng niệm, công phu thành tựu, quyết định vãng sanh. Lúc lâm chung chẳng ngã bệnh, biết trước lúc mất, muốn ngồi mất hay đứng mất đều tự tại! Thích ra đi như thế nào bèn đi như thế ấy. Bảo với quý vị chân tướng sự thật này, hy vọng mọi người sẽ nghiêm túc nỗ lực. Hôm nay, chúng tôi giảng tới chỗ này!

 

Tập 212

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm hai mươi mốt:

 

(Sao) Thiện căn giả, Quán Kinh, tắc như thượng đệ tam phước phát Bồ Đề tâm, Đại Bổn, tắc tam bối vãng sanh, giai ngôn phát Bồ Đề tâm. Cứ thử, tắc phát phàm phu tâm, thị vị vô thiện căn. Phát Thanh Văn tâm, bất phát Bồ Đề tâm giả, thị vị thiểu thiện căn dã.

()善根者,觀經,則如上第三福發菩提心;大本,則三輩往生,皆言發菩提心。據此,則發凡夫心,是謂無善根;發聲聞心,不發菩提心者,是謂少善根也。

(Sao: Thiện căn: Theo Quán Kinh thì là “phát Bồ Đề tâm” trong phước thứ ba. Theo Đại Bổn thì đối với ba bậc vãng sanh đều nói là “phát Bồ Đề tâm”. Dựa theo đó, hễ phát khởi cái tâm phàm phu sẽ gọi là “chẳng có thiện căn”. Phát tâm Thanh Văn, chẳng phát tâm Bồ Đề, sẽ được gọi là “ít thiện căn”).

Trong phần giải thích, trước hết là để giải thích “thiện căn”, sách Diễn Nghĩa bèn trích dẫn kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật và kinh Vô Lượng Thọ. Đại Bổn là kinh Vô Lượng Thọ. Nói theo hai bộ kinh ấy. Đối với ba phước trong Quán Kinh, câu đầu tiên trong phước thứ ba là “phát Bồ Đề tâm”. Theo kinh Vô Lượng Thọ, ba bậc vãng sanh đều là “phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm”. Căn cứ trên những điều đã nói trong hai bộ kinh, phát Bồ Đề tâm là thiện căn thật sự. “Phát phàm phu tâm” là chẳng có thiện căn. Phát phàm phu tâm là gì vậy?

 

(Diễn) Phát phàm phu tâm giả, tu Ngũ Giới, Thập Thiện, cầu sanh nhân đạo thiên trung đẳng, thị vị “vô thiện căn” giả.

()發凡夫心者,修五戒十善求生人道天中等,是謂無善根者。

(Diễn: Phát phàm phu tâm là tu Ngũ Giới, Thập Thiện, cầu sanh trong nhân gian hoặc cõi trời, sẽ được gọi là “chẳng có thiện căn”).

Cầu mong sẽ được sanh vào nhân gian hay cõi trời, bèn gọi là “chẳng có thiện căn”.

 

(Diễn) Dĩ Thập Thiện đẳng, thị tam giới hữu lậu nhân quả, bất xuất luân hồi cố.

()以十善等,是三界有漏因果,不出輪迴故。

(Diễn: Do Thập Thiện v.v… là nhân quả hữu lậu trong tam giới, chẳng thoát khỏi luân hồi).

Ngàn vạn phần chúng ta đừng xem thường điều này. Vì sao? Hãy rất lắng lòng, rất chú tâm phản tỉnh đôi chút, [xét thử xem] nay chúng ta đang phát cái tâm gì vậy? Vì sao người niệm Phật đông đảo, kẻ vãng sanh ít ỏi? Nói thật ra, rất nhiều kẻ niệm Phật đã phát khởi cái tâm phàm phu, chẳng hề phát Bồ Đề tâm. Tuy mỗi ngày đều niệm kệ hồi hướng: “Nguyện sanh Tây Phương tịnh độ trung” (Nguyện sanh về cõi Tịnh Độ nơi phương Tây). Đó là phát tâm ngoài môi mép, trong lòng chẳng thật sự mong vãng sanh. Bởi lẽ, Bồ Đề tâm ngoài cửa miệng vô dụng! Phải thật sự phát tâm nguyện sanh về Tây Phương, đó mới là Vô Thượng Bồ Đề tâm. Không chỉ là Bồ Đề tâm, mà còn là Vô Thượng Bồ Đề tâm. Tâm ấy rất khó phát, vì sao? Người thật sự phát Bồ Đề tâm, đầu óc tuyệt đối chẳng có thị phi, nhân ngã, thảy đều đoạn sạch, nhất tâm nhất ý nghĩ tưởng Tây Phương Cực Lạc thế giới. Không khởi tâm động niệm thì thôi, hễ khởi tâm động niệm đều nghĩ tưởng y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Tây Phương, đều nghĩ tới các thứ công đức tu hành của A Di Đà Phật từ thuở tu nhân mãi cho đến khi Ngài đã thành Phật, độ chúng sanh. Người ấy nghĩ những chuyện này. Làm sao người ấy có thể suy nghĩ chuyện thị phi, nhân ngã trong thế gian này cho được? Làm sao có thể nghĩ đến chuyện lợi hại, được mất cho được? Chẳng thể nào có những ý niệm ấy! Nếu còn có những ý niệm ấy, chư vị phải biết: [Đó chính là] chẳng có Bồ Đề tâm, đã phát lên cái tâm phàm phu. Dẫu suốt một đời này niệm Phật rất siêng năng, mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, cũng chẳng thể vãng sanh! [Chỉ là] kết mối thiện duyên cùng A Di Đà Phật, đợi đến đời nào đó, kiếp nào đó lại gặp gỡ, quý vị thật sự phát Bồ Đề tâm bèn có thể vãng sanh. Chẳng phải là thật sự phát Bồ Đề tâm, chắc chắn chẳng thể vãng sanh. Chúng ta nhất định phải nhớ kỹ: Pháp môn chẳng sai lầm, kinh giáo cũng chẳng có sai lầm. Sai lầm ở ngay nơi bản thân chúng ta, chúng ta chẳng làm theo!

Nay chúng ta khởi tâm động niệm, không chỉ là nhân quả hữu lậu trong tam giới, mà nói thật thà, chúng ta động niệm, ác niệm nhiều, thiện niệm ít, luôn cảm thấy kẻ khác có lỗi với ta, luôn cảm thấy xã hội có lỗi với ta, quan niệm ấy chính là cái nhân của tam đồ. Hằng ngày tạo tác cái nhân tam đồ, há có thể nào chẳng hứng chịu quả báo trong tam ác đạo ư? Ngũ Giới, Thập Thiện, nói theo kiểu người Hoa sẽ là “luân thường, đạo đức”. Niệm niệm đều là luân thường, đạo đức, đó là cái nhân của cõi trời, người. Niệm nào cũng là tham, sân, si, mạn, đúng, sai, ta, người; đó là cái nhân của ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục. Hằng ngày chúng ta tạo những nhân ấy, nhất tâm niệm Phật mong sanh về Tịnh Độ, sẽ là chuyện chẳng thể nào xảy ra được!

“Phát Thanh Văn tâm, bất phát Bồ Đề tâm” (Phát tâm Thanh Văn, chẳng phát tâm Bồ Đề), đó là “ít thiện căn”. Kinh đã dạy rõ ràng: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc” (Chẳng thể do ít thiện căn, phước đức, và nhân duyên mà được sanh về cõi ấy). Tâm Thanh Văn là tâm chán lìa, cũng là “yếm ly tâm” (厭離心) được nói trong Tịnh Tông: “Yếm ly Sa Bà, hân cầu Cực Lạc” (Chán nhàm Sa Bà, ưa cầu Cực Lạc), đó là đúng. Tâm Thanh Văn chán lìa Sa Bà, chẳng nghĩ tới vãng sanh Cực Lạc, mà mong cầu chứng Niết Bàn. Có thể chứng đắc Niết Bàn hay không? Cũng được! Nhưng thật sự là chẳng dễ dàng! Hàng Tiểu Thừa tu Định, Tiểu Thừa bao gồm Thanh Văn và Duyên Giác, phải tu đến Đệ Cửu Định mới có thể vượt thoát tam giới, chứng đắc Thiên Chân Niết Bàn. Tam-muội thành tựu, trí huệ chưa khai, chẳng kiến tánh, chẳng phá vô minh, công năng định lực có thể chế phục Kiến Tư phiền não, chẳng thể phá Trần Sa và Vô Minh. Để phá Trần Sa và Vô Minh, nhất định phải dùng trí huệ Bát Nhã. Do vậy, công phu định lực của hàng Tiểu Thừa, quả thật là như chúng ta thường nói: “Đoạn Kiến Tư phiền não, nhưng Trần Sa và Vô Minh chưa đoạn”. Do đó, họ chẳng thể kiến tánh, thiện căn ít ỏi! Tuy Quyền Giáo Bồ Tát tu Định, tu Huệ, tự hành, hóa độ người khác, nhưng chẳng chịu phát tâm cầu sanh Tịnh Độ, thưa cùng chư vị, cũng là ít thiện căn! Ở đây, [tuy Sớ Sao] chẳng nói, tôi nói bổ sung, đó vẫn là ít thiện căn. Thiện căn chẳng dễ dàng! Tôi vừa mới nói một tiêu chuẩn thấp nhất: Niệm nào cũng vì Phật giáo, niệm nào cũng đều nhằm lợi ích chúng sanh. Trong “vì Phật giáo” thì niệm nào cũng vì Tịnh Độ, vì sao? Pháp môn Tịnh Độ là pháp môn thù thắng bậc nhất trong Phật pháp, đấy mới là Vô Thượng Bồ Đề tâm. Kẻ nhận biết pháp môn này rất ít, đúng là chẳng có mấy người! Vì sao ít? Kẻ ít thiện căn, hoặc chẳng có thiện căn, làm sao có thể nhận biết pháp môn này cho được?

Chư vị đồng tu đang hiện diện tại đây gặp gỡ pháp môn này, đúng như đức Phật đã nói trong kinh Vô Lượng Thọ: Quý vị đã nhiều đời, nhiều kiếp gieo trồng thiện căn, đã từng cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai, nên mới có cơ hội nghe thấy, đọc thấy. Đã đọc rồi có thể tin, chứng tỏ thiện căn của quý vị đã chín muồi. Nếu đã đọc mà vẫn chẳng tin, chẳng thể nói là quý vị chẳng có thiện căn, mà là thiện căn chưa chín muồi! Chưa chín muồi thì sẽ giống như ai? Giống như nhóm năm trăm vị đại trưởng giả theo vương tử A Xà Thế trong kinh Vô Lượng Thọ, [thiện căn của] họ chưa chín muồi. Nói cách khác, họ chỉ cúng dường bốn trăm ức Phật, thiện căn vẫn chưa đủ. Nếu thật sự vừa nghe liền tiếp nhận, đó là người đã cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai. Chúng ta đọc kinh, thấy nói: Nhóm người vương tử A Xà Thế nghe đức Phật giới thiệu pháp môn Tịnh Độ, chỉ nói là “hy vọng trong tương lai khi ta thành Phật, cũng giống như A Di Đà Phật”. Chỉ phát nguyện ấy, chẳng phát khởi tín nguyện kiên định: “Ta quyết định phải vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, gặp A Di Đà Phật trong một đời này”. Họ chẳng phát nguyện ấy, chỉ nói “trong tương lai, ta thành Phật sẽ giống như A Di Đà Phật”, vẫn chẳng biết là đến đời nào, kiếp nào [sẽ thành Phật]! Do vậy, không thể coi họ là thiện căn chín muồi. Thiện căn chín muồi, tức là trong đời quá khứ, đã cúng dường chư Phật Như Lai chắc chắn vượt ngoài bốn trăm ức, đúng là chẳng đơn giản! Quý vị phải đọc cẩn thận những câu kinh văn này, nhất định đừng nên hàm hồ, lơ mơ đọc lướt qua! Nói thật thà, đức Phật đã hoàn toàn bảo cho chúng ta biết chân tướng sự thật, [thế mà] có rất nhiều kẻ chẳng thể tin tưởng! Chúng ta vừa nghe liền liễu giải vì sao kẻ ấy chẳng tin? Có lẽ kẻ ấy cũng giống như vương tử A Xà Thế, chỉ cúng dường bốn trăm ức Phật, còn ít quá, còn chưa đủ! Người nào vừa nghe liền tin tưởng, vừa nghe bèn hoan hỷ, bèn y giáo phụng hành, chúng ta biết thiện căn của người ấy đã chín muồi, trong đời quá khứ đã từng cúng dường vô lượng vô biên chư Phật Như Lai.

 

(Sao) Phước đức giả, Quán Kinh, tắc hiếu dưỡng phụ mẫu đẳng. Đại Bổn, tắc tu chư công đức đẳng. Cứ thử, tắc thí, giới đẳng, nãi chí lập tự, tạo tượng, thiền tụng, khổ hạnh, nhất thiết phước nghiệp, xả trí bất tác, thị vị vô phước đức. Đản tác thử phước, chủng nhân thiên tiểu quả hữu lậu chi nhân, thị vị thiểu phước đức dã.

()福德者,觀經,則孝養父母等;大本,則修諸功德等。據此,則施戒等,乃至立寺造像禪誦苦行一切福業,捨置不作,是謂無福德。但作此福,種人天小果有漏之因,是謂少福德也。

(Sao: Phước đức: Xét theo Quán Kinh bèn là hiếu dưỡng cha mẹ v.v… Xét theo Đại Bổn, sẽ là tu các công đức v.v… Xét theo đó, thí, giới v.v… cho đến lập chùa, tạc tượng, thiền tập, tụng niệm, khổ hạnh, hết thảy phước nghiệp buông bỏ chẳng làm, sẽ gọi là “không có phước đức”. Chỉ làm những phước ấy,  sẽ là gieo cái nhân hữu lậu tiểu quả trong cõi trời người, nên gọi là “ít phước đức”).

Phải nghe cho rõ những lời này, phải lưu ý! Tam phước theo Quán Kinh, điều thứ nhất là phước đức thế gian; điều thứ hai là phước đức Nhị Thừa, điều thứ ba là phước đức Đại Thừa. Dựa theo những điều đã được nói ở đây, điều thứ nhất là chẳng có phước đức. “Hiếu thuận cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu thập thiện nghiệp”, chính là phước đức hữu lậu trong thế gian, chẳng phải là phước đức để thành Phật, vẫn phải luân hồi trong lục đạo, chưa phải là tiêu chuẩn phước đức của Tịnh Tông. Phước đức Tiểu Thừa là “thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”, chính là ít phước đức, chẳng phải là nhiều phước đức. Điều thứ ba “phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả”, đấy mới là nhiều phước đức. Liên Trì đại sư trích dẫn Quán Kinh là do ý nghĩa này. Chúng ta thường nói bố thí, trì giới là tu lục độ vạn hạnh. “Nãi chí lập tự” (Cho đến lập chùa) là xây cất chùa chiền, đạo tràng. “Tạo Phật tượng, tham thiền, tụng kinh, khổ hạnh”, hết thảy những điều này đều nhằm tu phước. Chẳng làm những phước ấy tức là “chẳng có phước”!

Nhưng ở đây phải hiểu, hiện thời, người Đài Loan có tiền nhất, hễ có tiền bèn đến khắp nơi tạo dựng chùa chiền. Hiện thời, chùa chiền quá nhiều, rốt cuộc là có phước hay không? Trước đây, thầy Lý đã nói: “Có chùa mà thiếu đạo, sẽ chẳng thể hưng khởi Phật giáo”. Trước kia, người ta dựng chùa để thật sự cúng dường tứ chúng tu hành. Hiện thời cất chùa, chúng ta thật sự muốn tu hành, muốn dụng công, họ chẳng cho chúng ta ở, vậy thì phước ở chỗ nào? Những điều này đều đáng cho chúng ta phản tỉnh! Tạo tượng Phật, tượng Bồ Tát rất nhiều, người ngoài chê chúng ta mê tín, khiến cho những kẻ ngoại đạo tạo khẩu nghiệp nặng hơn, chê bai Phật giáo là tôn giáo bậc thấp. Vì sao là tôn giáo bậc thấp? Đa thần giáo! Tôn giáo cấp cao chỉ có một vị thần, một vị chân thần. Do đó, họ ngỡ Phật giáo là tôn giáo cấp thấp, là phiếm thần giáo, là đa thần giáo, trong các tôn giáo, Phật giáo bị kẻ khác khinh thường! Không như xưa kia, thuở trước tạo hình tượng Phật, Bồ Tát sẽ khiến cho ai nấy cung kính. Trong xã hội Trung Hoa, trên là từ đế vương, dưới là cho tới thứ dân, chẳng có kẻ nào bất kính Tam Bảo. Vì sao xưa kia biết cung kính, mà nay chẳng biết tôn kính? Người xuất gia xưa kia có thể giảng cho mọi người hiểu Tam Bảo rõ ràng, còn người xuất gia hiện thời, ngay cả chính họ cũng không biết,  làm sao có thể giới thiệu công đức cúng dường hình tượng Phật, Bồ Tát cho đại chúng trong xã hội? Điều này rất trọng yếu.

Những người phụ trách hội Phật giáo tại [Trung Hoa] Đại Lục từng hỏi tôi: “Thưa pháp sư! Thầy xem những chùa miếu của chúng tôi có chỗ nào cần sửa đổi cho tốt đẹp hơn hay không?” Tôi bảo họ: “Chùa miếu của quý vị bình quân mỗi ngày có hơn ba ngàn khách vãn cảnh, thật sự là một cơ hội giáo dục tốt nhất. Chuyện đáng nên làm là giới thiệu Phật pháp cho những khách vãn cảnh. Họ đến đây ngắm tượng Phật, chúng ta có thể giới thiệu tượng Phật này biểu thị ý nghĩa gì, vì sao chúng ta phải thờ phụng tượng Phật này?” Đó là lên lớp cho họ. Bước vào điện Thiên Vương, [khi ấy], tôi ở chùa Ngọc Phật tại Thượng Hải, tôi đến viếng thăm lần này, giải thích cùng mọi người, mục đích là giải thích cho những khách vãn cảnh quanh đó nghe, bảo họ vì sao thờ phụng Di Lặc Bồ Tát? Vì sao thờ phụng Tứ Đại Thiên Vương? Di Lặc Bồ Tát và Tứ Đại Thiên Vương biểu thị ý nghĩa gì? Đó là lên lớp, là cơ hội giáo dục. Vị sư tri khách chùa Ngọc Phật nghe xong, rất hoan hỷ, thưa: “Thưa pháp sư! Thầy nói rất có lý”. Cơ hội giáo dục đấy! Hãy nên tập hợp các hướng dẫn viên du lịch lại, giảng giải những điều này cho họ nghe, khiến cho họ dẫn khách đến thăm tự viện sẽ dạy cho các vị khách ấy một buổi học về Phật pháp, công đức nhiều lắm! Hàng đệ tử Phật xuất gia chúng ta chẳng trọn hết trách nhiệm hoằng dương Phật pháp! Nói thật ra, hoằng pháp lợi sanh chẳng cần phải cố ý thực hiện, [thế mà do] cơ hội giáo dục ấy, sẽ có ảnh hưởng hết sức to lớn. Đó là lợi ích chúng sanh, lợi ích xã hội. Vì lẽ này, tạo tượng thì phải biết ý nghĩa thật sự và công đức chân thật của việc tạo tượng, sẽ chẳng đến nỗi khiến cho kẻ khác hiểu lầm chúng ta là đa thần giáo hoặc phiếm thần giáo.

 

(Diễn) Phước đức giả hạ, thị thứ thích phước đức, dẫn nhị kinh. Hiếu dưỡng phụ mẫu, tu chư công đức, chứng phước đức dã.

()福德者下,是次釋福德,引二經。孝養父母,修諸功德,證福德也。

(Diễn: Từ chữ “phước đức” trở đi là tiếp theo đó, để giải thích phước đức bèn trích dẫn hai kinh. Dùng “hiếu dưỡng phụ mẫu, tu các công đức” để chứng phước đức).

 “Chứng” là làm. Biến lý luận và phương pháp tu học của Phật thành tư tưởng, kiến giải và hành vi trong cuộc sống của chính mình. Đó gọi là “chứng nhập”, đó là phước đức chân thật.

 

(Diễn) Nhất thiết bất tác, thị vị vô phước đức giả, sở vị sanh bất tu phước, tử quy khổ thú dã. Đản tác thử phước, chủng hữu lậu nhân, thị vị thiểu phước đức giả. Sở vị “tu phước, bất tu huệ, phước tận, hoàn trầm luân”, thị dã.

()一切不作,是謂無福德者,所謂生不修福,死歸苦趣也。但作此福種有漏因,是謂少福德者,所謂修福不修慧,福盡還沉淪,是也。

(Diễn: “Hết thảy chẳng làm bèn gọi là không có phước đức”: Ý nói sống chẳng tu phước, chết sẽ trở về đường khổ. Nhưng “chỉ làm các phước ấy, tức là gieo cái nhân hữu lậu, bèn nói là ít phước đức”. Nói “tu phước, chẳng tu huệ; phước hết, vẫn trầm luân” chính là chỉ điều này).

Trong Phật môn, tự viện là cơ cấu giáo dục của Phật giáo, giống như trường học trong hiện thời, học trò vào học bèn phước huệ song tu, tu phước như thế nào? “Tác vụ” cho đại chúng thường trụ. “Tác vụ” (作務) là làm lụng, tất cả những công việc trong tự viện quý vị phải nghiêm túc làm. Làm lụng chính là tu phước. Trong khi làm lụng, tâm địa thanh tịnh, trong chẳng động tâm, ngoài chẳng chấp tướng, đó là tu huệ. Phước huệ song tu! Lục Tổ đại sư ở Hoàng Mai tám tháng là một thí dụ hay nhất. Nay thì kẻ bình phàm chúng ta tu một chút phước trong tự viện, chẳng tu huệ được. Vì sao chẳng tu được? Tâm họ rất loạn, suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ lung tung, tu phước thì có, chẳng có huệ. Lục Tổ đại sư ở Hoàng Mai được giao công việc bửa củi, giã gạo trong xưởng xay xát. Đạo tràng ấy hằng ngày có đến hai ba ngàn người ăn cơm, phải giã rất nhiều gạo, bửa rất nhiều củi, công việc rất vất vả! Thật sự là tu phước. Nhưng người ta thông minh, phước huệ song tu, Ngài tu phước bằng cách nào? Tu huệ như thế nào? Từ hai câu Tổ dạy cho Huệ Minh, chúng ta biết là Ngài hiểu cách tu! Ngài dạy Huệ Minh: “Bất tư thiện, bất tư ác” (Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác), đó là tu huệ. Trong tâm không chỉ là chẳng có ác niệm, mà thiện niệm cũng không có, tâm sẽ thanh tịnh lắm! Kinh Kim Cang có dạy: “Tín tâm thanh tịnh, tắc sanh Thật Tướng” (Tín tâm thanh tịnh, bèn sanh ra Thật Tướng), phước huệ song tu!

Siêng năng làm lụng khổ nhọc, trong lúc làm việc, thiện lẫn ác đều chẳng nghĩ tới, Ngài sử dụng công phu của Thiền Tông. Công phu của Tịnh Tông là quý vị hãy nghiêm túc nỗ lực làm việc, khi làm việc, trong tâm Phật hiệu chẳng dứt, đấy là phước huệ song tu. Trong tâm tưởng Phật, miệng niệm Phật, nhớ Phật, niệm Phật, đó là đúng. Đừng nên suy nghĩ loạn xạ, chớ nên nói chuyện thị phi, nhân ngã. Suy nghĩ loạn xạ, miệng nói tào lao, không chỉ là huệ chẳng có, một tí xíu phước tu được vẫn chẳng thể chống lại nghiệp đã tạo. Do phước báo trời, người trong đời sau cũng chẳng có, sẽ đi vào ba ác đạo. Đối với một nơi chốn tốt đẹp ngần ấy, đối với nhân duyên tốt đẹp dường ấy, quý vị chẳng lợi dụng chỗ ấy để tu phước huệ, mà tạo nghiệp ở nơi ấy, ngu si đến tột cùng! Liên Trì đại sư nói [người như vậy] một tí thiện căn lẫn phước đức đều chẳng có! Các đồng tu chúng ta phải hiểu rõ, phải thật sự giác ngộ!

Tu hành trong Phật pháp quyết định phải cậy vào cá nhân. Người thật sự biết tu, trong bất luận hoàn cảnh nào cũng đều là hoàn cảnh tốt đẹp. Thuận cảnh là hoàn cảnh tốt đẹp, mà nghịch cảnh cũng là hoàn cảnh tốt đẹp. Kẻ chẳng biết tu hành, thuận hay nghịch đều là ác cảnh, đều là ác duyên. Vì sao? Trong thuận cảnh, khởi tâm tham; trong nghịch cảnh, khởi tâm sân khuể, khởi tham, sân, si! Người biết tu hành, trong thuận cảnh chẳng khởi tâm tham, chẳng có tham ái; trong nghịch cảnh, chẳng có sân khuể, người ta thật sự tu Giới, Định, Huệ, đó là biết tu. Vì vậy, chẳng liên can gì đến cảnh giới [bên ngoài]! Chướng duyên là gì? Kẻ khác trở ngại quý vị tu hành, kẻ khác ganh tỵ quý vị tu hành, quý vị muốn dụng công, hắn cứ khăng khăng thấy chẳng vừa mắt. Đó là chướng duyên, hắn tìm cớ gây rối quý vị. Đạo tràng này không có ai chướng ngại quý vị thì là đạo tràng tốt đẹp. Bản thân quý vị thật sự nghiêm túc tu hành, người khác thấy vậy, trong tâm hoan hỷ, đạo tràng ấy càng khó có! Chúng ta nhất định phải hiểu rõ rệt điều này, tuyệt đối chớ nên oán trời hờn người. Mọi chuyện đều quy về chính mình để phản tỉnh, tìm cho ra nhân tố gây chướng ngại. Tiêu trừ nhân tố gây chướng ngại ấy, sẽ thuận buồm xuôi gió trên đường Bồ Đề. Chịu quay đầu, chịu phản tỉnh, người ấy là một người giác ngộ, có trí huệ. Chẳng chịu phản tỉnh, không chịu quay đầu, luôn cảm thấy kẻ khác lầm lỗi, luôn cảm thấy hoàn cảnh chẳng thuận ý mình, kẻ như vậy hết cách cứu! Chư Phật, Bồ Tát có đến cũng chẳng thể cứu kẻ ấy! Lỗi lầm tuyệt đối không ở nơi cảnh giới, mà là do chính mình.

Ngẫu Ích đại sư nói: “Cảnh duyên chẳng tốt xấu, tốt xấu khởi từ tâm”. “Cảnh” là hoàn cảnh vật chất, “duyên” là hoàn cảnh nhân sự. Hoàn cảnh nhân sự và hoàn cảnh vật chất đều chẳng có tốt hay xấu! Tốt hay xấu là do tâm của chính chúng ta đối với cảnh giới bèn khởi tâm động niệm, hỏng ở chỗ này! Nếu chúng ta chẳng động tâm nơi cảnh, giống như trong kinh Kim Cang đức Phật đã dạy ngài Tu Bồ Đề một phương pháp: “Chẳng chấp lấy tướng, như như bất động”. Ngoài chẳng chấp tướng, trong chẳng động tâm, bèn thành công. Đó là người tu hành thật sự. Vì thế, phải biết tu phước và tu huệ như thế nào!

 

(Sao) Thiện trung thiện giả.

()善中善者。

(Sao: Điều lành nhất trong các điều lành).

 Điều lành trong các điều lành chính là thuần thiện, chân thiện, đại thiện. Đại ở đây chẳng phải đại trong lớn hay nhỏ.

 

(Sao) Tự hữu ngũ nghĩa, dĩ cụ Trí Luận ngũ Bồ Đề tâm cố.

()自有五義,以具智論五菩提心故。

(Sao: Tự có năm nghĩa, do đầy đủ năm thứ tâm Bồ Đề như Trí Độ Luận đã nói).

“Trí Luận” là Đại Trí Độ Luận, “Cụ” (具) là đầy đủ. Nói rõ ràng cụ thể cùng chúng ta. Năm loại Bồ Đề tâm được giảng trong Đại Trí Độ Luận là điều lành nhất trong các điều lành, hãy xét xem chúng ta có hay không?

 

(Sao) Nhất, phát tâm Bồ Đề, vị ư vô lượng sanh tử trung, phát đại Bồ Đề tâm dã, nhi trì danh, chánh ư phàm phu sanh tử tâm trung, khởi Đại Giác cố.

()一、發心菩提,謂於無量生死中,發大菩提心也。而持名,正於凡夫生死心中,起大覺故。

(Sao: Một là phát tâm Bồ Đề, nghĩa là trong vô lượng sanh tử, phát đại Bồ Đề tâm, mà trì danh chính là từ trong tâm sanh tử phàm phu dấy lên Đại Giác).

“Vô lượng sanh tử” là nói chúng ta. Bản thân chúng ta từ vô lượng kiếp trong quá khứ, chết chết sống sống, sống sống chết chết, luân hồi trong lục đạo, chẳng biết đã bao nhiêu lượt? Thành Phật phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Trong quá khứ, chúng ta đã sanh tử vô lượng vô biên A-tăng-kỳ kiếp. Bản thân chúng ta mê hoặc, điên đảo, chẳng biết chân tướng sự thật trong quá khứ. A La Hán chứng đắc thánh quả, công phu định lực khá sâu, do thần thông, Ngài có thể biết tới năm trăm đời trong quá khứ. Trong quá khứ, Ngài chưa chứng A La Hán! Đối với sanh tử luân hồi trong năm trăm đời quá khứ, đã có không hề ít lần đọa trong địa ngục, nghĩ đến tình hình trong địa ngục trước kia, thân toát mồ hôi lẫn máu, tâm hổ thẹn có thừa! Chúng ta bị mê khi cách ấm, chẳng biết là trong quá khứ đã từng hứng chịu những nỗi đau khổ ấy! Nếu chẳng vô cùng sợ hãi, làm sao có thể kinh hoảng đến nỗi toát mồ hôi lẫn máu? Thông thường người kinh hoảng đến nỗi toát mồ hôi là đã bị sợ hãi quá mức. Địa ngục khổ lắm! Người thật sự giác ngộ, nếu muốn trong một đời này vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi thì gọi là “phát Bồ Đề tâm”. Vì sao? Người ấy đã giác ngộ, chẳng còn muốn luân hồi trong lục đạo nữa, đấy mới được coi là một người thật sự giác ngộ. Nếu vẫn chẳng mong lìa khỏi lục đạo luân hồi, nói cách khác, người đó hết cách cứu. Trong vô lượng vô biên pháp môn, chỉ có pháp môn Tịnh Độ nắm chắc thoát ly lục đạo luân hồi. Đối với những pháp môn khác, quý vị muốn thoát lìa, có đủ sức hay không? Bất luận tu pháp môn nào, cũng đều ắt phải đoạn Kiến Tư phiền não thì mới có thể vượt thoát lục đạo luân hồi. Đoạn Kiến Tư phiền não, sẽ là A La Hán hoặc Bích Chi Phật trong Tiểu Thừa, hoặc là Quyền Giáo Bồ Tát trong Đại Thừa. Nếu quý vị chẳng có năng lực này, mong thoát ra, chẳng thoát được!

Người phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thật sự là đại giác, triệt để giác ngộ! Khi nào muốn ra đi? Niệm nào cũng đều muốn ra đi, đó là thật sự giác ngộ. Vẫn chẳng muốn đi, vẫn muốn ở trong nhân gian thêm mấy năm nữa, lý do khiến cho kẻ ấy hồ đồ đến mức ấy là do mê hoặc, điên đảo! Vì sao? Có một niệm tâm ấy, sẽ là chướng ngại lớn nhất cho sự vãng sanh trong tương lai. Người thật sự tu Tịnh Độ, có bệnh chẳng kiếm bác sĩ, chẳng uống thuốc. Vì sao? Niệm Phật cầu vãng sanh, đó là người thật sự giác ngộ. Mắc bệnh mà vẫn tìm bác sĩ, vẫn phải uống thuốc, nói cách khác là vẫn chưa mong vãng sanh, còn rất lưu luyến thế giới này, vẫn mong luân hồi trong lục đạo. Đó là chẳng có thiện căn, chẳng thể vãng sanh! Chúng ta thấy bao nhiêu vị vãng sanh, chẳng ngã bệnh, đứng mất, hoặc ngồi mất, tự mình biết khi nào sẽ ra đi rõ ràng, rành rẽ. Sau khi đã mất, vẻ mặt như còn sống, tướng lành tốt đẹp như vậy đó! Người ta chẳng có gì khác, chỉ là nhất tâm nhất ý cầu sanh Tịnh Độ, chẳng có mảy may lưu luyến, thân, tâm, thế giới, hết thảy đều buông xuống. Chúng ta niệm Phật hiệu là vì điều này, đó mới là “phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm”.

Hằng ngày chúng ta niệm kinh văn này, niệm một biến kinh Vô Lượng Thọ. “Phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm” thì phải niệm ba, bốn lượt. Niệm ba, bốn lượt mà tâm ấy vẫn chẳng phát ra được, nguyên nhân là ở chỗ nào? Lưu luyến thế gian này, có tình chấp, mê quá sâu. Người thật sự niệm Phật, đầu giường treo một bức hình A Di Đà Phật, hoặc dán danh hiệu A Di Đà Phật, hễ nằm trên giường để ngủ, bèn nghĩ ta sắp chết, A Di Đà Phật sẽ ngay lập tức đến tiếp dẫn ta. Thường quán tưởng như thế, trong tương lai, khi chết sẽ chẳng sợ hãi, chẳng bị điên đảo, vì sao? Hằng ngày ta đều mong mỏi Phật đến tiếp dẫn, rốt cuộc khiến cho ta thỏa lòng mong mỏi. Phật thật sự đến, bèn sanh tâm hoan hỷ theo Phật ra đi. Niệm niệm đều hy vọng Phật tới tiếp dẫn, đấy là quý vị đã giác ngộ. Chúng ta hãy xem sách Diễn Nghĩa giải thích đoạn này, sách dùng giáo nghĩa Thiên Thai để giảng:

 

(Diễn) Phát tâm Bồ Đề, tức thị Viên Giáo Ngũ Phẩm vị. Thử sở phát chi tâm, tức thị tùy hỷ tâm. Diệu tâm thể cụ như Như Ý Châu. Tâm, Phật, cập chúng sanh, thị tam vô sai biệt. Thử tâm tức Không, tức Giả, tức Trung. Sơ tâm tri thử khánh kỷ, khánh nhân, sở vị “ư sanh tử trung phát Đại Bồ Đề tâm” dã.

()發心菩提,即是圓教五品位。此所發之心,即是隨喜心。妙心體具如如意珠,心佛及眾生,是三無差別。此心即空即假即中。初心知此慶己慶人,所謂於生死中發大菩提心也。

(Diễn: Phát tâm Bồ Đề chính là địa vị Ngũ Phẩm trong Viên Giáo. Cái tâm đã phát này chính là tâm tùy hỷ. Thể của diệu tâm trọn đủ giống như Như Ý Châu. Tâm, Phật, chúng sanh là ba thứ chẳng sai biệt. Tâm ấy chính là Không, chính là Giả, chính là Trung. Hàng sơ tâm biết điều này bèn mừng cho mình, mừng cho người, đó gọi là “ở trong sanh tử mà phát đại Bồ Đề tâm”).

Khi Thiên Thai Trí Gỉả đại sư vãng sanh Tây Phương, các học trò từng hỏi Ngài: “Thưa thầy, thầy vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới sẽ chứng đắc phẩm vị thứ mấy?” Đại sư vô cùng khiêm hư, đáp: “Do ta phải lãnh chúng, làm Trụ Trì, công chuyện rất bận bịu, chẳng thể chuyên tu. Vì vậy, phẩm vị chẳng cao, chỉ chứng đắc vãng sanh nơi địa vị Ngũ Phẩm”. Thật ra, Trí Giả đại sư là Thích Ca Mâu Ni Phật hóa thân tái lai, đây là Ngài thị hiện. Ngài dạy chúng ta: Thật sự tu hành, muốn tăng cao phẩm vị, nói thật ra, quyết định chẳng thể quản sự. Hễ quản sự, nhất định bị phân tâm, sẽ trở ngại sự tấn tu của chính mình. Người giống như Trí Giả đại sư, mức độ thấp nhất là vãng sanh trong địa vị Ngũ Phẩm đã nắm chắc, ta hy sinh phẩm vị của chính mình để phục vụ đại chúng; đó là đúng, thật sự là đại từ đại bi. Nếu địa vị Ngũ Phẩm còn chẳng đạt được thì đã lầm lẫn đặc biệt to lớn rồi!

Tại Trung Hoa, trong quá khứ, những vị Trụ Trì, Đương Gia, chấp sự đều là Bồ Tát tái lai, chẳng phải là phàm nhân! Các Ngài đến chiếu cố những học nhân mới học, khiến cho họ chẳng phải lo toan, [chỉ dốc sức] thật sự dụng công. Vừa mới phát tâm, thấy các vị Trụ Trì, Đương Gia được người ta cung kính lễ bái nhiều ngần ấy, mỗi ngày thu nhận phong bao cúng dường nhiều dường ấy, khá quá chớ! Mới có một chút thành tựu bé tẹo, bèn vội vã lôi kéo mấy tín đồ: “Các ngươi hãy lập một đạo tràng cho ta, ta cũng làm Trụ Trì”. Hễ Trụ Trì [theo kiểu ấy], chắc chắn sẽ tiến vào địa ngục A Tỳ. Khi nào bản thân quý vị đã nắm chắc vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, có thể biết trước lúc mất, có thể hướng về A Di Đà Phật từ tạ, “vài năm sau con mới lại ra đi”, như vậy thì sẽ có tư cách làm Trụ Trì. Ngay cả đối với chuyện sanh tử mà một tí tin tức cũng chẳng có, sao quý vị dám làm chuyện này? Chẳng dám! Các đồng tu mới phát tâm xuất gia phải đặc biệt ghi nhớ: Đạo tràng là cơ quan giáo dục của Phật giáo, Trụ Trì là người phụ trách cơ cấu ấy. Quý vị chẳng thể hoằng dương Phật pháp tại đó, giáo hóa một vùng, tức là quý vị chẳng giữ vẹn chức trách, chưa tận hết trách nhiệm của chính mình. Vậy thì quý vị phải bị đọa lạc, mắc tội lỗi rất lớn! Đừng nói là “ta chẳng làm chuyện gì xấu!” Quý vị là người tốt, chẳng làm chuyện xấu thì cũng là vô dụng. Giống như phái quý vị đến làm hiệu trưởng một ngôi trường, tuy chẳng làm chuyện xấu xa nào, nhưng nhà trường chẳng dạy học, chẳng mời giáo viên, mà cũng chẳng chiêu sinh, thì bộ Giáo Dục vẫn phải cách chức, điều tra! Chẳng thể nói: “Ta chẳng cướp đoạt ai, mà cũng chẳng trộm cắp của ai, cũng chẳng lừa gạt ai”. [Quý vị đã mắc tội] chẳng trọn hết bổn phận và chức trách! Hiện thời, những người biết đến chân tướng sự thật này chẳng nhiều lắm. Vì vậy, Trí Gỉả đại sư rất tuyệt vời, Phật, Bồ Tát tái lai, thị hiện như vậy. Thị hiện là thân giáo.

Trong năm loại Bồ Đề tâm, loại được coi là Bồ Đề tâm ở mức tối thiểu chính là thật sự giác ngộ, giác ngộ tự tánh của chúng ta và tự tánh của Như Lai không hai, không khác. “Diệu tâm” là chân tâm, chân tâm vốn trọn đủ vô lượng trí huệ và đức năng. Ở đây, [sách Diễn Nghĩa] đã sánh ví chân tâm với Như Ý Châu. Tâm, Phật, chúng sanh là ba thứ chẳng sai biệt, tuy một mà ba, tuy ba mà một. Tâm ấy là Không, là Giả, là Trung. Tông Thiên Thai nói Tam Chỉ, Tam Quán, ở đây nói tới Không, Giả, Trung Tam Quán. Cớ sao gọi là Không? Thể là Không, có mấy ai trong chúng ta biết được? Đối với Không, thưa cùng chư vị, xác thực là không vô sở hữu. Không chỉ là đối với hết thảy các thứ thọ dụng nơi hoàn cảnh quý vị chẳng đạt được, mà ngay cả thân thể này cũng chẳng đạt được. Từ lúc quý vị bước vào Phật đường, đã một tiếng đồng hồ trôi qua, các tế bào trong thân thể đã thay cũ đổi mới chẳng biết là bao nhiêu! Nếu [thân thể] là của ta, sẽ chẳng nên có hiện tượng ấy. Thay cũ đổi mới tức là sanh diệt vô thường, sanh diệt trong từng sát-na. Thân còn chẳng phải là của chính mình, còn có thứ gì là của chính mình nữa? Cái này của ta, cái kia của ta, đó là vọng tưởng, chấp trước. Chỉ có vọng tưởng, chấp trước! Trừ vọng tưởng, chấp trước ra, những thứ khác đều vô sở hữu! Chư Phật, Bồ Tát biết chân tướng sự thật, ngay nơi cái Thể chính là Không, trọn chẳng thể được. Nếu biết chân tướng này, tâm quý vị sẽ buông xuống. Trong hết thảy các pháp, chẳng có được mất, tâm bèn thanh tịnh, bèn bình đẳng, giác chứ không mê.

Hết thảy các thứ thọ dụng của chúng ta trong hiện thời, hiện tượng là giả tướng, cái được gọi là “giả tướng” chính là huyễn hữu, là tạm hữu, [tức là] tạm thời có, giống như nằm mộng, trong mộng là có hay không? Có! Sau khi tỉnh giấc, thứ gì cũng đều chẳng có. Nay chúng ta đang nằm mộng, “trong mộng rõ ràng có sáu nẻo, giác rồi ba cõi trống toang hoang”. Nay quý vị đã giác, hiện thời đã biết hết thảy đều là giả, chẳng có gì là thật, quý vị sẽ chẳng so đo được mất trong ấy, đã thấy được chân tướng sự thật. Biết Thể là Không, tướng là giả, tác dụng bèn phù hợp Trung Đạo, chẳng thiên lệch. Phật pháp dùng Trung, Nho gia cũng có sự giác ngộ khá cao, cũng dùng Trung, họ nói đến trung dung, trung hòa. Vì thế, tâm này chính là Không, là Giả, là Trung. Tâm là như thế, tướng do tâm biến hiện, nên tướng cũng chính là Không, là Giả, là Trung. Tất cả hết thảy tác dụng cũng chính là Không, là Giả, là Trung.

“Sơ tâm tri thử” (Sơ tâm biết điều này): Người sơ phát tâm hiểu rõ, liễu giải chân tướng sự thật này, tự mình cảm thấy rất may mắn vì đã biết phần nào chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. Đối với những người đã biết điều này, cũng mừng giùm cho họ. Tuy đã biết, nhưng chưa thể chứng đắc, cái biết ấy là giải ngộ. Ta biết chân tướng sự thật, nhưng ta vẫn chưa thể vượt thoát. Nói cách khác, ta vẫn chưa thể dùng Trung. Ta biết Thể là Không, tướng là Giả, nhưng ta chẳng thể dùng Trung, đó là có giải ngộ, nhưng chẳng có chứng ngộ. Khi nào chính mình có thể dùng Trung thì sẽ là Bồ Tát, là Phật! Quyền Giáo và Tiểu Thừa trở xuống đều chẳng biết dùng Trung, đều lệch sang một bên. Thanh Văn A La Hán lệch về Không, họ dùng Không để nhập Thiên Chân Niết Bàn. Phàm phu và Quyền Giáo thiên về Giả, coi Giả là Chân, chuyện này rất phiền phức. Phàm phu chúng ta có thứ gì chẳng coi là thật? Đều tưởng là thật. “Thân này thật sự là ta”, “nơi này thật sự có giảng đường”. Thứ gì cũng đều ngỡ là thật; đó là vọng tưởng, chấp trước. Không hiểu rõ chân tướng thì sự quan sát và suy tưởng của quý vị đều là vọng tưởng. Tất cả hết thảy tạo tác của quý vị đều là chấp trước kiên cố, do vọng tưởng và chấp trước ấy mà biến hiện lục đạo luân hồi. Lìa khỏi vọng tưởng, chấp trước, sẽ là giác ngộ. Người thật sự giác ngộ biết chân tướng, từ nay trở đi cũng chẳng dấy vọng tưởng, chẳng còn chấp trước nữa, vì sao? Đã hiểu chân tướng rồi!

Nói thật thà, sự giác ngộ ấy cao hơn Viên Liễu Phàm quá nhiều! Viên Liễu Phàm thấm vào đâu! Điều Viên Liễu Phàm biết là nhân quả báo ứng, ông ta đã hiểu rõ sự thật này: “Một miếng ăn, một hớp uống đã được định trước”, nên cũng chẳng nghĩ tới nữa. Ông ta thật sự biết đôi chút sự thật như vậy, nên chẳng dấy vọng tưởng. Vì sao? Một miếng ăn, một hớp uống đều đã định sẵn trong mạng, còn vọng tưởng để làm gì nữa? Ông ta cùng thiền sư Vân Cốc ngồi đối diện nhau suốt ba ngày ba đêm, chẳng khởi tâm, không động niệm, đó là thật sự đã biết, thật sự minh bạch. Còn khởi tâm động niệm, dấy vọng tưởng, nói thật thà, quý vị còn chưa hiểu rõ, còn chưa biết! Viên Liễu Phàm đã liễu giải chân tướng sự thật của phú quý, cùng quẫn, hay hanh thông, thọ mạng dài hay ngắn trong pháp thế gian, chẳng khởi tâm, không động niệm, lỗi lạc thay! Người triệt để hiểu rõ chân tướng của toàn thể vũ trụ và nhân sinh thì làm sao có thể khởi tâm động niệm cho được? Công phu ấy vượt xa Viên Liễu Phàm quá nhiều!

Tôi nói những lời này cho mọi người nghe, mọi người hãy suy nghĩ cặn kẽ, bản thân chúng ta thuộc về trình độ nào? Ngàn muôn phần đừng nghĩ là ta đã biết Phật pháp, quý vị thấy ngay cả [đạt tới trình độ như] Viên Liễu Phàm mà vẫn chưa đủ, quý vị biết gì đây? Quý vị xem kinh đã hiểu rõ, tôi nói quý vị nghe cũng hiểu rõ. Trên thực tế là nghe từng chữ rõ ràng, nhưng vẫn chẳng hiểu rõ ý nghĩa, hàm hồ, lơ mơ! Nếu quý vị thật sự nghe hiểu rõ ràng, tôi dám đoan chắc là từ nay trở đi, chắc chắn là quý vị không khởi tâm động niệm.

Mức độ thấp nhất trong Đại Thừa Phật pháp là Ngũ Phẩm của Viên Giáo, mức độ này khá cao, chẳng phải là rất thấp như chúng ta nghĩ. Đó là địa vị Ngũ Phẩm. Thưa cùng chư vị, địa vị Ngũ Phẩm là phục đoạn phiền não, [nghĩa là] chẳng đoạn phiền não, chúng ta cũng thường gọi “chế phục phiền não” là công phu thành phiến, đới nghiệp vãng sanh, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Chư vị bèn liễu giải, mức độ vãng sanh thấp nhất là trong mười hai thời, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, chỉ tưởng A Di Đà Phật, chỉ niệm A Di Đà Phật, trừ điều này ra, chẳng có bất vọng tưởng nào.

Nếu lại phát tâm, [suy nghĩ nên] làm như thế nào để đem lợi ích do chính mình đã đạt được giới thiệu với người khác; đó là câu cuối cùng, tức là “khuyến tấn hành giả” trong Tam Phước. Điều này cũng thường được nói thông tục là “hoằng pháp lợi sanh”. Giới thiệu pháp môn Tịnh Độ với người khác, chỉ có một niệm này. Trừ một niệm này ra, chẳng có ý niệm gì thì mới gọi là “phát tâm Bồ Đề”, ở trong sanh tử lục đạo luân hồi mà thật sự giác ngộ.

 

(Sao) Nhị, phục tâm Bồ Đề.

()二、伏心菩提。

(Sao: Hai là phục tâm Bồ Đề).

Bồ Đề là giác tâm, tức là cái tâm giác ngộ. Sự giác ngộ này sâu hơn điều trước, [Bồ Đề tâm như đã nói] trong phần trước là nông cạn nhất, tức là nói đến việc thật sự giác ngộ. Chư vị phải hiểu, đối với tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, ngũ dục, lục trần, thị phi, nhân ngã trong thế gian này, hễ có mảy may nào chẳng thể buông xuống, sẽ là bất giác. Trong tâm quý vị còn có những thứ ấy, sẽ là bất giác; những thứ ấy đều chẳng có thì mới là giác. Bất giác sẽ chẳng thể vãng sanh, thật sự giác ngộ thì mới có thể vãng sanh. Hạ hạ phẩm vãng sanh cũng phải phát Bồ Đề tâm. Quý vị hãy xem kinh Vô Lượng Thọ, kinh chẳng nói “hạ hạ phẩm vãng sanh không phát Bồ Đề tâm”. Như vậy thì mới biết tầm trọng yếu của việc phát tâm.

 

(Sao) Phục tâm Bồ Đề vị đoạn chư phiền não, hàng phục kỳ tâm dã. Nhi trì danh, tắc chánh niệm tài chương, phiền não tự diệt cố.

()伏心菩提,謂斷諸煩惱,降伏其心也。而持名,則正念纔彰,煩惱自滅故。

(Sao: Phục tâm Bồ Đề nghĩa là đoạn các phiền não, hàng phục cái tâm, nhưng trì danh thì chánh niệm mới vừa tỏ lộ, phiền não tự diệt).

 Đối với “phục tâm” thì cái “tâm” ấy chính là vọng tâm, cũng là Kiến Tư phiền não. “Vị đoạn chư phiền não, hàng phục kỳ tâm” (Nghĩa là đoạn các phiền não, hàng phục cái tâm). Nói theo ý nghĩa của đoạn kinh này, chúng ta biết kinh Kim Cang có nói “vân hà hàng phục kỳ tâm” (hàng phục cái tâm ấy như thế nào), “hàng phục kỳ tâm” chính là cảnh giới đoạn Kiến Tư phiền não. Kinh Kim Cang là pháp Đại Thừa, mức độ thấp nhất là cảnh giới của bậc từ Sơ Trụ trở lên trong Đại Thừa Viên Giáo, giống như cảnh giới trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, thật sự chẳng dễ dàng.

 

(Diễn) Phục tâm Bồ Đề, tức thị Viên Giáo Sơ Tín chí Thất Tín vị.

()伏心菩提,即是圓教初信至七信位。

(Diễn: Phục tâm Bồ Đề là địa vị từ Sơ Tín tới Thất Tín trong Viên Giáo).

 Sơ Tín trong Viên Giáo chính là Sơ Quả trong Tiểu Thừa, tức quả Tu Đà Hoàn. Thất Tín trong Viên Giáo là Tứ Quả A La Hán trong Tiểu Thừa. Đây là nói tới sự đoạn chứng, [xét theo phương diện] đoạn phiền não thì giống như Sơ Quả và Tứ Quả của Tiểu Thừa. Nếu nói theo thiện căn, phước đức, nhân duyên, hàng Tiểu Thừa tuyệt đối chẳng thể sánh bằng! Hàng Tiểu Thừa kém các vị ấy rất xa, chỉ là [xét theo phương diện] đoạn Hoặc thì mọi người ngang nhau.

 

(Diễn) Dĩ Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc.

()以初信斷見惑。

(Diễn: Do Sơ Tín đã đoạn Kiến Hoặc).

Tiểu Thừa Sơ Quả Tu Đà Hoàn đoạn Kiến Hoặc.

 

(Diễn) Tùng Nhị Tín chí Thất Tín đoạn Tư Hoặc tận, sở vị đoạn chư phiền não, hàng phục kỳ tâm dã.

()從二信至七信斷思惑盡。所謂斷諸煩惱降伏其心也。

(Diễn: Từ Nhị Tín cho đến Thất Tín đoạn hết Tư Hoặc nên nói là “đoạn các phiền não, hàng phục cái tâm”).

 Đây là Sự nhất tâm bất loạn trong Tịnh Độ Tông, công phu đạt đến cảnh giới này, vãng sanh Tây Phương sẽ là sanh trong cõi Phương Tiện Hữu Dư.

Lời Sao giảng: “Nhi trì danh, tắc chánh niệm tài chương, phiền não tự diệt cố” (Nhưng trì danh thì chánh niệm mới tỏ lộ, phiền não tự diệt). Đó gọi là niệm Phật công phu đắc lực. Chúng ta vừa niệm Phật, lại còn vừa dấy vọng tưởng, khởi phiền não, công phu chẳng đắc lực! Người có công phu thật sự đắc lực, hễ Phật hiệu khởi lên, phiền não bèn chẳng có, vọng niệm bèn chẳng có. Hết thảy phân biệt, chấp trước cũng chẳng có. Đương nhiên đây chẳng phải là [cảnh giới] của hàng sơ học, mà là của những người đã có công phu kha khá. Nói thật ra, bản thân chúng ta nghiệp chướng, phiền não, tập khí quá nặng, chẳng đọc kinh sẽ không hiểu [những nghiệp chướng, phiền não, tập khí ấy] nặng nề đến mức độ nào. Đọc kinh này, mới biết nghiệp chướng, tập khí của chính mình quá nặng. Vì sao người ta dùng pháp môn này, công phu bèn đắc lực, chúng ta chẳng đắc lực? Nếu chẳng giác ngộ từ chỗ này, không quay đầu từ chỗ này, vẫn một mực thuận theo tập khí, suốt một đời này chẳng có hy vọng gì!

Người thật sự giác ngộ, sẽ vội vã quay lại, triệt để sửa trừ tất cả những lầm lỗi, khuyết điểm, tập khí của chính mình. Sửa lỗi là sám hối. Như ông Viên Liễu Phàm sau khi đã được thiền sư Vân Cốc soi sáng, chỉ dạy, đã nghiêm túc sửa lỗi đổi mới, hằng ngày đều suy nghĩ ngày hôm nay chính mình đã phạm lỗi lầm gì. Lỗi lầm nơi tư tưởng, lỗi lầm nơi kiến giải, lỗi lầm nơi ăn nói, lỗi lầm nơi tạo tác, mỗi ngày đều xét mình. Tìm thấy lỗi lầm của chính mình, thưa cùng chư vị, người ấy được gọi là khai ngộ, là giác. Kẻ bất giác, chính mình một thân đầy ắp lỗi lầm, cứ tưởng chính mình chẳng có lầm lỗi gì, đó là mê hoặc, điên đảo. Nói thật thà, Đẳng Giác Bồ Tát hằng ngày vẫn phải xét lỗi mình. Vì sao? Ngài còn chưa thành Phật! Người nào chẳng có lỗi lầm? Thành Phật bèn chẳng có lỗi lầm,  chứ Đẳng Giác Bồ Tát hãy còn có lỗi lầm.  Không biết lỗi lầm và khuyết điểm của chính mình, sẽ là bất giác, là mê hoặc.

Khai ngộ là gì? Ngộ là biết lỗi lầm của chính mình. Tu hành là gì? Sửa đổi tật xấu của chính mình thì gọi là tu hành. Tu hành, quyết định chẳng phải là niệm kinh, lạy Phật mà gọi là tu hành. [Chỉ làm suông những chuyện đó, chẳng sửa đổi cái tâm] thì gọi là làm bộ, làm tịch. Xưa kia, tại chùa Quốc Thanh, nhằm lúc tụng giới vào mồng Một, ngày Rằm, Hàn Sơn và Thập Đắc ở ngoài cửa cười cợt, cười nhạo những kẻ xuất gia đang vờ vịt tụng giới, miệng có, tâm không! Thuở ấy mà còn như thế, hiện thời lại càng chẳng cần phải nói đến nữa. Hiện thời, hết thảy đều mong sao cho đủ hình thức, hình thức vô dụng! Chẳng thể liễu sanh tử, chẳng thể thoát luân hồi. Không chỉ chẳng phải là huệ, mà nói thật thà, phước cũng không có luôn! Do vậy, tu hành nhất định phải bắt đầu từ tâm địa.

Thời cổ, tông Thiên Thai có nói: “Năng thuyết, bất năng hành” (Nói được, chẳng làm được), tức là có giải ngộ, đã liễu giải chân tướng sự thật, nhưng chẳng làm được thì gọi là “quốc sư”. Vì sao? Người ấy có thể dạy chúng ta, bảo cho chúng ta biết một con đường chánh đáng. Người ấy có thể làm thầy chúng ta, là thầy của cả một nước. “Năng tri, hựu năng hành” (Nói được, lại làm được). Đã có giải ngộ, lại có chứng ngộ, đó là “quốc bảo”. “Năng hành, bất năng giải” (Làm được, chẳng hiểu được), chẳng hiểu rõ chân tướng sự lý, nhưng người ấy có thể y giáo phụng hành, bảo người ấy làm sao, liền làm đúng như thế ấy. “Quốc chi dụng dã”, nghĩa là người ấy hữu dụng cho đất nước. Chẳng thể hành, lại chẳng thể biết, đó là gì? Cổ nhân chẳng nói, chúng ta hãy tự mình suy nghĩ. Tông Thiên Thai nói ra ba hạng người: Thứ nhất là người biết được, chẳng làm được, đó là tu đại phước báo. Loại thứ hai là làm được, chẳng biết được, vẫn có thể vãng sanh! Có rất nhiều bà cụ chẳng hiểu ý nghĩa của kinh mà niệm Phật, đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh, cũng có thể biết trước lúc mất, họ chính là “quốc chi dụng dã”. Loại thứ ba là biết được và làm được, giống như Liên Trì đại sư, hoặc Ngẫu Ích đại sư, là bậc tổ sư đại đức trong Phật giáo, chính là quốc bảo.

Do vậy, nói đến hàng phục cái tâm, trong Tịnh Tông sẽ là một câu Phật hiệu. Chúng ta là phàm phu, chính mình nhất định phải biết nghiệp chướng tập khí quá nặng, tội nghiệp quá sâu, dùng phương pháp gì để tiêu nghiệp chướng, tiêu tội nghiệp? Phật hiệu. Cách tiêu trừ ra sao? Ý niệm vừa mới dấy lên, ngay lập tức dùng Phật hiệu đè nén, nghiệp chướng liền tiêu mất. Vừa mới khởi tâm động niệm, [nghĩ] người nào đó như thế này, như thế nọ, bèn “A Di Đà Phật” để giằn nó xuống. Đó chính là A Di Đà Phật, A Di Đà Phật tiếp nối A Di Đà Phật, [điều gì cũng] đều chẳng nghĩ tới, nghiệp chướng liền tiêu trừ. Quý vị chẳng có một câu A Di Đà Phật, càng tưởng càng nhiều, càng tưởng càng sai, càng tưởng, tội càng sâu. Tu gì vậy? Đó chẳng phải là tu Tây Phương Tịnh Độ, mà là tu tam ác đạo, tu tham, sân, si, mạn, thị phi, nhân ngã, còn làm sao được nữa? Do vậy, quý vị niệm câu Phật hiệu chẳng có sức mạnh. Tất cả hết thảy các pháp môn đều chẳng tiêu nghiệp chướng, pháp môn Niệm Phật có thể tiêu trừ, quý vị mới biết sự thù thắng của pháp môn này.

Trong Tịnh Tông, Quán Kinh giảng mười sáu phương pháp, mười hai loại đầu nhằm độ bậc thượng căn, phiền não nhẹ nhàng, nghiệp chướng ít ỏi. Phép Quán thứ mười ba độ hàng trung căn, phép niệm Phật độ bậc hạ, phiền não nặng nhất. Phiền não nặng nhất thì quán tưởng hay quán tượng đều vô dụng, đều chẳng thể độ họ. Do pháp môn này còn có thể độ, quý vị mới biết pháp môn này thật sự là pháp môn bậc nhất. Tất cả pháp môn đều chẳng cứu được quý vị, hãy còn có pháp môn này. Pháp môn này mà cứu không được nữa thì hết cách, chết chắc, chúng ta phải thật sự giác ngộ điều này.

Sớ Sao của Liên Trì đại sư và Diễn Nghĩa của pháp sư Cổ Đức đúng là hết sức hay. Kinh văn của kinh Di Đà quá ít, ý nghĩa quá sâu, chúng ta xem không hiểu. Xem lời giải thích của Liên Trì đại sư, đúng là như Ngẫu Ích đại sư đã nói “bác đại tinh thâm”. Bất luận Sự hay Lý được giảng trong ấy so với kinh Vô Lượng Thọ đều giảng thấu triệt hơn, lại còn minh bạch hơn! Vì sao chúng tôi không đề xướng Sớ Sao? Sớ Sao quá nhiều! Tôi bảo quý vị niệm kinh Vô Lượng Thọ, quý vị đã kêu khổ quá! Nếu tôi bảo quý vị niệm Sớ Sao, sẽ càng kêu khổ hơn nữa! Đạo lý ở chỗ này. Vì vậy, phát tâm học kinh A Di Đà mà chẳng thể niệm Sớ Sao, tốt nhất là niệm Yếu Giải. Sách Yếu Giải có phân lượng ít hơn một chút, còn có thể niệm được. Sớ Sao đúng là quá lớn, dù có bỏ Diễn Nghĩa, chỉ giảng Sớ Sao, bản in trước kia là một quyển, đóng bìa cứng cũng thành một tập dầy như vậy, phân lượng cũng hết sức đáng kể, nhưng [nội dung] thật là hay. Đọc Sớ Sao, nói thật ra giống như niệm tinh hoa của một bộ Đại Tạng Kinh! Tổ Liên Trì đã đem giáo nghĩa của toàn bộ Phật pháp được cô đọng trong một bộ kinh Di Đà nêu tỏ, giảng giải thấu triệt, minh bạch như vậy. Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này.

 

Tập 213

Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm hai mươi hai:

 

(Sao) Thiện trung thiện giả. Tự hữu ngũ nghĩa, dĩ cụ Trí Luận ngũ Bồ Đề tâm cố.

()善中善者,自有五義,以具智論五菩提心故。

(Sao: Điều lành nhất trong các điều lành, tự có năm nghĩa, do đầy đủ năm thứ tâm Bồ Đề như Đại Trí Độ Luận đã nói).

Nói rõ điều lành nhất trong các điều lành có năm ý nghĩa, năm ý nghĩa ấy do đâu mà có? Đó là năm thứ Bồ Đề tâm được nói trong Đại Trí Độ Luận, đó là điều lành nhất trong các điều lành. Bồ Đề (Bodhi) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là giác ngộ. Bồ Đề tâm là tâm giác ngộ. Nói cách khác, đối với hết thảy sự lý thuộc về vũ trụ, nhân sinh, hiện tại, vị lai, đều có thể thấy rất rõ ràng, rất minh bạch, chẳng mê hoặc thì gọi là Bồ Đề tâm. Vì sao có năm loại? Đó là nói theo thứ tự sâu hay cạn khác biệt. Có những người có tầm nhìn rất xa, đương nhiên sẽ xử lý sự vụ khá thích đáng, chẳng phạm sai lầm. Dưới đây là [những ý] trích từ Trí Độ Luận giảng về năm loại Bồ Đề tâm.

 

(Sao) Nhất, phát tâm Bồ Đề, vị ư vô lượng sanh tử trung, phát đại Bồ Đề tâm dã, nhi trì danh, chánh ư phàm phu sanh tử tâm trung, khởi Đại Giác cố. Nhị, phục tâm Bồ Đề, vị đoạn chư phiền não, hàng phục kỳ tâm dã, nhi trì danh, tắc chánh niệm tài chương, phiền não tự diệt cố.

()一、發心菩提,謂於無量生死中,發大菩提心也。而持名,正於凡夫生死心中,起大覺故。二、伏心菩提。謂斷諸煩惱,降伏其心也。而持名,則正念纔彰,煩惱自滅故。

(Sao: Một là phát tâm Bồ Đề, nghĩa là trong vô lượng sanh tử, phát đại Bồ Đề tâm, mà trì danh chính là từ trong cái tâm sanh tử phàm phu, dấy lên Đại Giác. Hai là phục tâm Bồ Đề, nghĩa là đoạn các phiền não, hàng phục cái tâm này, nhưng trì danh thì chánh niệm mới vừa tỏ lộ, phiền não tự diệt).

Trong phần trước, đã giới thiệu hai đoạn này. Chúng ta xem đoạn thứ ba.

 

(Sao) Tam, minh tâm Bồ Đề, vị liễu đạt chư pháp Thật Tướng dã.

()三、明心菩提,謂了達諸法實相也。

(Sao: Ba là minh tâm Bồ Đề, ý nói “liễu đạt Thật Tướng của các pháp”).

 “Liễu” (了) là hiểu rõ, “đạt” (達) là thông đạt, “chư pháp” là nói hết thảy các pháp thế gian cho đến hết thảy các pháp xuất thế gian. Hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều hiểu rõ, đều thông đạt, biết chân tướng của hết thảy các pháp. Nếu nhân vật lãnh đạo của mỗi quốc gia trong thế gian này đều có thể có hiểu rõ tâm Bồ Đề, thế giới này sẽ chẳng loạn như thế. Nay chúng ta thấy chiến tranh tại Y Lạp Khắc (Iraq), hãy lắng lòng quan sát, rất có thể sẽ là mở màn cho cuộc đại chiến thế giới lần thứ ba. Đây đều là do mê hoặc, điên đảo, do có cách nghĩ, cách nhìn chắc chắn là sai lầm đối với chân tướng của hết thảy các pháp, nên mới có thể dẫn khởi đại tai nạn ấy. Đương nhiên là chẳng có ai mong phát động tai nạn này, mà cũng chẳng có ai muốn nhận lãnh tai nạn ấy. Đó là cộng nghiệp của chúng sanh, biết làm sao được!

 

(Sao) Nhi trì danh, chánh tức thử nhất tâm, minh liễu nhất thiết chư pháp Thật Tướng cố.

()而持名,正即此一心,明了一切諸法實相故。

(Sao: Nhưng trì danh chính là cái tâm này, do hiểu rõ Thật Tướng của hết thảy các pháp).

Nay chúng ta chỉ có một con đường để có thể đi theo: Nhất tâm nhất ý thật thà niệm Phật, chắc chắn sẽ có lợi cho bản thân chúng ta.

 

(Sao) Tứ, xuất đáo Bồ Đề.

()四、出到菩提。

(Sao: Bốn là xuất đáo Bồ Đề).

Cảnh giới này càng cao hơn.

 

(Sao) Vị đắc Vô Sanh Nhẫn, xuất tam giới, đáo Tát Bà Nhã dã.

() 謂得無生忍,出三界,到薩婆若也。

(Sao: Nghĩa là đắc Vô Sanh Nhẫn, thoát khỏi thế giới, đạt đến Tát Bà Nhã).

 “Xuất” (出) là vĩnh viễn vượt khỏi tam giới, lục đạo luân hồi. “Tát Bà Nhã” (Sarvajñaḥ) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Nhất Thiết Chủng Trí, là trí huệ nơi quả địa Như Lai. “Đáo Tát Bà Nhã” là chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đó là “đáo đạt” (到達: đạt đến).

 

(Sao) Nhi trì danh, tức đắc nhất, nhị, tam nhẫn.

()而持名,即得一二三忍。

(Sao: Nhưng do trì danh bèn đắc một thứ nhẫn, hai thứ nhẫn, hoặc ba thứ nhẫn).

Câu “nhất, nhị, tam nhẫn” phát xuất từ kinh Vô Lượng Thọ, đó là chứng đắc của bậc Sơ Địa Bồ Tát trong Viên Giáo trở lên.

 

(Sao) Tiệp siêu sanh tử, xu Nhất Thiết Trí cố.

()捷超生死,趨一切智故。

(Sao: Do nhanh chóng vượt thoát sanh tử, hướng đến Nhất Thiết Trí).

“Tiệp” (捷) là nhanh chóng. Có thể nhanh chóng “siêu sanh tử”, có thể tiến hướng trí huệ nơi quả địa Như Lai. Đó là cảnh giới của hàng Thập Thánh Bồ Tát, [tức là Thập Thánh trong] Tam Hiền Thập Thánh. Trong phần trên, từ phát tâm cho đến minh tâm thuộc về địa vị Tam Hiền, tức là Thập Tín, Thập Trụ, và Thập Hồi Hướng, “xuất đáo” là địa vị Thập Địa. [Bồ Tát tâm loại] thứ năm là các địa vị Đẳng Giác và Diệu Giác.

 

(Sao) Ngũ, Vô Thượng Bồ Đề, vị tọa đạo tràng, thành tối Chánh Giác dã.

()五、無上菩提,謂坐道場,成最正覺也。

(Sao: Năm là  Vô  Thượng  Bồ  Đề, nghĩa  là  ngồi  nơi  đạo  tràng, thành Chánh Giác cao tột).

Giống như trong phẩm Phổ Môn và kinh Lăng Nghiêm đã nói: Nên dùng thân Phật để đắc độ, bèn hiện thân Phật để thuyết pháp. Đó là hiện thân Phật để “thành tối Chánh Giác”.

 

(Sao) Nhi trì danh, tắc đắc bất thoái chuyển địa, trực chí thành Phật cố.

()而持名,則得不退轉地,直至成佛故。

(Sao: Nhưng trì danh bèn đắc địa vị bất thoái chuyển, tiến thẳng đến thành Phật).

Liên Trì đại sư đã kết quy cả năm loại Bồ Đề tâm trong Đại Trí Độ Luận vào trì danh niệm Phật. Do vậy có thể biết, công đức và lợi ích của trì danh xác thực là chẳng thể nghĩ bàn. Nếu quý vị chẳng biết năm loại Bồ Đề tâm này, chẳng sao cả! Chỉ cần quý vị thật thà niệm câu Phật hiệu này, năm loại Bồ Đề tâm đều ở trong một câu hồng danh sáu chữ. Không hiểu mà niệm đến mức thuần thục, thấu suốt, vẫn có thể chứng đắc, đó là sự hay khéo của Tịnh Tông, các pháp môn khác chẳng thể sánh bằng! Sách Diễn Nghĩa đã giảng cặn kẽ năm điều này:

 

(Diễn) Thiện trung thiện hạ.

()善中善下。

(Diễn: Từ “điều lành nhất trong các điều lành” trở đi).

 Giải thích đoạn văn [trong lời Sớ] từ chữ “thiện trung thiện” trở đi.

 

(Diễn) Thị thích trì danh, nãi thiện trung thiện.

()是釋持名,乃善中善。

(Diễn: Nhằm giải thích trì danh chính là điều lành nhất trong các điều lành).

Giải thích trì danh niệm Phật chính là điều lành nhất trong các điều lành, là điều lành bậc nhất trong tất cả hết thảy thiện pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng có gì tốt lành hơn được! Chúng ta nhất định phải nhận biết rõ ràng điều này. Do đó, người trì danh là người lành nhất trong những người lành. Vì thế, được chư Phật hộ niệm, trời, rồng tôn trọng, vì sao? Quý vị là thiện nhân bậc nhất trong thế gian và xuất thế gian, quý vị tu thiện pháp bậc nhất, mấy ai hay biết? Lời này tuyệt đối chẳng phải do kẻ niệm Phật tự bốc thơm chính mình, chẳng phải vậy! Năm loại Bồ Đề dưới đây đã chứng minh cách nói này quyết định là chánh xác. Chúng ta hãy xem phần giải thích dưới đây:

 

(Diễn) Phát tâm Bồ Đề, tức thị Viên Giáo Ngũ Phẩm vị. Thử sở phát chi tâm, tức thị tùy hỷ tâm. Diệu tâm thể cụ như Như Ý Châu. Tâm, Phật, cập chúng sanh, thị tam vô sai biệt. Thử tâm tức Không, tức Giả, tức Trung. Sơ tâm tri thử khánh kỷ, khánh nhân, sở vị “ư sanh tử trung phát Đại Bồ Đề tâm” dã.

()發心菩提,即是圓教五品位。此所發之心,即是隨喜心。妙心體具如如意珠,心佛及眾生,是三無差別。此心即空即假即中。初心知此慶己慶人,所謂於生死中發大菩提心也。

(Diễn: Phát tâm Bồ Đề chính là địa vị Ngũ Phẩm trong Viên Giáo. Cái tâm đã phát này chính là tâm tùy hỷ. Thể của diệu tâm trọn đủ giống như Như Ý Châu. Tâm, Phật, chúng sanh là ba thứ chẳng sai biệt. Tâm ấy chính là Không, chính là Giả, chính là Trung. Hàng sơ tâm biết điều này bèn mừng cho mình, mừng cho người, đó gọi là “ở trong sanh tử mà phát đại Bồ Đề tâm”).

“Viên Giáo Ngũ Phẩm vị” (Địa vị Ngũ Phẩm[104] trong Viên Giáo) thuộc về Viên Giáo, chẳng phải là Tạng Giáo, Thông Giáo, hay Biệt Giáo. Vào đời Tùy, trước khi Trí Giả đại sư vãng sanh, các học trò hỏi Ngài: “Lão nhân gia sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới có phẩm vị như thế nào?” Trí Giả đại sư bảo mọi người: “Do ta lãnh chúng, làm Trụ Trì, phụ trách sự vụ hành chánh trong tự viện, lỡ làng sự tu học của chính mình, chỉ chứng đắc địa vị Ngũ Phẩm”. Đây là đại sư nói khiêm hư, cũng là nhằm hiện thân thuyết pháp để dạy chúng ta. Nói cách khác, nếu Ngài không làm Trụ Trì, chẳng lãnh chúng, sẽ là thượng phẩm thượng sanh, quyết định chẳng thuộc vào địa vị Ngũ Phẩm. Cho thấy những người làm Trụ Trì, làm Đương Gia, làm chấp sự trong tự viện đã xả mình vì người, hy sinh chính mình để thành toàn kẻ khác. Nhưng sự hy sinh ấy cũng có hạn độ; nếu hy sinh đến cuối cùng [chính mình] chẳng thể vãng sanh, thậm chí đọa lạc trong tam đồ, sai lầm mất rồi! Người ta hy sinh, mức độ thấp nhất là còn có thể vãng sanh trong địa vị Ngũ Phẩm, đây là chỗ chúng ta phải học tập. Nếu như chính mình chắc chắn đã nắm vững vãng sanh, phẩm vị thấp đôi chút cũng chẳng sao, đáng giá lắm, giúp đỡ hết thảy mọi người tu tập Tịnh Độ. Địa vị Ngũ Phẩm là hạn mực thấp nhất, sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư.

“Phát tâm Bồ Đề”, “phát” là khải phát (啟發: khơi gợi, phát khởi), “phát” (發) cũng là phát hiện, cũng là Thỉ Giác, bắt đầu giác ngộ. “Thử sở phát chi tâm, tức thị tùy hỷ tâm” (Cái tâm được phát ấy chính là tâm tùy hỷ). Trong Ngũ Phẩm có [một phẩm công đức là] Tùy Hỷ, chính là “tùy hỷ công đức” trong mười đại nguyện vương, tùy thuận ai? Tùy thuận chư Phật, Bồ Tát. Mười phương ba đời hết thảy chư Phật Như Lai đều dùng trì danh niệm Phật để phổ độ hết thảy chúng sanh hòng viên mãn Vô Thượng Bồ Đề ngay trong một đời, [trở thành] người thật sự giác ngộ, chúng ta tùy hỷ điều này. Đó là trên tùy thuận chư Phật, dưới là [tùy thuận] hết thảy chúng sanh có cơ duyên thành Phật đã chín muồi. Chín muồi là như thế nào? Người ấy vừa được nghe pháp môn Trì Danh Niệm Phật này liền hoan hỷ, tin tưởng, tiếp nhận, thật thà niệm Phật. Đó là chúng sanh đã có căn cơ chín muồi. Người căn cơ chín muồi đáng cho chúng ta tùy hỷ. Trên là tùy hỷ chư Phật, dưới tùy hỷ chúng sanh có căn cơ chín muồi. Điều này rất khó có, rất khó khăn! Chúng ta hãy ngẫm xem: Có mấy ai thật sự phát tâm làm Phật? Hiện thời, tôi nghe rất nhiều đồng học tới kể lể: Cuộc sống rất khổ sở, làm việc rất vất vả, làm nghề gì cũng trắc trở! Do vậy, tôi khuyên họ: Nghề làm Phật tốt đẹp hơn bất cứ nghề nào khác. Nếu có thể, hãy đổi sang nghề làm Phật! Làm Phật mà nếu thật sự thành Phật trong một đời này, đúng là đừng nói đến nghề nghiệp thế gian, ngay cả nghề nghiệp xuất thế gian cũng chẳng sánh bằng! Quý vị đã luôn luôn chọn lựa đúng đắn, cái tâm ấy đã thật sự phát ra.

“Diệu tâm” là chân tâm,  là bản tánh.  Cái tâm chúng ta niệm Phật là diệu tâm. Trong cái tâm niệm Phật, chỉ có một câu Phật hiệu. Trừ câu Phật hiệu ra, chẳng có vọng niệm thứ hai, thì cái tâm ấy là diệu tâm. Lục Tổ đại sư đã giảng về cái Thể của diệu tâm [như sau]: “Nào ngờ tự tánh vốn sẵn trọn đủ”, Chân Như bản tánh của chính mình vốn sẵn trọn đủ, trọn đủ vô lượng trí huệ, vô lượng đức năng, giống như Như Ý Châu, thuận theo lòng mong muốn, biến hóa vô cùng. “Tâm, Phật, cập chúng sanh, thị tam vô sai biệt” (Tâm, Phật và chúng sanh là ba thứ không sai biệt): Tâm là Thể, Phật và chúng sanh đều là tướng được hiện trong bản thể. Đã giác ngộ thì cái tâm ấy bèn hiện ra Phật, [hiện ra] cảnh giới Phật. Mê mất tự tánh thì cái được hiện ra sẽ là chúng sanh, là cảnh giới của chúng sanh. Do vậy, chúng sanh và Phật đều do tự tánh biến hiện, vấn đề là quý vị giác hay mê? Người thế gian mê nhiều, giác ít. Đừng nói người bình phàm mê chứ không giác, ngay cả kẻ niệm Phật hoặc người học Phật, có mấy ai thật sự giác ngộ? Chúng ta cứ suy xét chính mình, [sẽ thấy bản thân] chẳng hề giác ngộ.

Giác ngộ có tiêu chuẩn hay không? Có tiêu chuẩn. Ở đây, kể ra năm tiêu chuẩn, là tiêu chuẩn thấp nhất. Ở chỗ này, tôi mới thưa cùng các vị đồng tu, người giác ngộ chẳng có vọng niệm. Kẻ có vọng niệm tức là chẳng giác ngộ. Ta còn nghĩ tới chính mình, còn nghĩ tới nhà của ta, còn suy nghĩ trước sau; đó là mê hoặc, điên đảo, chẳng phải là giác ngộ. Tâm địa người giác ngộ vĩnh viễn thanh tịnh, ý niệm gì cũng chẳng có, hiện tại, quá khứ, vị lai, người ấy đều biết rành rẽ, rõ ràng. Vì sao? Tâm thanh tịnh soi chiếu cảnh giới bên ngoài, thấy Thật Tướng của các pháp. Chúng ta khởi tâm động niệm, suy nghĩ loạn xạ, hoàn toàn chẳng thấy chân tướng bên ngoài. Hãy từ tiêu chuẩn này mà cảm nhận, phản tỉnh, sẽ biết rốt cuộc chính mình là giác hay mê! Tôi lại nói minh bạch hơn một chút, người thật sự giác ngộ nhất định sẽ chọn nghề nghiệp làm Phật. Thế nhưng người phát tâm xuất gia hiện thời chưa chắc đã thật sự giác ngộ. Người thật sự giác ngộ nhất định xuất gia, nhưng người xuất gia chưa chắc đã thật sự giác ngộ. Chư vị hãy khéo nghiền ngẫm ý vị của hai câu này nhé!

 

(Diễn) Thử tâm tức Không, tức Giả, tức Trung.

()此心即空即假即中。

(Diễn: Tâm này chính là Không, chính là Giả, chính là Trung).

Đại Thừa Phật pháp thường gọi Không, Giả, Trung là Thể, Tướng,

Dụng; tông Thiên Thai thay đổi danh từ, gọi chúng là Không, Giả, Trung.

“Không” là nói về bản thể. Bản thể xác thực là Không, vì sao? Quý vị quyết định chẳng đạt được, nhưng nó là có! Tuy có, quý vị chẳng đạt được, chư vị đồng tu phải giác ngộ điểm này. Trong thế gian, quý vị có thể đạt được thứ gì? Thứ gì cũng đều chẳng đạt được! Nếu quý vị nói “có thể đạt được” thì là ngu si, là lừa mình, dối người. Không chỉ là vật ngoài thân quý vị chẳng đạt được thứ gì, mà thân thể cũng chẳng đạt được. Chúng ta ngồi ở nơi đây, các tế bào trong thân thể thay cũ đổi mới trong từng sát-na. Vì thế, trong hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng có một thứ gì để đạt được! Nếu quý vị thật sự hiểu chân tướng sự thật này, sẽ là giác ngộ, chẳng còn truy cầu nơi sự tướng, chẳng còn nữa! Tất cả hết thảy các pháp trong thế gian, dẫu là trong hiện thời hình như đạt được, nói thật thà, cái mà quý vị tạm thời đạt được là quý vị có quyền lực chi phối nó, chẳng phải là quyền sở hữu. Xác thực là quý vị chẳng có quyền sở hữu! Ví như nay quý vị có được một món tiền thì có thật sự đạt được món tiền ấy hay chăng? Hễ chết đi, thứ gì cũng chẳng mang theo được. Bất quá là để cho quý vị xem chơi chốc lát trong hiện tiền; trong lúc này, quý vị có quyền lực chi phối. Quí vị chi phối thích đáng bằng cách dùng nó để tu phước tích đức cho chính mình, còn chi phối chẳng thích đáng là dùng nó để tạo nghiệp, sẽ còn có ác báo trong tương lai. Do vậy, phải ghi nhớ, chính mình quyết định chẳng có [thứ gì]! Có cơ hội để chi phối như vậy, sao không dùng nó vào chỗ tốt lành? Thiện là gì? Lợi ích hết thảy chúng sanh; nhất là để tuyên dương Chánh Pháp trong thời đại này. Đó chính là quý vị sử dụng thỏa đáng nhất, chẳng bỏ lỡ. Nếu cầu cho chính mình hưởng thụ, nói thật thà, nhất định là sẽ chẳng thể hưởng thụ, gây tạo một thân tội nghiệp, tùy thuộc là giác hay bất giác? Do vậy, hiểu bản thể của hết thảy vạn pháp là Không.

“Giả” là nói tới tướng trạng. Chúng ta có được cái thân này, thân là nói tới tướng trạng. Hoàn cảnh để chúng ta nương tựa hòng sanh tồn chính là tướng trạng. Trong những tướng của hết thảy các vật, các tướng là giả tướng. Vì sao là giả tướng? Sanh diệt trong từng sát-na, biến hóa trong từng sát-na. Động vật có sanh, lão, bệnh, tử. Thực vật có sanh, trụ, dị, diệt. Khoáng vật có thành, trụ, hoại, không. Do đó, tướng là giả, chẳng thật.

“Trung” là Dụng. Quý vị sử dụng hết sức thích đáng. Đó là Trung. Đã chẳng lệch về Không, mà cũng chẳng nghiêng sang Có. Vì thế, đối với Dụng thì phải dùng Trung. Nhà Phật nói “dùng Trung”, Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế là dùng Trung. Nho gia cũng nói dùng Trung. Sách Trung Dung dạy chúng ta phải dùng Trung. Khi Phật giáo còn chưa truyền đến Trung Hoa, thánh nhân Trung Hoa cũng hiểu đạo lý này, chỉ dạy chúng ta phải dùng Trung. Chúng ta dùng Trung, chính là tác dụng chánh đáng của cái tâm. Biết Thể là Không, tướng là Giả, Dụng thì phải Trung.

“Sơ tâm tri thử”, [nghĩa là] kẻ sơ phát tâm đã hiểu, đã biết chân tướng này, rất đáng mừng, mừng vui vì lẽ gì? Một đời này, chắc chắn chẳng tạo nghiệp, một đời này sẽ chắc chắn chẳng phạm lỗi lầm, đời này quyết định chẳng mê mất. Nói cách khác, tâm hạnh thuần thiện. Dẫu chẳng thể vãng sanh thế giới Tây Phương, đời sau cũng là đại phước báo trong cõi nhân thiên, lẽ nào người ấy chẳng tự mình vui mừng? Đem những gì chính mình đã nhận biết, đã giác ngộ, truyền trao người khác, thấy người khác cũng hiểu rõ, bèn mừng giùm cho họ. [Đó chính là ý nghĩa của câu] “khánh kỷ, khánh nhân” (mừng cho mình, mừng cho người); nhưng chư vị phải hiểu, đổi hết thảy thiện nghiệp thành phước báo nhân thiên trong đời sau thì vẫn là ngu si cùng cực! Vì sao? Không thoát khỏi luân hồi, sẽ là sự phiền phức to tát! Không thoát khỏi luân hồi, ắt đọa ác đạo. [Dẫu cho] đời sau quý vị chẳng đọa ác đạo, đời sau nữa sẽ đọa ác đạo, chẳng thể bảo đảm quý vị đời đời kiếp kiếp giác chứ không mê. Hễ đầu thai bèn bị mê khi cách ấm, quên sạch sành sanh những điều đã giác ngộ trong đời trước. Bồ Tát còn bị thoái chuyển. Do vậy, chẳng thoát khỏi tam giới thì chẳng phải là thật sự giác ngộ. Thật sự giác ngộ thì nhất định là phải vượt thoát sanh tử luân hồi ngay trong một đời này. Đó mới là thật sự giác ngộ. Vượt thoát sanh tử luân hồi, xác thực là điều mong cầu của những chúng sanh giác ngộ. Mong cầu là một chuyện, có thể làm được hay không lại là một chuyện khác! Vì sao chẳng làm được? Chư vị phải hiểu: Đức Phật giảng vô lượng pháp môn, mỗi pháp môn đều là liễu sanh tử, thoát tam giới, chắc chắn chẳng sai! Nhưng nếu căn tánh của chúng ta chẳng phù hợp các pháp môn ấy, quý vị sẽ tu rất nhọc nhằn, tu rất mệt mỏi, mà chẳng đạt được hiệu quả, quý vị lại lầm lỡ một đời này. Đời này bị lầm lỡ, chưa chắc đời sau ắt sẽ có thể được làm thân người. Dẫu được làm thân người, chưa chắc là đã có thể nghe Phật pháp! Do vậy, phải tới đời nào, kiếp nào sẽ lại có thể gặp gỡ? Đó là một ẩn số, khổ không thể nói nổi! Vì vậy, người thật sự giác ngộ sẽ nắm chắc cơ duyên hiện tiền, quyết định chớ nên dễ duôi, ta đừng chờ đến đời sau, mà phải thành tựu ngay trong một đời này!

Muốn thật sự thành tựu trong một đời này, nói thật thà, chỉ có một pháp môn là Trì Danh Niệm Phật. Quyết định chẳng còn hoài nghi những điều đã nói trong kinh Vô Lượng Thọ và kinh Di Đà, khăng khăng một mực tu học. Như vậy thì quý vị thật sự đáng mừng lắm, quyết định thành tựu trong một đời này. Thật sự tu học, ắt phải buông xuống vạn duyên. Thứ gì buông xuống chẳng được, thứ đó sẽ là một món chướng ngại. Hễ trong tâm có một điều gì vướng mắc, sẽ giống như trong lục đạo luân hồi có một sợi dây thừng đang trói chặt quý vị. Quý vị chẳng thể cắt đứt nó, trong tương lai, nó sẽ biến thành chướng ngại khi vãng sanh. Ắt cần phải chặt đứt hết sạch những thứ dây leo, dây trói ấy, khiến cho chúng ta thật sự nhận thức rõ ràng thế giới này, xác thực là chẳng có mảy may tham luyến nào. Có như vậy thì trong tương lai, chúng ta mới tự tại ra đi. Đó là “ư sanh tử trung, phát đại Bồ Đề tâm” (trong sanh tử, phát đại Bồ Đề tâm). Nhất là thời đại hiện tại là [thời đại của] thiên tai nhân họa! Trước khi vãng sanh, thầy Lý đã nói: “Kiếp nạn này, chư Phật, Bồ Tát thần tiên đều cứu không được”, do nghiệp lực của chúng sanh cảm vời. Chúng ta và chúng sanh có cộng nghiệp, nhưng trong cộng nghiệp có biệt nghiệp. Biệt nghiệp là sự tu hành khác biệt của mỗi cá nhân. Cá nhân nghiêm túc tu hành; đó là biệt nghiệp, có thể miễn trừ tai nạn. Đấy là thật sự giác ngộ, thật sự phát tâm cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, điều này được gọi là “phát tâm Bồ Đề”.

 

(Diễn) Phục tâm Bồ Đề.

()伏心菩提。

(Diễn: Phục tâm Bồ Đề).

Sau khi đã phát tâm, phải phục tâm. “Phục” (伏) là gì vậy? [Chế phục] phiền não, tập khí. Đã phát tâm mà quý vị chẳng chế phục vọng tưởng, tập khí, sẽ chẳng thể vãng sanh. Phục tâm là tu hành, phát tâm là giác ngộ, tức là hiểu rõ ràng chân tướng sự thật, đã giác ngộ. Đã giác ngộ thì phải bắt đầu tu, “phục tâm” (伏心) là tu. Trước hết là phải chế phục phiền não. Từ vô thỉ kiếp tới nay, chúng ta tham, sân, si, mạn, các phiền não tập khí ấy rất nặng, làm cách nào để có thể chế phục chúng? Hễ quý vị có thể chế phục phiền não, bèn có thể vãng sanh. Chẳng thể chế phục phiền não, mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu cũng chẳng thể vãng sanh, đúng như cổ nhân đã bảo: “Hét toạc cổ họng cũng uổng công”. Vì sao uổng công? Quý vị chẳng chế phục phiền não tập khí, vẫn lại tạo nghiệp. Thân chẳng tạo nghiệp, miệng chẳng tạo nghiệp, ý đang tạo nghiệp, còn làm thế nào được nữa? Ác tập khí nơi ba nghiệp thân ngữ ý ắt đều phải chế phục; dùng phương pháp gì để chế phục? Dùng một câu A Di Đà Phật để chế phục chúng. Có thể thật sự chế phục, Tịnh Tông bèn nói là “công phu thành phiến”, mãi cho đến Sự nhất tâm bất loạn đều là chế phục.

 

(Diễn) Tức thị Viên Giáo Sơ Tín chí Thất Tín vị. Dĩ Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, tùng Nhị Tín chí Thất Tín đoạn Tư Hoặc tận, sở vị đoạn chư phiền não, hàng phục kỳ tâm dã.

()即是圓教初信至七信位。以初信斷見惑,從二信至七信斷思惑盡,所謂斷諸煩惱降伏其心也。

(Diễn: Chính là địa vị từ Sơ Tín cho tới Thất Tín trong Viên Giáo. Do Sơ Tín đoạn Kiến Hoặc, từ Nhị Tín cho đến Thất Tín đoạn sạch Tư Hoặc, nên nói là “đoạn các phiền não, hàng phục cái tâm”).

Kinh Kim Cang nói: “Vân hà hàng phục kỳ tâm” (Làm thế nào để hàng phục cái tâm), [“cái tâm” trong câu kinh ấy] chỉ phiền não, tập khí. Nhất định phải sửa lỗi, đổi mới, chớ nên làm chuyện náo nhiệt nữa! Suốt một đời lão hòa thượng Hư Vân, chúng ta xem Niên Phổ của Ngài, [thấy Ngài] tạo dựng nhiều đạo tràng ngần ấy, trùng tu khá nhiều đạo tràng từ thời nảo, thời nao, đến nay đã tuyệt tích chẳng còn. Nhọc nhằn cả một đời, lưu lại gì? Một đạo tràng cũng chẳng còn sót lại, nhưng Ngài để lại tinh thần. Tinh thần ấy chính là kiến lập Phật pháp, khiến cho Chánh Pháp tồn tại lâu dài. Chúng ta hãy quan sát thời tiết nhân duyên trong hiện thời để xem có thích hợp xây dựng đại đạo tràng hay không? Chẳng thích hợp! Trong các buổi giảng, chúng tôi thường nhắc nhở chư vị đồng học, hiện thời là thời đại nào? Lập đại đạo tràng là trong xã hội nông nghiệp xưa kia. Xã hội nông nghiệp có thời gian nhàn rỗi nhiều. Sau khi thu hoạch vụ Thu, trước khi canh tác vụ Xuân, tối thiểu là có thời gian hai ba tháng chơi không, nên có thể đến tu hành trong đạo tràng. Người hiện thời suốt ngày từ sáng đến tối bận túi bụi như vậy, mỗi tuần khó có được thời gian nghỉ ngơi một ngày, lấy đâu ra thời gian để đến đạo tràng tu hành? Vì vậy, dựng đại đạo tràng, dựng to cho cố vào, sẽ biến thành chỗ để du lịch, vãn cảnh. Chúng ta bỏ tiền, bỏ sức để dựng đạo tràng nhằm du lịch, vãn cảnh, chẳng có ý nghĩa chi hết! Tuy có danh xưng đẹp đẽ, cũng là tuyên truyền Phật pháp, khiến cho kẻ khác ngắm nhìn hình tượng Phật, Bồ Tát, sẽ gieo một chủng tử vào A Lại Da Thức, có tí xíu ảnh hưởng như vậy, nhưng yếu ớt quá! Trong thời đại hiện tại, đạo tràng thật sự là đài phát thanh vô tuyến và đài truyền hình, chúng ta có thể lợi dụng đạo tràng như vậy để hoằng dương Chánh Pháp, khiến cho mọi người đối với Phật pháp thật sự có thể hiểu rõ, thật sự nhận thức, chẳng đến nỗi nẩy sanh hiểu lầm. Tiến thêm một bước nữa là họ phát tâm tu học. Lợi ích ấy vô lượng vô biên.

Hiện nay, Đài Loan có nhiều chùa chiền, tài lực hùng hậu; có thể tập hợp tài lực lại, tôi tin là có thể lập ra dăm ba công ty truyền hình, chẳng thành vấn đề! Đó là đạo tràng Phật giáo của chúng ta. Tiếp nữa, trong quá khứ, chúng tôi thường nghĩ tới Di Đà Thôn, [đó là nơi] các đồng tu đã nghỉ hưu có thể ở chung với nhau cộng tu niệm Phật. Đạo tràng ấy có giá trị, tuyệt đối chẳng phải là nơi để vãn cảnh, mà là nơi chuyên dành cho người cao tuổi và người về hưu niệm Phật tấn tu tại đó. Chẳng cần [xây dựng theo] hình thức chùa miếu, lãng phí quá nhiều tiền bạc; cứ dựng theo lối nhà ở thông thường, trong đó, lập một Niệm Phật Đường lớn, tạo thành một trung tâm hoạt động theo quy mô lớn là đủ rồi, thứ gì khác cũng đều chẳng cần! Thật thà niệm Phật, hàng phục cái tâm là khẩn yếu, nhằm vào mục đích đoạn Kiến Tư phiền não.

Nếu chúng ta niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, chẳng đoạn Kiến Tư phiền não mà có thể thành tựu, chẳng thể có chuyện ấy! Chư vị phải giác ngộ điều này. Thật sự mong cầu vãng sanh thì phải đoạn Kiến Tư phiền não; đoạn không được thì cũng phải chế phục. Chế phục chẳng được thì [niệm Phật] chỉ là gieo thiện căn trong A Lại Da mà thôi, chắc chắn là chẳng thể vãng sanh. Điều kiện tối thiểu để vãng sanh là phải chế phục [phiền não]. Tuyệt đối chẳng thể nói “chẳng chế phục phiền não, vẫn có thể vãng sanh”, chẳng có chuyện ấy! Tra tìm trong kinh, chẳng hề thấy [dạy như vậy]. Từ xưa đến nay, cũng chẳng có trường hợp ấy, chẳng có tiền lệ để viện dẫn được! Nay quý vị hãy suy ngẫm cặn kẽ, quý vị sẽ vãng sanh, hay là vẫn phải luân hồi trong lục đạo? Nếu chẳng thể đoạn tham, sân, si, mạn, thất tình, ngũ dục, [dẫu] hằng ngày niệm A Di Đà Phật, vẫn phải luân hồi trong lục đạo. Thật đấy, chẳng giả đâu! Do đó, quyết định là phải đoạn! [Đoạn hay chế phục Kiến Tư phiền não] nói theo pháp môn Tịnh Tông sẽ là Sự nhất tâm bất loạn. Công phu thành phiến là Sự nhất tâm ở mức nông cạn nhất. Kiến Hoặc đã đoạn thì là trung phẩm Sự nhất tâm. Tư Hoặc cũng đoạn, bèn là thượng phẩm Sự nhất tâm.

 

(Diễn) Minh tâm Bồ Đề, tức thị Viên Giáo Thập Tín mãn tâm nhập Sơ Trụ vị. Thử vị chứng nhất tâm tam trí, dĩ song vong chi lực tri tịch diệt tướng, dĩ song chiếu chi lực tri chủng chủng tướng mạo, sở vị “liễu đạt chư pháp Thật Tướng” dã.

()明心菩提,即是圓教十信滿心入初住位。此位證一心三智,以雙亡之力知寂滅相,以雙照之力知種種相貌,所謂了達諸法實相也。

(Diễn: Minh tâm Bồ Đề chính là viên mãn tâm Thập Tín trong Viên Giáo, dự vào địa vị Sơ Trụ. Địa vị này chứng nhất tâm, tam trí, dùng sức song vong để biết tướng tịch diệt, dùng sức song chiếu để biết các thứ tướng mạo. Đó gọi là “liễu đạt Thật Tướng của các pháp”).

Địa vị này đã cao, chính là Lý nhất tâm bất loạn, từ Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên, vượt trỗi A La Hán rất nhiều. Công phu niệm Phật sâu đậm, niệm đến mức Kiến Tư và Trần Sa phiền não đều đoạn sạch, lại phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân, bèn thuộc về địa vị này. Địa vị này đã đạt được “nhất tâm tam trí”. Tam trí là Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng Trí, và Nhất Thiết Chủng Trí. Ba loại chủng trí này, người ấy đều đạt được. Kinh Hoa Nghiêm gọi địa vị này là Pháp Thân đại sĩ, tông Duy Thức gọi họ là Đồng Sanh Tánh. Phát tâm và phục tâm trong phần trước vẫn là Dị Sanh Tánh. Dị Sanh Tánh (異生性) nghĩa là quý vị và Phật chẳng dùng cùng một cái tâm, nên gọi là Dị Sanh, tức là do hai tâm nên gọi là Dị Sanh. Vì sao? Quý vị dùng cái tâm tám thức. Đạt đến minh tâm Bồ Đề, sẽ chẳng dùng tám thức, chuyển tám thức thành bốn trí, người ấy dùng cùng một cái tâm như chư Phật Như Lai, nên gọi là Đồng Sanh Tánh (同生性): Dùng chân tâm, chẳng dùng vọng tâm. Trong phần trước, chỉ dùng vọng tâm, chẳng dùng chân tâm, đến chỗ này bèn dùng chân tâm. Chân tâm quyết định chẳng có phân biệt, chẳng có vọng niệm. Trong tựa đề kinh Vô Lượng Thọ đã nói chân tâm là “thanh tịnh tâm, bình đẳng tâm, giác tâm”. Tâm chúng ta chẳng thanh tịnh, chẳng bình đẳng, đó là vọng tâm. Đến chỗ này, mới dùng chân tâm. Trong chân tâm, trọn đủ ba loại trí:

– Nhất Thiết Trí biết bản thể của các pháp, tức là biết Không.

– Đạo Chủng Trí biết Giả, tất cả hết thảy muôn tướng đều là giả, tức là giả tướng.

– Nhất  Thiết  Chủng  Trí là nói về tác dụng,  dùng Trung, [thường gọi là] Trung Đế.

Đối với“tức Không, tức Giả, tức Trung” như tông Thiên Thai đã nói, đến chỗ này mới có thể ứng dụng trong cuộc sống.

“Song vong” (雙亡) là hai bên đều chẳng chấp trước, hai bên đều vứt bỏ, nên biết “tướng tịch diệt”. Tướng tịch diệt được chứng đắc nơi quả địa Như Lai, là chân tướng của hết thảy các pháp. Người ấy còn chưa chứng đắc tướng thanh tịnh tịch diệt, nhưng đã biết. Nay chúng ta nghe nói, vẫn chưa biết, đừng tưởng là chính mình đã biết, đâu hề biết! Chỉ nghe nói danh từ tướng tịch diệt này, chứ tướng tịch diệt là như thế nào, chẳng có cách nào lý giải! Đối với người ấy (người đã đắc minh tâm Bồ Đề), tuy có thể lý giải, nhưng chưa chứng đắc.

“Dĩ song chiếu chi lực” (Dùng sức song chiếu), song chiếu (雙照) là Huệ, song vong (雙亡) là Định. Định là trong tâm chẳng sanh một niệm; Song Chiếu là nhận biết, chẳng có gì không hiểu, thứ gì cũng đều biết. Tuy thứ gì cũng đều biết, tâm người ấy thanh tịnh. Tịch và Chiếu đồng thời, rành rành là như như bất động. Bồ Tát đã đạt đến địa vị này thì đối với các pháp thế gian và xuất thế gian, chẳng có gì không thông đạt. Tuy thông đạt hết thảy, nhưng như như bất động, trong hết thảy các pháp, chẳng khởi tâm, không động niệm, chẳng phân biệt, không chấp trước, đạt đến cảnh giới như vậy.

“Sở vị liễu đạt chư pháp Thật Tướng” (Đó gọi là hiểu rõ, thông đạt Thật Tướng của các pháp), đây là Lý nhất tâm bất loạn, lên cao hơn sẽ đều là Lý nhất tâm bất loạn. Minh tâm Bồ Đề thuộc về địa vị Tam Hiền, tức là Thập Trụ, Thập Tín, và Thập Hồi Hướng, gồm tất cả ba mươi địa vị.

 

(Diễn) Xuất đáo Bồ Đề, tức thị Viên Giáo Sơ Địa chí Bát Địa vị.

()出到菩提,即是圓教初地至八地位。

(Diễn: Xuất đáo Bồ Đề chính là địa vị từ Sơ Địa cho tới Bát Địa trong Viên Giáo).

Hàng Địa Thượng Bồ Tát trong Viên Giáo từ Sơ Địa đến Bát Địa có tám địa vị.

 

(Diễn) Dĩ Sơ Địa thỉ đắc Pháp Nhẫn quang minh, chí Bát Địa phương danh “chân đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn”, vi thâm hạnh Bồ Tát.

()以初地始得法忍光明,至八地方名真得無生法忍,

為深行菩薩。

(Diễn: Do Sơ Địa mới đắc Pháp Nhẫn quang minh, đạt đến Bát Địa mới gọi là “thật sự đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn”, là bậc Bồ Tát hạnh sâu).

Nói theo kinh Nhân Vương, Thất Địa đã chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, nhưng Thất Địa là hạ phẩm, Bát Địa là trung phẩm, Cửu Địa là thượng phẩm, khác với cách nói ở chỗ này (cách nói trong Sớ Sao và sách Diễn Nghĩa). Ở đây, nói Sơ Địa đã chứng đắc. Nói thật ra, Vô Sanh Pháp Nhẫn do Sơ Địa chứng đắc là Tương Tự Vô Sanh Pháp Nhẫn, chẳng phải là thật sự. Vô Sanh Pháp Nhẫn thật sự thì phải từ Thất Địa Bồ Tát [trở lên] mới chứng đắc. Ở đây nói Bát Địa mới là thật sự đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Bát Địa là trung phẩm Vô Sanh Pháp Nhẫn, thật sự chứng đắc; Thất Địa là hạ phẩm. Trước khi đạt đến Thất Địa, đương nhiên càng không cần phải nói nữa!

Vô Sanh Pháp Nhẫn nghĩa là gì? “Pháp” (法) là nói hết thảy vạn pháp, tức hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Vô Sanh (無生) là nói hết thảy các pháp bất sanh. Hết thảy các pháp bất sanh, lấy đâu ra diệt? Có sanh thì mới có diệt, bất sanh đương nhiên là bất diệt! Nay chúng ta thấy hết thảy các pháp có sanh, có diệt; hàng Bồ Tát từ Thất Địa trở lên, thấy hết thảy các pháp bất sanh, bất diệt, hoàn toàn khác hẳn chúng ta. Chúng ta ngơ ngác chẳng hiểu điều này, vĩnh viễn chẳng có cách nào lý giải. Chúng ta thấy hết thảy các pháp rành rành là có sanh, có diệt, há có gì là bất sanh, bất diệt! Chỉ có [khi nào] chính mình đã chứng đắc Bát Địa Bồ Tát thì mới biết được chuyện này. Chưa chứng đắc Bát Địa Bồ Tát, nói kiểu nào cũng không hiểu! [Chuyện này] chẳng do tư duy, tưởng tượng mà hòng thấu hiểu được, mà cũng chẳng thể biểu đạt bằng ngôn ngữ! Đấy là công phu chân thật, cảnh giới chân thật.

“Nhẫn” (忍) nghĩa là “nhẫn khả” (忍可), tức là tán thành, đồng ý. Đức Phật nói hết thảy các pháp bất sanh, bất diệt, ta đồng ý, ta thừa nhận. Vì sao đồng ý, thừa nhận? Vì ta cũng chính mắt thấy lời Phật đã nói hoàn toàn chánh xác, chẳng sai lầm tí nào! Vì thế, Nhẫn có nghĩa là đồng ý, tán thành. Kinh Đại Thừa thường nói tới cảnh giới Vô Sanh Pháp Nhẫn, quý vị mới hiểu đấy là hàng Bồ Tát có địa vị rất sâu, có địa vị rất cao!

 

(Diễn)  Nan khả tri,  vô sai biệt,  ly nhất  thiết  tướng,  nhất  thiết

tưởng, nhất thiết chấp trước.

() 難可知,無差別,離一切相一切想一切執著。

(Diễn: Khó thể biết, chẳng có sai biệt, lìa hết thảy tướng, hết thảy tưởng, hết thảy chấp trước).

Lời này là thật. Ở đây, đức Phật nói lời chân thật với chúng ta. Hàng Bồ Tát từ Sơ Địa trở lên biết cảnh giới chân thật này, biết tất cả hết thảy chúng sanh trong mười pháp giới chẳng sai biệt, chúng sanh và Phật chẳng có sai biệt, hoàn toàn là bất sanh, bất diệt. Chỉ là Phật và đại Bồ Tát giác chứ không mê; các Ngài biết rõ ràng. Phàm phu chẳng biết chân tướng sự thật; trong cảnh giới bất sanh, bất diệt, ngỡ là có sanh, có diệt, đâu có biết chân tướng là bất sanh, bất diệt. Vì thế, có sanh, có diệt là do bản thân chúng ta mê hoặc, điên đảo, thấy sai lạc hết thảy chân tướng sự thật, chẳng biết hết thảy các pháp là bất sanh, bất diệt. Bồ Tát đạt đến cảnh giới này mới thật sự “ly nhất thiết tướng”. “Ly” là không chấp trước; [“ly nhất thiết tướng”] là quyết định chẳng nhiễm hết thảy các tướng.

“Nhất thiết tưởng”: Hết thảy vọng tưởng chẳng có. Chẳng nghĩ đến chính mình, mà cũng chẳng nghĩ tới người khác. Tất cả hết thảy tưởng đều đoạn sạch, chẳng phải là sẽ biến thành vô tưởng ư? Vô tưởng cũng đoạn luôn! Không chỉ là chẳng có “hữu tưởng”, mà “vô tưởng” cũng chẳng có, mới là thật sự lìa hết thảy tưởng. Nếu chỉ đơn độc lìa hết thảy “hữu tưởng”, hãy còn có “vô tưởng”, thôi rồi! Người ấy liền sanh vào Vô Tưởng Thiên. Vì thế, vô tưởng cũng phải đoạn trừ. Chuyện này rất phiền toái. Đoạn “hữu tưởng” thì người ấy bèn vô tưởng, đoạn trừ vô tưởng thì chẳng phải là hữu tưởng ư? Chuyện này phiền toái quá, chẳng dễ hiểu! Chẳng thể rớt vào hai bên Có và Không, tâm quý vị mới thật sự là thanh tịnh, linh minh giác tri. Nếu đọa trong Vô Tưởng, [cái tâm ấy] sẽ tối tăm, trơ trơ, chẳng linh thông. Con người nếu đọa trong Vô Tưởng thì có khác gì đồ đạc? Người ấy vô tưởng, hòn gạch, tảng đá đều là vô tưởng! Mọi người phải chú tâm lãnh hội chỗ này.

“Nhất thiết chấp trước”: Hết thảy chấp trước đều chẳng có, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng chấp trước. Đấy là cảnh giới Hoa Nghiêm, Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, nhập bất tư nghị giải thoát cảnh giới. Phẩm cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm là phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện, tựa đề gốc của phẩm ấy là Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm. Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới là sở nhập (cái được chứng nhập), Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện là năng nhập (cái có thể chứng nhập). Nhập cảnh giới Bất Tư Nghị Giải Thoát thì Năng và Sở chẳng hai. Vì thế, lìa hết thảy tướng, hết thảy tưởng, hết thảy chấp trước.

 

(Diễn) Nhất thiết Thanh Văn, Bích Chi Phật sở bất năng cập.

()一切聲聞辟支佛所不能及。

(Diễn: Hết thảy Thanh Văn và Bích Chi Phật chẳng thể sánh bằng).

Đương nhiên là chẳng sánh bằng! Thanh Văn là A La Hán. Bích Chi Phật là Duyên Giác, còn gọi là Độc Giác, thông minh và trí huệ cao hơn A La Hán. Các vị ấy chẳng sánh bằng những vị Bồ Tát này.

 

(Diễn) Ly chư huyên tránh, tịch diệt hiện tiền, sở vị xuất tam giới đáo Tát Bà Nhã dã.

()離諸喧諍,寂滅現前,所謂出三界到薩婆若也。

(Diễn: Lìa các thứ ồn ào, tranh luận, tịch diệt hiện tiền, đó gọi là “thoát khỏi tam giới, đạt đến Nhất Thiết Chủng Trí”).

“Huyên” (喧) là ồn ào, “tránh” (諍) là tranh luận. Câu này nói về pháp thế gian. Lìa pháp thế gian thì lìa bằng cách nào? Có phải là thật sự lìa khỏi lục đạo luân hồi hay không? Chẳng phải vậy! Thật sự lìa khỏi lục đạo luân hồi là Thanh Văn và Bích Chi Phật, các vị ấy thật sự lìa khỏi, Bồ Tát không lìa khỏi. [Bồ Tát] sống trong thế gian mà chẳng bị thế gian nhuốm bẩn, xuất thế gian từ ngay trong thế gian. Vì thế, Thanh Văn và Bích Chi Phật chẳng sánh bằng! Bồ Tát ở trong nhiễm mà chẳng nhiễm, ở trong chỗ náo nhiệt mà thanh tịnh, điều này hàng Nhị Thừa chẳng thể sánh bằng! Đó là cảnh giới của Phật và đại Bồ Tát.

“Tịch diệt hiện tiền, sở vị xuất tam giới đáo Tát Bà Nhã dã” (Tịch diệt hiện tiền, đó gọi là “thoát khỏi tam giới, đạt đến Nhất Thiết Chủng Trí”), rốt cuộc là có xuất hay không? Có nhập hay không? Chẳng có! Chuyển biến tam giới thành biển Tát Bà Nhã (Sarvajñaḥ), cao lắm! Có xuất, có nhập thì sẽ chẳng cao. A La Hán có xuất, có nhập. Bích Chi Phật có xuất, có nhập. Quyền Giáo Bồ Tát có xuất, có nhập. Pháp Thân đại sĩ chẳng có xuất nhập. Có xuất có nhập là hai pháp. Có xuất có nhập là hai tâm, hai tâm chẳng phải là chân tâm. Trong chân tâm chẳng sanh một niệm, hễ có xuất nhập thì có niệm. Một niệm chẳng sanh, lấy đâu ra xuất nhập? Lấy đâu ra tam giới hoặc Tát Bà Nhã? Tam giới và Tát Bà Nhã là hai pháp, hai pháp sẽ không phải là Phật pháp. Chư vị hãy từ chỗ này mà thấu hiểu cặn kẽ.

Vì thế, đối với các Ngài, xuất và nhập là cùng một chuyện; các Ngài nói tam giới và Tát Bà Nhã cũng là cùng một chuyện. Đối với các Ngài thì là biển Tát Bà Nhã; đối với chúng ta là tam giới lục đạo luân hồi. Chúng ta ở cùng một chỗ, nhưng đôi bên cảm nhận khác nhau. Chúng ta thấy hết thảy các pháp có sanh, có diệt, các Ngài thấy hết thảy các pháp bất sanh, bất diệt. Các Ngài thấy chân tướng sự thật, những gì chúng ta thấy là vọng tướng (tướng hư vọng) của sự thật, [nguyên nhân là do] dùng cái tâm khác nhau!

 

(Diễn) Vô Thượng Bồ Đề, thị Viên Giáo Diệu Giác vị.

()無上菩提,是圓教妙覺位。

(Diễn: Vô Thượng Bồ Đề là địa vị Diệu Giác trong Viên Giáo).

Diệu Giác là đã thành Phật. Do vậy có thể biết, ở đây nói “xuất đáo” là từ Sơ Địa cho tới Bát Địa, trên thực tế là [từ Sơ Địa] cho đến địa vị Đẳng Giác, vì sau đó là Vô Thượng Bồ Đề. Trong Vô Thượng Bồ Đề chẳng bao gồm Cửu Địa. Nếu Cửu Địa, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác thảy đều là Vô Thượng Bồ Đề thì Xuất Đáo Bồ Đề đạt đến địa vị Bát Địa [là hết]. Vô Thượng Bồ Đề chỉ có một địa vị, do vậy có thể biết, từ Đẳng Giác trở xuống đều thuộc về Xuất Đáo Bồ Đề. Xuất Đáo Bồ Đề có mười một địa vị, tức là Thập Địa cộng thêm Đẳng Giác.

 

(Diễn) Vĩnh biệt vô minh phụ mẫu, cứu cánh đăng Niết Bàn sơn đảnh.

()永別無明父母,究竟登涅槃山頂。

(Diễn: Vĩnh biệt cha mẹ vô minh, rốt ráo lên đỉnh núi Niết Bàn).

“Vô minh” có thể sanh ra vạn pháp, nên được sánh ví như cha mẹ. “Cha mẹ” mang ý nghĩa “có thể sanh ra”. Kinh luận Duy Thức đã nói rất rõ ràng: “Do một niệm bất giác mà có vô minh”. Một niệm bất giác thì gọi là vô minh, vô minh sanh ra ba tế tướng, ba tế tướng bèn sanh ra sáu thô tướng. Luân phiên sanh ra như vậy, sẽ biến thành thế giới, biến thành vũ trụ, hết thảy vạn pháp. Trình tự của Sanh trong Phật pháp rất giống với cách nói trong kinh Dịch: “Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng sanh Bát Quái, Bát Quái sanh vạn vật”, [cách nói ấy] hết sức gần với cách nói của Phật pháp. Nhưng chư vị phải hiểu, sự Sanh ấy chẳng có trình tự trước sau, có thể nói là đồng thời. Nó xác thực là có thứ tự, nhưng quý vị chẳng có cách nào thấy được thứ tự rõ ràng. Từ một niệm bất giác cho đến biến hiện hết thảy vạn tượng là trong một niệm, giống hệt như chúng ta nằm mộng, mọi người đều có kinh nghiệm nằm mộng. Trong khi quý vị nằm mộng, nói theo lý luận, đương nhiên là nhất định phải có quá trình. Khi quý vị nằm mơ, có phát hiện quá trình nào hay không? Trước hết phải biến ra điều gì rồi mới biến ra điều gì kế đó, lại biến ra điều gì nữa? Biến thành mộng cảnh, có phát hiện hay không? Nói theo lý luận, nó nhất định có quá trình; nhưng khi nằm mơ, do quá nhanh, nên vạn hữu trong vũ trụ hễ biến hiện thì “một điều đã biến, hết thảy đều biến”, tuyệt đối chẳng có thứ tự trước hay sau.

Hiện thời, nhà khảo cổ hay nhân loại học nào cũng đều nói loài người do loài khỉ vượn dần dần tiến hóa, trong Phật pháp chẳng thừa nhận chuyện ấy, Phật pháp chẳng nói tới chuyện ấy. [Quan điểm của] Phật pháp là như trong kinh Lăng Nghiêm đã nói: “Đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận” (Sanh ra ở nơi đâu, bèn diệt ở nơi đó), “tùy chúng sanh tâm, ứng sở tri lượng” (thuận theo tâm chúng sanh, ứng với khả năng nhận biết của họ), đây là nói vạn hữu trong vũ trụ xuất hiện như thế nào, hiện hữu như thế nào. Hội Lăng Nghiêm đúng là đã chém đinh chặt sắt nói ra chân tướng sự thật chẳng có mảy may hoài nghi này! Tuyệt đối chẳng phải là tiến hóa, [thuyết tiến hóa] là do con người đang dấy vọng tưởng, đoán mò nơi hiện tượng, chẳng phải là chân tướng sự thật!

Vô minh là cội nguồn chung hết thảy vạn sự muôn tướng, nên được gọi là “cha mẹ”. Địa vị Diệu Giác đoạn sạch một phẩm sanh tướng vô minh cuối cùng, nên “vĩnh biệt vô minh phụ mẫu” (vĩnh biệt cha mẹ vô minh). Sanh tướng vô minh: Tất cả vạn tướng trong vũ trụ từ đâu mà có? Do vô minh biến hiện ra, nên gọi là sanh tướng vô minh. Đoạn hết vô minh, hết thảy các pháp bèn chẳng có. Vĩnh Gia đại sư nói: “Giác hậu không không vô đại thiên” (Giác rồi ba cõi trống toang hoang), mới thật sự triệt để hiểu rõ hết thảy các pháp bất sanh, bất diệt. “Cứu cánh đăng Niết Bàn sơn đảnh” (Rốt ráo lên đỉnh núi Niết Bàn), Niết Bàn là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là “bất sanh, bất diệt”. “Sơn đảnh”  (山頂) là ngọn cao nhất, cảnh giới bất diệt đã đạt tới tột cùng viên mãn.

 

(Diễn) Dĩ hư không vi tòa, thành thanh tịnh Pháp Thân, cư Thường Tịch Quang độ, vi Viên Giáo Phật tướng.

()虛空為座,成清淨法身,居常寂光土,為圓教佛相。

(Diễn: Lấy hư không làm tòa, thành thanh tịnh Pháp Thân, ngự trong cõi Thường Tịch Quang, đó chính là Phật tướng trong Viên Giáo vậy).

Rốt cuộc có thứ này hay không? Nói có cũng được, mà nói không vẫn được. Xác thực là nói về Pháp Thân, Pháp Thân có tướng hay không? Chẳng có tướng. “Tòa” (座) là nói chỗ ở yên, chỗ an lập, an tọa. Tướng đã chẳng có, lấy đâu ra tòa? Vì vậy, chỗ nó an lập giống như hư không. “Thanh tịnh Pháp Thân”: Pháp Thân Như Lai, tiếng Phạn là Tỳ Lô Giá Na (Vairocanaḥ), dịch sang nghĩa tiếng Hán là Biến Nhất Thiết Xứ (遍一切處: trọn khắp hết thảy các chỗ), là bản thể của hết thảy các pháp. Tông Thiên Thai nói “tức Không, tức Giả, tức Trung”, Pháp Thân chính là “tức Không”. Tuy nó là Không, nó có thể hiện tướng, có thể biến ra tướng. Tướng được biến là giả tướng, huyễn tướng, kinh Bát Nhã nói là “diệu Hữu”, Chân Không Diệu Hữu. Tâm Kinh nói “Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”, chính là nói đến Giả Sắc, còn Diệu Sắc và Chân Không là một, không hai. Tuy tướng ấy hiện hữu, nhưng nó trọn chẳng thể được, đó gọi là “thanh tịnh Pháp Thân”. Thân là cõi nước, cõi nước là thân, nên chúng ta gọi nó là “Thường Tịch Quang Độ”. Cõi Thường Tịch Quang là thanh tịnh Pháp Thân, thanh tịnh Pháp Thân là cõi Thường Tịch Quang, đấy mới là “diện mạo vốn có của chính mình”. Nếu quý vị nhận biết [chuyện này] thì tận hư không khắp pháp giới vốn là chính mình!

Chúng ta mê quá nhiều, rất đáng thương, ngỡ cái thân này là chính mình, đối với những thứ ngoài thân thảy đều không hiểu, đâu có biết những thứ ngoài thân đều là chính mình. Giống hệt như nằm mộng, mộng do đâu mà có? Mộng do cái tâm của chính mình biến hiện. Trong mộng, tất cả hết thảy cảnh giới, hết thảy nhân vật, núi, sông, đại địa, [ngay cả] hư không trong mộng, có thứ gì chẳng do tự tâm biến hiện? Có thứ nào chẳng phải là chính mình? Có mấy ai sau khi nằm mộng, tỉnh giấc bèn giác ngộ đôi chút: “Những gì ta vừa mơ thấy toàn là chính mình, chính mình đánh lộn với chính mình, chính mình cáu giận chính mình”. Các hiện tượng trước mắt chúng ta, hư không, pháp giới, tận hư không khắp pháp giới là một với chính mình. Trừ chính mình ra, chẳng tìm thấy người thứ hai. “Ngoài tâm chẳng có pháp, ngoài pháp chẳng có tâm”. Tâm là năng biến (cái có thể biến), pháp là sở biến (cái được biến ra). Năng biến và sở biến là một, không hai. Đó gọi là Phật tướng theo Viên Giáo.

 

(Diễn) Sở vị tọa đạo tràng, thành tối Chánh Giác dã.

()所謂坐道場成最正覺也。

(Diễn: Đó gọi là ngồi đạo tràng, thành Chánh Giác cao tột).

Ý nghĩa thật sự ở chỗ này, quyết chẳng phải là nói theo ý nghĩa thị hiện! [Nói theo] ý nghĩa thị hiện là nói quá nông cạn, nói quá thô, quá thông tục. Nói lời thật cùng quý vị, nói theo mức độ sâu hơn, nói đến chỗ rốt ráo thì là ý nghĩa này, đó mới gọi là “tọa đạo tràng”, mới gọi là “thành tối Chánh Giác”.

Từ phát tâm cho đến thành Phật gồm năm giai đoạn, tâm cảnh có năm tầng lớp biến hóa nên gọi là “ngũ Bồ Đề tâm”. Trong Tịnh Tông, mầu nhiệm nhất là niệm một câu A Di Đà Phật đến cùng, từ sơ phát tâm cho đến Chánh Giác cao tột, [sử dụng] một phương pháp bèn hoàn thành. Đúng là “chẳng cậy vào các phương tiện, tâm được tự khai”. Đấy là chỗ thù thắng và không thể nghĩ bàn của Tịnh Tông. Các tông phái khác, các pháp môn khác chẳng dễ dàng đạt tới, nhất là trong một đời sẽ chẳng thể đạt được. Chỉ riêng Tịnh Tông là có thể hoàn thành trong một đời; nếu chúng ta bỏ qua pháp môn này sẽ quá đáng tiếc! Đúng là cô phụ chính mình, bỏ uổng một đời này. Nếu thật sự nhận biết và triệt để hiểu rõ pháp môn này, ngay lập tức nắm lấy, quý vị bèn thành Phật trong một đời này.

Do vậy, phải nghe kinh, phải nghe cẩn thận, phải thật sự nghe hiểu, lợi ích ở chỗ nào? Phá mê, phát khởi lòng tin. Nay chúng ta chẳng tin pháp môn này! Tôi nói “không tin”, quý vị chẳng thừa nhận. Hiện thời có người nói: “Tối nay, ông có cơ hội để có thể ngay lập tức kiếm được một trăm vạn”, quý vị [nghe nói như vậy] bèn quyết định không đến [nghe kinh nữa], đi tới [chỗ đó kiếm tiền], tức là quý vị chẳng tin tưởng. [Còn như do] tối hôm nay chẳng có chuyện gì làm, chẳng kiếm tiền được, bèn đến nghe kinh, vậy thì niềm tin của quý vị là giả trất, chẳng thật! Tối hôm nay có thể kiếm món tiền trăm ức vạn, ta cũng chẳng cần, ta đến nghe kinh, đó mới là chân tín. Trong tình hình đó, có được mấy người [sẽ làm như vậy]? Tôi giảng kinh ở đây, có thể là chẳng có một ai cả! Vì thế, lòng tin quá ư là khó. Con người mê hoặc, điên đảo, từ vô thỉ kiếp tới nay đã bị bên ngoài dụ dỗ, mê hoặc; hễ bị dụ dỗ, mê hoặc bèn bỏ đi ngay. Đã thật sự hiểu rõ, thật sự thông đạt, mới biết những thứ ấy đều là giả, thứ này mới là thật. Người thế gian nhận giả, chẳng nhận thật; giảng giải, giới thiệu cùng quý vị, không gì chẳng nhằm làm cho từ nay về sau, quý vị nhận thật, chẳng nhận giả, có vậy thì quý vị mới thật sự được cứu, được cứu thoát khỏi lời lẽ [lừa lọc] của bọn ngoại đạo. Hôm nay, chúng tôi giảng đến chỗ này.

 

Tập 214

 Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm hai mươi ba:

 

(Sao) Hựu Hải Đông Sớ dẫn Bồ Tát Tâm Địa Phẩm vân: “Chư Bồ Tát sơ phát tâm, năng nhiếp nhất thiết Bồ Đề phần pháp, thù thắng thiện căn”.

()又海東疏引菩薩心地品云:諸菩薩初發心,能攝一切菩提分法,殊勝善根。

(Sao: Hải Đông Sớ lại dẫn phẩm Bồ Tát Tâm Địa[105] như sau: “Các vị Bồ Tát sơ phát tâm, có thể nhiếp hết thảy các pháp thuộc về Bồ Đề, thiện căn thù thắng”).

Trong đoạn này, Ngài dẫn ba tác phẩm, chúng ta xem trước phần này. Hải Đông là một vị pháp sư Đại Hàn sống vào đời Đường, tức là pháp sư Nguyên Hiểu (Wonhyo). Ngài sang Trung Hoa du học, từng thân cận Thiện Đạo đại sư và Thiên Thai Trí Giả đại sư. Sau khi quay về nước, hoằng dương Phật pháp, nhất là Tịnh Độ Tông, Ngài có chú giải kinh Vô Lượng Thọ. Sớ (疏) là chú giải, trong chú giải đã trích dẫn một đoạn kinh văn từ Bồ Tát Tâm Địa Phẩm. Đoạn kinh văn này chứng minh Bồ Đề là thiện căn.

“Chư Bồ Tát sơ phát tâm, năng nhiếp nhất thiết Bồ Đề phần pháp” (Các vị Bồ Tát sơ phát tâm có thể nhiếp hết thảy các pháp thuộc về Bồ Đề), trong phần trước đã nói tới năm loại Bồ Đề. Cổ đức thường nói: “Sơ phát tâm thành Phật có thừa”. Vì cái tâm thuở sơ phát tâm là chân tâm, lâu ngày chầy tháng về sau, tâm từ từ bị biến chất, tâm chẳng còn chân thật nữa! Sơ phát tâm là chân tâm, hết sức đáng quý. Đó chính là “thù thắng thiện căn”. Do vậy có thể biết, chúng ta có thể giữ gìn vĩnh cửu sơ tâm thì thành Phật chẳng cần phải mất ba đại A-tăng-kỳ kiếp. “Có thể gìn giữ” có nghĩa là chẳng thoái chuyển! Do chẳng thể gìn giữ, nên mới bị thoái chuyển. Hễ thoái chuyển, thời gian [để tu thành Phật] sẽ dài lâu. Vì sao bị thoái chuyển? Phát tâm chẳng khó, hào hứng một chốc, quý vị liền phát tâm. Sau khi đã phát, do thời gian tu hành rất dài, những hoàn cảnh gặp gỡ cũng khác nhau. Thuận cảnh, nghịch cảnh trồi sụt chẳng nhất định, nên thường bị ngã lòng! Chắc chắn là bị ngã lòng, chẳng có gì kỳ lạ cả! Từ xưa tới nay, một vạn người phát tâm có đến cả vạn ngã lòng! Chẳng ngã lòng thì họ đã thành Phật rồi! Do đó, chắc chắn là bị ngã lòng, hy vọng quý vị ngã lòng ít một chút thì khá lắm rồi! Đừng nên thoái chuyển trên một mức độ lớn, có thể thoái thất với một mức độ ít hơn, đã là hết sức khó, đáng quý lắm.

Làm thế nào để giữ vững, chẳng bị thoái chuyển? Nhất định là phải tu học đúng lý, đúng theo lời dạy, sẽ chẳng bị thoái chuyển. Học Phật, nói thật ra, khó có nhất là phải có pháp hỷ. Nếu trong quá trình tu học, người nào đạt được pháp hỷ, sẽ cảm thấy rất vui sướng, chẳng bị thoái chuyển quá dễ dàng. Nếu học thứ gì [mà cảm thấy] học khô khan, vô vị, càng học càng khó khăn, tự nhiên là sẽ bị thoái chuyển. Phải học sao cho có pháp hỷ. Nói thật ra, đây cũng chẳng phải là chuyện dễ dàng. Có pháp hỷ, sẽ nhất định có tiến bộ, thật sự có niềm vui, có tiến bộ trong ấy. Nếu gìn giữ sự tinh tấn lâu dài, thường sanh pháp hỷ, nói thật ra, công phu tu học đi vào nề nếp. Nếu chúng ta chẳng có tiến bộ, chẳng đạt được pháp hỷ, tự mình phải nghiêm túc kiểm điểm, trong ấy nhất định là có duyên cớ, nhất định phải tìm ra nguyên nhân, sau đấy tiêu trừ nó thì mới được!

Nói thật ra, pháp thế gian cũng  rất  coi  trọng  chuyện  này. Trong chương đầu tiên của Luận Ngữ, Khổng lão phu tử đã nói rõ ràng chuyện này: “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ!” (Học rồi tu tập, há cũng chẳng vui sao). “Duyệt” (悅) là pháp hỷ. Cổ nhân đọc sách là hưởng thụ, đọc sách vui sướng thay! Người hiện thời đọc sách khổ sở ngần ấy, [cảm thấy] là chuyện khổ sai! Trước kia, đọc sách là chuyện vui sướng, vì sao? Đọc sách sẽ hiểu lý. Đối với vũ trụ, nhân sinh, quá khứ, vị lai, [do đọc sách] họ đều hiểu. Không chỉ là hiểu rõ, mà còn biến những điều đã đọc thành tư tưởng, kiến giải và hành vi trong cuộc sống của chính mình, đương nhiên là họ vui sướng. Phật pháp cũng giống như vậy, những kinh luận chúng ta đã tu học thảy đều biến thành hành vi trong cuộc sống thực tế của chính mình. Điều này cũng rất vui sướng, nên mới có pháp hỷ. [Nếu tu hành mà] kinh điển là kinh điển, cuộc sống là cuộc sống, về căn bản chẳng ăn nhập gì với nhau, làm sao có thể sanh ra pháp hỷ cho được? Chẳng thể nào! Vì thế, học Phật pháp thì nhất định tiêu hóa nó. Nói “tiêu hóa” nghĩa là biến nó thành quan niệm, kiến giải, và hành vi trong cuộc sống của chính mình. “Hóa” là biến hóa, điều này rất trọng yếu.

Câu thứ hai cũng rất trọng yếu: “Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ” (Có bạn từ nơi xa đến, cũng chẳng vui ư). “Bằng” (朋) là chí đồng đạo hợp. Thường luôn có bạn học ở cùng một chỗ, rèn giũa, dùi mài lẫn nhau, chẳng dễ bị thoái chuyển! Rất khó thể ở cùng một chỗ với thầy, nhưng bạn học có thể thường ở chung. Chẳng tiện tranh luận với thầy, dẫu nghe [thầy nói] chẳng phục, không phục cũng chẳng dám hỏi. Đối với bạn học thì có thể tranh cãi, chẳng sao cả! Do đó, nếu muốn đạo nghiệp thành tựu, không gì trọng yếu bằng bạn học, còn quan trọng hơn cả thầy! Vì thầy chỉ là người chỉ đường, thường nói “một ngày là thầy”. Thầy chỉ cho quý vị một con đường để đi. Đường đi rất dài, chính mình phải tự đi lấy. Nếu một mình ra đi, rất cô đơn, có mấy người chí đồng đạo hợp bèn có thể kết bạn cùng đi.

Đường Bồ Đề cũng chẳng ra ngoài lệ ấy, nhất định là phải có đồng tham đạo hữu. Tối thiểu là mỗi tuần một lần, ở đạo tràng cũng được, nếu đạo tràng có nơi chốn cho chúng ta có thể mượn sử dụng. Không nhờ được đạo tràng thì ở ngay trong nhà mình cũng được. Mỗi tuần một lần, tụ hội nghiên cứu, thảo luận tại nhà. Tuần này ở nhà Trương Tam, tuần sau tại nhà Lý Tứ. Nghiên cứu, thảo luận cùng nhau trong nhà lại còn có lợi điểm là vì có khi người nhà chẳng tin tưởng, thấy bạn bè của quý vị đến, bình thường họ chán ghét việc học Phật, nhưng do có bằng hữu tới, đương nhiên là chẳng tiện mích lòng bạn bè cho lắm! Quý vị bàn luận Phật pháp cao xa, họ ở đó nghe tiếng, cũng [cảm thấy] có lý đôi chút, [như vậy tức là đã] độ được người nhà! Chính mình chẳng độ người nhà được, hãy tìm một ít bạn học của ta đến độ người nhà. Người nhà được độ, dần dần xóm giềng cũng sẽ đắc độ; đấy là tự lợi, lợi tha. Do vậy, chớ nên một mình cô đơn học hành, đóng cửa chế xe, sẽ rất đau khổ, chẳng thể sanh khởi pháp hỷ được. Vì thế, Luận Ngữ đặt hai câu này lên đầu tiên, dụng ý hết sức sâu xa! Đây là nói về kẻ sơ phát tâm phải gìn giữ pháp hỷ và giữ vững tinh tấn không ngừng như thế nào.

 

(Sao) Du Già đệ tam thập thất vân.

()瑜伽第三十七云。

(Sao: Luận Du Già quyển ba mươi bảy chép).

“Du Già” là Du Già Sư Địa Luận, bộ sách này gồm một trăm cuốn. Đây là quyển thứ ba mươi bảy.

 

(Sao) Bồ Tát sở tập thiện căn, dĩ thuần nhất tịnh diệu tín tâm, hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề.

()菩薩所集善根,以純一淨妙信心,回向無上菩提。

(Sao: Thiện căn được tu tập của hàng Bồ Tát là dùng tín tâm thuần nhất, tịnh diệu để hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề).

 Trong Bồ Tát Tâm Địa Phẩm đã dẫn trên đây, đã nêu rõ ý nghĩa “Bồ Đề là thiện căn”. Trong Du Già Sư Địa Luận, cũng tìm được chứng cứ giống như vậy, chứng tỏ Bồ Đề tâm được nói trong kinh điển chính là nói tới thiện căn. Du Già Sư Địa Luận nói rất rõ ràng: “Bồ Tát sở tập thiện căn, dĩ thuần nhất tịnh diệu tín tâm, hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề” (Thiện căn được tu tập của hàng Bồ Tát là dùng tín tâm thuần nhất, tịnh diệu để hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề). Tín tâm tịnh diệu là Bồ Đề tâm. Bồ Đề (Bodhi) là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là giác, hoặc giác ngộ. Bồ Đề tâm là cái tâm giác ngộ. Thanh tịnh diệu tâm là giác tâm. Dùng cái giác tâm này để cầu Đại Giác viên mãn, tức là hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề.

Nói cách khác, chúng ta muốn cầu vô thượng viên mãn Đại Giác, mà nếu dùng cái tâm mê hoặc, điên đảo [để cầu], chắc chắn là sẽ không thể làm được! Phải giác, phải đừng mê. Điều thứ ba, Ngài lại nói:

 

(Sao) Lương Nhiếp đệ thập vân.

()梁攝第十云。

(Sao: Nhiếp Đại Thừa Luận, bản dịch đời Lương, quyển mười có nói).

Đây là Nhiếp Luận (Nhiếp Đại Thừa Luận), bản dịch đời Lương[106], trong quyển mười [của bộ luận ấy] cũng có một đoạn nói:

 

(Sao) Sở tác thiện căn, tất dĩ hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề.

()所作善根,悉以回向無上菩提。

(Sao: Đối với các thiện căn đã làm, đều đem hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề).

Có ý nghĩa hết sức giống với luận Du Già.

 

(Sao) Tắc giai dĩ Bồ Đề vi thiện căn, nhi kim kinh trì danh, chánh hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề chi thiện căn dã.

()則皆以菩提為善根,而今經持名,正回向無上菩提之善根也。

(Sao: Đều coi Bồ Đề là thiện căn, nhưng pháp trì danh trong kinh này chính là thiện căn hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề vậy).

 Đại sư nêu ra đoạn này để làm chứng cứ. Ngài nêu ra ba đoạn kinh luận được trích dẫn trong Hải Đông Sớ, đều nhằm chứng minh Bồ Đề là thiện căn. Trong bộ kinh này, chúng ta chấp trì danh hiệu nhằm mục đích nào? Hằng ngày chúng ta niệm câu A Di Đà Phật, nhằm mục đích cầu Vô Thượng Bồ Đề. Đấy chính là nói “trì danh niệm Phật chính là thiện căn bậc nhất trong các loại thiện căn”. Do vậy, kinh đã dạy rất rõ ràng: “Chẳng thể do chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cõi kia”. Bản thân chúng ta thường cảm thấy chính mình chẳng có thiện căn gì! Chẳng có thiện căn chớ sợ! Chúng ta niệm Phật để vun bồi thiện căn của chính mình. Niệm càng nhiều, thiện căn càng sâu dầy. Ở đây, điều này đã được chứng minh. Kết luận dưới đây nói hết sức khéo.

 

(Sao) Dĩ A Di Đà Phật, tức Vô Thượng Bồ Đề cố, thị tắc thiện trung chi thiện, danh đa thiện dã.

()以阿彌陀佛,即無上菩提故,是則善中之善,名多善也。

(Sao: Do A Di Đà Phật chính là Vô Thượng Bồ Đề, là điều thiện tột cùng trong các điều thiện, nên gọi là “nhiều thiện căn”).

 Kết luận này rất cặn kẽ, rất viên mãn, khiến cho chúng ta chẳng có mảy may hoài nghi nào! Vì sao nói một câu A Di Đà Phật chính là Vô Thượng Bồ Đề? Thông thường, chúng ta thấy danh hiệu này, lập tức nghĩ tới vị Phật trong thế giới Tây Phương. Chẳng sai! Nhưng trong ấy còn có ý nghĩa rất sâu mà chúng ta chẳng hiểu rõ ràng. Ý nghĩa gì vậy? A Di Đà Phật là Chân Như bản tánh sẵn có của chính mình. Vì một câu Phật hiệu này là tiếng Phạn, nếu hoàn toàn dịch ra [tiếng Hán] thì A là Vô, Di Đà là Lượng, Phật là Giác. Đối với vũ trụ, nhân sinh và hết thảy vạn pháp thế gian lẫn xuất thế gian, chẳng có một pháp nào là bất giác, nên gọi là Vô Lượng Giác. Vị Phật ở Tây Phương có danh hiệu là Vô Lượng Giác, bản tánh của chính chúng ta là Vô Lượng Giác. Do vậy, nghĩ đến đức Phật ấy, đừng nghĩ sai! Nếu chẳng nghĩ đến Vô Lượng Giác trong bản tánh của chính mình thì sẽ là sai lầm rất lớn, lỗi lầm quá lớn! Vì lẽ đó, chúng ta nhất định phải hiểu: Niệm A Di Đà Phật là cậy vào danh hiệu của vị Phật ở thế giới Tây Phương để niệm cho ra Vô Lượng Giác của chính mình, đó là đúng. Vì thế, câu Phật hiệu này là “thiện trung chi thiện” (điều lành nhất trong các điều lành), người niệm Phật là người nhiều thiện căn. Không niệm Phật thì là ít thiện căn. Nhất định phải niệm Phật hiệu cho nhiều. Lại xem lời Sao, [sẽ thấy] niệm Phật hiệu không chỉ là điều lành nhất trong các điều lành, mà còn là phước cao nhất trong các phước.

 

(Sao) Phước trung phước giả, diệc hữu nhị nghĩa. Nhất giả, Di Đà nãi vạn đức danh hiệu, nhất danh tài cử, vạn đức tề viên, bất kỳ ư phước, phước dĩ bị cố.

()福中福者,亦有二義。一者彌陀乃萬德名號,一名纔舉,萬德齊圓,不期於福,福已備故。

(Sao: “Phước cao nhất trong các phước” cũng có hai nghĩa: Một, Di Đà chính là danh hiệu vạn đức. Vừa xưng danh một tiếng, vạn đức đều viên mãn. Chẳng cầu phước mà phước đã trọn đủ).

“Bị” (備) là viên mãn, trọn đủ, chẳng có tí xíu khiếm khuyết nào!

 

(Sao) Nhị giả, dĩ trì niệm lực, tự nhiên chư ác bất tác, chúng thiện phụng hành, dĩ chi tu phước, phước dị tập cố. Thị tắc phước trung chi phước, danh đa phước dã.

(Diễn) Thích trì danh nãi phước trung phước.

()二者以持念力,自然諸惡不作,眾善奉行,以之修福,福易集故,是則福中之福,名多福也。

() 釋持名乃福中福。

(Sao: Hai là do sức trì niệm, tự nhiên chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, coi đó là tu phước. Do phước dễ gom nhóm, nên là phước cao nhất trong các điều phước. Vì vậy, gọi là “nhiều phước”.

Diễn: Giải thích trì danh chính là phước cao nhất trong các phước).

Sách Diễn Nghĩa giải thích rất rõ ràng: Chúng ta chẳng có thiện căn, thiếu phước đức; điều kiện để vãng sanh Tây Phương là phải có nhiều thiện căn, nhiều phước đức. Không niệm Phật làm sao có thể vãng sanh? Niệm Phật là nhiều thiện căn, mà niệm Phật cũng là nhiều phước đức; nhưng ở đây, chư vị nhất định phải biết: “Một mực chuyên niệm” mới là điều lành nhất trong các điều lành, là điều phước cao nhất trong các phước. Phải một mực chuyên niệm, đó cũng là “nhất tâm xưng niệm” như cổ đức đã dạy, quan trọng nhất là nhất tâm. Nay chúng ta chấp trì danh hiệu, người chấp trì danh hiệu rất đông, hiện thời, người đọc tụng kinh luận Đại Thừa cũng rất đông, có người mỗi ngày niệm rất nhiều lần, nay tôi phải hỏi: “Quý vị có phải là nhất tâm niệm hay chăng?” Trong các buổi giảng, tôi đã nói, nay vừa mới bắt đầu thì không cần phải là nhất tâm niệm. Vì sao? Chẳng làm được! Vừa mở đầu thì trước hết là niệm sao cho thuần thục, chỉ cầu thuần thục. Bất luận quý vị là nhất tâm, nhị tâm, tam tâm, không cần biết! Đợi cho đến sau khi đã niệm thuần thục thì phải dụng công, sẽ nói tới công phu. Nay vừa mới mở đầu bèn nói tới công phu, chắc chắn là chẳng đắc lực. Vì sao? Quý vị chẳng có cơ sở dự bị. Niệm thuần thục chính là công phu dự bị. Sau khi đã dự bị xong xuôi, bèn sẽ thật sự dụng công tu hành. Dụng công tu hành là nhất tâm xưng niệm.

Ta niệm bộ kinh này, đặc biệt nhấn mạnh là niệm bộ kinh này từ đầu đến cuối chẳng có một vọng tưởng nào, cầu điều này. Chẳng phải là ta hằng ngày niệm bao nhiêu lượt, niệm cho Phật, Bồ Tát nghe, [làm kiểu đó] vô ích! Vừa niệm mà còn vừa dấy vọng tưởng, mỗi ngày niệm cả trăm lần cũng vô dụng, đúng như cổ nhân đã bảo: “Hét toạc cổ họng cũng uổng công”. Có người mỗi ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, nhưng vừa niệm Phật hiệu, vừa dấy vọng tưởng thì mười vạn câu Phật hiệu đều vô dụng! Điều quan trọng nhất là phải niệm sao cho hết sạch vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, chẳng còn nữa. Nếu thật sự niệm hết sạch, quý vị sẽ là nhất tâm bất loạn.

Trong công phu nhất tâm bất loạn, có sự sai biệt cạn hay sâu rất lớn. Chúng ta thường nói “công phu thành phiến”, đó là nhất tâm bất loạn ở mức độ nông cạn. Niệm đến mức đoạn trừ Kiến Hoặc, sẽ là trung phẩm nhất tâm bất loạn. Niệm đến mức Tư Hoặc cũng đoạn hết, chính là thượng phẩm nhất tâm bất loạn, là Sự nhất tâm. Từ Sự nhất tâm, lại tiến cao hơn thành Lý nhất tâm, Lý nhất tâm là đã xứng tánh. [Chỉ] do một câu Phật hiệu đấy nhé! Vì sao người ta có thể thành tựu, chúng ta chẳng thể thành tựu? Người ta nhất tâm xưng niệm, chúng ta là tạp tâm xưng niệm, hoặc loạn tâm xưng niệm. Do vậy bèn chẳng thể thành công, đạo lý ở ngay chỗ này.

Do đó, người niệm Phật xác thực là phải thân, tâm, thế giới hết thảy đều buông xuống, thế gian này chẳng có gì đáng để vướng mắc! Nếu trong nhà quý vị có chuyện gì không thể buông xuống được, hoặc là chuyện không thể nào chẳng quan tâm được, một mai vô thường xảy tới, có thể nào nói với Diêm Vương “tôi còn chưa buông xuống điều này, còn chưa xếp đặt thỏa đáng điều kia” hay không? Chẳng được! Phải giác ngộ điều này, đừng nên tự lừa gạt chính mình. Đương nhiên là chính mình có gia nghiệp, có con cái, phải có trách nhiệm nuôi nấng, giáo dục con cái. Con cái đã trưởng thành, có thể tự sống độc lập, đừng bận lòng nữa, phải lo cho sanh tử đại sự của chính mình! Đó là chuyện khẩn yếu! Nếu chẳng có những nỗi vướng mắc ấy, quý vị còn có gì đáng để vướng mắc? Nói chẳng suông được! Căn bản sanh tử từ vô lượng kiếp tới nay, có thể giải quyết trong một đời này; đấy chính là vận may to tát, mà cũng là chuyện lớn bậc nhất!

Chiều nay, tôi đến tổng y viện Vinh Dân để tham dự hội Học Phật của họ. Tổng y viện Vinh Dân là bệnh viện công, chánh thức thành lập Học Phật Xã, là tổ chức đầu tiên ở Đài Loan, rất khó có. Ngày hôm nay tôi tham dự điển lễ thành lập của họ, bằng hữu của tôi đến tiếp đón, [người ấy] là bạn học cũ của tôi, nay đã về hưu. Tôi khuyên ông ta niệm Phật, lúc tuổi già hãy khéo hưởng phước, nghiêm túc đọc sách, niệm Phật, đó là sự hưởng thụ lớn nhất. Tôi nói: Giáo dục tại Trung Hoa vào thời cổ, khiến cho trẻ nhỏ chịu nhiều đau khổ nhằm vun bồi phước; [lớn lên], dấn thân vào xã hội, vì xã hội phục vụ là tạo phước; sau khi về hưu là hưởng phước. Nay thì bọn họ sau khi đã về hưu, chẳng có chuyện gì làm, [cảm thấy] nhàm chán, sai mất rồi! Chẳng biết niệm Phật là chuyện trọng yếu, niệm Phật là chuyện to tát, là đại sự! Lúc tuổi già, đã về hưu, thân, tâm, thế giới hết thảy đều buông xuống, chuyên môn niệm Phật, xem chuyện nghe kinh, niệm Phật là chuyện bậc nhất trong lúc tuổi già!

Tôi nói: “Hiện thời, người Đài Loan sang Mỹ, dễ sống lắm!” Ông ta nói: “Tôi đến Mỹ mà chẳng có sở trường gì hết, dựa vào đâu để sống sót?” Tôi nói: “Hiện thời, ông có một căn nhà tại Đài Loan, bán đi thì sang Mỹ sẽ sống được!” Ông ta nói: “Sao lại vậy?” Giá nhà ở Đài Loan đắt quá. Ông bán một căn nhà, sang Mỹ có thể mua ba căn, một căn để chính mình ở, hai căn cho người khác thuê. Ông thấy đó, vui sướng lắm, chuyện gì cũng chẳng phải làm! Năm trước, tôi đã từng dạy một đồng tu. Ông ta mua một căn nhà rất lớn bên đó, mở tiệm trong một khu thương nghiệp. Căn nhà đó to cỡ nào? Gần như là to bằng công ty ở tầng dưới chúng ta, một cái tiệm to như thế, diện tích cuộc đất là bốn mẫu, ước chừng từ hơn một giáp[107] cho đến gần hai giáp đất. Sau khi ông ta mua xong, chỉ [phải trả] sáu mươi vạn, [tức là giá đất] chỉ có sáu mươi vạn Mỹ kim, có người thuê khu nhà ấy, tiền thuê một tháng là tám ngàn đồng. Tiền thuê quý vị hưởng trọn, tất cả hết thảy thuế má do người đứng thuê ấy phải trả, người chủ đất chẳng cần trả, một tháng thu trọn tám ngàn đồng, tiêu dao tự tại như vậy đó! Kết quả là ông ta nghe tôi nói xong, bảo: “Tốt thì tốt đấy, nhưng chẳng có chuyện gì để làm, chán chết!” Vì vậy, trong Phật pháp thường nói: “Phật môn hưởng thanh phước”, tức là phước báo thanh tịnh. Người thế gian nói tới “hồng phước” (洪福), suốt ngày từ sáng đến tối bận bịu, bận đến nỗi quay mòng mòng, [lại ngược ngạo cảm thấy] cuộc sống [bận tít mù] như vậy rất dễ sống, hôm nào chẳng có chuyện gì liền cảm thấy khó chịu, quá sức trống trải. Cớ sao không đọc sách? Cớ sao chẳng niệm Phật? Mỗi tháng có thâu nhập nhiều ngần ấy, có thể đi chơi đây đó ngắm cảnh cũng rất tự tại! Do đó, nói thật ra, đồng bào Đài Loan đến Mỹ, khi đã thật sự nghĩ thông suốt, chẳng cần phải làm việc, cuộc sống thoải mái lắm! Đó là nói về phước bậc nhất trong các thứ phước.

“Di Đà nãi vạn đức danh hiệu” (Di Đà chính là danh hiệu vạn đức), chúng ta thường nói là “vạn đức hồng danh” (萬德洪名), “hồng” (洪) có nghĩa là to lớn. “Nhất danh tài cử, vạn đức tề viên” (Vừa xưng danh một tiếng, muôn đức đều viên mãn) là nói về chuyện tu phước.

 

(Diễn) Nhất danh tài cử, vạn đức tề viên giả, như tiền vân: “Trì danh tức trì thử nhất tâm”. Nhất tâm chi trung, thường, lạc, ngã, tịnh nghĩa, thanh lương bất biến nghĩa đẳng, hà đức bất cụ da?

()一名纔舉萬德齊圓者,如前云:持名即持此一心,一心之中,常樂我淨義、清涼不變義等,何德不具耶。

(Diễn: “Vừa xưng danh một tiếng, muôn đức đều viên mãn”: Như trên đã nói, “trì danh là trì nhất tâm này”, trong nhất tâm có các nghĩa thường,  lạc,  ngã,  tịnh,  nghĩa thanh lương bất biến  v.v…  lẽ nào chẳng trọn đủ ư?)

 Xác thực là trọn đủ, chẳng sai! Tuy trọn đủ, chúng ta chẳng niệm cho ra [các đức ấy]. Trong một câu danh hiệu ấy, có thường, lạc, ngã, tịnh, có Tam Học Giới, Định, Huệ, Lục Độ, thảy đều có, mười đại nguyện vương cũng có, thế nhưng niệm chẳng ra! Vì sao niệm chẳng ra? Vì chúng ta sơ sót nhất tâm, chẳng phải là nhất tâm! Hễ nhất tâm niệm, liền niệm ra được! Nhất tâm là thường, nhị tâm là có sanh diệt. Nhất tâm chẳng có sanh diệt, chẳng có sanh diệt thì là thường. Nhất tâm là thanh tịnh, nhất tâm chẳng bị nhuốm bẩn. Do đó, nhất tâm là tịnh, nhất tâm là chân lạc, là pháp hỷ từ nội tâm ồ ạt tuôn trào hiện ra, đó là pháp hỷ thật sự. Do vậy, bốn thứ tịnh đức “thường, lạc, ngã, tịnh”, đức năng thanh tịnh đều ở trong nhất tâm.

“Thanh lương bất biến” là pháp môn cam lộ chân thật, chỉ riêng người nhất tâm xưng niệm là có thể đạt được. Vì thế, một câu Phật hiệu có thể bồi bổ Pháp Thân, nay chúng ta gọi sự bồi bổ ấy là dinh dưỡng, nuôi nấng Pháp Thân của chúng ta. Nếu có thể nuôi nấng Pháp Thân, lẽ nào chẳng thể nuôi nấng sắc thân? Sắc thân chẳng lìa Pháp Thân! Bồi bổ Pháp Thân là bồi bổ sắc thân. Niệm Phật hiệu hay lắm, đúng là chẳng sanh bệnh. Ngày hôm nay, tôi nói với các đồng tu ở bệnh viện Vinh Dân, ở đó toàn là bác sĩ, hôm nay, viện trưởng của họ chủ tọa cuộc lễ, họ mong chữa bệnh. [Tu tập đúng pháp sẽ] chẳng sanh bệnh! Không chỉ là chẳng sanh bệnh, [mà còn là] bất tử! Do vậy, tâm thanh tịnh vô cùng trọng yếu, ngàn muôn phần đừng dấy vọng tưởng. Dấy vọng tưởng tổn hại chúng ta quá đỗi! Từ vô thỉ kiếp tới nay phải sanh tử luân hồi là do vọng tưởng tạo thành. Vì thế, mấu chốt ở ngay nơi nhất tâm, nhất định là phải nhất tâm xưng niệm, vạn đức sẽ trọn đủ.

“Bất kỳ ư phước, phước dĩ bị cố” (Chẳng cầu phước mà phước đã trọn đủ). “Kỳ” (期) là kỳ vọng (期望: mong mỏi). Ta niệm Phật chẳng cầu phước, mà phước đưa tới. Hễ nhất tâm xưng niệm, phước liền đưa tới, chẳng cầu mà có. Nói thật ra, chẳng cần phải cầu! Hễ cầu thì còn có cái tâm ngạo mạn, tâm đã loạn rồi. Điều gì cũng chẳng cầu, tự nhiên ở trong ấy, thiện ở trong ấy, mà phước cũng ở trong ấy, thọ cũng ở trong ấy, lộc cũng ở trong ấy. Do đó, gọi là “vạn đức hồng danh”.

“Nhị giả dĩ trì niệm lực, tự nhiên chư ác bất tác, chúng thiện phụng hành, dĩ chi tu phước, phước dị tập cố” (Hai là do sức trì niệm, tự nhiên chẳng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, dùng đó để tu phước, phước gom nhóm dễ dàng). Mỗi niệm đều đặt nơi Phật hiệu, tự tánh thanh tịnh trong mỗi niệm, hết thảy ác niệm tự nhiên chẳng thể dấy lên. Hết thảy thiện niệm đều sanh khởi từ cái tâm thanh tịnh. Vì vậy, tâm thanh tịnh là thiện căn. Tu phước như vậy mới là thật sự tu phước, “phước dị tập cố” (do phước gom nhóm dễ dàng). [Sách Diễn Nghĩa] đã chú giải như sau:

 

(Diễn) Nhất tâm trì danh, tắc vạn thiện phổ hội, chúng ác tận tiêu.

() 一心持名,則萬善普會眾惡盡消。

(Diễn: Nhất tâm trì danh thì muôn điều thiện cùng nhóm họp trọn khắp, các điều ác tiêu sạch).

 Pháp sư Quán Đảnh (tức là pháp sư Từ Vân Quán Đảnh), sống vào thời Càn Long, lúc về già chuyên tu Tịnh nghiệp. Ngài có viết một bản chú giải là Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Trực Chỉ, trong ấy có nói: “Chấp trì danh hiệu là công đức tiêu tai diệt tội bậc nhất”, có ý nghĩa giống như điều đang nói ở đây. Đối với tai nạn hay tội nghiệp mà pháp gì cũng chẳng thể tiêu thì câu Phật hiệu này có thể tiêu. Người biết sự thật này chẳng nhiều! Hiện tại có bao nhiêu người biết chính mình nghiệp chướng rất nặng, hằng ngày lạy Phật, bái sám, làm những chuyện ấy, có thể tiêu trừ hay không? Quyết định là chẳng tiêu được! Họ chẳng biết niệm Phật có thể tiêu tội nghiệp. Vì sao niệm Phật có thể tiêu tội nghiệp? Trước hết, quý vị phải hiểu tội nghiệp là gì. Cái nhân của tội nghiệp là chủng tử của tội nghiệp, tức là những ác nghiệp do quý vị đã tạo trong quá khứ. Nếu có chủng tử mà chẳng có duyên, sẽ chẳng có quả báo. Duyên là gì? Duyên là hiện tại suy nghĩ loạn xạ. Trước kia đã có chủng tử của tội nghiệp và tập khí, nay hằng ngày lại dấy vọng tưởng, lẽ nào chẳng hứng chịu quả báo? Quả báo bèn hiện tiền. Quả báo đưa đến, chịu không nổi! Nếu muốn tiêu nghiệp, nếu như hiện thời hết thảy vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều đoạn sạch, dẫu trong quá khứ có chủng tử nghiệp chướng, tập khí, hiện thời chúng chẳng dấy lên hiện hành, sẽ tiêu mất. Quý vị bèn hiểu, thứ gì có thể tiêu trừ tội nghiệp của chính mình? Chẳng phải là lạy bao nhiêu bộ Lương Hoàng Sám, vô dụng! Niệm bao nhiêu bộ kinh Hoa Nghiêm cũng vô dụng! Niệm mấy trăm vạn thần chú vẫn là vô dụng, tâm thanh tịnh bị tiêu mất. Vì thế, câu Phật hiệu này là diệu pháp thù thắng nhất để đạt được cái tâm thanh tịnh. Dùng phương pháp này khiến cho cái tâm niệm được thanh tịnh. Tâm đã thanh tịnh, hết thảy ác duyên đều đoạn hết. Đó chính là thật sự tiêu tai, diệt tội.

“Nhất tâm trì danh, vạn thiện phổ hội” (Nhất tâm trì danh, muôn điều thiện đều nhóm đến trọn khắp), “hội” là hội tập (會集: nhóm họp, tập hợp), hết thảy thiện pháp đều tu tập nơi đây. “Chúng ác tận tiêu” (Các ác tiêu sạch), hết thảy thiện pháp sanh từ nhất tâm, trong nhất tâm chắc chắn chẳng có tội nghiệp.

 

(Diễn) Dĩ thử vô ác cụ thiện chi tâm tu phước.

()以此無惡具善之心修福。

(Diễn: Dùng cái tâm “chẳng có ác, trọn đủ điều thiện” ấy để tu phước).

Dùng cái tâm tùy duyên tùy phận tu phước, phước ấy tuyệt diệu lắm, phước ấy to lớn lắm!

 

(Diễn) Tắc chúng phước giai xu, bất lao công dụng cố.

()則眾福皆趨,不勞功用故。

(Diễn: Ắt các điều phước đều nhóm đến, chẳng phải nhọc sức dụng công).

Thực hiện ít ỏi, mà được quả báo to tát. Vì sao? Tâm quý vị thanh tịnh. Trong cái tâm thanh tịnh, chẳng có phân biệt, chẳng có giới hạn, cho nên công đức của [việc bố thí] một đồng đều là tận hư không khắp pháp giới. Lũ phàm phu chúng ta bố thí dẫu nhiều cách mấy, được phước rất nhỏ, nguyên nhân ở chỗ nào? Có phân biệt, chấp trước. Thậm chí chúng ta cầm một chút tiền, giống như ngày hôm qua, khi mở cuộc họp với đổng sự, pháp sư Tường Vân có nói với tôi: “Có nhiều người bỏ tiền in kinh, kinh in xong, vẫn phải dò danh sách ghi tên người làm công đức để xem có tên của họ hay không”. Làm cho nhiều, phước ít xịt, vì sao? Họ có phân biệt, chấp trước. Tới khi hoàn toàn chẳng có phân biệt, chấp trước, phước ấy sẽ là tận hư không. Phước báo tỷ lệ thuận với tâm lượng của quý vị. Tâm quý vị chẳng có phân biệt, chấp trước, tâm ấy to như hư không pháp giới. Hễ dấy lên phân biệt, chấp trước, chính là vạch ra cả đống giới hạn, những điều quý vị tu tập chẳng vượt khỏi giới hạn ấy. Vì sao chẳng phá vỡ giới hạn ấy? Bố thí cho người khác thì cứ tận hết sức để thí, còn người thực hiện tạo tác tội hay phước thì người ấy phải gánh chịu, liên can gì đến ta? Ngày hôm qua, pháp sư Tường Vân cũng nói: Cơ Kim Hội và Đồ Thư Quán in kinh sách, đằng sau sách ghi là ba ngàn cuốn, xác thực là in ba ngàn cuốn. Có rất nhiều nơi chẳng phải là như vậy, trên thực tế họ chỉ in năm trăm cuốn, cuối sách ghi là một ngàn cuốn. Chúng ta là người bỏ tiền chẳng cần phải truy cứu, đó là chuyện của kẻ đó. Phước do ta tu đã viên mãn, kẻ ấy tạo tội nghiệp chẳng liên quan gì đến ta, chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này.

Chúng ta chỉ cần dùng tâm chân thành, tâm thanh tịnh để tu phước, chẳng cần quản chuyện của người khác. Quản chuyện người khác, tâm chúng ta sẽ chẳng thanh tịnh, vì sao? Lại dấy lên phân biệt, chấp trước, sai mất rồi! Vì thế, phước nhất trong các điều phước do như vậy mà có. Tu thiện như thế nào? Tu phước ra sao? Nhất định là phải dùng cái tâm thanh tịnh, tâm chân thành để tu, tùy phần, tùy lực, quyết định là chớ nên miễn cưỡng, miễn cưỡng là sai lầm. Có rất nhiều người chuộng thể diện, hôm nay đạo tràng làm chuyện gì đó, phải bỏ ra một chút tiền, do chính mình chẳng có tiền, bèn vay lãi nặng để có tiền đóng góp, sai mất rồi! Mượn tiền để làm công đức, sai bét rồi! Chẳng bắt buộc phải làm như vậy. Tận tâm tận lực là công đức viên mãn. Quý vị miễn cưỡng đóng góp thì công đức ấy chẳng viên mãn. Viên mãn là tùy phần, tùy sức!

 

(Sớ) Nhân duyên giả, Thanh Lương dĩ thân năng phát khởi vi nhân, giả chi trợ phát vi duyên. Kim thử phục hữu nhị nghĩa: Nhất giả thiện căn vi nhân, phước đức vi duyên. Nhị giả thiện phước các hữu nhân duyên.

()緣者,清涼以親能發起為因,假之助發為緣。今此復有二義,一者善根為因,福德為緣,二者善福各有因緣。

(Sớ: Đối với “nhân duyên”, ngài Thanh Lương coi cái có thể đích thân phát khởi là nhân, cái cậy vào để giúp [cho nhân] phát khởi là duyên. Nay điều này lại có hai nghĩa: Một, thiện căn là nhân, phước đức là duyên. Hai, mỗi điều thiện căn và phước đức đều có nhân duyên riêng).

Thanh Lương chính là Trừng Quán đại sư đời Đường, là tổ sư đời thứ tư của tông Hoa Nghiêm. Bộ Hoa Nghiêm Kinh Sớ Sao do Ngài viết. Thanh Lương đại sư cũng nêu khuôn phép hết sức tốt đẹp cho chúng ta. Suốt đời, lão nhân gia chuyên hoằng trì một bộ kinh là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. Suốt một đời, Ngài đã giảng bộ kinh này tới năm mươi lần, trong lịch sử Trung Hoa chẳng tìm thấy một người thứ hai. Trước ngài Thanh Lương chẳng có ai như vậy, mà sau Thanh Lương đại sư cũng chẳng có người thứ hai. Chúng ta biết kinh Hoa Nghiêm có phân lượng to lớn. Tôi bắt đầu giảng từ năm Dân Quốc 60 (1977), mãi cho đến nay vẫn chưa gián đoạn, giảng đến hiện thời là Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện Phẩm thuộc về kinh Hoa Nghiêm. Giảng đã mười tám, mười chín năm, tính số giờ thì đã gần đến ba ngàn giờ, kinh vẫn chưa giảng xong. Giảng một bộ kinh từ đầu đến cuối một lượt, tối thiểu là ba ngàn giờ, mỗi ngày giảng tám giờ, mỗi năm giảng một bộ. Do giảng bộ kinh này, Thanh Lương đại sư có công đức rất lớn, lão nhân gia sống hơn một trăm tuổi, nên một đời giảng năm mươi lần. Duyên thuở ấy thù thắng, trong tự viện, người xuất gia đều là mấy ngàn người. Chùa miếu to, tự viện giống như trường học, mỗi ngày giảng tám giờ, từ đầu năm đến cuối năm chẳng gián đoạn! Ngài giảng năm mươi lần, trong các học trò cũng có chẳng ít người nghe mấy chục lần, quý vị nói xem, làm sao mà chẳng thành tựu cho được? Hiện thời chẳng có cơ duyên này!

Ở đây nói về nhân duyên, pháp thế gian và xuất thế gian đều nói đến nhân duyên. Cái có thể đích thân phát sanh [ra kết quả] thì gọi là nhân. Ví như chủng tử (hạt giống), chủng tử là nhân. Chúng ta nói thực vật, hạt giống là nhân, nước, đất, phân bón, ánh sáng mặt trời, sức người đều thuộc về duyên. Nhân duyên trọn đủ, nó mới có thể sanh trưởng, đơm hoa, kết quả. Khi Thanh Lương đại sư giảng kinh, thường dùng ý nghĩa này để giải thích.

“Kim thử phục hữu nhị nghĩa” (Nay điều này cũng có hai nghĩa), “kim” (今: nay) là ứng dụng vào bản kinh này, nhân duyên có hai ý nghĩa:

– Thứ nhất, “thiện căn vi nhân, phước đức vi duyên” (thiện căn là nhân, phước đức là duyên). Một câu A Di Đà Phật trọn đủ hết thảy thiện căn, mà cũng trọn đủ vô lượng phước đức. Liên Trì đại sư lão nhân gia nói thiện căn và phước đức thảy đều là một câu Phật hiệu; nó là nhân, mà cũng là duyên.

– Thứ hai, “thiện phước các hữu nhân duyên” (mỗi điều thiện căn và phước đức có nhân duyên riêng). Thiện căn có nhân và duyên của nó. Phước đức cũng có nhân và duyên của nó.

Có thể nói: Ý nghĩa trước là nói xứng tánh, tức Tánh Đức. Ý nghĩa sau là Tu Đức. Thiện phước (thiện căn và phước đức) trong Tu Đức xác thực là mỗi điều đều có nhân duyên riêng, chúng ta phải hiểu rõ, minh bạch điều này.

 

(Sao) Thiện nhân phước duyên giả, Bồ Đề thiện căn, nhập đạo chánh nhân, như chư kinh ngôn: “Bất phát Chánh Giác Bồ Đề chi tâm, tuy hành lục độ, vạn hạnh, kinh hằng sa kiếp, chung bất thành Phật”. Cố tri vạn thiện chi sở căn bản, thị chi vị nhân.

()善因福緣者,菩提善根,入道正因,如諸經言,不發正覺菩提之心,雖行六度萬行,經恆沙劫,終不成佛。故知萬善之所根本,是之謂因。

(Sao: “Thiện nhân phước duyên”: Bồ Đề thiện căn là cái nhân chánh yếu để nhập đạo, như các kinh đã nói: “Chẳng phát tâm Bồ Đề Chánh Giác, tuy hành lục độ vạn hạnh trải kiếp số nhiều như cát sông Hằng, trọn chẳng thành Phật”. Vì thế biết căn bản của muôn điều thiện được gọi là nhân).

Nói về thân nhân chủng tử (chủng tử của cái nhân chánh yếu). Thân nhân chủng tử là gì? Là Bồ Đề tâm, cũng là thiện căn. Bồ Đề tâm là giác tâm, chẳng giác ngộ sẽ chẳng có cách nào nhập đạo. Điều thứ nhất là phải giác ngộ: “Sanh tử là chuyện lớn, vô thường nhanh chóng”. Nếu nhận biết rõ ràng hai câu này, người ấy thật sự giác ngộ, tu học rất nghiêm túc, đương nhiên là công phu đắc lực. Hiện thời, vì sao công phu của chúng ta chẳng đắc lực? Đã sơ sót vấn đề này. Hiện thời, chuyện gì khẩn yếu nhất? Không biết, quý vị sẽ chẳng nghĩ đến sanh tử, chẳng nghĩ vô thường nhanh chóng. Vô thường nhanh chóng là gì? Thời gian trôi qua quá nhanh, quý vị hãy khéo nắm chắc. “Vô thường nhanh chóng” là nói thời gian [trôi qua] quá nhanh, nếu quý vị chẳng nắm vững, làm sao đạo nghiệp của quý vị có thể thành tựu cho được? Người biết vô thường nhanh chóng mới thật sự tinh tấn chẳng giải đãi, một phút, một giây cũng chẳng để luống qua! Vì sao? Thời gian quá đáng quý, đời người khổ sở, ngắn ngủi. Trong quá khứ, chúng ta đã lãng phí thời gian, chẳng biết trân quý, ngày sau có còn được mấy? Ngày sau chẳng nhiều! Không khéo nắm vững, để luống qua, xác thực là đã lỡ làng một đời này. Biết sanh tử là chuyện lớn, tâm cảnh giác sẽ dấy lên. Biết vô thường nhanh chóng, sẽ trân quý thời gian. Đối với người tu hành, quý báu nhất là thời gian. Những thứ khác họ đều có thể không cần tới, đều chẳng quan trọng. Tiếng tăm, lợi dưỡng, tài, sắc, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, đối với người ấy chẳng khẩn yếu; những thứ ấy đều có thể buông xuống, phải nắm thật vững thời gian; đó là giác ngộ thật sự.

Chẳng thể tinh tấn thì sẽ thoái chuyển, sẽ đọa lạc. Tinh tấn là gì? Tinh tấn còn phải là nhất tâm tinh tấn, như vậy thì mới đáng quý. Trong pháp môn này, sẽ là nhất tâm trì danh, một câu A Di Đà Phật, quyết định chẳng có vọng niệm thứ hai, đó gọi là nhất tâm tinh tấn. Một câu Phật hiệu này tiếp nối câu Phật hiệu kia, trong ấy chẳng xen tạp vọng tưởng, thật sự chẳng gián đoạn, chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp, thì mới có thể thành tựu. Hễ Phật hiệu bị gián đoạn, sẽ là vọng tưởng. Chẳng có vọng tưởng, bèn là vô minh. Chẳng đọa vào vọng tưởng, bèn đọa vào vô minh, vậy thì làm sao có thể thành tựu? Vọng tưởng và vô minh là căn bản của lục đạo luân hồi. Nếu nay chúng ta muốn vượt thoát lục đạo luân hồi, nếu muốn vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, viên chứng ba thứ bất thoái trong một đời này, quý vị chẳng nắm vững thời gian ngắn ngủi này, làm sao có thể thực hiện được? Đại sự thế gian và xuất thế gian có gì lớn hơn chuyện này được? Đó là thật sự giác ngộ. Ấn Quang đại sư viết hai bức đại tự nói về đại sự sanh tử, hết sức đáng cho chúng ta cảnh giác, răn dè. Ngài viết một chữ Tử to, khiến quý vị mỗi ngày trông thấy, [sẽ biết] ta sắp phải chết, tâm cảnh giác bèn dấy lên. Một chữ khác là Sanh, Sanh ở đây là phải sanh về Tịnh Độ.

Hy vọng các đồng tu thật sự phát tâm Chánh Giác, thật sự giác ngộ. Chẳng có cái tâm ấy, tuy hành lục độ vạn hạnh trải qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng, trọn chẳng thành Phật. Chúng ta đã đọc thấy chuyện này trong kinh Vô Lượng Thọ, vương tử A Xà Thế và năm trăm vị trưởng giả tử chính là chuyện này. Quả thật họ đã trụ trong Bồ Tát đạo, cúng dường bốn trăm ức Phật, cũng chẳng sai khác cho mấy với “hằng sa kiếp” đang nói ở đây, cúng dường bốn trăm ức Phật! [Cho tới khi] Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiện trong thế gian này, nhóm người ấy đã bị thoái chuyển, trở thành vương tử, hoặc thành trưởng giả. Từ Bồ Tát thụt lùi xuống địa vị phàm phu, chuyện gì trong đời trước cũng không biết, đã thoái chuyển, bị mê khi cách ấm, quý vị thấy đáng sợ ngần ấy! Nói không chừng, các đồng tu chúng ta đang hiện diện trong quá khứ cũng từng hành Bồ Tát đạo cúng dường mấy trăm ức Phật, nay biến thành nông nỗi này. Chuyện này cũng là hết sức có thể. Nếu không, nay quý vị đọc kinh này, vì sao có thể sanh tâm hoan hỷ? Có thể ngồi ở đây nghe giảng hai tiếng đồng hồ, cảm thấy rất có ý vị? Chứng tỏ quý vị đã có thiện căn sâu dầy trong đời quá khứ. Nếu không, sẽ chẳng thể sanh khởi tâm hoan hỷ đối với pháp môn này. Vì thế, nay chúng ta đọc kinh điển này, lại đọc bản chú giải của Liên Trì đại sư, phải đặc biệt đề cao cảnh giác.

 

(Diễn) Bất phát Chánh Giác Bồ Đề, nãi chí bất đắc thành Phật giả. Như kinh vân: “Dĩ sanh diệt tâm vi bổn tu nhân, dục khế Như Lai bất sanh diệt quả, vô hữu thị xứ” .

()不發正覺菩提,乃至不得成佛者。如經云:以生滅心為本修因,欲契如來不生滅果,無有是處。

(Diễn: Chẳng phát tâm Chánh Giác Bồ Đề, cho đến chẳng thành Phật: Như kinh dạy: “Dùng cái tâm sanh diệt làm gốc để tu nhân, mà muốn khế nhập quả chẳng sanh diệt của Như Lai, chẳng có lẽ ấy”).

Kinh văn này rất giống lời kinh Lăng Nghiêm, trong hội Lăng Nghiêm, Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tôn giả A Nan như vậy. Nhưng chúng ta phải biết: Tu hết thảy các pháp môn, mà chẳng lấy Bồ Đề tâm làm cơ sở, sẽ chẳng thể thành tựu! Nhưng tu pháp môn Tịnh Độ, dùng cái tâm sanh diệt để làm cái gốc tu nhân hòng về Tây Phương Cực Lạc thế giới thì được! Có thể đới nghiệp vãng sanh, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, hoặc cõi Phương Tiện Hữu Dư. Nếu sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm, chẳng có lẽ ấy, không được rồi! Do vậy có thể biết, pháp môn Tịnh Độ thù thắng là thù thắng ở chỗ này. Pháp môn Tịnh Độ lợi khắp ba căn, gồm thâu hoàn toàn lợi căn lẫn độn căn, ai nấy đều có cơ hội thành tựu, nguyên nhân ở ngay chỗ này!

 

(Diễn) Hựu kinh vân: “Bất phát Bồ Đề tâm, cần tu chư thiện căn, ma sở nhiếp trì. Thị hữu tác nhi tu, đa kiếp chung thành bại hoại”.

()又經云:不發菩提心,勤修諸善根,魔所攝持,是有作之修,多劫終成敗壞。

(Diễn: Kinh lại nói: “Chẳng phát Bồ Đề tâm, siêng tu các thiện căn, sẽ bị ma nhiếp trì. Đó là tu hữu tác, tu nhiều kiếp rồi rốt cuộc trở thành bại hoại”).

 Đại sư chẳng nêu rõ tên kinh, nhưng xem đoạn kinh văn này thì là ý nghĩa trong kinh Hoa Nghiêm. Chẳng phát Bồ Đề tâm, tất cả hết thảy những điều thiện đã tu đều bị ma nhiếp trì. Vì sao nói là “ma nhiếp”? Ma là thử thách, đem lại cho quý vị rất nhiều phiền não, đau khổ. Trong đời quá khứ, quý vị tu thiện căn rất lớn, nay quý vị có phước báo nhân thiên, làm Tổng Thống. Tổng Thống có khổ hay không? Rất khổ! Quý vị phát tài lớn, như ông Vương Vĩnh Khánh[108], có được tự tại hay không? Chẳng được tự tại, khổ chẳng thể nói nổi! Sự thử thách ấy gọi là “ma nhiếp”, tức là quý vị vẫn có phiền não, vẫn có khổ nạn, chẳng có cách nào rời khỏi. Kẻ nghèo có nỗi khổ của kẻ nghèo, kẻ giàu có nỗi khổ của người giàu. Kẻ ăn mày có nỗi khổ của kẻ ăn mày. Kẻ làm hoàng đế có nỗi khổ của hoàng đế, chẳng có ai không khổ! Thậm chí làm thiên vương trên trời cũng khổ, cũng chẳng tự tại. Do vậy, người thật sự giác ngộ quyết định chẳng làm chuyện ngu ngốc này! Đối với các đồng tu khá thân cận, tôi đều khuyên họ: Hằng ngày, quý vị làm việc rất khổ, ngẫm lại [sẽ thấy] làm mà chẳng có ý nghĩa gì, suốt ngày từ sáng đến tối bận bịu vì ai? Suy nghĩ đích xác, quý vị phản tỉnh, dần dần giác ngộ. Tôi khuyên họ: Vì sao quý vị chẳng thay đổi nghề? Đổi thành nghề nào? Tôi nói: Quý vị hãy làm Phật, “nghề” làm Phật hay lắm! Nghề khác chẳng cần làm! Nghề làm Phật rất sung sướng, rất tự tại, cớ sao chẳng đổi nghề?

Vì người ấy tu phước, thiện căn và phước đức là Tu Đức, chẳng phải là Tánh Đức. Nếu chẳng tiếp tục tu,“đa kiếp chung thành bại hoại” (tu đã nhiều kiếp, rốt cuộc trở thành bại hoại), đó là đạo lý nhất định. Thế nhưng, đời đời kiếp kiếp phải tiếp tục tu, đây cũng chẳng phải là chuyện dễ dàng. Thứ nhất là quý vị bị mê khi cách ấm, quên sạch những thứ đã tu hành trong kiếp trước. Kế đó, trong một đời này, chưa chắc sẽ có thể gặp thiện duyên. Chẳng gặp duyên, sẽ chẳng có cách nào tu được. Giống như ở ngoại quốc hiện thời, ta thấy trong chung cư của người già, gần như là do Thiên Chúa giáo hoặc Cơ Đốc giáo lập ra, Phật giáo vẫn chưa có. Người Hoa đến ở trong chung cư người già ấy, tuy là niệm Phật, nhưng hằng ngày họ lễ bái, cầu nguyện ở đó, thời gian lâu ngày cũng bị họ lung lạc, cũng quên tuốt Phật! Đó là do hoàn cảnh, chẳng có cách nào. Quý vị ở trong cùng một hoàn cảnh với người khác, đây là vấn đề duyên. Chẳng gặp duyên thù thắng, sẽ thường bị thoái chuyển.

 

(Diễn) Vong tâm thể cực, nhất niệm đốn khế Phật gia. Cố tri Bồ Đề nãi vạn thiện chi căn bản dã.

()忘心體極,一念頓契佛家,故知菩提乃萬善之根本也。

(Diễn: Quên tâm, thấu hiểu đến tột cùng, trong một niệm bèn nhanh chóng khế nhập nhà Phật. Vì thế biết Bồ Đề là căn bản của mọi điều thiện vậy).

“Vong tâm”, “tâm” ấy là vọng tâm, là tâm phân biệt, tâm vọng tưởng, phải gạt bỏ, hãy quên nó đi. “Thể” (體) là thấu hiểu, thấu hiểu Chân Như bản tánh, hiểu Thật Tướng của các pháp, thấu hiểu đến cùng tột. Sau đó, “nhất niệm đốn khế Phật gia” (một niệm nhanh chóng khế nhập nhà Phật), nhà Thiền nói “một niệm đốn khế” là khai ngộ, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Những chuyện này đều phải dùng giác tâm thì mới có thể làm được. Đấy là căn bản của muôn điều thiện, là cái nhân. Sau đó, lại xem đến duyên.

 

(Sao) Nhiên tu nhất thiết phước đức, trợ thành Bồ Đề, dĩ phước tế huệ, dĩ Sự thật Lý, phụ dực nhập đạo, thị chi vị duyên.

()然須一切福德,助成菩提,以福濟慧,以事實理,輔翼入道,是之謂緣。

(Sao: Nhưng cần phải tu hết thảy phước đức để giúp Bồ Đề thành tựu. Dùng phước giúp cho huệ, dùng Sự để thực hiện Lý, giúp đỡ nhập đạo, những điều này gọi là duyên).

Chẳng phải là không giác ngộ, [mà là] hoàn cảnh chẳng cho phép, hoàn cảnh là duyên. Trong Phật môn, có vị đồng tu nào, vị pháp sư nào, nhất là các vị lão pháp sư nào mà chẳng biết đào tạo nhân tài là trọng yếu? Đều biết! Lão hòa thượng hễ gặp mặt đều nhắc tới nhắc lui, cớ sao chẳng thấy có ai nghiêm túc bồi dưỡng nhân tài? Chẳng đủ duyên, đây là một chuyện khổ sở! Kể từ khi tôi quen biết lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ tới nay, gần như mỗi lần gởi thư, cụ đều nhắc đến chuyện này, mỗi lần gặp gỡ đều đặc biệt nhắc nhở một phen! Tôi cũng thưa với cụ: “Tôi đã sớm có tâm, nhưng chẳng đủ duyên!” Chẳng phải là không làm, nhưng hoàn cảnh không cho phép. Mãi cho đến nay, duyên ấy dần dần chín muồi, chúng tôi lập một đạo tràng nhỏ tại Mỹ, mục đích là thành tựu thiện tri thức hoằng pháp, lợi sanh trong tương lai, chúng tôi toàn tâm toàn lực giúp đỡ họ. Nay chúng ta có một chỗ nhỏ như thế, chỉ cần quý vị thật sự phát tâm tu học, ăn, mặc, ở, đi lại, hết thảy những gì cần dùng cho cuộc sống chúng tôi đều phát tâm cúng dường, hy vọng quý vị sẽ định cái tâm, an tâm học hành ở đó suốt mười năm.

Trong vòng mười năm, năm năm đầu đặt vững căn bản, tức căn bản giáo dục, quý vị thật sự phát tâm hoằng pháp. Chúng tôi tuyển chọn bảy loại khóa trình từ các kinh luận: Kinh Vô Lượng Thọ, Di Đà Kinh Yếu Giải, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, A Nan Vấn Sự Phật Cát Hung Kinh, Cảm Ứng Thiên, Liễu Phàm Tứ Huấn, Tứ Thư. Bảy thứ ấy, trong năm năm phải học rất thuộc. Niệm mỗi ngày, mỗi ngày tối thiểu niệm mười lần. Mỗi ngày niệm mười lần để khỏi dấy vọng tưởng, chẳng có thời gian dấy vọng tưởng. Niệm suốt năm năm, tâm đã định, tâm thanh tịnh, Căn Bản Trí hiện tiền. Năm năm đầu dùng phương pháp đọc kinh, mục tiêu là “phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, đoạn phiền não. Phân biệt, vọng tưởng, chấp trước của quý vị thảy đều bị đoạn sạch, dùng phương pháp đọc kinh để đoạn trừ. Năm năm sau là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, bảo quý vị hãy đọc Đại Tạng, hãy đọc Tứ Khố Toàn Thư, còn phải đọc [những tài liệu thuộc về] kiến thức khoa học hiện đại. Trong năm năm, phải đọc rất nhiều thứ, chỉ cần quý vị có Định, có Huệ, vừa tiếp xúc liền hiểu rõ, tốc độ [lãnh hội] sẽ hết sức nhanh chóng. Đó là cung cấp một nơi chốn hoàn thiện, sách vở hoàn thiện nhằm cúng dường các vị rốt cuộc sẽ là tổ sư đại đức trong một thế hệ, thật sự phát tâm hoằng pháp lợi sanh, nối tiếp huệ mạng của Phật!

Tông chỉ của chúng ta là bồi dưỡng nhân tài, chúng ta chẳng làm pháp hội, không làm bất cứ hoạt động nào! Đạo tràng thành lập, chúng ta không làm lễ khai quang, khánh thành. Tất cả các hình thức đều chẳng cần đến, cứ khiêng sách vở vào, thỉnh tượng Phật vào, bắt đầu niệm Phật dụng công tại đó. Phương thức của chúng tôi là phương pháp xưa kia thầy Lý đã dạy, hoàn toàn lôi ra áp dụng. Vì thế, dùng phương pháp xưa cũ để giáo học, hoàn toàn chẳng giống như trong các Phật Học Viện hiện thời.

Phải có phước để giúp đỡ huệ, dùng Sự để viên mãn lý luận, cũng có thể nói: Lý tưởng phải có sự thật thì mới có thể viên mãn lý tưởng. Có nhân, có duyên, như vậy thì mới có thể thành tựu viên mãn. Đây là giải thích câu “thiện căn vi nhân, phước đức vi duyên” (thiện căn làm nhân, phước đức làm duyên).  Hôm  nay  đã  hết  thời  gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này.