A DI ĐÀ KINH SỚ SAO DIỄN NGHĨA
QUYỂN 7 – Tập 215-216
Liên Trì đại sư chùa Vân Thê soạn sớ sao
Pháp sư Cổ Đức diễn nghĩa
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo duyệt: Minh Tiến – Huệ Trang – Đức Phong
— o0o —
Tập 215
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm hai mươi lăm:
(Sao) Các hữu nhân duyên giả, thiện căn, phước đức, kỳ sở diêu lai, tùng hà phát tâm, quân danh viết nhân. Nhi thiện căn phát khởi, tất hữu chủng chủng thiện duyên vi trợ; phước đức phát khởi, tất hữu chủng chủng phước duyên vi trợ, thị các hữu kỳ duyên dã.
(鈔)各有因緣者,善根福德,其所繇來,從何發心,均名曰因。而善根發起,必有種種善緣為助;福德發起,必有種種福緣為助,是各有其緣也。
(Sao: “Mỗi điều đều có nhân duyên”: Nguồn cội của thiện căn và phước đức là do phát những tâm nào, [những tâm ấy] đều gọi là “nhân”. Nhưng để thiện căn phát khởi, ắt phải có các thứ thiện duyên giúp đỡ; để phước đức phát khởi, ắt phải có các thứ phước duyên giúp đỡ. Vì thế, mỗi điều [thiện căn hay phước đức] đều có duyên riêng của nó).
Ở đây, giải thích câu “các hữu nhân duyên” [trong lời Sớ]. Trong đoạn trước đã giảng rõ nhân duyên của thiện căn và phước đức tương đồng, đặc biệt là trong tông này, lấy trì danh làm thiện căn, và còn coi trì danh là phước đức. Đấy chính là thiện căn, phước đức, nhân duyên tương thông. Nhưng nếu nói tách rời thì cũng có lý, thiện căn có cái nhân của thiện căn, có cái duyên của thiện căn, phước đức cũng có nhân và duyên của phước đức, ở đây đã nói rất rõ ràng. Thiện căn là do phát tâm, chúng ta phát cái tâm như thế nào? Sau khi tâm đã phát khởi, nhất định là có các thứ duyên đến giúp đỡ quý vị thì mới có thể kết thành quả. Nếu chỉ phát tâm mà chẳng có duyên đến giúp đỡ, tâm ấy sẽ như không, chẳng có kết quả gì! Phước đức cũng giống như thế. Do vậy, phát khởi phước đức cũng cần phải có các thứ trợ duyên. Đó là nói “các hữu nhân duyên”.
Ví như quý vị phát tâm học Phật, phát tâm tu học Định Huệ, điều này thuộc về thiện căn. Tuy đã phát tâm, nếu chẳng gặp thiện tri thức, chẳng gặp đồng tham đạo hữu, rất khó đạt đến mục tiêu. Thiện hữu, đồng học, cũng như hoàn cảnh, đều là trợ duyên. Đối với chuyện tu phước lại càng rõ ràng: Ai nấy đều mong mỏi chính mình có phước báo, đối với phước cũng phải phát tâm. Trong hết thảy các kinh luận, đức Phật đã dạy: Bố thí là nhân duyên của hết thảy các phước. Chúng ta có của cải, có trí huệ, có sức khỏe, sống lâu. Đó là quả báo. Quả báo chẳng phải là bỗng dưng mà có, phải do sự tu tập, tích lũy trong đời quá khứ. Tu tập và tích lũy đương nhiên là có nhân và duyên. “Nhân” là quý vị phát tâm chịu tu; đó là nhân. Quý vị biết quả báo ấy là chân thật, quý vị chịu tu học. Nhân có thù thắng và kém cỏi, quý vị phát tâm có dũng mãnh hay tán loạn. Duyên cũng có thù thắng và kém cỏi. Quý vị gặp duyên thù thắng, quả báo sẽ đặc biệt tốt đẹp. Gặp duyên chẳng thù thắng, quả báo sẽ thua kém hơn. Do vậy, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian chẳng lìa nhân quả. Đức Phật giảng kinh Hoa Nghiêm và kinh Pháp Hoa đều chẳng lìa nhân quả, chúng ta nhất định phải biết điều này. Tục ngữ Trung Hoa thường nói: “Nhất ẩm, nhất trác, mạc phi tiền định” (Một hớp uống, một miếng ăn, không gì chẳng phải là đã định sẵn). “Tiền định” thì là ai định? Do chính mình định, chẳng phải do ai khác định đoạt! Trong quá khứ, chính mình đã tu cái nhân gì, đời này đạt được quả báo gì; đời này tu nhân gì, đời sau sẽ đạt quả báo gì, chẳng thể sai sót chút nào! Dẫu là trong chiến tranh, cũng chẳng có một ai bị chết oan uổng. Vì thế, người thật sự hiểu rõ đạo lý này, xác thực là trong thế gian, bất luận là cá nhân, gia đình, quốc gia, cho đến toàn thể thế giới, đều có vận số nhất định. Vận số nhất định thì có thể chuyển hay không? Có thể chuyển. Dựa vào đâu để có thể chuyển? Nói thật thà, chẳng phải là chuyển nơi nhân, nhân chẳng thể chuyển! Then chốt để chuyển là duyên, [tức là duyên] trong nhân, duyên, quả. Phật pháp thường nói “duyên sanh luận”, chỉ cần quý vị có thể nắm vững duyên là có thể chuyển.
Quý vị đọc Liễu Phàm Tứ Huấn, [sẽ thấy] tiên sinh Viên Liễu Phàm tự mình xoay chuyển vận mạng cả một đời. Chuyển từ nơi đâu? Chuyển từ duyên, chẳng phải là chuyển nơi nhân. Nếu chúng ta có thể nắm vững duyên này, nói cách khác, hết thảy quả báo đích xác là do chính tay ta thao túng. Mỗi chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay, chủng tử trong A Lại Da Thức là nhân, chủng tử của mười pháp giới thảy đều trọn đủ. Nói cách khác, trong A Lại Da Thức của quý vị, có cái nhân thành Phật, có cái nhân làm Bồ Tát, có cái nhân làm Thanh Văn, Duyên Giác, có cái nhân sanh thiên, có cái nhân đọa A Tỳ địa ngục, chủng tử của mười pháp giới thảy đều có. Nay tôi phải hỏi quý vị, trong một đời này, chúng ta mong đạt kết quả như thế nào, đó là điều chúng ta hy vọng, hãy nương theo hy vọng ấy để tranh thủ cái duyên [của kết quả] ấy. Ví như ta mong thành Phật, nếu mong tưởng thành Phật thì do nhân duyên của mười pháp giới thảy đều có, ta có cái nhân thành Phật, đương nhiên là ta có thể thành Phật, cái có thể nắm chắc là duyên. Ta chuyên tu cái duyên thành Phật, duyên của chín pháp giới kia ta đều chẳng tu, ta chuyên tu một điều này, trong một đời này, nhất định sẽ thành công. Ngay cả thành Phật là chuyện khó nhất mà còn có thể làm được trong một đời này, huống gì những điều khác! Đúng như cổ nhân thường nói: “Trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”. Chẳng có gì không cầu được, then chốt là quý vị có hiểu rất rõ nhân, duyên và quả hay không? Đạo lý rất rõ ràng, quý vị có thể thật sự nắm vững sự thật, chắc chắn là sẽ có thể thành tựu, cầu điều gì bèn đạt được điều đó.
(Sớ) Vấn: Hà cố Quán Kinh phát Bồ Đề tâm tại đệ tam phước?
(疏)問:何故觀經發菩提心在第三福。
(Sớ: Hỏi: Vì sao Quán Kinh xếp phát Bồ Đề tâm vào phước thứ ba?)
Khi chúng tôi giảng Quán Kinh, cũng đã nói cặn kẽ chuyện này. Ở đây, Liên Trì đại sư đã khai thị hết sức hay. Nói theo Lý, phát Bồ Đề tâm là thiện căn, nhưng trong Tam Phước, nó được xếp vào điều thứ ba.
(Sớ) Đáp: Dĩ phước hữu Sự, Lý, bất chuyên Sự cố.
(疏)答:以福有事理,不專事故。
(Sớ: Đáp: Do phước có Sự và Lý, do chẳng chuyên nơi Sự).
Phát Bồ Đề tâm là Lý, hai điều trước [trong Tam Phước] là nói theo Sự. Ở đây, Tam Phước của Quán Kinh đều được nêu ra.
(Sao) Quán Kinh Tam Phước: Nhất giả, hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập Thiện Nghiệp. Nhị giả, thọ trì Tam Quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi. Tam giả, phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, độc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả.
(鈔)觀經三福:一者孝養父母,奉事師長,慈心不殺,修十善業;二者受持三歸,具足眾戒,不犯威儀;三者發菩提心,深信因果,讀誦大乘,勸進行者。
(Sao: Tam Phước theo Quán Kinh: Một là hiếu dưỡng với cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp; hai là thọ trì Tam Quy, trọn đủ các giới, chẳng phạm oai nghi; ba là phát Bồ Đề tâm, rất tin nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả).
Sách Diễn Nghĩa có giải thích, nêu ra những điểm trọng yếu.
(Diễn) Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, kính thượng dã. Từ tâm bất sát, tiếp hạ dã.
(演)孝養父母,奉事師長,敬上也;慈心不殺,接下也。
(Diễn: “Hiếu dưỡng với cha mẹ, phụng sự sư trưởng” là tôn kính bề trên. “Từ tâm chẳng giết” là tiếp độ kẻ dưới).
Đây chính là “thượng báo tứ trọng ân, hạ tế tam đồ khổ” trong bài văn Hồi Hướng. Chúng ta niệm Hồi Hướng Văn hằng ngày, thực hiện từ chỗ nào? Phải thực hiện ra sao? “Thượng báo tứ trọng ân” phải khởi sự từ hiếu thảo với cha mẹ, tôn trọng thầy. “Hạ tế tam đồ khổ” khởi đầu bằng từ tâm chẳng giết. Đây là dạy cho chúng ta cách thực hiện cụ thể nhằm bổ sung những ý nghĩa chưa được nêu trọn trong phần trước.
(Diễn) Tu Thập Thiện Nghiệp, thân xả tam tà, khẩu ly tứ quá, ý đoạn tam ác dã. Thử cộng phàm phu hành.
(演)修十善業,身捨三邪、口離四過、意斷三惡也。此共凡夫行。
(Diễn: Tu Thập Thiện Nghiệp là thân bỏ ba điều tà, miệng lìa bốn điều lỗi, ý đoạn ba sự ác. Những điều này hành chung với phàm phu).
Phước thứ nhất trong Tam Phước là phàm phu phước. Đó là căn cơ của Bồ Tát. Bồ Tát chẳng tu học từ chỗ này, chắc chắn chẳng thể tu hành chứng quả. Do vậy, điều này rất trọng yếu. “Thân trừ tam tà”, tam tà là giết, trộm, dâm, nhất định phải rời lìa. “Khẩu ly tứ quá”, tức là vọng ngữ, ác khẩu, ỷ ngữ; ỷ ngữ là hoa ngôn xảo ngữ, nghe thì êm tai lắm, thật ra là có hại, chẳng có lợi gì, bao gồm cả những thứ giống như ca múa trong hiện tại, lưỡng thiệt là khơi gợi thị phi. Phải xa lìa bốn thứ lầm lỗi ấy. Trong ý, tam độc phiền não là tham, sân, si, chúng có phạm vi hết sức rộng lớn. Không chỉ là phải lìa tham, sân, si đối với pháp thế gian, mà đối với pháp xuất thế gian, cũng chớ nên có tâm tham. Do vậy, nhất định là phải đoạn tham, sân, si. Lìa khỏi tham, sân, si thì là ba thiện căn, ba thiện căn là vô tham, vô sân, vô si, tất cả hết thảy thiện pháp thế gian sanh từ đây. Do vậy có thể biết, tất cả hết thảy ác pháp trong thế gian sanh từ tham, sân, si, nên chúng được gọi là Tam Ác hoặc Tam Độc.
(Diễn) Tam Quy giả, Phật, Pháp, Tăng dã.
(演)三皈者,佛法僧也。
(Diễn: Tam Quy là Phật, Pháp, Tăng).
Chúng tôi sợ các đồng tu sơ học thấy “Phật, Pháp, Tăng”, sẽ hiểu sai ý nghĩa, nên thường dùng cách nói của Lục Tổ đại sư trong Đàn Kinh là “giác, chánh, tịnh”. Phật là giác, Pháp là chánh, Tăng là tịnh; đó cũng là tự tánh Tam Bảo, là chỗ quy y thật sự của chúng ta.
(Diễn) Cụ túc chúng giới giả, đạo tục bị thọ vi tế.
(演)具足眾戒者,道俗備受微細。
(Diễn: “Đầy đủ các giới” là đạo hay tục đều thọ đủ mọi lẽ vi tế).
“Đạo” (道) là người tu đạo, “tục” (俗) là kẻ thế tục. Bất luận là tu đạo hay thế tục, đều phải tuân thủ khuôn phép, đều phải giữ quy củ. Giới luật là pháp luật, là mẫu mực cho cuộc sống. Ngoài những điều luật do đức Phật đã chế định ra, pháp luật, quy định, phong tục, tập quán, quan niệm đạo đức của thế gian đều bao gồm trong ấy (trong hai chữ “chúng giới”), dù là người thế gian hay xuất thế gian đều phải nên tuân thủ, xã hội mới có trật tự, mới an tường, hòa thuận, chúng sanh mới có thể sống an hòa, lợi lạc.
(Diễn) Bất phạm oai nghi giả, tam thiên tất giai bất khuyết dã.
(演)不犯威儀者,三千悉皆不缺也。
(Diễn: “Chẳng phạm oai nghi” là ba ngàn oai nghi đều chẳng thiếu khuyết).
“Oai nghi” (威儀) là nói tới nghi biểu (儀表: sự biểu lộ, tác phong
cư xử của một cá nhân), nay chúng ta nói là “phong độ”. Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh[109], có thể thấy xuất gia chẳng phải là chuyện dễ dàng! Vì sao trong cuộc sống phải cẩn thận dường ấy? Vì người ấy (người xuất gia) là nhân thiên sư biểu (人天師表: bậc thầy gương mẫu cho cả trời lẫn người), là tấm gương cho đại chúng, là khuôn mẫu để đại chúng [noi theo]. Do đó, nhất cử nhất động đều phải nêu gương tốt nhất cho người khác học tập theo. Hiện thời, trong xã hội, người xuất gia chẳng được đại chúng trong xã hội tôn kính, nguyên nhân ở chỗ nào? Giới hạnh lẫn oai nghi đều chẳng có, không nói tới những thứ ấy! Đại chúng bình phàm cũng quen thói buông lung, quen nết tùy tiện, chẳng thể chịu nổi bó buộc. Hễ hơi có chút nào ràng buộc, họ sẽ chịu không nổi; tu hành kiểu đó rất khó thành tựu! Nhất cử nhất động của chư Phật, Bồ Tát chẳng có ai bó buộc, mà các Ngài tự nhiên phù hợp oai nghi. Đó là gì? Bình thường đã dưỡng thành thói quen ấy. Trong pháp thế gian, chúng ta đọc Luận Ngữ thấy Khổng lão phu tử bảy mươi tuổi “tùy tâm sở dục, bất du củ” (thuận theo lòng muốn, chẳng vượt quy củ). Nói theo Phật pháp, Ngài đã đạt đến giải thoát, đạt được tự tại! Thuận theo lòng muốn mà cũng chẳng phạm giới, cũng chẳng phạm oai nghi. Đó là công phu tu dưỡng thuần thục được Nho gia coi trọng, nhà Phật càng coi trọng hơn. Chúng ta phải ghi nhớ điều này.
(Diễn) Thử cộng Nhị Thừa hành.
(演)此共二乘行。
(Diễn: Điều này hành chung với Nhị Thừa).
Điều thứ hai [trong Tam Phước] là hạnh tu tập của Thanh Văn và Duyên Giác, đương nhiên Bồ Tát chẳng thể không tu. Điều sau nhất định bao gồm điều trước, điều trước chẳng bao gồm điều sau.
(Diễn) Phát Bồ Đề tâm giả, y vô tác cảnh, khởi vô duyên thệ, danh phát Bồ Đề tâm.
(演) 發菩提心者,依無作境起無緣誓,名發菩提心。
(Diễn: Phát Bồ Đề tâm là nương vào cảnh vô tác để khởi lên thệ nguyện vô duyên, gọi là phát Bồ Đề tâm).
Ý nghĩa này rất sâu. “Vô tác”: Tác (作) là tạo tác. Cảnh giới vô tác là nói đến cái tâm thanh tịnh. Trong tâm địa, chẳng khởi tâm, không động niệm, đó là “vô tác”. Khởi tâm động niệm thì sai mất rồi. “Khởi vô duyên thệ”: “Thệ” (誓) là nói tới Tứ Hoằng Thệ Nguyện, tức là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”. Nguyện ấy là tự nhiên, phát xuất từ Chân Như bản tánh, chẳng phải là miễn cưỡng, nên gọi là “vô duyên thệ”. Nói theo cách hiện thời, “duyên” (緣) là điều kiện. [Vô duyên] là chẳng có điều kiện, ta phát ra thệ nguyện chẳng có điều kiện gì, đó là những chuyện đáng phải nên làm thuộc về bổn phận của một người thật sự giác ngộ, chẳng có bất cứ điều kiện gì để bàn luận nữa! Do vậy, hễ phát ra cái tâm ấy, sẽ là một vị Bồ Tát chân thật, chẳng phải là Quyền Giáo Bồ Tát, mà là Bồ Tát thật sự. Bồ Tát thật sự, nói theo Viên Giáo, sẽ từ địa vị Sơ Trụ trở lên, vượt xa Thanh Văn, Duyên Giác, vượt xa quá nhiều!
Nay chúng ta mỗi ngày đều nói “phát Bồ Đề tâm”, đó là phát tâm ngoài cửa miệng, xác thực là chẳng phát chi cả! “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, thấy kẻ này cũng đáng ghét, thấy kẻ kia cũng ngứa mắt, ta chẳng thèm độ kẻ đó! Vậy là độ chúng sanh ở chỗ nào? “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn”, hằng ngày dấy vọng tưởng, hằng ngày tạo tác tham, sân, si. Không chỉ là chẳng đoạn, mà còn tăng trưởng mỗi ngày! Do vậy có thể biết, hằng ngày niệm Tứ Hoằng Thệ Nguyện, buổi sáng niệm một lần, buổi tối niệm một lần, đều giả trất, chẳng có một câu nào là thật! Nếu phát bốn nguyện ấy bằng chân tâm, [phát nguyện] chân thật, chúc mừng quý vị, quý vị đã chứng đắc Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Kinh Hoa Nghiêm gọi Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo là Pháp Thân đại sĩ, [tâm của] quý vị là chân tâm, chẳng phải là kẻ bình phàm.
Vì thế, xếp “phát Bồ Đề tâm” vào điều phước thứ ba là hợp lý. Vì sao? Hàng Nhị Thừa chẳng có Bồ Đề tâm. A La Hán và Bích Chi Phật chẳng phát tâm phổ độ chúng sanh. Chẳng phải là các Ngài không độ chúng sanh, chúng sanh đến tìm các Ngài, còn tùy thuộc các Ngài có hứng thú hay không! Quý vị hướng về các Ngài thỉnh giáo, các Ngài thấy quý vị cũng khá, hữu duyên, bèn dạy bảo. Chẳng hữu duyên, các Ngài chẳng thèm ngó ngàng tới quý vị! Nói cách khác, A La Hán và Bích Chi Phật độ chúng sanh có điều kiện, Bồ Tát độ chúng sanh vô điều kiện, khác hẳn! Bởi lẽ, Bồ Tát có Bồ Đề tâm, Nhị Thừa chẳng có Bồ Đề tâm. Câu dưới đây nhằm giải thích [từ ngữ] “thâm tín nhân quả”.
(Diễn) Thật Tướng bất nhị nhi nhị, lập nhân quả thù, nhị nhi bất nhị, thỉ chung lý nhất, tín thử nhân quả phương danh vi thâm.
(演)實相不二而二,立因果殊,二而不二,始終理一,信此因果方名為深。
(Diễn: Thật Tướng chẳng hai mà hai, lập thành nhân và quả khác nhau, tuy hai mà một, từ đầu tới cuối lý là một. Tin tưởng nhân quả này thì mới gọi là sâu).
Giải thích chữ “thâm” (深). Tin nhân quả thì chúng ta đều tin, có kẻ học Phật nào trong lũ chúng ta chẳng tin nhân quả? Đều tin! Tuy tin, nhưng chẳng đủ độ sâu! Vì sao? Vì chính mình vẫn chưa thể nghiêm túc đoạn ác tu thiện, tức là tin chẳng đủ độ sâu! Chẳng hạn như đức Phật dạy chúng ta “tài bố thí sẽ chẳng thiếu hụt tiền của”; nay chúng ta có tiền tài, có chịu bố thí hay không? Vẫn không chịu, [vậy thì] có tin tưởng lời Phật hay chăng? Tin tưởng ư? Đã tin tưởng, cớ sao chẳng làm? Không đủ sâu! Lời Phật dạy là thật, đáng tiếc là chúng ta chẳng thật sự tin tưởng! Thật sự tin tưởng, suốt một đời này sẽ sống hết sức hạnh phúc, xác thực là đạt được tự tại. Pháp bố thí bèn được thông minh, trí huệ; vô úy bố thí bèn được khỏe mạnh, trường thọ. Đối với ba thứ bố thí này, nay chúng ta đều có năng lực tu tập.
Đối với phước báo, chư vị phải ghi nhớ, giữ lại để hưởng trong lúc tuổi già, đó là người có trí huệ nhất. Tuổi trẻ đừng nên hưởng sạch phước báo, [để rồi] đến khi tuổi già chịu khổ, sẽ là thật khổ! Tuổi trẻ chịu khổ đôi chút, chẳng sao cả; có tinh thần và thể lực để chống đỡ được. Tuổi già suy lụn, chẳng có ai chăm sóc, đích xác là rất đáng thương. Chúng ta muốn tuổi già hạnh phúc, hiện thời thì trước hết là phải tu bố thí, phải học kính lão tôn hiền (kính trọng người già, tôn trọng hiền nhân). Đó là tu cái nhân, mai sau chúng ta già cả, bọn trẻ tuổi sẽ tôn kính ta! Nay ta thấy người già liền chán ghét, đợi đến khi ta già cỗi, người khác trông thấy sẽ chán ghét ta! Nhân như thế nào, sẽ có quả báo như thế ấy, chẳng sai sót mảy may. Do vậy, thấy người già, hãy nên nghĩ trong tương lai ta sẽ già, thấy người già rất đáng thương, trong tương lai ta sẽ giống như họ, thậm chí còn đáng thương hơn họ! Do đó, nhất định phải chiếu cố và giúp đỡ người già. Đây là quý vị tu nhân trong hiện tại, trong tương lai sẽ đạt được quả báo. Do vậy, phải tin sâu nhân quả.
Chỗ này đích xác là có chiều sâu, Bồ Tát mới có thể khế nhập chiều sâu này, lũ bình phàm chúng ta vẫn chẳng làm được. “Thật Tướng bất nhị nhi nhị” (Thật Tướng chẳng hai mà hai): Trong bất nhị, kiến lập hai pháp, nhân và quả là hai pháp. “Lập nhân quả thù”, “lập” (立) là kiến lập, “thù” (殊) là khác nhau, có nhân và quả. “Nhị nhi bất nhị” (Tuy hai mà một): Tuy nói nhân và quả, nói thật thà, nhân và quả là một chuyện. Trong nhân có quả, trong quả có nhân. Quả lại là cái nhân kế tiếp, xoay vần [quả làm nhân, nhân đó lại sanh ra cái quả kế tiếp] chẳng cùng tận. “Thỉ chung lý nhất” (Từ đầu đến cuối lý là một), cùng một đạo lý. “Tín thử nhân quả, phương danh vi thâm” (Tin nhân quả này mới gọi là sâu), ắt phải thật sự thâm nhập Đại Thừa thì mới có thể triệt để giác ngộ, thấu hiểu chân tướng của nhân quả trong vũ trụ và nhân sinh thuộc về thế gian lẫn xuất thế gian, mới có thể thật sự đoạn nghi sanh tín trong tu học.
(Diễn) Độc tụng Đại Thừa, tu tam trí giải, vận viên thừa hạnh.
(演)讀誦大乘,修三智解,運圓乘行。
(Diễn: Đọc tụng Đại Thừa, tu ba trí giải, vận dụng hạnh thuộc về Viên Giáo).
“Tam trí” là Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng Trí, Nhất Thiết Chủng Trí. Dùng phương pháp gì để cầu tam trí? Dùng đọc tụng. Chư vị phải biết, đọc tụng nhằm mục đích tu Tam Học Giới, Định, Huệ. Tam Học được hoàn thành đồng thời. Thật sự dùng phương pháp này để đắc Định, tự nhiên sẽ khai Huệ, Huệ ấy chính là Căn Bản Trí. Đọc tụng nhằm mục đích tu tâm thanh tịnh, quyết định chẳng để cho vọng niệm nào tồn tại. Nếu quý vị đọc kinh mà dễ dấy lên vọng tưởng, hãy trì chú. Chú chẳng có ý nghĩa[110], quý vị chẳng có cách nào dấy vọng tưởng. Đọc kinh mà nếu chẳng có vọng tưởng để đọc, chẳng khởi tâm, không động niệm, người ấy đã tu Định. Ta niệm một tiếng đồng hồ thì trong một tiếng đồng hồ, ta chẳng có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, tâm đã định trong một tiếng đồng hồ. Niệm hai tiếng đồng hồ, tâm định trong hai tiếng đồng hồ. Tu Định, tu tâm thanh tịnh, mục đích của việc đọc kinh là ở chỗ này! Tu tâm thanh tịnh sẽ là công đức. Vừa đọc kinh, vừa suy nghĩ ý nghĩa trong ấy, chẳng có công đức chi hết! Dẫu niệm nhuần nhuyễn cách mấy, niệm đến mức thuộc nằm lòng, cũng đều vô dụng, vẫn thuộc về pháp thế gian, chẳng phải là Phật pháp. Quý vị đạt được lợi ích là ký tụng (記誦: tụng đọc thuộc làu làu), chẳng dính dáng gì với Tánh Đức! Nếu dùng phương pháp này của Phật pháp để đọc tụng, sẽ là Tu Đức thật sự, tương ứng với Tánh Đức. Đấy là công đức chân thật, chúng ta phải biết điều này.
Nghiên cứu, thảo luận thuộc về Hậu Đắc Trí. Do vậy, lúc mới học, lấy đọc tụng làm chánh yếu, nghiên cứu và thảo luận là phụ trợ. Nếu chẳng nghiên cứu, thảo luận, ví như quý vị khai trí huệ phải tốn mười năm, tức là do mười năm công phu, quý vị mới có thể từ Định mà khai Huệ. Nếu lại thêm vào nghiên cứu, thảo luận, quý vị có thể tiến nhanh hơn, năm năm bèn khai trí huệ, có sự thuận lợi này, có lợi ích như vậy. Nay chúng ta đang trong quá trình học tập, vận dụng hai phương pháp để tiến đồng thời. Cùng tiến đồng thời, chư vị đồng tu nhất định phải ghi nhớ: Tu tâm thanh tịnh là chủ yếu, nghiên cứu và thảo luận nhằm phụ trợ, như vậy thì chúng ta mới có thể đạt được công đức và lợi ích chân thật.
(Diễn) Dĩ thử giải hạnh giáo kỳ hành giả, danh vi khuyến tấn.
(演)以此解行教其行者,名為勸進。
(Diễn: Dùng sự giải hạnh ấy để dạy hành giả thì gọi là “khuyến tấn”).
Đem phương pháp tu hành của chính mình, đem tâm đắc trong sự tu hành của chính mình dạy cho người khác, khuyên lơn, khích lệ người khác thì gọi là “khuyến tấn hành giả”.
(Diễn) Thử Đại Thừa bất cộng hạnh nghiệp dã.
(演)此大乘不共行業也。
(Diễn: Đây là hạnh nghiệp Đại Thừa chẳng cùng chung [với Nhị Thừa hoặc phàm phu]).
Phước cuối cùng này thuần túy là phước mà Đại Thừa Bồ Tát mới có, phàm phu và Nhị Thừa đều chẳng có. Câu đầu tiên là “phát Bồ Đề tâm”, hôm nay chúng ta xem từ phần này. “Tín nhân quả, độc Đại Thừa, khuyến tấn hành giả” (Tin nhân quả, đọc kinh Đại Thừa, khuyến khích, sách tấn hành nhân), chúng ta cũng có [điều này, nhưng] thật ra, chúng ta chỉ là tương tự, chẳng phải là thật sự! Vì sao? Chẳng có Bồ Đề tâm. Nhất định là phải có Bồ Đề tâm, bốn câu này chính là Bồ Tát tâm. Chẳng có bốn câu này, ba câu kế đó vẫn là phàm phu tâm. Do vậy có thể biết, xác thực là Đại Thừa Phật pháp được kiến lập trên cơ sở Bồ Đề tâm. Dưới đây là một đoạn vấn nạn.
(Sao) Nạn vị “vân hà phát Bồ Đề tâm, nhi dữ thượng chi nhị giả đồng danh viết phước?”
(鈔)難謂云何發菩提心,而與上之二者同名曰福。
(Sao: Vặn rằng: Vì sao phát Bồ Đề tâm lại cùng với hai điều trước đều gọi là phước?)
“Nạn” (難) là có người cố ý đến gây khó dễ. “Phát Bồ Đề tâm” thì phát tâm là chuyện thuộc về Lý, có thể nào lại xếp chung với hai điều trước để luận định ư? Những điều trước là “kính trọng người trên lẫn kẻ dưới”, thuộc về Sự. Tam Quy, trọng giới cũng đều thuộc về Sự, Sự là phước. Lẽ nào phát tâm là phước? Nêu ra một câu hỏi như thế để cật vấn. Tuy trong kinh nói giả thiết, nhưng trên thực tế, chắc là sẽ có [kẻ bắt bẻ như vậy]. Dưới đây là lời giải thích của Liên Trì đại sư:
(Sao) Kim minh phước hữu Sự Lý.
(鈔)今明福有事理。
(Sao: Nay nói rõ phước có Sự và Lý).
Phước có Sự và Lý.
(Sao) Thử Bồ Đề tâm, thị Bát Nhã trung “như hư không bất khả tư lượng chi phước”, phi Đạt Ma sở xích nhân thiên hữu lậu chi phước dã. Cố tiền nhị phước do cộng phàm tiểu, thử độc thiện Đại Thừa nhĩ.
(鈔)此菩提心,是般若中如虛空不可思量之福,非達摩所斥人天有漏之福也。故前二福猶共凡小,此獨擅大乘耳。
(Sao: Tâm Bồ Đề này là phước giống như kinh Bát Nhã đã nói “như hư không chẳng thể suy lường”, chẳng phải là phước nhân thiên hữu lậu bị tổ Đạt Ma quở trách. Do vậy, đối với hai thứ phước trước, phàm phu và Tiểu Thừa còn có phần, chỉ riêng phước này dành riêng cho hàng Đại Thừa).
Chúng ta hãy xem sách Diễn Nghĩa chú giải:
(Diễn) Vân hà phát Bồ Đề tâm nhi dữ thượng nhị đồng vi phước giả, vị phát Bồ Đề tâm ký thị thiện căn, tắc Quán Kinh tiền nhị ưng danh vi phước, đệ tam phát tâm hà diệc danh phước da?
(演)云何發菩提心而與上二同為福者,謂發菩提心既是善根,則觀經前二應名為福,第三發心何亦名福耶。
(Diễn: “Vì sao coi phát Bồ Đề tâm cũng là phước giống như hai điều trước”, ý nói: Phát Bồ Đề tâm đã là thiện căn, vậy thì hai điều trước trong Quán Kinh phải nên gọi là phước, vì sao điều thứ ba là phát [Bồ Đề] tâm cũng gọi là phước vậy?)
Người ấy nêu ra nghi vấn cụ thể và rõ ràng: Phát Bồ Đề tâm là thiện căn, chẳng phải là phước. Dưới đây là lời đáp, đáp rất hay!
(Diễn) “Kim minh phước hữu Sự Lý” hạ, dĩ phước hữu nhân, thiên, tiểu quả, hữu lậu, hữu vi chi Sự phước.
(演)今明福有事理下,以福有人天小果有漏有為之事福。
(Diễn: Từ câu “nay nói rõ phước có Sự và Lý” trở đi, do phước xét theo mặt Sự thì có nhân, thiên, tiểu quả, hữu lậu, hữu vi…).
Lũ bình phàm chúng ta hễ nói đến phước đều hiểu là những thứ này, hãy còn có đại phước sâu rộng hơn mà chúng ta không biết.
(Diễn) Hữu xứng tánh vô lậu vô vi chi lý phước.
(演)有稱性無漏無為之理福。
(Diễn: Xét theo Lý thì có loại phước xứng tánh, vô lậu, vô vi).
Phàm phu chúng ta chẳng biết điều này.
(Diễn) Kim Bồ Đề tâm, chánh thị Bát Nhã kinh trung, bất trụ tướng, như hư không bất khả tư nghị chi phước, phi hữu vi sự tướng chi phước, cố vô ngại dã.
(演)今菩提心,正是般若經中,不住相,如虛空不可思議之福,非有為事相之福,故無礙也。
(Diễn: Nay tâm Bồ Đề đúng như kinh Bát Nhã nói, nó là phước chẳng trụ nơi tướng, như hư không chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải là phước thuộc sự tướng hữu vi, cho nên vô ngại).
Lời giải đáp này rất viên mãn. Bồ Đề tâm là chân tâm, Bồ Đề tâm là bản tánh. Lục Tổ đại sư khai ngộ, đã nêu bày cảnh giới Ngài khế nhập như sau: “Nào ngờ tự tánh, vốn sẵn thanh tịnh”. Sau khi đã tiến nhập, Ngài mới phát hiện! “Nào ngờ tự tánh, vốn sẵn trọn đủ”, “trọn đủ” chính là phước. Hết thảy các thiện căn chẳng có gì không đầy đủ, thuộc về Tánh Đức, chẳng phải là Tu Đức. “Nào ngờ tự tánh, có thể sanh ra vạn pháp”, chẳng có phước thì làm sao có thể sanh ra vạn pháp? Nói theo vạn pháp thì là Sự và Lý, tất cả hết thảy sự tướng thảy đều do tự tánh biến hiện. Ngay cả y báo và chánh báo trang nghiêm trong thế giới Hoa Tạng và thế giới Tây Phương thảy đều sanh từ tự tánh, lẽ nào chẳng phải là phước? Đấy là phước báo xứng tánh. Do vậy, trong hết thảy các kinh Đại Thừa, đức Phật khuyên chúng ta hãy phát Bồ Đề tâm. Chúng ta chẳng có thiện căn, mà cũng chẳng có phước đức. Hễ phát Bồ Đề tâm, thiện căn và phước đức đều trọn đủ viên mãn. Cho dù mười phương hết thảy chư Phật tán thán, đều chẳng thể tán thán trọn hết được! Do nó thảy đều trọn đủ, lẽ nào chẳng phải là phước? Công đức phát tâm chẳng thể nghĩ bàn, phẩm Sơ Phát Tâm của kinh Hoa Nghiêm đã nói rất hay. Phước này hàng Đại Thừa Bồ Tát đều có, Nhị Thừa và phàm phu đều chẳng có phần.
(Sao) Nhiên kim sớ bất dĩ phối phước, nhi thuộc chi thiện căn giả hà?
(鈔)然今疏不以配福,而屬之善根者何。
(Sao: Nhưng bộ sớ này lại chẳng coi [Bồ Đề tâm] là phước, mà xếp nó vào thiện căn là vì lẽ gì?)
“Kim sớ” (今疏) là nói đến bộ Sớ Sao này. Trong Sớ Sao, Bồ Đề tâm được xếp vào thiện căn, chẳng xếp vào phước, là do duyên cớ nào?
(Sao) Lương dĩ thiện chi dữ phước, Biệt chi tắc nhị, Tổng chi tắc nhất.
(鈔)良以善之與福,別之則二,總之則一。
(Sao: Ấy là vì thiện và phước, xét theo Biệt thì là hai, xét theo Tổng bèn là một).
Thiện căn và phước đức, có lúc có mối quan hệ liên đới mật thiết. Tục ngữ Trung Hoa thường nói: “Phước chí tâm linh”, tức là kẻ ấy bình thường rất đần, khi phước báo đưa đến, bỗng nhiên thông minh. Điều này nói rõ mối quan hệ liên đới giữa thiện căn và phước đức. Người thật sự có phước, nhất định là có thiện căn, nhất định là có trí huệ. Nếu có phước, chẳng có trí huệ, chẳng có thiện căn, kinh Phật gọi điều phước ấy là “si phước”, ngu si đó mà! Si phước chẳng đáng coi là quý! Tuy có phước báo, kết quả là suốt một đời vẫn phải chịu khổ, chịu nạn, rất nhiều! Thế gian này rất nhiều kẻ có tiền, là đại xí nghiệp gia, khổ sở khôn cùng! Cuộc sống cũng rất tiết kiệm, bớt ăn, bớt mặc, tiền của rất nhiều, đều để cho kẻ khác hưởng phước, suốt đời vất vả kinh doanh cho người khác hưởng phước. Có phải là kẻ ấy thật sự tạo phước cho quý vị hưởng hay không? Chẳng phải vậy! Người ấy chẳng có cái tâm đó, mà cũng chẳng có ý nghĩ đó, nhưng sống hồ đồ mơ màng cả đời. Đó là si phước. Người như vậy rất nhiều, ở Trung Hoa lẫn ngoại quốc đều có thể thấy.
Người thật sự có trí huệ, có thiện căn, hễ có phước báo, nhất định sẽ để cho chúng sanh hưởng phước. Người ấy có thiện tâm như vậy, thật sự vì xã hội, vì đại chúng tạo phước, khiến cho mọi người hưởng phước, phước báo càng to hơn nữa. Suốt đời, Ấn Quang đại sư bội phục Khổng lão phu tử nhất. Khổng lão phu tử khởi tâm động niệm đều nghĩ vì quốc gia, vì thiên hạ, vì hết thảy chúng sanh, chẳng nghĩ tới chính mình. Suốt đời Ngài tu tập, tích lũy, phước báo ấy to lớn, mãi cho đến nay, con cháu Ngài luôn được người đời tôn trọng.
Người thứ hai được tổ Ấn Quang bội phục là Phạm Trọng Yêm. Phạm Trọng Yêm suốt đời sống rất kham khổ, xuất tướng, nhập tướng[111]. Ông ta là một vị Tể Tướng nổi danh đời Tống, là một nhà quân sự kiêm chánh trị gia lỗi lạc. Suốt đời, ông Phạm dùng toàn bộ thu nhập của chính mình để làm sự nghiệp công ích cho xã hội. Làm đến Tể Tướng, mà khi chết, không mua nổi quan tài, vì tiền tài đã đem bố thí hết cả rồi! Do vậy, nhà họ Phạm mãi cho đến nay gia đạo chẳng suy, con cháu đều tốt đẹp. Trong Văn Sao, tổ Ấn Quang nói gia tộc ông ta suốt tám trăm năm chẳng suy vi, do tổ tông tích đức sâu dầy! Trong lịch sử Trung Hoa, rất ít thấy [trường hợp tương tự], gia tộc bình thường có thể duy trì ba đời cũng chẳng nhiều! Còn hai gia tộc ấy (gia tộc Khổng Tử và gia tộc Phạm Trọng Yêm) mấy chục đời đều chẳng suy. Điều này đáng cho chúng ta phản tỉnh, đáng cho chúng ta noi theo.
(Sao) Biệt nhi ngôn chi, tắc Bồ Đề tâm thiên thuộc thiện căn. Tổng nhi ngôn chi, tắc Bồ Đề tâm diệc khả vân phước. Quán Kinh tổng cử, ngôn phước vô ngại.
(鈔)別而言之,則菩提心偏屬善根;總而言之,則菩提心亦可云福。觀經總舉言福無礙。
(Sao: Nói theo Biệt, Bồ Đề tâm thiên về thiện căn. Nói theo Tổng, cũng có thể nói Bồ Đề tâm là phước. Quán Kinh nói theo Tổng, nên bảo [Bồ Đề tâm] là phước chẳng trở ngại gì).
Trong kinh này, Liên Trì đại sư chẳng quy Bồ Đề tâm vào phước đức mà xếp Bồ Đề tâm vào thiện căn. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, đức Thế Tôn xếp Bồ Đề tâm vào phước đức, đều đúng, chẳng trở ngại gì!
(Sao) Vấn: Bảo Tích Đại Bổn vân: “Dục kiến Vô Lượng Thọ Phật giả, ưng phát Vô Thượng Bồ Đề tâm. Phục đương chuyên niệm bỉ quốc, tích tập thiện căn”. Tắc Bồ Đề, thiện căn, tự vi nhị sự, kim hà trực dĩ thiện căn thuộc Bồ Đề tâm?
(鈔)問:寶積大本云:欲見無量壽佛者,應發無上菩提心,復當專念彼國,積集善根,則菩提善根,似為二事,今何直以善根屬菩提心。
(Sao: Hỏi: Kinh Đại Bổn trong bộ Bảo Tích có nói: “Muốn thấy Vô Lượng Thọ Phật, hãy nên phát Vô Thượng Bồ Đề tâm. Lại hãy nên chuyên niệm cõi ấy, chứa nhóm, tu tập thiện căn”. Như vậy thì Bồ Đề và thiện căn dường như là hai chuyện, sao nay lại thẳng thừng bảo thiện căn thuộc về Bồ Đề tâm?)
Nói thật ra, bộ Sớ Sao của Liên Trì đại sư có cái hay là vô cùng tường tận, giải trừ rất nhiều nghi hoặc của bọn chúng sanh chúng ta! Đọc kinh quá nhiều, vấn đề cũng lắm. Vì sao? Trong kinh này, đức Phật nói như thế này, kinh kia lại nói theo kiểu như thế nọ, chuyện phiền toái bèn xảy ra. Người hoàn toàn chẳng niệm kinh sẽ chẳng có vấn đề gì, thật thà niệm Phật đâm ra sẽ thành tựu rất nhanh chóng. Vì thế, các vị pháp sư trong Giáo Hạ rất nhiều người chẳng bằng những ông già bà cả thật thà niệm Phật. Khi vãng sanh, họ biết trước lúc mất, đứng mất, ngồi mất rất nhiều. Tình hình [lúc mất của] những vị pháp sư trong Giáo Hạ chẳng bằng họ là do nguyên nhân nào? Xem kinh nhiều quá, nghi vấn cả đống. Nếu chẳng thể đoạn trừ nghi vấn, tín tâm sẽ bị chướng ngại. Nói thật ra, qua tác phẩm Sớ Sao, chủ ý chánh yếu của Liên Trì đại sư là nhằm giúp chúng ta phá mê, dấy lên lòng tin, kiến lập tín tâm. Quý vị đã có tín tâm, tự nhiên sẽ phát nguyện tu hành.
Đây là do đọc hội Vô Lượng Thọ trong kinh Bảo Tích, thấy có nói một câu như thế này: “Dục kiến Vô Lượng Thọ Phật giả” (Muốn thấy Vô Lượng Thọ Phật), quý vị mong thấy Vô Lượng Thọ Phật, phải hội đủ những điều kiện nào? “Ưng phát Vô Thượng Bồ Đề tâm” (Hãy nên phát tâm Vô Thượng Bồ Đề), đây là điều kiện thứ nhất. “Phục đương chuyên niệm bỉ quốc” (Lại hãy nên chuyên niệm cõi ấy), đấy là nhớ Phật, niệm Phật. Đó là điều kiện thứ hai. “Tích tập thiện căn” là điều kiện thứ ba, phải đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện. Trọn đủ ba điều kiện ấy thì mới có thể thấy Vô Lượng Thọ Phật, nói cách khác là mới có thể vãng sanh thế giới Tây Phương. Chiếu theo cách nói này, “tắc Bồ Đề thiện căn” (thì Bồ Đề và thiện căn) dường như là hai chuyện. Trong ba điều kiện trên đây, điều kiện thứ nhất là Bồ Đề tâm, điều kiện thứ ba là thiện căn, dường như là hai chuyện, chẳng giống như là một chuyện. Cớ sao Liên Trì đại sư xếp Bồ Đề tâm vào thiện căn, chẳng phải là biến chúng thành một chuyện ư?
(Sao) Đáp: Bỉ đản ngôn thiện căn, thử nãi vân đa thiện căn, “đa” chi nhất tự, phi Bồ Đề tâm, hà dĩ đương thử?
(鈔)答:彼但言善根,此乃云多善根,多之一字,非菩提心,何以當此。
(Sao: Đáp: Kinh ấy chỉ nói “thiện căn”, kinh này bèn nói là “nhiều thiện căn”, một chữ “nhiều” ấy, nếu chẳng phải là Bồ Đề tâm thì dùng gì để tương ứng với nó được?)
Liên Trì đại sư rất cao minh. Trong kinh Vô Lượng Thọ chỉ nói “thiện căn”, kinh Di Đà nói “nhiều thiện căn”. “Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc”, chính là nhiều thiện căn, then chốt ở ngay một chữ Nhiều! Trong kinh chẳng có chữ ấy. Kinh chỉ nói: “Bất khả dĩ thiểu thiện căn, phước đức, nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc”, chẳng thể ít, đương nhiên là nhiều! Đã là nhiều, mà nếu chẳng gieo thiện căn từ Bồ Đề tâm, làm sao có thể coi là nhiều cho được? Đáp rất hay khéo, rất khá! Tiếp đó, lại có một câu hỏi khác.
(Sớ) Vấn:Tức trì danh vi đa thiện căn, phước đức, thử kinh chi ngoại, biệt hữu chứng cứ phủ?
(疏)問:即持名為多善根福德,此經之外,別有證據否。
(Sớ: Hỏi: Nếu trì danh là nhiều thiện căn, nhiều phước đức, ngoài kinh này ra, có chứng cứ nào khác hay không?)
Điều này do Liên Trì đại sư đề xướng, cổ nhân có tranh luận, nên lão nhân gia đã dung hợp trọn hết các ý nghĩa của cổ đại đức, coi trì danh là thiện căn, lại coi trì danh là phước đức. [Do đó], trì danh là nhiều thiện căn, nhiều phước đức. Người chất vấn bèn nói: “Ngoài kinh này ra, còn có chứng cứ nào khác hay không?”
(Sớ) Đáp: Lịch lịch khả chứng, như Đại Bi, Đại Phẩm đẳng thuyết.
(疏)答:歷歷可證,如大悲大品等說。
(Sớ: Đáp: Rành rành có thể chứng minh, như các kinh Đại Bi, Đại Phẩm v.v… đã nói).
Liên Trì đại sư xác thực là uyên bác các pháp thế gian và xuất thế gian, có thể nêu ra chứng cứ.
(Sao) Chứng thiện căn giả.
(鈔) 證善根者。
(Sao: “Để chứng minh [trì danh là] thiện căn”).
Trước hết, nêu ra chứng cứ nhằm chứng minh thiện căn.
(Sao) Đại Bi kinh vân: “Nhất xưng Phật danh, dĩ thị thiện căn, nhập Niết Bàn giới, bất khả cùng tận”.
(鈔)大悲經云:一稱佛名,以是善根,入涅槃界,不可窮盡。
(Sao: Kinh Đại Bi[112] nói: “Dùng xưng danh hiệu Phật như là thiện căn để nhập Niết Bàn giới, chẳng thể cùng tận”).
Kinh văn đã nói rất rõ ràng, minh bạch, “xưng danh” là thiện căn.
(Sao) Hựu vân.
(鈔)又云。
(Sao: Lại nói).
Vẫn là điều được nói trong kinh Đại Bi.
(Sao) Ngã diệt độ hậu, Bắc Thiên Trúc quốc, hữu tỳ-kheo danh Kỳ Bà Già, tu tập vô lượng tối thắng thiện căn, dĩ nhi mạng chung, sanh ư Tây Phương quá bách thiên ức thế giới, Vô Lượng Thọ Phật quốc, dĩ hậu thành Phật, hiệu Vô Cấu Quang Như Lai.
(鈔)我滅度後,北天竺國,有比丘名祈婆伽,修習無量最勝善根,已而命終,生於西方過百千億世界,無量壽佛國,以後成佛,號無垢光如來。
(Sao: Sau khi ta diệt độ, tại nước Bắc Thiên Trúc, có tỳ-kheo tên là Kỳ Bà Già tu tập vô lượng thiện căn thù thắng nhất, khi đã mạng chung, bèn sanh vào cõi Phật Vô Lượng Thọ ở Tây Phương cách đây trăm ngàn ức thế giới. Về sau, sẽ thành Phật, hiệu là Vô Cấu Quang Như Lai).
Trong đoạn kinh văn này, đức Phật thọ ký cho ngài Kỳ Bà Già, nói minh bạch: Tu thiện căn sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Đây là một chứng cớ rất thuyết phục được nêu ra trong kinh Đại Bi. Ngoài kinh Đại Bi ra…
(Sao) Hựu Đại Trang Nghiêm Kinh Luận.
(鈔)又大莊嚴經論。
(Sao: Lại theo Đại Trang Nghiêm Kinh Luận[113]).
Đây là chú giải của kinh Đại Trang Nghiêm.
(Sao) Phật thế nhất lão nhân lai cầu xuất gia, Xá Lợi Phất đẳng chư đại đệ tử câu bất khẳng độ, dĩ quán bỉ đa kiếp vô thiện căn cố.
(鈔)佛世一老人來求出家,舍利弗等諸大弟子俱不肯度,以觀彼多劫無善根故。
(Sao: Thời đức Phật tại thế, có một cụ già đến xin xuất gia, các vị đại đệ tử như Xá Lợi Phất v.v… đều không chịu thế độ, vì xét thấy ông cụ trong nhiều kiếp chẳng có thiện căn).
Năng lực thần thông của A La Hán chỉ có thể quan sát năm trăm đời. Hơn năm trăm đời, các Ngài chẳng có năng lực thông đạt. Năng lực thần thông của các Ngài chỉ to ngần ấy. Các Ngài thấy cụ già ấy trong suốt năm trăm đời chẳng gieo thiện căn, làm sao có thể xuất gia cho được? Chư vị phải hiểu: Thời đức Phật, người xuất gia đích xác là đều có thiện căn. Vì vậy, sau khi xuất gia, không một ai chẳng chứng quả, mức độ thấp nhất là chứng quả Tu Đà Hoàn của Tiểu Thừa. So trong ba thứ Bất Thoái, quả Tu Đà Hoàn là Vị Bất Thoái, vĩnh viễn chẳng bị thoái đọa vào tam đồ, [sau khi] qua lại cõi trời và nhân gian bảy lần, bèn chứng A La Hán. Nếu chẳng có Phật xuất hiện trong thế gian này, người ấy bèn thành Bích Chi Phật, quyết định thành tựu! Sau khi đức Phật đã diệt độ, bèn có người xuất gia mà chẳng có thiện căn, hiện thời mọi nơi đều là [những kẻ như vậy]! Chúng ta tu cả đời, cũng chẳng chứng được quả Tu Đà Hoàn. Nói thật thà, tu hành suốt đời, một phẩm phiền não cũng chẳng đoạn nổi! Tu hành sao cho cả đời phiền não không tăng trưởng là đã ghê gớm lắm rồi, đã được coi là rất có thành tựu! Đoạn phiền não há phải là chuyện dễ! Do vậy, trong thời kỳ Mạt Pháp, nếu chẳng tu pháp môn Niệm Phật, chẳng cầu đới nghiệp vãng sanh, quyết định là chẳng thể thành tựu, ắt phải biết điều này! Chúng ta xem đoạn văn này, [thấy rõ] năng lực của A La Hán nhỏ bé, chẳng thể thấy cụ già ấy trong đời quá khứ đã tu thiện căn, [thật sự] có thiện căn.
(Sao) Phật tự độ chi, tức chứng đạo quả.
(鈔)佛自度之,即證道果。
(Sao: Đức Phật liền tự độ cụ già ấy, cụ liền chứng đạo quả).
Đức Phật cho cụ già ấy xuất gia, xuống tóc cho cụ. Sau khi xuống tóc không lâu, cụ bèn chứng quả A La Hán. Các đồng học thấy vậy đều lấy làm lạ: “Người này chẳng có thiện căn, cớ sao cũng có thể chứng quả A La Hán?” Đức Phật liền nói cho đại chúng biết nhân duyên ấy.
(Sao) Nhân cáo đại chúng, thử nhân vô lượng kiếp tiền.
(鈔)因告大眾,此人無量劫前。
(Sao: Nhân đó, [đức Phật] bảo đại chúng: “Người này trong vô lượng kiếp trước”).
Vô lượng kiếp trước! Vô lượng kiếp trước thì đương nhiên là A La Hán đành chịu thua, năng lực của A La Hán rất hữu hạn.
(Sao) Vi thải tân nhân, mãnh hổ bức cực, đại bố thượng thụ.
(鈔)為採薪人,猛虎逼極,大怖上樹。
(Sao: “Làm người đẵn củi, do bị hổ dữ bức bách quá đỗi, hết sức kinh hoảng trèo lên cây”).
[Thuở ấy], cụ là một tiều phu, lên núi đẵn củi gặp phải cọp. Cọp sắp ăn cụ, cụ hoảng hốt, trèo lên đầu ngọn cây, kêu một tiếng “Nam-mô Phật”. Do câu “Nam-mô Phật” ấy mà gieo thiện căn. Câu chuyện này xuất phát từ kinh Pháp Hoa, Đại Trang Nghiêm Luận dẫn câu chuyện này từ kinh Pháp Hoa.
(Sớ) Xưng nam-mô Phật, dĩ thị thiện căn, ngộ ngã đắc độ.
(鈔)稱南無佛,以是善根,遇我得度。
(Sớ: Xưng “Nam-mô Phật”, do thiện căn ấy, gặp ta, đắc độ).
Vô lượng kiếp trước, bị cọp dọa nạt, hét một tiếng “Nam-mô Phật”; vô lượng kiếp sau, gặp gỡ Thích Ca Mâu Ni Phật, do một tí thiện căn ấy mà đắc độ. Do vậy, đối với các chúng sanh trong hiện tại, quý vị khuyên họ niệm “Nam-mô A Di Đà Phật” một tiếng, tức là đã gieo chủng tử. Cũng có lẽ trong vô lượng kiếp sau, khi gặp được vị Phật nào đó, họ sẽ đắc độ. Chúng ta có thể làm được chuyện này. Vì vậy, [để độ chúng sanh], phải dùng các thứ phương tiện thiện xảo. Chẳng hạn như người học Phật trên tay thường cầm chuỗi tràng hạt, người ta trông thấy, bèn “A Di Đà Phật”. Quý vị chẳng khuyên kẻ ấy, chính kẻ ấy tự kêu, tự niệm một tiếng “A Di Đà Phật”, công đức vô lượng, trong tương lai người ấy nhất định đắc độ, chúng ta biết chắc như vậy. Do đó, cửa nhà chúng ta dán một câu “Nam-mô A Di Đà Phật”, người ta vừa thấy [bèn nhẩm thầm] A Di Đà Phật, thế là được rồi. Chúng tôi in những tấm băng dính có danh hiệu A Di Đà Phật, hoặc in hình A Di Đà Phật, các đồng tu có thể thỉnh về nhà. Tết đến, đối với liễn dán cửa (câu đối Tết) bèn dán “Nam-mô A Di Đà Phật”, cát tường nhất, chẳng có gì tốt lành hơn được! Nếu chư vị chê nhỏ thì in dài hơn, in to như [khuôn khổ các] câu liễn dán cửa. Hai bên [cửa] đều dán Nam-mô A Di Đà Phật. Tôi ở Mỹ, căn nhà ấy chỗ nào cũng đều dán, có rất nhiều đồng học trông thấy, bất luận quý vị bước vào phòng nào cũng đều thấy A Di Đà Phật. Đó là chính mình tự gieo thiện căn, cũng giúp cho người khác gieo thiện căn, thời thời khắc khắc, khắp nơi khắp chốn nhắc nhở chính mình, [khiến cho] câu Phật hiệu chẳng bị gián đoạn. Vì thế, khắp nơi đều dán, khiến cho Phật hiệu của chúng ta chẳng bị gián đoạn.
(Sao) Hoa Nghiêm Đệ Thập Hồi Hướng vân: “Nguyện ức niệm vô lượng vô biên thế giới, khứ lai hiện tại nhất thiết chư Phật”.
(鈔)華嚴第十回向云:願憶念無量無邊世界,去來現在一切諸佛。
(Sao: Phần giảng về Đệ Thập Hồi Hướng trong kinh Hoa Nghiêm có nói: “Nguyện ức niệm vô lượng vô biên thế giới, quá khứ, vị lai, hiện tại hết thảy chư Phật”).
“Khứ” (去) là quá khứ, “lai” (來) là vị lai, “khứ lai hiện tại” là ba đời, mười phương ba đời hết thảy chư Phật.
(Sao) Nhi thứ vân: “Dĩ thử niệm Phật thiện căn”.
(鈔)而次云:以此念佛善根。
(Sao: Kế đó, bèn nói: “Do thiện căn niệm Phật này”).
Niệm Phật là thiện căn, lại tìm ra một chứng cứ.
(Sao) Phàm thử, giai trì danh vi đa thiện căn chi minh chứng dã.
(鈔) 凡此,皆持名為多善根之明證也。
(Sao: Phàm những câu như vậy đều là chứng cớ rành rành [chứng tỏ] trì danh là nhiều thiện căn vậy).
Đấy là chứng cứ của “nhiều thiện căn”. Dưới đây là lời giải thích của sách Diễn Nghĩa đối với hai câu trong lời Sao. Câu đầu tiên [được giảng như sau]:
(Diễn) “Dĩ thị thiện căn nhập Niết Bàn giới, bất khả cùng tận giả”: Dĩ xưng danh thiện căn, bất dữ nhất thiết hữu vi tương ứng, nãi tăng trưởng vô vi, tùy thuận vô vi chi thiện căn dã. Cố nhập Niết Bàn bất khả cùng tận. Thí như hữu nhân thực thiểu kim cang, chung cánh bất tiêu, yếu đương xuyên cốt nhi xuất. Xưng danh công đức trực chí Niết Bàn, diệc phục như thị.
(演)以是善根入涅槃界,不可窮盡者,以稱名善根,不與一切有為相應,乃增長無為,隨順無為之善根也,故入涅槃不可窮盡。譬如有人食少金剛,終竟不消,要當穿骨而出,稱名功德直至涅槃,亦復如是。
(Diễn: “Dùng thiện căn này để nhập Niết Bàn giới chẳng thể cùng tận”: Do thiện căn xưng danh chẳng tương ứng với hết thảy hữu vi, nên tăng trưởng vô vi, tùy thuận thiện căn vô vi. Vì thế, nhập Niết Bàn chẳng thể cùng tận. Ví như có người ăn một chút kim cang, rốt cuộc chẳng thể tiêu được, chất kim cang sẽ xuyên qua xương mà lọt ra, công đức xưng danh đạt thẳng đến Niết Bàn, cũng giống như thế đó).
Giải thích và tỷ dụ đều rất hay. Chúng ta thường nói: “Tạo hết thảy thiện nghiệp, quả báo ở trong ba thiện đạo; tạo hết thảy ác nghiệp, quả báo ở trong ba ác đạo”. Niệm một câu A Di Đà Phật, rốt cuộc sẽ vào đường nào? Trong ba thiện đạo và ba ác đạo thảy đều chẳng có [A Di Đà Phật]. Do vì quý vị xưng niệm danh hiệu của Phật, Bồ Tát chẳng tương ứng với hết thảy các pháp hữu vi trong tam giới lục đạo, nên bất đắc dĩ gọi là “Tịnh nghiệp”. Mục tiêu chung cực viên mãn của Tịnh nghiệp là Đại Niết Bàn nơi quả địa Như Lai, nó tương ứng với điều này. Đúng là “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Đối với “thâm tín nhân quả” được nói trong Tam Phước, thông thường tôi không giảng theo cách này, mà trực tiếp nói “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Nhân quả ấy rất sâu, [ngay cả những vị] Bồ Tát bình phàm cũng đều không biết. [Nếu] đã biết thì không có vị nào chẳng niệm Phật, niệm Phật thành Phật mà! Cùng một đạo lý giống như vậy, quý vị niệm Bồ Tát thành Bồ Tát, niệm thiên sẽ sanh lên trời, niệm gì thành nấy, niệm lực to lớn chẳng thể nghĩ bàn! Người thế gian rất đáng thương, họ niệm ba ác đạo. Vì sao niệm ba ác đạo? Nghiệp nhân của ba ác đạo là Tam Độc. Trong tâm quý vị thường nghĩ tới tham sẽ là ngạ quỷ đạo. Hằng ngày nghĩ tới nóng giận sẽ là địa ngục đạo. Niệm nào cũng đều ngu si, chính là súc sanh đạo. Ngu si là tà, chánh, thiện, ác, chân, giả đều chẳng hiểu rõ ràng, đó là ngu si. Sống suốt cả đời hồ đồ, mơ màng; đó là súc sanh đạo. Do vậy, kẻ niệm ba ác đạo đông lắm, kẻ niệm tham, sân, si nhiều lắm. Câu thứ hai:
(Diễn) Tu tập vô lượng tối thắng thiện căn giả, “vô lượng” ngôn kỳ quảng đại, “tối thắng” ngôn kỳ vi diệu. Dĩ xứng tánh chi tu, nhất tu, nhất thiết tu, quảng vô nhai bạn, diệu bất khả trắc cố. Nguyện ức niệm vô lượng vô biên thế giới, thị hoành biến nhất thiết xứ; khứ lai hiện tại nhất thiết chư Phật, thị thụ biến nhất thiết thời. Sở vị “nhất niệm, nhất thiết niệm; nhất thiết niệm, nhất niệm” dã.
(演)修習無量最勝善根者,無量言其廣大,最勝言其微妙。以稱性之修,一修一切修,廣無涯畔,妙不可測故。願憶念無量無邊世界,是橫遍一切處,去來現在一切諸佛,是豎遍一切時,所謂一念一切念,一切念一念也。
(Diễn: “Tu tập thiện căn vô lượng tối thắng”: Nói “vô lượng” nghĩa là rộng lớn. “Tối thắng” là vi diệu. Do tu xứng tánh, nên một tu, hết thảy tu, rộng rãi không ngằn mé, mầu nhiệm chẳng thể lường. “Nguyện ức niệm vô lượng vô biên thế giới” tức là theo chiều ngang trọn khắp hết thảy các chốn. “Quá khứ, vị lai, hiện tại hết thảy chư Phật” là theo chiều dọc trọn khắp hết thảy các thời. Đó gọi là “một niệm, hết thảy niệm; hết thảy niệm là một niệm”).
Nói thông thường, đây chính là “xứng tánh khởi tu, toàn tu tức tánh”; vì thế, thiện căn và phước đức chẳng thể nghĩ bàn. Các đồng tu chúng ta niệm Phật, đặc biệt là Trì Danh Niệm Phật, nếu quý vị thật sự là “nhất tâm xưng danh”, thiện căn do quý vị tu tập, tích lũy sẽ giống như kinh đã nói. Trên đây là trích dẫn kinh luận hòng nêu rõ trì danh niệm Phật là thiện căn, chẳng sai! Cớ sao lại nói trì danh niệm Phật là phước đức? Đoạn dưới đây nêu ra một chứng cứ.
(Sao) Chứng phước đức giả.
(鈔) 證福德者。
(Sao: Chứng tỏ [trì danh] là phước đức).
Chứng tỏ trì danh niệm Phật là phước đức.
(Sao) Đại Phẩm Bát Nhã kinh vân: “Nhược nhân tán tâm niệm Phật, diệc đắc ly khổ, kỳ phước bất tận, huống định ý niệm”.
(鈔)大品般若經云:若人散心念佛,亦得離苦,其福不盡,況定意念。
(Sao: Kinh Đại Phẩm Bát Nhã[114] nói: “Nếu ai tán tâm niệm Phật cũng được lìa khổ, phước ấy bất tận, huống hồ là ý an định mà niệm”).
“Tán tâm”: Chẳng phải là chuyên tâm, chẳng phải là nhất tâm. Thông thường là tán niệm, [nghĩa là] đôi khi là miệng có, tâm không, xướng lên câu Phật hiệu này thì gọi là tán niệm. Tán niệm cũng có phước.
(Diễn) Tán tâm niệm Phật, thị trước thật ức trì, trước thật thể cứu. Vị nhập nhất tâm giả, phi như kim nhân toàn bất trước ý, đồ sự thần thiệt dã.
(演)散心念佛,是著實憶持,著實體究。未入一心者,非如今人全不著意,徒事唇舌也。
(Diễn: Tán tâm niệm Phật là thật sự nghĩ nhớ, trì niệm, thật sự thấu hiểu, tham cứu; [nói “tán tâm niệm Phật” nghĩa là nói tới] người chưa đắc nhất tâm, chẳng phải như người hiện thời hoàn toàn chẳng dốc ý, chỉ niệm suông bằng miệng lưỡi mà thôi).
“Tán tâm niệm Phật, diệc đắc ly khổ, kỳ phước bất tận” (Tán tâm niệm Phật cũng được lìa khổ, phước ấy bất tận). “Tán tâm” là nói đối ứng với nhất tâm, [tức là] “chưa chứng đắc nhất tâm”. Trước khi chứng đắc nhất tâm thì đều gọi là “tán tâm niệm Phật”. Kinh Vô Lượng Thọ nói tán tâm niệm Phật là “một mực chuyên niệm”. Chưa đắc nhất tâm, tiêu chuẩn sẽ là “trước thật ức trì” (thật sự nghĩ nhớ, trì niệm), thật sự niệm, thật sự “thể cứu”. Thể (體) là thấu hiểu, “cứu” (究) là tham cứu. Người ấy chẳng phải là nghiên cứu, nghiên cứu là [sử dụng] thức thứ sáu, tức ý thức. Chẳng dùng tâm ý thức thì gọi là tham cứu, cũng là chuyên tâm, nhất tâm nhất ý xưng niệm, nhưng chưa đắc nhất tâm bất loạn. Nói cách khác, đã có thể chế phục phiền não, [vẫn còn] chưa đoạn phiền não. Đoạn phiền não thì mới gọi là nhất tâm, xác thực là đã khuất phục phiền não. Niệm Phật hay niệm kinh đều phải có công phu này thì mới đạt được phước báo. “Phi như kim nhân toàn bất trước ý” (Chẳng phải là như người hiện thời hoàn toàn chẳng dốc ý), nói đến những kẻ “miệng có, tâm không”. Chẳng thể nói kẻ “miệng có, tâm không” chẳng có phước báo; họ cũng có phước báo, nhưng chẳng thể vãng sanh trong một đời này! Như trong phần trước đã nói: Tiều phu do bị hổ đuổi gắt gao, bèn hét lên một tiếng Nam-mô Phật, phải chờ tới vô lượng kiếp sau mới có thể đắc độ, chẳng thể thành tựu trong một đời này. Nếu mong thành tựu trong một đời này, tán tâm niệm Phật vẫn được. Tán tâm niệm Phật là công phu thành phiến, có thể sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, “tán tâm” ở đây mang ý nghĩa này. Có thể sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới, há có thể bảo là chẳng có phước ư? Chẳng có phước báo, làm sao có thể sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới cho được? Đây là nói tới tiêu chuẩn của tán tâm trì danh.
(Diễn) Định ý niệm Phật, thị ký đắc Sự nhất tâm.
(演)定意念佛,是既得事一心。
(Diễn: Ý an định niệm Phật là đã đắc Sự nhất tâm).
Điều này quả thật chẳng dễ dàng! “Sự nhất tâm” là cảnh giới gì? Đã đoạn Kiến Tư phiền não, chẳng phải là chế phục. Chế phục là công phu thành phiến. Đã đoạn Kiến Tư phiền não bèn bằng với A La Hán trong Tiểu Thừa, công phu như vậy đó.
(Diễn) Nhi phục ư định tâm trung, niệm niệm ức trì, tâm tâm nghiên cứu giả. Nhược thị Lý nhất tâm, tắc thị ly niệm cảnh giới. Ký dĩ vô ý, kiêm diệc bất chỉ thị định dã.
(演)而復於定心中,念念憶持,心心研究者。若是理一心,則是離念境界,既已無意,兼亦不止是定也。
(Diễn: Lại còn trong cái tâm đã định mà niệm niệm nghĩ nhớ, vâng giữ, tâm luôn nghiên cứu. Nếu là Lý nhất tâm thì sẽ là cảnh giới ly niệm. Đã là không có ý thì cũng chẳng phải là chỉ giới hạn trong Định ấy).
Sự nhất tâm bất loạn là đã đoạn Kiến Tư phiền não. Trong Định, một câu Phật hiệu thường chẳng gián đoạn, không xen tạp, như vậy thì sẽ có thể niệm đến Lý nhất tâm bất loạn. Lý nhất tâm bất loạn là phá một phần vô minh, Trần Sa phiền não cũng đoạn, Vô Minh phiền não cũng phá mấy phẩm, vị ấy còn niệm hay không? Vẫn niệm câu A Di Đà Phật, một mực niệm đến cùng. Ngay như khi người ấy đã niệm đến mức thành Phật viên mãn rốt ráo thì còn có niệm hay không? Vẫn niệm! Đấy là “huống định ý niệm Phật” (huống hồ là tâm ý an định niệm Phật). Hết thảy chư Phật, chẳng có vị Phật nào không niệm Phật. Vì vậy, pháp môn này chẳng thể nghĩ bàn. Đã thành Phật mà vẫn niệm Phật, đấy là đại từ, đại bi, nêu gương cho chúng ta nhằm hóa độ chúng sanh. Chúng ta thấy Phật luôn niệm A Di Đà Phật, [sẽ nghĩ] chắc là A Di Đà Phật tốt lắm, chúng ta niệm Ngài sẽ chẳng có vấn đề gì! Chư Phật đều niệm A Di Đà Phật cơ mà! Đương nhiên là chúng ta cũng phải nên niệm A Di Đà Phật. Đấy là phương tiện để đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật. Không chỉ là Thích Ca Mâu Ni Phật niệm A Di Đà Phật, mà mười phương ba đời hết thảy chư Phật, không vị Phật nào chẳng niệm A Di Đà Phật.
Ở đây, Tổ đã nêu chứng cứ được nói trong kinh Đại Phẩm Bát Nhã [hòng chứng tỏ] niệm Phật là phước đức. Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng tôi giảng tới chỗ này!
Tập 216
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang bốn trăm hai mươi tám:
(Sao) Chứng phước đức giả. Đại Phẩm Bát Nhã kinh vân: “Nhược nhân tán tâm niệm Phật, diệc đắc ly khổ, kỳ phước bất tận, huống định ý niệm”.
(鈔)證福德者。大品般若經云:若人散心念佛,亦得離苦,其福不盡,況定意念。
(Sao: “Chứng tỏ [trì danh] là phước đức”: Kinh Đại Phẩm Bát Nhã nói: “Nếu ai tán tâm niệm Phật cũng được lìa khổ, phước ấy bất tận, huống hồ là ý an định mà niệm”).
Đại sư lại dẫn kinh luận để chứng minh trì danh niệm Phật là nhiều thiện căn, nhiều phước đức. Do vậy, tu thiện căn và phước đức thì thật thà niệm Phật sẽ đều trọn đủ. Thông thường, kẻ chẳng thể thâm nhập kinh tạng, nghe những lời này, chưa chắc là đã có thể tin tưởng, cho nên mới phải trích dẫn kinh điển để chứng minh. Đoạn trên nhằm chứng minh [trì danh niệm Phật là] thiện căn, còn đoạn này nhằm chứng minh niệm Phật là tu phước. Trước hết, Tổ trích dẫn một đoạn trong kinh Đại Phẩm Bát Nhã. Sách Diễn Nghĩa có chú giải:
(Diễn) Tán tâm niệm Phật, thị trước thật ức trì, trước thật thể cứu. Vị nhập nhất tâm giả, phi như kim nhân toàn bất trước ý, đồ sự thần thiệt dã.
(演)散心念佛,是著實憶持,著實體究。未入一心者,非如今人全不著意,徒事唇舌也。
(Diễn: Tán tâm niệm Phật thật sự nghĩ nhớ, trì niệm, thật sự thấu hiểu, tham cứu; [nói tán tâm niệm Phật nghĩa là nói tới] người chưa đắc nhất tâm. Chẳng phải là như người hiện thời hoàn toàn chẳng dốc ý, chỉ niệm suông bằng miệng lưỡi mà thôi).
Nói rõ “tán tâm niệm” là gì? Có thể nói “tán tâm niệm” là khá chuyên tâm, bất quá công phu chưa đạt đủ mức, chẳng có thành tựu. Đương nhiên là chúng ta phiền não tập khí rất nặng, tuyệt đối chẳng phải là trong một khoảng thời gian ngắn ngủi bèn có thể niệm đến mức nhất tâm bất loạn, hoặc là niệm đến mức công phu thành phiến, chẳng dễ dàng như vậy! Có những kẻ niệm Phật ba tháng hoặc nửa năm, cảm thấy vẫn chưa thể đắc nhất tâm, bèn bỏ ngay, chẳng niệm nữa! Hoặc nghe nói tông khác [thành tựu] nhanh chóng, liền đi học pháp khác. Học kiểu đó thì học suốt đời chẳng thành công. Nghiêm túc niệm, thật thà niệm, niệm đến nửa năm, quyết định là sẽ có tiến bộ, tiến bộ nhìn từ chỗ nào? Vọng niệm bớt đi; vẫn có vọng niệm, nhưng ít hơn trước kia. Trước kia hồ đồ, mông muội, nay thì chẳng quá mức hồ đồ, đầu óc sáng suốt đôi chút. Sự sáng suốt ấy chính là trí huệ, chính là sanh trí huệ, trí huệ tăng trưởng. Phiền não nhẹ bớt, trí huệ tăng trưởng, đó là hiệu quả rất tốt đẹp, là thành tựu do niệm Phật. Niệm tới đôi ba năm, vọng niệm càng ít hơn, công phu đắc lực, bèn có thể cảm nhận, có tín tâm đối với sự vãng sanh, nắm chắc vãng sanh, có thể niệm đến mức độ ấy. Đó là công phu rất tốt đẹp.
Vì sao niệm Phật chẳng đắc lực? Quý vị chẳng chịu buông phiền não tập khí xuống, niệm Phật như vậy, chẳng dễ gì đắc lực! Nói cách khác, mỗi người phải thật sự giác ngộ, giác ngộ điều gì? Sanh tử là chuyện lớn, luân hồi đáng sợ, là nỗi kinh sợ thật sự. Quý vị phải có cái tâm cảnh giác ấy. Nói cách khác, suốt một đời này, thứ gì ta cũng đều chẳng cầu, ta mong cầu liễu sanh tử, vượt thoát luân hồi. Do phương pháp gì thì mới có thể thực hiện được? Chỉ có niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Do vậy, pháp sư Ấn Quang đã tự viết một câu để cảnh tỉnh người niệm Phật, chính Ngài là như vậy: “Suốt ngày từ sáng đến tối, dán một chữ Tử trên trán”. Trong phòng của tổ Ấn Quang có một tiểu Phật đường, thờ một bức tượng A Di Đà Phật, sau tượng A Di Đà Phật là một bức bình[115] nhỏ, viết một chữ Tử. Thường có tâm cảnh giác như vậy, công phu tự nhiên đắc lực.
Tán tâm niệm Phật, “trước thật ức trì” là nghiêm túc niệm, “trước thật thể cứu”, Thể là thấu hiểu, Cứu là tham cứu, thật sự thấu hiểu, thật sự tham cứu, nhưng chưa đắc nhất tâm. Hễ chưa đắc nhất tâm thì đều gọi là “tán tâm”, quyết chẳng phải là giống như người hiện thời “miệng có, tâm không”. Niệm [suông ngoài miệng] như vậy, chẳng có tác dụng chi cả! Người niệm Phật trong tâm dấy tham, sân, si, mạn, bên ngoài bị cảnh giới dụ dỗ, mê hoặc, cổ đức bảo niệm Phật kiểu đó là “hét toạc cổ họng cũng uổng công”, chỉ có thể nói là “gieo thiện căn”, muốn vãng sanh ngay trong một đời này sẽ khá khó khăn!
(Diễn) Định ý niệm Phật, thị ký đắc Sự nhất tâm.
(演)定意念佛,是既得事一心。
(Diễn: Ý an định niệm Phật là đã đắc Sự nhất tâm).
Công phu thành phiến được bao gồm trong phạm vi của Sự nhất tâm. Công phu thành phiến là Sự nhất tâm ở mức độ nông cạn, niệm Phật đến mức đoạn trừ Kiến Tư phiền não là Sự nhất tâm ở mức độ sâu. Nếu chúng ta chia Sự nhất tâm thành ba phẩm thì hạ phẩm là công phu thành phiến, trung phẩm là đoạn Kiến Hoặc, thượng phẩm là đoạn Tư Hoặc. Công phu thành phiến là gì? Suốt ngày từ sáng đến tối trong tâm có Phật hiệu, trong tâm tuởng Phật. Trừ việc nhớ Phật, niệm Phật ra, vọng niệm gì cũng chẳng nghĩ tới. Đó là công phu đã thành phiến. Trọn chẳng đoạn phiền não, Kiến Tư phiền não chưa đoạn; tuy chẳng đoạn, nhưng công phu đã đắc lực, cũng là phiền não chẳng thể dấy lên hiện hành. Phiền não vừa xuất hiện, vọng niệm thứ nhất dấy lên, vọng niệm thứ hai phải là A Di Đà Phật, giằn ép nó (vọng niệm thứ nhất) xuống. Có công phu như vậy, thưa cùng chư vị, quyết định vãng sanh, sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Nếu niệm đến thượng phẩm Sự nhất tâm bất loạn, sẽ sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư, chẳng phải là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, quyết định có thể vãng sanh. Do vậy, sau khi đã niệm đến mức công phu thành phiến, vẫn tiếp tục niệm câu Phật hiệu này chẳng ngừng!
(Diễn) Nhi phục ư Định tâm trung, niệm niệm ức trì, tâm tâm nghiên cứu giả.
(演)而復於定心中,念念憶持,心心研究者。
(Diễn: Nhưng lại ở trong cái tâm Định, niệm nào cũng nghĩ nhớ, vâng giữ, niệm tâm nào cũng đều là nghiên cứu).
Ở đây, “nghiên cứu” chẳng phải là dùng tâm ý thức, chỉ là một mực niệm đến cùng là được rồi. Trong mỗi niệm đều trọn đủ Tín, Nguyện, Hạnh; trong mỗi niệm trọn đủ Lục Độ và Thập Nguyện, nói theo ý nghĩa này. Sự nhất tâm đã thành tựu, vẫn chẳng thể gián đoạn, vẫn là công phu miên mật chẳng ngừng, nâng cao cảnh giới của chính mình, khi vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, phẩm vị sẽ tăng cao.
(Diễn) Nhược thị Lý nhất tâm, tắc thị ly niệm cảnh giới, ký dĩ vô ý, kiêm diệc bất chỉ thị định dã.
(演)若是理一心,則是離念境界,既已無意,兼亦不止是定也。
(Diễn: Nếu là Lý nhất tâm thì chính là cảnh giới ly niệm. Đã là vô ý thì cũng không giới hạn trong Định vậy).
Niệm đến mức Lý nhất tâm bất loạn, người ấy có niệm hay không? Vẫn niệm. Niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm, câu Phật hiệu quyết định chẳng gián đoạn. Do vậy, cảnh giới không ngừng tăng cao, phẩm vị cũng không ngừng tăng cao. Người niệm Phật phải luôn ghi nhớ: Quyết định đừng tham sống sợ chết! Nói thật ra, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới càng sớm càng hay! Phải biết thế gian này quá khổ, chẳng có mảy may nào đáng để lưu luyến. Lưu luyến thế giới này là ngu si, quý vị có lý do gì để lưu luyến thế giới này?
“Tán tâm niệm Phật, diệc đắc ly khổ, kỳ phước bất tận” (Tán tâm niệm Phật cũng được lìa khổ, phước ấy bất tận), chúng ta chẳng có cách nào diễn tả phước báo ấy, mà chư Phật, Bồ Tát cũng chẳng thể nói trọn hết được! Thật đấy! Bởi lẽ, câu danh hiệu này là vạn đức hồng danh.
(Sao) Xưng Dương Chư Phật Công Đức Kinh vân.
(鈔)稱揚諸佛功德經云。
(Sao: Kinh Xưng Dương Công Đức Chư Phật[116] nói).
Nói rõ trì danh niệm Phật xác thực là phước đức, trong kinh luận có rất nhiều [chứng cứ]. Đây lại là một bộ kinh [nói rõ như vậy], trong kinh có nói [như sau]:
(Sao) Nhược hữu đắc văn Vô Lượng Thọ Như Lai danh giả, nhất tâm tín nhạo, trì phúng tụng niệm. Thử nhân đương đắc vô lượng chi phước, vĩnh ly tam đồ, mạng chung chi hậu, vãng sanh bỉ sát.
(鈔)若有得聞無量壽如來名者,一心信樂,持諷誦念。此人當得無量之福,永離三途,命終之後,往生彼剎。
(Sao: Nếu có kẻ nào được nghe danh hiệu Vô Lượng Thọ Như Lai mà nhất tâm tin ưa, trì, phúng, tụng, niệm[117], người ấy sẽ được vô lượng phước, vĩnh viễn lìa khỏi tam đồ. Sau khi mạng chung bèn vãng sanh cõi kia).
Kinh này chẳng thuộc vào Tịnh Độ Tam Kinh. Kinh Xưng Dương Chư Phật Công Đức chẳng xưng tán, ca ngợi một vị Phật. Chữ “chư Phật” nhằm nói đến mười phương ba đời hết thảy chư Phật, rất chẳng thể nghĩ bàn! Hết thảy chư Phật đều niệm Phật, Bồ Tát lại càng chẳng cần phải nói nữa! Đức Phật nêu gương cho chúng ta, điều then chốt là “nhất tâm tín nhạo”, Nhạo (樂) là yêu thích, đọc giọng Khứ Thanh (tức Yào, ㄠˋ). “Nhạo háo” (樂好) là yêu thích, nhất tâm yêu thích.
(Diễn) Nhất tâm tín nhạo, thị Tín Nguyện nhị tư.
(演)一心信樂,是信願二資。
(Diễn: Nhất tâm tin ưa là hai thứ tư lương Tín và Nguyện).
Nếu người ấy chẳng tin, chẳng mong cầu vãng sanh, sẽ chẳng thể sanh tâm hoan hỷ đối với pháp này. Có thể sanh tâm hoan hỷ, nhất định là tin sâu, nguyện thiết, đã trọn đủ hai điều trước trong ba điều kiện vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới.
(Diễn) Trì phúng tụng niệm thị Hạnh tư.
(演)持諷誦念是行資。
(Diễn: Trì, phúng, tụng, niệm là tư lương Hạnh).
Tín, Nguyện, Hạnh ba điều kiện đều trọn đủ. Trì (持) là thọ trì, là tiếp nhận. Người ấy hoàn toàn hiểu rõ, hoàn toàn tiếp nhận lý luận, phương pháp, và cảnh giới trong kinh điển. “Phúng tụng” (諷誦) là xướng niệm lớn tiếng câu Phật hiệu này.
(Diễn) Trì nhi phúng, tụng nhi niệm, chánh dụng tâm chi cực.
(演)持而諷,誦而念,正用心之極。
(Diễn: Trì bằng cách phúng, tụng bằng cách niệm, chính là dụng tâm tột bậc).
Thật sự dụng công, lại còn là công phu hết sức đắc lực.
(Diễn) Sở vị khẩu dữ tâm, thanh thanh tương ứng; tâm dữ Phật, bộ bộ bất ly dã. Thử bất vãng sanh, thùy phục vãng sanh?
(演)所謂口與心,聲聲相應;心與佛,步步不離也。此不往生,誰復往生?
(Diễn: Đó gọi là miệng và tâm từng tiếng tương ứng, tâm và Phật, từng bước chẳng lìa. Người này chẳng vãng sanh thì còn ai vãng sanh nữa đây?)
Người này chẳng vãng sanh, còn ai có thể vãng sanh? Sanh trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, trí huệ, phước đức, thần thông và đạo lực gần như bình đẳng với Đẳng Giác Bồ Tát, công đức và lợi ích thù thắng ấy đến đâu để tìm được? Do vậy, người ấy có phước báo to lớn.
“Thử nhân đương đắc vô lượng chi phước” (Người ấy sẽ đắc vô lượng phước): Trên thế gian, bất luận quý vị tu phước báo như thế nào, cũng đều chẳng sánh bằng người ấy. Vì thế, người niệm Phật chúng ta muốn tu phước, đến đâu để tu? Niệm một câu A Di Đà Phật là tu phước. Khuyên người khác niệm Phật là tu đại phước báo, người thế gian chẳng biết điều này! Chẳng biết niệm Phật là huệ, không biết niệm Phật là phước; do vậy, trong kinh, đức Phật thường nói các chúng sanh ấy là kẻ đáng thương. [Phước báo do trì danh chính là] “vĩnh ly tam đồ, mạng chung chi hậu, vãng sanh bỉ sát” (Vĩnh viễn lìa khỏi tam đồ, sau khi mạng chung, sanh về cõi ấy).
(Sao) Trí Luận vân: Thí như hữu nhân, sơ sanh đọa địa, tức năng nhật hành thiên lý, mãn nhất thiên tuế, thất bảo phụng Phật, bất như hữu nhân, ư hậu ác thế, nhất thanh xưng niệm A Di Đà Phật, kỳ phước thắng bỉ.
(鈔)智論云:譬如有人初生墮地,即能日行千里,滿一千歲,七寶奉佛,不如有人,於後惡世,一聲稱念阿彌陀佛,其福勝彼。
(Sao: Đại Trí Độ Luận nói: “Ví như có người vừa mới sanh ra, rơi xuống đất liền có thể mỗi ngày đi một ngàn dặm, tròn một ngàn năm, dùng bảy báu dâng lên Phật, chẳng bằng có người khác trong đời ác mai sau, xưng niệm A Di Đà Phật một tiếng. Phước của người sau vượt trỗi người trước”).
Trong Đại Trí Độ Luận có một đoạn văn như thế. Dùng tỷ dụ ấy để nói lên phước báo thù thắng do niệm Phật. Giả sử có một người, người ấy rất đáng nể, vừa sanh ra đã biết đi, lại còn mỗi ngày có thể đi cả ngàn dặm. Nói thật ra, đây là tỷ dụ, chẳng có người như vậy! “Mãn nhất thiên tuế” (Tròn một ngàn năm), người ấy có thọ mạng dài ngần ấy. Dùng bảy báu để cúng dường Phật, ý nói phước báo cúng Phật rất lớn! Nhưng người ấy tu phước báo to ngần ấy, vẫn chẳng bằng nếu như có người trong đời ác mai sau, tức là đời ác ngũ trược, thật ra là nói về thời đại hiện tại của chúng ta, xưng niệm A Di Đà Phật một tiếng! Chẳng niệm nhiều, chỉ niệm một tiếng. Phước báo do niệm A Di Đà Phật một tiếng vượt trỗi phước báo của kẻ “sơ sanh đọa địa, nhật hành thiên lý, mãn nhất thiên tuế, thất bảo phụng Phật” (vừa mới sanh rơi xuống đất [đã biết đi], mỗi ngày đi ngàn dặm, tròn một ngàn năm, dùng bảy báu dâng lên Phật), vượt trỗi kẻ ấy. Chúng ta có tin điều này hay không? Phước báo của kẻ trước có thể nói là đời đời kiếp kiếp hưởng phước báo trên cõi trời hoặc trong nhân gian. Vì sao? Vì nó chẳng phải là cái nhân xuất thế, nên phước báo đạt được là phước báo trong cõi trời hay nhân gian, vẫn có lúc hưởng hết. Niệm A Di Đà Phật một tiếng, tuy hiện thời chẳng thấy gì, trong A Lại Da đã gieo một chủng tử kim cang. Dẫu chẳng thể thành tựu trong một đời này, nhưng nhiều đời nhiều kiếp sau, khi gặp được duyên, chủng tử ấy sẽ dấy lên hiện hành, nhất định sẽ vãng sanh thành Phật. Phước báo [do xưng niệm] danh hiệu là phước thành Phật. Phước báo do cúng dường chư Phật là phước báo nhân thiên, chẳng thể sánh bằng, đúng như vậy đó! Vì thế, phước do xưng niệm A Di Đà Phật một tiếng chẳng ai có thể nói trọn hết!
(Sao) Tăng Nhất A Hàm kinh vân: “Tứ sự cúng dường Diêm Phù Đề nhất thiết chúng sanh, nhược hữu xưng Phật danh hiệu, như thủ nhũ khoảnh, công đức quá thượng, bất khả tư nghị”.
(鈔)增一阿含經云:四事供養閻浮提一切眾生,若有稱佛名號,如取乳頃,功德過上,不可思議。
(Sao: Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: “Dùng tứ sự cúng dường hết thảy chúng sanh trong Diêm Phù Đề, nếu có người xưng danh hiệu Phật như trong khoảng vắt sữa, công đức vượt trỗi [người trước] chẳng thể nghĩ bàn”).
Đây là kinh Tiểu Thừa, là một kinh trong Tứ A Hàm. “Tứ sự cúng dường”: “Tứ sự” (四事) là ăn uống, quần áo, ngọa cụ (臥具: đồ để trải nằm, để đắp), và thuốc men. Thuở Phật tại thế, để cúng dường người tu hành, chỉ có bốn chuyện ấy. Vì thuở đó, cách sống của người xuất gia là “nhật trung nhất thực, thụ hạ nhất túc” (giữa trưa ăn một bữa, đêm nghỉ dưới cội cây). Chẳng ở trong nhà, cũng chỉ trú dưới cội cây một đêm, hôm sau phải dời sang nơi khác. Vì vậy, quý vị có thể cúng dường họ bằng thức ăn, quần áo, đồ trải để nằm, khi họ ngã bệnh [bèn dâng cúng] thuốc men. Người tu đạo tay chẳng cầm tiền, trước kia là cúng dường như vậy. “Cúng dường Diêm Phù Đề nhất thiết chúng sanh” [nghĩa là] cúng dường hết thảy chúng sanh trên địa cầu. Phước báo ấy có lớn hay không? Đương nhiên là rất lớn. Nhưng như thế nào? Vẫn chẳng bằng người niệm Phật hiệu một câu! “Xưng Phật danh hiệu, công đức bất khả tư nghị” (Xưng danh hiệu Phật, công đức chẳng thể nghĩ bàn). Kinh A Hàm chẳng hề nói đến chuyện xưng niệm A Di Đà Phật, mà nói là “xưng Phật danh hiệu”, công đức ấy thù thắng, được phước nhanh chóng, chẳng có pháp tu nào khác có thể sánh bằng! Kinh đã dạy rất minh bạch: “Nhược hữu xưng Phật danh hiệu, như thủ nhũ khoảnh” (Nếu có người xưng danh hiệu Phật như trong khoảng thời gian vắt sữa), thời gian vắt sữa bò rất ngắn, ý nói: Thời gian quý vị niệm Phật rất ngắn, mà đạt được công đức vượt trỗi người dùng tứ sự cúng dường hết thảy chúng sanh trong Diêm Phù Đề, nói rõ công đức niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn. Trong kinh đã khen ngợi công đức niệm Phật rất nhiều chỗ, chẳng thể nêu trọn. Ở đây chỉ nêu đại lược mấy loại để chứng minh.
(Sao) Phàm thử, giai trì danh vi đa phước đức chi minh chứng dã.
(鈔)凡此,皆持名為多福德之明證也。
(Sao: Phàm những đoạn như vậy đều là chứng cớ rõ rệt chứng tỏ trì danh là nhiều phước đức).
Chứng cớ rõ ràng, xác đáng. Nếu chúng ta chẳng tin thì đành hết cách!
(Sao) Hựu Bảo Tích thập cửu kinh vân: “Thời nhất tỳ-kheo, văn Phật tán dương Bất Động Như Lai Phật sát công đức, tâm sanh tham trước, nhi niệm sanh bỉ. Phật ngôn: – Bất dĩ ái luyến chi tâm, toại đắc vãng sanh, duy hữu thực chư thiện bổn, tu chư phạm hạnh, đắc sanh bỉ sát”.
(鈔)又寶積十九經云:時一比丘,聞佛讚揚不動如來佛剎功德,心生貪著,而念生彼。佛言:不以愛戀之心,遂得往生,惟有植諸善本,修諸梵行,得生彼剎。
(Sao: Lại nữa, kinh Bảo Tích quyển thứ mười chín có nói: “Khi ấy, có một vị tỳ-kheo nghe đức Phật ca ngợi công đức của cõi Phật Bất Động Như Lai, sanh tâm tham đắm, nghĩ muốn sanh về đó. Đức Phật dạy: – Chẳng thể do cái tâm ái luyến mà được vãng sanh, chỉ có gieo các cội lành, tu các phạm hạnh là được sanh về cõi ấy”).
Đây là một đoạn kinh văn trong quyển thứ mười chín[118] của kinh Bảo Tích. Đoạn này rất trọng yếu, có nhiều người trong số các đồng tu niệm Phật chúng ta phạm phải khuyết điểm giống hệt. Khuyết điểm gì vậy? Nghe nói Tây Phương Cực Lạc thế giới rất tốt đẹp, bèn dấy lòng tham ái đối với cõi ấy. Bên đó là cung điện bảy báu, vàng ròng làm đất, sang bên đó hưởng thụ cho đã! Dùng cái tâm tham ái để niệm A Di Đà Phật, tuy chấp trì danh hiệu mà chẳng thể vãng sanh. Vì sao? Nơi ấy là Tịnh Độ, “tâm tịnh, cõi nước tịnh” thì mới có thể vãng sanh. Tâm quý vị chẳng thanh tịnh, chẳng thể vãng sanh. Dẫu quý vị niệm Phật hiệu nhiều cách mấy, chỉ là gieo cái nhân vãng sanh trong tương lai, không thể vãng sanh trong một đời này!
Chư vị phải hiểu, nhất định phải niệm câu Phật hiệu cho đến mức tâm địa của chính mình thanh tịnh. Mẫu chuyện này trong kinh Bảo Tích đáng cho chúng ta cảnh giác. “Thời nhất tỳ-kheo”, [nghĩa là] một người xuất gia thuở ấy, nghe A Di Đà Phật giảng kinh, thuyết pháp, đức Phật tán dương công đức của cõi Phật Bất Động Như Lai (Akṣobhya). Nghe xong, vị ấy trong tâm rất hoan hỷ, dấy lòng tham ái đối với cõi Phật Bất Động Như Lai, “nhi niệm sanh bỉ” nghĩa là mong vãng sanh [cõi ấy]. Thuở Phật tại thế, tốt lắm! Đức Phật thần thông rộng lớn, trong tâm quý vị khởi tâm động niệm, Ngài biết ngay. Đức Phật thấy người ấy dùng tâm tham ái niệm Phật để cầu sanh về cõi Phật, bèn dạy: “Chẳng thể dùng tâm ái luyến để được vãng sanh”, chẳng thể nào! Vì sao chẳng thể? Chúng ta hãy xem lời tiểu chú sau đây:
(Diễn) Bất dĩ ái luyến chi tâm, toại đắc vãng sanh giả, dĩ ái luyến chi tâm thị tình thức, bất thị trí huệ cố. Thị đản tri thủ tướng, bất tri diệu lý cố. Thị đồ sanh hiếu lạc, vị khởi chân hạnh cố.
(演)不以愛戀之心遂得往生者,以愛戀之心是情識,不是智慧故。是但知取相,不知妙理故。是徒生好樂,未起真行故。
(Diễn: “Chẳng thể do cái tâm ái luyến mà được vãng sanh”: Vì cái tâm ái luyến là tình thức, chẳng phải là trí huệ. Do chỉ biết chấp lấy tướng, chẳng biết diệu lý. Do chỉ mong sanh về đó, ham ưa vui sướng, chưa khởi hạnh chân thật).
Tín nguyện như vậy chẳng phải là chân thật. Chân thật là lý trí, chẳng phải là cảm tình. Xử sự theo tình cảm chỉ có thể gieo cái nhân xa xôi, chắc chắn là chẳng thể thành tựu trong một đời này. Do vậy, người học Phật nhất định phải có lý tánh. Lý tánh hóa cảm tình thành từ bi chân thật. Người thế gian chúng ta nói Ái, Phật pháp nói từ bi. Nói thật ra, từ bi là ái. Vì sao nói từ bi mà chẳng nói ái? Ái là cảm tình, từ bi là lý tánh. Nói cách khác, tình yêu thương theo lý tánh bèn gọi là từ bi, chẳng phải là cảm tình.
Vãng sanh, nói thật ra, chẳng phải là chuyện dễ dàng; chẳng có lý tánh sẽ không thể làm được. Có một cặp vợ chồng ở Tân Trang học Phật đã đôi ba năm, ở cách chúng ta rất xa, do vậy, chỉ nghe băng thâu âm, nghe rất hoan hỷ. Ngày hôm qua, ông ta kể với tôi nguyên nhân khiến ông ta học Phật. Ông ta làm bác sĩ, biết nhân quả báo ứng, nên hễ khám bệnh cho người khác bèn lấy tiền công rất ít, người nhà chẳng thông cảm với ông ta, kêu ca ông ta thu tiền khám bệnh mà ngay cả dùng để mua thuốc theo giá vốn cũng chẳng đủ! Cha và vợ ông ta đều chẳng vui lòng, chẳng thông cảm cho lắm. Do bà vợ cũng học Phật, tôi bảo bà ta: “Tích tài chẳng bằng tích đức! Nay chồng bà làm như vậy, ông bà sẽ có phước mai sau, ông ta làm không sai. Chỉ cần có thể sống qua ngày là được rồi, cần gì phải kiếm nhiều tiền? Chẳng bằng tích đức cho nhiều”. Ông ta cho tôi biết: Ông ta học Phật là do nghe băng thâu âm bèn dấy tín tâm, còn nguyên nhân xa là do bà nội của ông ta đã tạ thế từ mấy năm trước [phát khởi]. Thuở đó, cả nhà đều chẳng tin Phật, bà nội niệm Phật, do mọi người trong nhà không tin, nên chỗ nào cũng gặp chướng ngại. Bà cụ niệm thầm trong tâm, chưa bao giờ niệm ra tiếng, cụ niệm theo cách như vậy. Khi mất, cụ tỉnh táo, sáng suốt. Cụ bị bệnh ung thư, nói theo người khác thì sẽ rất đau khổ; nhưng cụ chẳng bị đau khổ. Khi cụ mất, chẳng bị đau khổ, dẫu bị bệnh cũng chẳng đau khổ. Khi sắp mất, cụ biết sẽ mất lúc nào, biết trước lúc mất. Khi đã chết, khuôn mặt còn hồng hào, còn dễ nhìn hơn vẻ mặt lúc sống. Cha ông ta gọi người trong nhà đến xem, cha ông ta chẳng biết niệm Phật, nhưng biết mẹ mình là người tu hành, bèn nói: “Người tu hành khác hẳn, nhất định là cụ sanh lên trời, tướng mạo trang nghiêm dường ấy”. Thuở ấy, ông ta chẳng tin tưởng cho lắm, nay do nghe Phật pháp, bèn biết đó là sự thật, [bà cụ] quyết định vãng sanh! Khi cụ sắp mất, đã bảo con cái: “Phật đã đến, đang đợi ta ở cửa”. Nói xong, cụ qua đời. Khi ấy, vì họ chẳng tin Phật, ngỡ bà cụ quáng mắt, chẳng bình thường cho lắm, ăn nói nhăng nhít, nay suy nghĩ, biết là thật, Phật đến tiếp dẫn.
Vì vậy, quyết định chẳng thể dùng cảm tình, vì tình thức chẳng tương ứng, nhất định là phải có trí huệ, phải có lý tánh, chẳng phải là chấp tướng, mà là thật sự khế nhập diệu lý, đó là tu hành chân thật. Thật sự lý giải pháp thế gian và pháp xuất thế gian, biết lấy bỏ, cái nào đáng nên lấy, cái nào chẳng nên giữ lấy. Trong thế gian này, ngũ dục, lục trần, lục đạo luân hồi đều là giả, chẳng có gì là chân thật, quyết định chớ nên tham luyến. Nhất tâm nhất ý cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đó là đúng. Đến Tây Phương Cực Lạc thế giới là thành tựu viên mãn đạo nghiệp của chính mình. Chính mình đã có năng lực, bèn quay lại thế giới này để hóa độ chúng sanh. Đó là người thật sự thông minh, thật sự có trí huệ.
Hoằng pháp trong thế gian này, mọi người phát tâm học giảng kinh, hoằng pháp, tốt lắm! Tốt ở chỗ nào? Tốt ở chỗ quý vị can đảm, hy sinh chính mình hòng thành tựu người khác. Hy sinh chính mình, trong tương lai chính mình phải đọa tam đồ, vì sao? Vì chính mình chẳng nắm chắc sẽ đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, [thế mà] quý vị lại xen tạp; giảng kinh, thuyết pháp là xen tạp! Quý vị hãy suy ngẫm những câu chuyện do pháp sư Đàm Hư đã kể. Lão pháp sư Đế Nhàn suốt đời hoằng pháp lợi sanh, Ngài là tổ sư tông Thiên Thai vào cuối đời Thanh. Quý vị thấy người đồ đệ của Ngài, niệm Phật ba năm bèn đứng vãng sanh. Người ấy suốt ngày từ sáng đến tối là một câu Phật hiệu, chẳng hề xen tạp! Lão pháp sư Đế Nhàn khi mất còn bị bệnh, chẳng bằng ông ta; nhưng phải hiểu, người như cụ Đế Nhàn, hoặc như pháp sư Đàm Hư, xác thực là có thể vãng sanh. Chính mình thật sự nắm chắc, phẩm vị thấp một chút chẳng sao, bỏ mình vì người, các Ngài hy sinh phẩm vị của chính mình để giúp đỡ chúng sanh. Nay chúng ta thì ngay cả phẩm vị cũng chẳng trông cậy được, giúp người khác mà chính mình phải đọa tam đồ, phải luân hồi trong lục đạo, đáng sợ quá!
Vì vậy, tôi khuyên các vị đồng học giảng kinh, thuyết pháp phải nghiêm túc nỗ lực tu trì, chính mình quyết định nắm chắc vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ, sau đấy mới ra hoằng pháp lợi sanh, sẽ là đúng, là chánh xác. Hiện thời, tiền đồ là một bầu hắc ám mờ mịt, [thế mà] chẳng biết lo cho chính mình, còn làm sao được nữa! Tâm phát ra đại nguyện ấy là chánh xác, nhưng trong giai đoạn này, phải hiểu rõ ràng: Trong giai đoạn thứ nhất, chính mình phải nghiêm túc tu học, học giảng kinh là chuyện kèm theo. Đến khi chính mình thật sự nắm chắc vãng sanh, ta sẽ coi hoằng pháp lợi sanh là bậc nhất, thời gian tu trì của chính mình ít hơn một chút cũng chẳng sao, quyết định có thể vãng sanh! Phải biết điều này. Vì thế, “bỏ mình vì người” vẫn là có hạn độ, hạn độ thấp nhất là có thể đạt tới hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư. Hạ hạ phẩm mà chẳng nắm được, không được rồi! Lầm lẫn đặc biệt to đùng! Hoằng pháp lợi sanh là “trên đền bốn ân, dưới cứu ba khổ”, quyết định chẳng phải vì tiếng tăm, lợi dưỡng. Nếu vì tiếng tăm, lợi dưỡng mà hoằng pháp lợi sanh, nhất định sẽ bị đọa lạc.
Đoạn kinh Bảo Tích này đáng cho chúng ta cảnh giác. Ở đây, đức Phật nói: “Duy hữu thực chư thiện bổn, tu chư phạm hạnh, đắc sanh bỉ sát” (Chỉ có gieo các cội lành, tu các phạm hạnh, sẽ được sanh về cõi ấy). Cội lành và phạm hạnh nói theo Tịnh Tông chính là một câu Phật hiệu.
(Sao) Thiện bổn tức thiện căn, phạm hạnh tức phước đức.
(鈔)善本即善根,梵行即福德。
(Sao: Cội lành chính là thiện căn, phạm hạnh là phước đức).
Một câu A Di Đà Phật là phước huệ song tu.
(Sao) Thử hựu song hiển trì danh, vi đa thiện, đa phước chi minh chứng dã. Chư kinh giao tán, khả phất tín thọ?
(鈔)此又雙顯持名,為多善多福之明證也。諸經交讚,可弗信受。
(Sao: Điều này rõ ràng lại là chứng cớ minh bạch chứng tỏ cả hai điều: Trì danh vừa là nhiều thiện, vừa là nhiều phước. Các kinh đều xen lẫn tán dương [pháp môn Niệm Phật], há có thể nào chẳng tin nhận ư?)
Hết thảy kinh đều tán thán như vậy, chúng ta vẫn chẳng tin ư? Vẫn chẳng thể tiếp nhận ư? Chúng ta lại xem đoạn kế tiếp. Trong đoạn ấy, đại sư giả thiết một cuộc vấn đáp.
(Sớ) Vấn: Thử độ đơn tu viên đốn, bất nguyện vãng sanh giả, ninh khả vị chi thiểu thiện căn da?
(疏)問:此土單修圓頓,不願往生者,寧可謂之少善根耶。
(Sớ: Hỏi: Đối với người chỉ tu pháp viên đốn trong cõi này, chẳng nguyện vãng sanh, há có thể nói là ít thiện căn ư?)
Hỏi hay lắm! “Thử độ” là thế gian này, xác thực là có hạng người như vậy, “đơn tu viên đốn pháp” (chỉ tu pháp viên đốn), Thiền Tông là pháp viên đốn, họ chẳng mong vãng sanh Tịnh Độ. Nhiều vị đại đức trong các tông phái Thiên Thai, Hoa Nghiêm, và Bát Nhã cũng chẳng cầu sanh Tịnh Độ. Có phải những người ấy cũng là ít thiện căn hay chăng?
(Diễn) Đơn tu viên đốn, bất nguyện vãng sanh giả, thị tông môn sư đức.
(演)單修圓頓不願往生者,是宗門師德。
(Diễn: Người chỉ tu pháp viên đốn, chẳng muốn vãng sanh là bậc thầy, bậc đại đức trong Tông Môn).
Là các vị tổ sư đại đức trong Thiền Tông.
(Diễn) Trực minh trực tánh, bất đới tiêm trần.
(演)直明直性不帶纖塵。
(Diễn: Trực tiếp minh tâm kiến tánh, chẳng vướng mắc mảy trần).
Trực tiếp cầu minh tâm kiến tánh, đúng là chẳng có tí xíu vọng niệm nào!
(Diễn) Phật lai dã sát, ma lai dã sát, niệm Phật nhất thanh, sấu khẩu tam nhật giả.
(演)佛來也殺,魔來也殺,念佛一聲,漱口三日者。
(Diễn: Phật đến cũng giết, ma đến cũng giết[119], niệm Phật một tiếng, súc miệng ba ngày).
Đây là người chẳng niệm Phật, không cầu vãng sanh. Chư vị xem ngữ lục của Thiền Tông sẽ biết.
(Diễn) Ninh khả vị chi thiểu thiện căn giả, vị dĩ trì danh vi đa thiện căn, tắc thử đẳng sư đức, giai túc cụ Bát Nhã linh căn nãi năng nhĩ dã, ninh khả vị chi thiểu thiện căn da?
(演)甯可謂之少善根者,謂以持名為多善根,則此等師德,皆夙具般若靈根乃能爾也,甯可謂之少善根耶。
(Diễn: Há có nên nói họ là kẻ ít thiện căn, bảo trì danh mới là nhiều thiện căn ư? Các vị tổ sư đại đức ấy đều trọn đủ linh căn Bát Nhã từ xưa nên mới có thể được như thế, há có thể nói họ là phường ít thiện căn ư?)
Tổ sư đại đức của Tông Môn đều là bậc lỗi lạc, xác thực là đã tu học rất sâu dầy trong đời quá khứ, chẳng lẽ người như vậy cũng là kẻ ít thiện căn, ít phước đức hay sao? Chúng ta xem Liên Trì đại sư giải đáp như thế nào!
(Sớ) Đáp: Viên đốn hành nhân.
(疏)答:圓頓行人。
(Sớ: Đáp: Người tu hành viên đốn).
“Hành” (行) là người tu hành, cũng là nói tới những người tu hành trong Thiền Tông.
(Sớ) Tuy ngộ nhất tâm, thượng dư hậu hữu.
(疏)雖悟一心,尚餘後有。
(Sớ: Tuy đã ngộ nhất tâm, nhưng hãy còn sót lại thân sau).
“Ngộ” là đã ngộ. Đây là giải ngộ, chẳng phải là chứng ngộ. Nói cách khác, người ấy chưa đoạn phiền não tập khí, chẳng thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Diễn) Tuy ngộ nhất tâm, thượng dư hậu hữu giả, vị nhược ngộ nhi tức chứng Vô Sanh, thị chân thiện căn thâm hậu. Nhậm cừ hoành thuyết, thụ thuyết, vô sở bất khả, giáo cừ vãng đông, vãng tây, chân như thuyết mộng.
(演)雖悟一心尚餘後有者,謂若悟而即證無生,是真善根深厚。任渠橫說豎說,無所不可;教渠往東往西,真如說夢。
(Diễn: “Tuy ngộ nhất tâm mà hãy còn sót lại thân sau”: Ý nói, nếu là đã ngộ, liền chứng vô sanh, thì đúng là thiện căn sâu dầy. Mặc cho người ấy nói ngang, nói dọc, không gì chẳng thể được, mặc cho người ấy sang đông, sang tây, đúng là như nói chuyện nằm mộng vậy).
Mấy câu này nói đến người thật sự ngộ, tức là chứng ngộ. Người đã chứng ngộ bèn có thể [làm như vậy], tức là hạng người giống như Lục Tổ đại sư, đã minh tâm kiến tánh. Đó là thật sự ngộ, đúng là “thiện căn sâu dầy”. Người như vậy chẳng nhiều, hết sức hy hữu, xác thực là đã chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn.
(Diễn) Nhược vị đắc Vô Sanh, nhi tự phụ viên nhân.
(演)若未得無生,而自負圓人。
(Diễn: Nếu chưa đắc Vô Sanh, mà tự phụ là hạng viên đốn).
Chưa đạt đến cảnh giới ấy, chưa thể thật sự chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn, tự tưởng chính mình là căn tánh viên đốn, tự cậy thông minh.
(Diễn) Độn trí Tịnh Độ, diệc thị thiện căn thiển tiển dã.
(演) 鈍置淨土,亦是善根淺尟也。
(Diễn: Kẻ căn cơ chậm lụt mà gác bỏ Tịnh Độ thì cũng là kẻ thiện căn nông cạn vậy).
Nói hay quá! Thuở ấy, khi Liên Trì đại sư viết bộ Sớ Sao này, Thiền Tông rất thịnh, Tịnh Độ hết sức suy vi. Nói chuyện chẳng cẩn thận, sẽ mất lòng các vị đại đức trong Thiền Tông, sẽ rất khó thể chịu đựng, sẽ vướng phải bao nhiêu kẻ quở trách, phê bình! Vì thế, Ngài nói năng chú ý cẩn thận! Trong bộ kinh này, chỗ nào Ngài cũng dẫn kinh Hoa Nghiêm để giải thích, vì Thiền Tông cũng tôn sùng Hoa Nghiêm, do đây mà nâng cao thân phận và địa vị kinh Di Đà, rát miệng, buốt lòng! Vì vậy, Ngài rất uyển chuyển: “Tuy ngộ nhất tâm, thượng dư hậu hữu” (Tuy đã ngộ nhất tâm, vẫn còn sót lại thân sau).
(Sớ) Chánh nghi cầu sanh bỉ quốc, thân cận Di Đà.
(疏)正宜求生彼國,親近彌陀。
(Sớ: Đáng nên cầu sanh cõi ấy, thân cận Phật Di Đà).
Đáng phải nên cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, thân cận A Di Đà Phật, lời này có căn cứ. Vĩnh Minh Diên Thọ đại sư là tấm gương tốt nhất. Trong Thiền Tông, thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ là bậc đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, về già chuyên tu Tịnh Độ, chuyên hoằng dương Tịnh Độ, trở thành tổ sư đời thứ sáu của Tịnh Độ Tông. Thiền sư Triệt Ngộ cũng là từ Thiền Tông quay lại. Triệt Ngộ Thiền Sư Ngữ Lục toàn là khuyên người tham Thiền hãy niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Có những căn cứ ấy.
(Sớ) Triết Lão, Thanh Công, kiểu nhiên phúc triệt. Nhược kỳ tự phụ viên nhân, bất nguyện vãng sanh, đương tri diệc thị thiện căn bạc cố, như Hoa Nghiêm trung thuyết.
(疏)喆老青公,皎然覆轍,若其自負圓人,不願往生,當知亦是善根薄故,如華嚴中說。
(Sớ: Cụ Chân Như Triết, ngài Thanh Thảo Đường là những vết xe đổ rành rành. Nếu kẻ nào tự phụ là hạng viên đốn, chẳng muốn vãng sanh, hãy nên biết người ấy cũng là phường thiện căn mỏng manh như trong kinh Hoa Nghiêm đã nói).
Sợ người ta không tin, phải nêu ra kinh Hoa Nghiêm để làm căn cứ. Chúng ta hãy xem chuyện của hai vị Triết lão và Thanh công.
(Diễn) Triết Lão trụ kinh sư tứ thập niên, thường tọa bất ngọa.
(演)喆老住京師四十年,常坐不臥。
(Diễn: Cụ Chân Như Mộ Triết[120] trụ tại kinh đô bốn mươi năm, thường ngồi chẳng nằm).
Đây là bậc đại đức tham Thiền, nay chúng ta nói là “bất đảo đơn” (不倒單: chẳng ngả mình xuống đơn).
(Diễn) Hóa hậu.
(演)化後。
(Diễn: Sau khi hỏa táng).
Khi hỏa táng.
(Diễn) Chỉ áo diệc thiêu xuất xá-lợi.
(演)紙襖亦燒出舍利。
(Diễn: Giấy bọc, áo liệm cũng thiêu thành xá-lợi).
Đừng nói là thân thể, ngay cả quần áo Sư mặc, sau khi thiêu, đều xuất hiện các hạt xá-lợi.
(Diễn) Dĩ bất tu Tây Phương, sanh đại phú quý xứ.
(演)以不修西方,生大富貴處。
(Diễn: Do chẳng tu về Tây Phương, nên sanh vào nơi đại phú quý).
Đời sau sanh trong gia đình phú quý, quyền cao chức trọng. Vì thế, người làm đế vương hay quan to trong thế gian này trước kia đều là người tu hành đã lâu. Hễ chuyển sang đời khác, cả một đời tu hành đổi lấy sự phú quý trong nhân gian.
(Diễn) Thanh Công tức Thanh Thảo Đường.
(演)青公即青草堂。
(Diễn: Thanh Công chính là Thanh Thảo Đường).
Đây là một vị đại đức hết sức nổi tiếng trong Thiền Tông.
(Diễn) Niên cửu thập dư, cảm Tăng gia nữ nhân tống cúng.
(演)年九十餘,感曾家女人送供。
(Diễn: Tuổi ngoài chín mươi, do cảm kích sự cúng dường, biếu tặng của nữ nhân nhà họ Tăng).
Sư có tín đồ họ Tăng, hết sức tốt đối với lão pháp sư, thường xuyên cúng dường Sư. Khi lâm chung, Sư nói: “Bà cúng dường ta rất nhiều, ta làm con của bà là xong”. Sau khi mất, Sư đầu thai vào nhà bà ta, làm con bà ta, tức là Tăng Lỗ Công, làm Tể Tướng đời Tống, làm quan đến chức Tể Tướng. Hôm phu nhân nhà họ Tăng sanh con, mộng thấy Thanh Thảo Đường bước vào phòng bà ta. Bà liền sai người đến chùa xem, lão hòa thượng đã viên tịch, biết Sư đến đầu thai, về sau, [người con ấy] làm đến chức Tể Tướng. Đấy là những người chẳng cầu vãng sanh.
(Diễn) Phúc triệt giả, Hán Giả Nghị vân: “Tiền xa ký phúc, hậu xa đương giới”.
(演)覆轍者,漢賈誼云:前車既覆,後車當戒。
(Diễn: “Vết xe đổ”: Đời Hán, Giả Nghị[121] nói: “Xe trước đã đổ, xe sau hãy nên răn dè”).
Phải ngăn ngừa! Quý vị thấy tình hình của người xưa như vậy, há nên học theo ư? Những vị ấy nếu cầu sanh Tịnh Độ, nói thật ra, rất dễ dàng, họ có công phu như vậy, ý niệm vừa chuyển, ngay lập tức sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Họ chẳng chịu cầu vãng sanh, nên đạt được sự phú quý trong nhân gian. Do vậy, người phú quý, kẻ tài hoa trong thế gian đều là có lai lịch. Mọi người chẳng nghiêm túc tu hành, chẳng cầu sanh Tịnh Độ, quý vị học giảng kinh, thuyết pháp, hoằng pháp lợi sanh, đời sau cũng là phú quý! Tu trì suốt một đời để đổi lấy sự phú quý trong nhân gian, đây là chuyện rất đáng sợ! Hai vị ấy đã nêu gương cho mọi người biết: “Nhược kỳ tự phụ viên nhân, bất nguyện vãng sanh, đương tri diệc thị thiện căn bạc cố” (Nếu kẻ ấy tự phụ là hạng căn cơ viên đốn, chẳng nguyện vãng sanh, thì hãy nên biết cũng là kẻ thiện căn mỏng manh vậy). Đúng như vậy, chẳng giả tí nào!
(Sao) Hậu hữu giả, hậu ấm dã, tức lai sanh dã. Viên nhân kiến địa, tuy dữ Phật tề, nhiên nhi thô tế vô minh do vị tận trừ, hằng sa Tánh Đức do vị tất bị. Hữu Hoặc nhuận sanh, ninh vô hậu hữu? Ký tồn hậu hữu, tắc hữu sanh phương, bất ly lục đạo.
(鈔)後有者,後陰也,即來生也。圓人見地,雖與佛齊,然而粗細無明猶未盡除,恆沙性德猶未悉備。有惑潤生,寧無後有,既存後有,則有生方,不離六道。
(Sao: “Hậu hữu” là hậu ấm, tức là đời sau. Người viên đốn tuy kiến địa bằng với Phật, nhưng vô minh thô hay tế còn chưa trừ hết, hằng sa Tánh Đức còn chưa trọn hết. Hễ có phiền hoặc tràn trề nẩy sanh, há lẽ nào chẳng có thân sau cho được? Đã có thân sau thì phải tái sanh, chẳng lìa khỏi lục đạo).
Chúng ta nhất định phải hiểu rõ sự thật này! Kiến giải của quý vị giống như Phật, thử hỏi quý vị: Quý vị có đoạn vô minh hay chưa? Tánh Đức có thấu lộ hay chưa? Nhìn từ chỗ nào? Nay chúng ta chẳng cần nói tới vô minh vi tế, mà nói về [vô minh] thô, [vô minh] thô là gì? Kiến Tư phiền não. Quý vị đã đoạn hết Kiến Tư phiền não hay chưa? Quý vị còn có nhân ngã, thị phi hay không? Còn có tham, sân, si, mạn hay không? Nếu còn có đôi chút như vậy, nói cách khác, chắc chắn là quý vị chẳng thoát khỏi tam giới! Quý vị có kiến giải giống chư Phật, vẫn uổng công, chẳng thoát khỏi tam giới! Trong thế gian, từ xưa tới nay, quả thật có không ít kẻ cuồng vọng, thậm chí tưởng chính mình vượt trỗi chư Phật. Tự tưởng mình đã vượt trỗi chư Phật, đó là cuồng vọng tự đại. Người khác tán thán bèn hoan hỷ, người ta nói mấy câu chẳng thuận tai bèn bực tức, có được hay chăng? Không chỉ là chẳng thể thoát khỏi tam giới, chỉ sợ là cả ba đường lành đều chẳng giữ nổi, cõi trời lẫn nhân gian đều chẳng có phần! Đối với vô minh thô và tế, sách Diễn Nghĩa có chú giải:
(Diễn) Thô tế vô minh do vị tận giả, tế tức căn bản, thô tức chi mạt.
(演) 粗細無明猷未盡者,細即根本,粗即枝末。
(Diễn: “Còn chưa hết sạch vô minh thô và tế”: Tế là căn bản, thô là chi mạt).
“Tế” là căn bản vô minh, “thô” là chi mạt vô minh.
(Diễn) Viên nhân kiến dữ Phật tề, hoặc toàn vị phá, dĩ Lý tuy đốn ngộ, thừa ngộ tinh tiêu, Sự tu tiệm trừ, nhân thứ đệ tận cố.
(演)圓人見與佛齊,惑全未破,以理雖頓悟,乘悟併消,事須漸除,因次第盡故。
(Diễn: Người viên đốn kiến giải bằng với chư Phật, nhưng chưa phá trừ toàn thể Hoặc, xét theo Lý thì tuy là do đốn ngộ bèn [có thể] nương vào ngộ để tiêu trừ [phiền não], nhưng xét theo Sự thì cần phải trừ khử dần dần, sẽ lần lượt trừ hết).
Ngộ ở đây là giải ngộ, chẳng phải là chứng ngộ. Tuy quý vị đã ngộ, nhưng làm chẳng được. Nói cách khác, chẳng biến cảnh giới của Phật thành cảnh giới của chính mình. Đối với cảnh giới của Phật, quý vị nói rành mạch, rõ ràng, nhưng đó là cảnh giới của chư Phật, chẳng phải là cảnh giới của chính mình. Cảnh giới của chính mình và cảnh giới của Phật hoàn toàn khác nhau, còn làm thế nào được nữa?
(Diễn) Hằng sa Tánh Đức do vị tất bị giả, đức hữu Tánh Đức, Tu Đức. Tánh Đức bổn cụ, Tu Đức tu thành.
(演)恆沙性德猶未悉備者,德有性德修德,性德本具,修德修成。
(Diễn: “Hằng sa Tánh Đức còn chưa trọn đủ”: Đức có Tánh Đức và Tu Đức. Tánh Đức vốn sẵn trọn đủ, Tu Đức là do tu thành).
Chẳng sai! Xét theo Tánh Đức, hết thảy bọn chúng sanh chúng ta chẳng khác chư Phật, nhưng nếu quý vị chẳng tu, dẫu có Tánh Đức, chẳng khởi tác dụng!
Hai, ba mươi năm trước, tôi gặp một đồng tu, ông ta học Phật cũng rất lâu rồi, bảo tôi ông ta đã chứng đắc A La Hán. Tôi nghe nói, hết cách! Ông ta tin tưởng sâu xa chính mình đã chứng quả A La Hán, nói cách nào ông ta cũng không nghe lọt tai được. Cuối cùng, tôi suy nghĩ rồi hỏi ông ta: “A La Hán có Lục Thông, chúng ta ngồi trong phòng khách, trên đường ngoài tường, người ta đi tới đi lui, ông có thấy hay không?” Ông ta đáp: “Chẳng thấy”. A La Hán có Tha Tâm Thông, nay trong lòng tôi nghĩ gì, ông có biết hay không? Ông ta đáp: “Chẳng biết”. Tôi nói: “Tôi khẳng định ông chẳng chứng đắc A La Hán”. Như vậy thì mới thuyết phục được ông ta! Có phải là ông ta phạm vọng ngữ hay chăng? Chẳng phải là vọng ngữ, mà là Tăng Thượng Mạn như trong Phật pháp đã nói. Ông ta ngỡ chính mình thật sự chứng đắc A La Hán, trong tâm có chút thanh tịnh, đạt được đôi chút pháp hỷ, tự nhận là đã chứng quả.
Hiện thời, trên thế giới có lắm nơi có những kẻ kỳ quái, những chuyện lạ lùng. Có một năm, tôi giảng kinh tại Lạc Sam Cơ (Los Angeles), có năm người trẻ tuổi ở Lạc Sam Cơ, hôm đó, tôi gặp được ba người, họ đến nghe tôi giảng kinh. Nghe nói có một vị lạt-ma Tây Tạng giảng kinh tại Lạc Sam Cơ, thọ ký cho năm người bọn họ, bảo là năm người bọn họ đã khai ngộ. Những người ấy hết sức cuồng vọng, đến nghe tôi giảng kinh. Sau khi giảng xong, họ đến hỏi tôi, muốn tôi cũng chứng minh họ đã khai ngộ. Tôi nói: “Các ông chẳng khai ngộ!” Họ rất tức tối, vặc lại: “Lạt-ma Rinpoche[122] chứng minh chúng tôi khai ngộ, sao thầy nói chúng tôi chưa khai ngộ?” Tôi bảo họ: “Tôi chẳng khai ngộ, quý vị đến hỏi tôi, đương nhiên là quý vị chẳng khai ngộ!” Tôi vừa nói xong, thính chúng khi ấy rất nhiều người cười rộ. Quý vị đã khai ngộ, còn phải đến hỏi tôi nữa ư? Hiện thời, kẻ lừa người rất đông, thọ ký hoặc chứng minh cho quý vị đều giả trất, đều chẳng tin cậy được! Còn có nào là quán đảnh, phá đảnh[123], dùng ngọn cỏ cắm vào đỉnh đầu, [tuyên bố] “trong tương lai, khi quý vị chết đi, thần thức sẽ từ nơi đây sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nếu đỉnh đầu quý vị không mở được, trong tương lai, sẽ chẳng có cách nào vãng sanh!” Cả đống người kéo đến! Nghe nói để mở đỉnh đầu phải nộp hai mươi đồng Mỹ kim, kẻ đó đem cọng cỏ cắm vào [đỉnh đầu quý vị]. Ở Á Đặc Lan Đại (Atlanta), tôi gặp một bác sĩ. Vị bác sĩ ấy nói trên đỉnh đầu có một huyệt đạo, thủng lỗ rất lớn, ông ta nói: “Kiểu ấy thì tôi cũng có thể cắm được, cắm một cái là lọt vào ngay”. Người hiện thời chuộng kỳ ham quái, đúng là bó tay! Nếu cọng cỏ cắm vào ấy chẳng sạch sẽ, quý vị sẽ bị chứng u não, sớm có ngày vãng sanh! Những hiện tượng quái đản như vậy, Trung Hoa lẫn ngoại quốc đều có, lại còn hết sức phổ biến, chúng ta phải cẩn thận, ngàn muôn phần chớ bị mắc lừa!
Chắc chắn là Phật pháp chẳng dùng phương pháp ấy để vãng sanh. Vì sao? Tịnh Độ Ngũ Kinh cũng như hết thảy kinh điển Đại Thừa chẳng có cách nói ấy. Do vậy, [đối với những chuyện] người ta nói và làm, phải tìm được căn cứ từ kinh điển [thì mới tin tưởng, chấp nhận]. Nay chúng ta tu Tịnh Độ Tông, kinh điển chủ yếu của Tịnh Độ Tông là năm kinh một luận. Trong năm kinh một luận chẳng có phương pháp ấy (cắm cọng cỏ vào đỉnh đầu để mở huyệt hòng chuyển dời thần thức vãng sanh), chúng ta nhất loạt chẳng cần phải tin tưởng! Người nương theo năm kinh một luận để tu hành, bao nhiêu người vãng sanh! Từ xưa tới nay, trong hiện tại, ở Đài Loan, tại Đại Lục, tại hải ngoại, những người ấy đều là các tấm gương chân thật đặt ngay trước mặt chúng ta, vẫn chẳng tin tưởng ư? Vẫn cứ tin tưởng những chuyện kỳ quái kia! Những kẻ ấy đúng là phường “ít thiện căn, ít phước đức” như kinh đã nói, thậm chí có thể nói là “chẳng có thiện căn, chẳng có phước đức”, đều đang quấy rối tại đó!
“Hữu Hoặc nhuận sanh, ninh vô hậu hữu” (Đã có phiền hoặc tràn trề nẩy sanh, làm sao không có thân sau cho được), Hoặc (惑) là mê hoặc, là phiền não, tức là nói đến Kiến Tư phiền não. Chưa đoạn hết Kiến Tư phiền não, sẽ chẳng thể vượt thoát lục đạo luân hồi. “Hậu hữu” (後有) là quý vị vẫn phải thọ sanh, về sau vẫn phải luân hồi. “Ký tồn hậu hữu, tắc hữu sanh phương” (Đã có thân sau thì phải tái sanh), “sanh phương” (生方) là phương thức sanh ra, đến đầu thai, [được sanh ra theo một trong bốn phương thức là] thai, noãn, thấp, hóa, “bất ly lục đạo” (chẳng lìa lục đạo), bảo rõ ràng, minh bạch cùng quý vị: Quý vị chẳng cầu sanh Tây Phương Tịnh Độ, nhất định sẽ luân hồi trong lục đạo.
(Sao) Trừ bỉ dĩ đăng Thật Báo, dư hoặc vị miễn nhân thiên.
(鈔) 除彼已登實報,餘或未免人天。
(Sao: Trừ những người đã lên cõi Thật Báo, những trường hợp khác chắc là chưa tránh khỏi cõi trời, người).
Trừ phi người ấy xác thực là đã phá vô minh, chứng đắc Pháp Thân, bèn vượt thoát. Nếu chẳng có công phu như vậy, chẳng thật sự phá vô minh, phá một phẩm vô minh, chứng một phần Pháp Thân. Nói cách khác, dẫu quý vị tu tốt đẹp đến mấy, bất quá cũng là phước báo nhân thiên, [vì thế nói là] “vị miễn nhân thiên”.
(Sao) Nhi thiên thượng đa dục, nhân gian tạp khổ.
(鈔)而天上多欲,人間雜苦。
(Sao: Nhưng cõi trời lắm dục, nhân gian các khổ xen lẫn).
Cõi trời vui sướng. Trước kia, ngài Sư Tử Giác là một vị cao tăng Ấn Độ. Ngài cùng Vô Trước và Thiên Thân, ba người đều tu Di Lặc Tịnh Độ. Lại còn cùng nhau ước định: “Ai vãng sanh trước, đến được Di Lặc Tịnh Độ bèn trở về báo tin”. Sư Tử Giác mất trước, đã mất rất nhiều năm chẳng có tin tức gì. Sau đó, Vô Trước Bồ Tát vãng sanh, sanh đến Đâu Suất Nội Viện, ba năm sau mới quay lại báo tin. Thiên Thân Bồ Tát hỏi: “Vì sao ông mất ba năm rồi mới đến báo tin cho tôi?” Ngài Vô Trước đáp: “Thời gian trên cõi trời rất dài, bất quá tôi nhiễu quanh Di Lặc Bồ Tát một vòng liền vội vã trở xuống báo tin cho ông”. Thiên Thân Bồ Tát hỏi: “Sư Tử Giác thì sao?” Ngài Vô Trước đáp: “Sư Tử Giác tham cầu sự vui sướng trên cõi trời, vẫn còn đang ở ngoại viện của Đâu Suất Thiên, còn chưa gặp Di Lặc Bồ Tát”. Ông ta thấy ngũ dục lục trần trên cõi trời thù thắng vượt trỗi nhân gian quá nhiều, lưu luyến nơi ấy, thôi rồi! Đạo tâm bị thoái thất. Vì thế, người tu đạo không dễ dàng, ngũ dục lục trần trong thế gian này hằng ngày dụ dỗ, mê hoặc quý vị. Sức mạnh dụ dỗ, mê hoặc trong thế gian chưa mạnh lắm, sức dụ dỗ mê hoặc trên cõi trời mạnh mẽ hơn. Sư Tử Giác chẳng bị ngũ dục lục trần trong nhân gian dụ dỗ, mê hoặc, nhưng bị chư thiên dụ dỗ, mê hoặc, chẳng chống nổi, đi theo họ, còn nói gì được nữa! Điều này hết sức đáng sợ. Những vị ấy đều đã chứng đắc quả vị Bồ Tát, do chưa đoạn tập khí, chẳng chống nổi dụ dỗ, mê hoặc, trong tâm còn có tham, sân, si, mạn. Đó là “thiên thượng đa dục” (cõi trời lắm dục). “Nhân gian tạp khổ” (Nhân gian các khổ xen lẫn), đời này chúng ta sống trong nhân gian, đã liễu giải và thấu hiểu trạng huống trong nhân gian.
(Sao) Đọa lạc giả chúng, giải thoát giả hy.
(鈔)墮落者眾,解脫者希。
(Sao: Kẻ đọa lạc đông đảo, người giải thoát ít ỏi).
Đây là lời chân thật, người đọa lạc đông lắm! Đúng là trong thế gian này, người tu pháp môn khác chứng đắc cõi Thật Báo, tức là phá vô minh, chứng đắc Pháp Thân, hạng người như vậy rất ít. Trong Thiền Tông Trung Hoa, thù thắng nhất là Lục Tổ Huệ Năng. Một đời Huệ Năng đại sư có bốn mươi hai người khai ngộ minh tâm kiến tánh trong hội của Ngài. Quý vị đọc Đàn Kinh sẽ hiểu, trong Thiền Tông, chuyện này thù thắng khôn sánh, là vô cùng thù thắng, thật sự là không tiền tuyệt hậu (空前絕後: trước kia chưa hề có sau này cũng không)! Trong hội của một vị tổ sư đại đức, người thật sự có thể minh tâm kiến tánh khai ngộ, quá nửa là một, hai, ba, năm người thì rất nhiều! Trong hội của Lục Tổ có hơn bốn mươi người [khai ngộ, trong khi] người theo Tổ tu học đâu phải chỉ là ngàn vạn? Vẫn là tỷ lệ không tương xứng! Lại xem Huệ Viễn đại sư thuở ấy kết chòi tranh ở Lư Sơn, một trăm hai mươi ba người cùng ở một chỗ niệm Phật, ai nấy đều vãng sanh. Hội của Lục Tổ Huệ Năng đại sư chẳng bằng. So giữa hai vị, quý vị liền biết sự thù thắng của việc niệm Phật vãng sanh.
(Sao) Bất sanh Tịnh Độ, nhi tương yên vãng.
(鈔)不生淨土,而將焉往。
(Sao: Chẳng sanh về Tịnh Độ, thì sẽ đi về đâu?)
Nếu quý vị chẳng sanh về Tịnh Độ, quý vị sẽ đến nơi đâu? Đọc phần cuối đoạn chú giải, sẽ có thể khiến cho chúng ta liễu giải chân tướng, tăng trưởng tín tâm.
(Diễn) Trừ bỉ dĩ đăng Thật Báo, dư hoặc vị miễn nhân thiên giả, năng đoạn vô minh chứng Pháp Thân, sanh Thật Báo độ, tắc siêu lục đạo.
(演)除彼已登實報,餘或未免人天者,能斷無明證法身,生實報土,則超六道。
(Diễn: “Trừ những người đã lên cõi Thật Báo, những trường hợp khác chắc là chẳng thoát khỏi cõi trời, người”: Có thể đoạn vô minh, chứng Pháp Thân, sanh vào cõi Thật Báo, bèn vượt thoát lục đạo).
Vượt thoát lục đạo, vĩnh viễn chẳng còn luân hồi nữa.
(Diễn) Nhược bất nhiên giả, túng bất đọa ác thú, diệc đọa nhân
thiên, yên vô hậu hữu da?
(演)若不然者,縱不墮惡趣,亦墮人天,焉無後有耶。
(Diễn: Nếu chẳng vậy, dẫu chẳng đọa trong đường ác, cũng đọa trong cõi trời, người, làm sao chẳng có thân sau cho được?)
Nếu chẳng phải là như vậy, quý vị quyết định chẳng thể vượt thoát lục đạo luân hồi. Dưới đây là một đoạn vấn đáp:
(Diễn) Hoặc vấn viết: Đoạn vô minh, chứng Pháp Thân Bồ Tát, sanh Thật Báo giả, huýnh siêu lục đạo bất tất ngôn hỹ!
(演)或問曰:斷無明證法身菩薩生實報者,迥超六道不必言矣。
(Diễn: Hoặc có kẻ hỏi: “Bậc Bồ Tát đã đoạn vô minh, chứng Pháp Thân thì vượt thoát khỏi lục đạo [là chuyện] chẳng cần phải nói nữa!”)
Chuyện này đương nhiên chẳng cần phải nói, quyết định là vượt thoát lục đạo.
(Diễn) Sanh Phương Tiện Hữu Dư giả, diệc siêu tam giới, bất thọ luân hồi.
(演)生方便有餘者,亦超三界不受輪迴。
(Diễn: Kẻ sanh trong cõi Phương Tiện Hữu Dư, cũng vượt thoát tam giới, chẳng bị luân hồi).
Nói đến công phu kém hơn. Dẫu kém hơn đôi chút, vẫn có thể vượt thoát lục đạo luân hồi, giống như những vị từ A La Hán trở lên.
(Diễn) Hà đản ngôn “trừ Thật Báo năng miễn nhân thiên”, bất ngôn “trừ Phương Tiện diệc miễn nhân thiên” da?
(演)何但言除實報能免人天,不言除方便亦免人天耶。
(Diễn: Vì sao chỉ nói là “ngoại trừ Thật Báo có thể thoát khỏi nhân thiên”, chẳng nói “ngoại trừ cõi Phương Tiện cũng tránh thoát nhân thiên”?)
Hỏi rất hay, đúng là tìm thấy lý do để chất vấn. A La Hán đoạn Kiến Tư phiền não, vượt thoát lục đạo luân hồi, nhưng A La Hán chẳng chứng đắc cõi Thật Báo, [vì các Ngài] chẳng minh tâm kiến tánh. Cớ sao quý vị chỉ nói sanh về cõi Thật Báo, chẳng nói sanh trong cõi Phương Tiện? Câu hỏi này rất có lý, hãy xem đại sư đáp theo cách nào.
(Diễn) Thử chương vấn đáp, đơn luận viên nhân.
(演) 此章問答,單論圓人。
(Diễn: Lời vấn đáp trong chương này chỉ luận định theo phía người căn cơ viên đốn).
Chỉ nói theo Viên Giáo, chẳng nói với quý vị về Tạng Giáo hay Thông Giáo. Theo tiêu chuẩn của Viên Giáo thì tình hình là như vậy đó.
(Diễn) Viên nhân đoạn vô minh giả, tức sanh Thật Báo.
(演)圓人斷無明者,即生實報。
(Diễn: Người thuộc căn cơ Viên Giáo hễ đoạn vô minh bèn sanh vào Thật Báo).
Chẳng thể sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư.
(Diễn) Như vị đoạn vô minh, tạo chí Thất Tín, tuy sanh Phương Tiện, sở kiến chi cảnh dữ Thật Báo đồng, bất đồng Tạng Thông nhị giáo thể tích chi nhân, thật sanh Phương Tiện, cố lược nhi bất ngôn dã.
(演)如未斷無明,造至七信,雖生方便,所見之境與實報同,不同藏通二教體析之人,實生方便,故略而不言也。
(Diễn: Nếu chưa đoạn vô minh, đã đạt tới địa vị Thất Tín, tuy sanh trong cõi Phương Tiện, mà thấy cảnh giới giống như trong cõi Thật Báo, chẳng giống như [kiến giải của người tu tập] Thể Không Quán và Tích Không Quán trong Tạng Giáo và Thông Giáo, [người thuộc hai giáo ấy] thật sự sanh trong cõi Phương Tiện. Vì thế, lược đi chẳng nói).
Nói theo tứ giáo, chỉ luận định Viên Giáo, chẳng nói về Tạng Giáo, Thông Giáo, hay Biệt Giáo. Đây là kiến địa của người thuộc Viên Giáo, cảnh giới xác thực là chẳng giống Tạng Giáo và Thông Giáo. Người Viên Giáo đã đoạn Kiến Tư phiền não bèn vượt thoát lục đạo luân hồi. Tuy sanh trong cõi Phương Tiện Hữu Dư, sự hưởng thụ của người ấy trong cõi Phương Tiện Hữu Dư chẳng khác Thật Báo. Vì sao? Trí huệ khác nhau, đoạn chứng giống nhau; nhưng chư vị phải hiểu: Cảnh chuyển theo tâm. Nói cách khác, tâm của bậc Thất Tín trong Viên Giáo chẳng giống tâm của A La Hán hay Bích Chi Phật. Một đằng là tâm lượng hẹp nhỏ, một đằng tâm lượng to lớn; do vậy, Ngài (Thất Tín Bồ Tát) thọ dụng cảnh giới khác hẳn. Tuy sanh trong cõi Phương Tiện Hữu Dư, gần như bằng với cõi Thật Báo Trang Nghiêm, chẳng giống cảnh giới của hàng Tiểu Thừa.
(Sao) Triết Lão, Thanh Công, câu xưng hữu ngộ.
(鈔)喆老青公,俱稱有悟。
(Sao: Các vị Chân Như Triết và Thanh Thảo Đường đều được gọi là có ngộ).
Hai vị này đều là bậc khai ngộ trong Thiền Tông.
(Sao) Nhi Triết Lão hậu thân, đam luyến phú quý; Thanh Công hậu thân, đa lịch khổ ưu.
(鈔)而喆老後身,耽戀富貴;青公後身,多歷苦憂。
(Sao: Nhưng hậu thân của Chân Như Triết mê đắm phú quý, hậu thân của ngài Thanh Thảo Đường trải lắm nỗi khổ sở, lo âu).
Làm quan to, rất vất vả. Quý vị thấy những người làm quan to hiện thời đều rất nhọc nhằn.
(Sao) Giai diêu bất mộ vãng sanh, tự thất thiện lợi.
(鈔)皆繇不慕往生,自失善利。
(Sao: Đều là do chẳng hâm mộ vãng sanh, tự đánh mất lợi ích tốt lành).
Quý vị thấy tình hình của họ, lỗi lầm ở chỗ chẳng mong cầu vãng sanh Tịnh Độ, chẳng tin pháp môn này. “Tự thất thiện lợi”: [Đánh mất] lợi ích thù thắng nhất, chính mình tự lầm mình.
(Sao) Trí sử yêm trệ đa sanh, khoáng Bồ Đề lộ.
(鈔)致使淹滯多生,曠菩提路。
(Sao: Khiến bị chìm đắm nhiều đời, đường Bồ Đề xa vời vợi).
Đương nhiên là trong tương lai người ấy vẫn có thể vãng sanh, nhưng chẳng biết là đến đời nào, kiếp nào! Người ấy nhất định sẽ nghe danh hiệu A Di Đà Phật, nhất định thấy tượng A Di Đà Phật, trong A Lại Da Thức có chủng tử A Di Đà Phật, chỉ là chẳng chịu xưng niệm mà thôi, chẳng mong cầu sanh! Như vậy thì con đường Bồ Đề sẽ rất dài! Chẳng biết phải đi vòng vèo bao xa, sau đó mới hồi tâm chuyển ý, thật thà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Sao) Khởi phi thiện căn lương bạc, nãi trí như tư.
(鈔)豈非善根涼薄,乃致如斯。
(Sao: Há chẳng phải là do thiện căn kém mỏng, nên khiến cho đến nỗi như vậy).
Kẻ ấy thiện căn kém mỏng! Chẳng thể nói kẻ ấy không có thiện căn và phước đức, mà là thiện căn lẫn phước đức đều chẳng nhiều.
Trong phần trên, Liên Trì đại sư đã dẫn kinh Hoa Nghiêm để chứng minh,“như Hoa Nghiêm trung thuyết” (như đã nói trong kinh Hoa Nghiêm). Kinh Hoa Nghiêm nói ở chỗ nào? Nay Ngài bảo cho chúng ta biết.
(Sao) Ngôn Hoa Nghiêm giả, Nhập Pháp Giới phẩm vân.
(鈔)言華嚴者,入法界品云。
(Sao: [Trong lời Sớ đã] nhắc tới kinh Hoa Nghiêm thì như trong phẩm Nhập Pháp Giới có nói).
Phẩm Nhập Pháp Giới chính là phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Trong bộ Bát Thập Hoa Nghiêm, phẩm này gồm hai mươi mốt quyển. Tứ Thập Hoa Nghiêm là kinh văn của toàn bộ phẩm này.
(Sao) Giá Na hội thượng, chư đại Thanh Văn, bất kiến Phật giả, dĩ thiện căn bất đồng cố, bổn bất tu tập kiến Phật tự tại thiện căn cố. Cố tri chấp trì danh hiệu, nguyện kiến Di Đà, thành đa thiện căn, đại thiện căn, tối thắng thiện căn, bất khả tư nghị thiện căn dã.
(鈔)遮那會上,諸大聲聞,不見佛者,以善根不同故,本不修習見佛自在善根故。故知執持名號,願見彌陀,誠多善根、大善根、最勝善根、不可思議善根也。
(Sao: Trong hội Giá Na, các vị đại Thanh Văn chẳng thấy Phật là vì thiện căn khác nhau, vốn là do họ chẳng tu tập thiện căn tự tại thấy Phật. Vì thế biết là chấp trì danh hiệu, nguyện thấy Di Đà, tạo thành nhiều thiện căn, thiện căn to lớn, thiện căn thù thắng nhất, thiện căn chẳng thể nghĩ bàn).
Dẫn kinh Hoa Nghiêm để chứng minh. Phẩm cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm có nói, Giá Na là Tỳ Lô Giá Na Phật, tức Pháp Thân Phật trong hội Hoa Nghiêm. “Chư đại Thanh Văn” chẳng thấy, chẳng nghe, do nguyên nhân gì? Thiện căn ít, phước đức ít. Chỉ có bốn mươi mốt vị Pháp Thân đại sĩ thấy Phật, nghe lời Phật dạy. Đấy là do thiện căn bất đồng. Vì sao họ ít thiện căn, ít phước đức? “Bổn bất tu tập kiến Phật tự tại thiện căn cố” (Do họ vốn chẳng tu tập thiện căn tự tại thấy Phật). Nói cách khác, trong vô lượng kiếp, họ đời đời học Phật, nhưng chẳng tu pháp môn này. Pháp môn gì vậy? Pháp môn chấp trì danh hiệu, tức là pháp môn Niệm Phật, họ chẳng niệm Phật.
Người tham Thiền không niệm Phật, người nghiên cứu Giáo chẳng niệm Phật, cho nên thiện căn và phước đức ít ỏi. Rõ rệt nhất, tôi nêu trường hợp của thầy trò pháp sư Đế Nhàn, quý vị sẽ thấy ngay. Đồ đệ niệm Phật, thầy mỗi ngày lo nghiên cứu kinh điển, giảng kinh, thuyết pháp; do vậy, thiện căn và phước đức của thầy chẳng bằng trò. Đồ đệ niệm ba năm vượt trỗi thầy. Pháp sư Đế Nhàn hiện thân thuyết pháp cho chúng ta thấy, chuyện này chẳng được coi là cách xa chúng ta cho lắm, là chuyện thuộc thời đầu Dân Quốc, cách chúng ta bất quá năm mươi năm mà thôi. Đó là chuyện thật. Vì thế, biết nói chẳng bằng biết nghe, thật vậy đấy! Người biết nói chẳng đạt được lợi ích chân thật, người biết nghe bèn đạt được, bèn thành tựu. Hôm nay chúng tôi giảng tới chỗ này.
A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
Quyển VII hết
[1] “Tả hữu phùng nguyên” (左右逢源) là một thành ngữ xuất phát từ thiên Lâu Lan Hạ trong sách Mạnh Tử. Câu nói này nguyên gốc là “tư chi thâm, tắc thủ chi tả hữu phùng nguyên”. Theo các nhà chú giải, Nguyên là nguồn nước, “tả hữu phùng nguyên” nghĩa là đến nơi đâu cũng đều tìm được nguồn nước sung túc, nên rất thoải mái. Do đó, nếu hiểu theo nghĩa bóng, câu nói ấy nhằm diễn tả ý nghĩa: Công phu đã đạt đến mức độ sâu chắc, mọi việc đều thuận theo lòng muốn mà hành xử, nghĩ đâu làm đúng đó, chẳng gặp trở ngại gì. Nhà Thiền dùng thành ngữ này nhằm diễn tả cảnh giới của bậc đã chứng nhập, đối với bất cứ pháp nào cũng đều thấu hiểu thể tánh của nó, vận dụng vô ngại, pháp nào vào trong tay họ cũng đều là phương tiện để phô diễn Chân Như chẳng trở ngại.
[2] Phệ Lưu Ly là cách phiên âm khác của chữ Tỳ Lưu Ly (Vaidūrya), chữ này còn được phiên âm là Bệ Đầu Lê, Bệ Trù Lê Dạ, hoặc gọi tắt là Lưu Ly, là một loại ngọc trong suốt, có màu xanh thẫm, được xếp vào trong thất bảo.
[3] Bộ sách này có tên gọi đầy đủ là Lăng Nghiêm Kinh Nghĩa Sớ Thích Yếu Sao, gồm sáu quyển, do ngài Hoài Viễn viết vào đời Tống.
[4] Ở đây, 4x60x900=216.000, tức là hai mươi mốt vạn sáu ngàn lần, hai cái mười vạn tám ngàn lần là hai mươi mốt vạn sáu ngàn lần.
[5] Bộ luận này có tên gọi đầy đủ là Tịnh Độ Sanh Vô Sanh Luận do ngài U Khê Truyền Đăng soạn vào đời Minh, xiển minh giáo nghĩa “sanh mà vô sanh, vô sanh mà sanh” trong Tịnh Độ. Cùng với các bộ Tịnh Độ Thập Nghi Luận và Niệm Phật Tam Muội Bảo Vương Luận, được gọi chung là Tịnh Độ Tam Luận, rất được coi trọng.
[6] Thái Cực (太極) là từ ngữ để chỉ trạng thái nguyên thủy tối sơ của vũ trụ, còn được hiểu là thời kỳ sau lúc Âm Dương hỗn độn chưa phân (thường gọi là Vô Cực: 無極), nhưng trước khi vũ trụ hình thành. Lưỡng Nghi là Âm và Dương, nhằm biểu thị sự đối lập trong vũ trụ, như ngày là Dương, đêm là Âm, trời là Dương, đất là Âm v.v… Tứ Tượng chính là Thái Âm, Thái Dương, Thiếu Âm, Thiếu Dương. Bát Quái là Càn, Khôn, Chấn, Cấn, Ly, Khảm, Đoài, Tốn. Mỗi Quái (thường gọi nôm na là Quẻ) gồm có ba vạch nối liền hay đứt ở giữa, mỗi vạch ấy gọi là một Hào (爻). Có thể hiểu thô thiển là Bát Quái tượng trưng cho mối quan hệ sinh thành giữa Âm và Dương mà tạo thành tám loại hình thể và cấu trúc tổng quát của vạn vật trong vũ trụ. Từ đó, họ mở rộng ra và gán mọi vật trong vũ trụ đều thuộc về một trong Bát Quái. Chẳng hạn quẻ Càn tượng trưng cho trời, có tánh chất mạnh mẽ, biểu thị người cha trong gia đình, là biểu trưng của loài ngựa, là cái đầu trong thân thể, là não trong các nội tạng, thuộc về phương Nam, là Kim trong Ngũ Hành, là Thuần Dương. Quẻ Chấn là sấm, có tánh chất chấn động, là trưởng nam trong gia đình, là rồng trong loài vật, là chân trong thân thể, là tim trong nội tạng, thuộc phương Đông Bắc, là Mộc trong Ngũ Hành v.v… Để dễ nhớ hình tượng của Bát Quái, trong sách Châu Dịch Bổn Nghĩa, Châu Hy đã viết: “Càn tam liên, Khôn lục đoạn, Chấn ngưỡng vu, Cấn phúc oản, Ly trung hư, Khảm trung mãn, Đoài thượng khuyết, Tốn hạ đoạn” (Càn ba liền, Khôn sáu đứt, Chấn chén ngửa, Cấn bát úp, Ly giữa rỗng, Khảm giữa đầy, Đoài trên khuyết, Tốn dưới đứt), có nghĩa là: Quẻ Càn gồm ba vạch nối liền, Khôn là ba vạch đều đứt (nên tạo thành sáu vạch nhỏ), Chấn thì hai vạch trên cùng đứt, vạch dưới nối liền, trông như cái chén lật ngửa, Cấn thì vạch trên nối liền, hai vạch dưới đứt, giống như cái bát úp xuống. Quẻ Ly vạch chính giữa đứt, hai vạch trên và dưới liền. Quẻ Khảm thì vạch chính giữa liền, vạch trên và dưới đứt. Quẻ Đoài thì vạch trên đứt, hai vạch dưới liền. Quẻ Tốn thì hai vạch trên đều liền, vạch dưới cùng đứt đoạn. Tam Tài là Thiên, Địa, Nhân.
[7] Chúng tôi dịch câu này theo cách diễn giải trong sách Châu Tử Ngữ Loại: “Tinh Khí vi vật, thị hợp Tinh dữ Khí nhi thành vật. Tinh phách nhi Khí hồn dã. Biến tắc thị hồn phách tương ly. Tuy độc thuyết Du Hồn, nhi bất ngôn phách, nhi ly phách chi ý tự khả kiến hỹ… Lâm An Khanh vấn ‘Tinh Khí vi vật, du hồn vi biến’, viết: Thử thị lưỡng cá hợp, nhất cá ly. Tinh Khí hợp, tắc hồn phách ngưng kết nhi vi Vật. Ly tắc Dương dĩ tán nhi Âm vô sở quy, cố vi Biến. Tinh, Âm dã. Khí, Dương dã. Nhân giả kiến chi vị chi nhân, trí giả kiến chi vị chi trí. Nhân, Dương dã. Trí, Âm dã” (Tạm dịch: “Tinh Khí vi vật” là hợp Tinh và Khí thành vật. Tinh là phách, Khí là hồn. Biến là hồn và phách tách rời. Tuy chỉ nói đến Du Hồn, chẳng nói đến phách, nhưng ý nghĩa “lìa phách” có thể tự thấy được… Lâm An Khanh hỏi về chuyện “tinh khí vi vật, du hồn vi biến”, bèn nói: “Đó là hai thứ hợp lại, một thứ tách lìa. Tinh và Khí hợp lại, hồn phách bèn ngưng kết thành vật. Hễ lìa thì Dương đã phiêu tán, Âm không có chỗ nào để trở về, nên là Biến. [Trong câu] “Tinh Khí vi vật”, Tinh là Âm, Khí là Dương. Người nhân thấy là nhân, người trí thấy là trí, Nhân là Dương, Trí là Âm).
[8] Số Luận (Sāṃkhya) là một trong sáu học phái được coi là chính thống của Ấn Độ Giáo, đồng thời là một trường phái triết học xa xưa của Ấn Độ. Học phái này được coi là do Kapila lập ra. Trường phái này nhấn mạnh quan niệm nhị nguyên. Họ cho rằng vũ trụ bao gồm hai thực thể Bốc Lô Sa (Puruṣa, tinh thần tối cao, thần ngã) và Nguyên Chất (Prakriti, vật chất nguyên thủy). Từ đó phát sanh hai mươi lăm Tát Đỏa (Tattvas, chân lý).
[9] Sáu thô tướng là:
1) Trí Tướng: Chẳng thể hiểu rõ cảnh giới được hiện bởi thức chính là huyễn ảnh của tự thức, lầm lạc phát sanh “trí huệ” phân biệt các pháp. Đây là Pháp Chấp bẩm sinh.
2) Tương Tục Tướng: Do trí tướng phân biệt, đối với cảnh yêu thích, sanh cảm giác vui sướng. Đối với cảnh không yêu thích, sanh cảm giác khổ sở, dẫn khởi đủ thứ mê vọng tiếp nối chẳng ngừng.
3) Chấp Thủ Tướng: Chẳng hiểu rõ những cảnh khổ, lạc v.v… là hư vọng, chẳng thật, thường duyên niệm những cảnh giới ấy, nắm níu khổ, vui, sanh tâm chấp trước.
4) Kế Danh Tự Tướng: Do những nỗi điên đảo trên đây, bèn gán ghép tên gọi cho những cảnh giới mà chính mình đã chấp trước, so đo, phân biệt.
5) Khởi Nghiệp Tướng: Chấp trước tên gọi, so đo rồi dấy động các nghiệp thiện ác nơi thân, khẩu, ý.
6) Nghiệp Hệ Khổ Tướng: Do nghiệp thiện ác mà cảm lấy khổ quả sanh tử, chẳng được tự tại.
[10] Năm Tâm Sở thuộc loại biến hành là Tác Ý, Xúc, Thọ, Tưởng, Tư. Biến (遍) có nghĩa là trọn khắp, không đâu chẳng đến, Hành (行) chính là tâm vận hành. Lại còn có bốn ý nghĩa trọn khắp: Trọn khắp hết thảy các pháp thiện ác, trọn khắp hết thảy tam giới cửu địa, trọn khắp hết thảy thời gian dài ngắn, trọn khắp hết thảy các thức.
[11] Duy Thức Luận được nói ở đây chính là bộ Thành Duy Thức Luận của ngài Huyền Trang biên soạn nhằm giải thích bộ Duy Thức Tam Thập Tụng (Triṃśikā Vijñaptimātratā) của ngài Thế Thân. Ngài Huyền Trang đã dùng tác phẩm chú giải của ngài Hộ Pháp làm luận điểm chánh yếu và tổng hợp những giáo thuyết của mười đại luận sư khác để biên soạn tác phẩm này.
[12] Đây là cách gọi châm biếm người ăn mày. Do người ăn mày rách rưới quần áo vá chằng vá đụp bằng đủ thứ vải nhặt nhạnh được nên trông loang lổ, nhiều màu. Hơn nữa, họ còn bị ghẻ lở, hay bôi thuốc lam nham như “trổ hoa”.
[13] Nguyên văn “tha nê đới thủy” (拖泥帶水: lội bùn, dầm nước, hình dung kẻ đi trên con đường lầy lội, càng sợ bẩn, càng rón rén, càng dính đẫm bùn, ướt nước), còn nói là “hòa nê hợp thủy” (和泥合水: khuấy bùn vào nước), là một thuật ngữ chuyên dụng trong Phật giáo, hàm ý chẳng thể gạt sạch triền phược, chẳng thể dứt khoát dũng mãnh đoạn trừ. Từ ngữ này thường được sử dụng rất phổ biến trong nhà Thiền để phê phán những kẻ do dự, chẳng quả quyết, chẳng dũng mãnh gạt bỏ triền phược để đốn siêu trực nhập, hay nói cách khác là chẳng “đơn đao trực nhập”.
[14] Cụ Lý Bỉnh Nam chơi chữ. Chữ Hảo là tốt, và chữ Háo (ham chuộng) viết cùng
một chữ, chỉ có giọng đọc khác nhau. “Hảo nhân hảo sự” (Người tốt, việc tốt) được cụ đọc thành “hảo nhân háo sự” (người tốt ham bới ra chuyện này nọ).
[15] “Độc đầu ý thức” (獨頭意識) là thuật ngữ hàm ý: Ý thức chẳng cùng sanh khởi với năm thức trước, mà là sanh khởi độc lập. Nói cách khác, khi năm căn tiếp xúc năm trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc) sanh khởi năm thức, năm thức ấy lại chuyển các hình bóng của tiền trần cho ý thức phân biệt, lưu giữ ấn tượng trong A Lại Da. Ý thức kiểu đó chẳng phải là độc đầu. Độc đầu ý thức chỉ duyên với pháp cảnh, tức hình ảnh của pháp trần. Độc đầu ý thức gồm bốn loại:
1) Mộng trung độc đầu ý thức: Khi nằm ngủ, ý thức phan duyên cảnh giới trong mộng, sanh ra ý thức. So trong tam lượng, cảnh trong mộng được xếp vào phi lượng (chẳng thuộc trong tam lượng).
2) Định trung độc đầu ý thức: Khi Thiền Định, cảnh giới trong thiền định khiến ý thức sanh khởi, loại này chỉ thuộc vào hiện lượng.
3) Tán vị độc đầu ý thức: Chẳng phải là mộng mà cũng chẳng phải là trong định, chẳng duyên theo cảnh của năm thức trước. Trong tình huống bình thường, tâm tán loạn dấy lên, ý thức rong ruổi, trước sau, xưa nay, chợt nghĩ nọ, nghĩ kia, loạn tưởng chẳng ngừng thì gọi là tán vị độc đầu ý thức. Nói cách khác, tán vị độc dầu ý thức chính là vọng tưởng.
4) Cuồng loạn độc đầu ý thức: Khi con người điên đảo, hoặc thần kinh thác loạn, thường tự nói, tự kể, thậm chí hoa chân múa tay, nói năng lộn xộn, ý thức khi ấy được gọi là cuồng loạn độc đầu ý thức.
[16] Ngài Tú Châu Trường Thủy Tử Tuyền (965-1038), tự là Trọng Vi, hiệu Trường Thủy, là cao tăng thuộc tông Hoa Nghiêm, sống vào đời Bắc Tống, họ ngoài đời là Trịnh. Năm chín tuổi, xin xuất gia với ngài Khế Tông chùa Phổ Huệ, học tập kinh Lăng Nghiêm. Năm mười hai tuổi, thọ giới Sa Di. Trong niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc, ngài đến chùa Linh Quang thuộc Tú Châu, theo học kinh Lăng Nghiêm với ngài Mẫn Huệ, được ngài Mẫn Huệ phó pháp. Về sau, Sư đến tham phỏng ngài Huệ Giác núi Lang Gia, hoảng nhiên đại ngộ, xin làm thị giả. Ngài Huệ Giác thấy tông Hoa Nghiêm đã suy vi, bèn phó chúc Sư chấn hưng. Ngài bèn vâng lời lui về học Hoa Nghiêm, tham cứu sâu xa huyền chỉ. Về sau, Sư trụ tại chùa Trường Thủy, chuyên giảng Hoa Nghiêm và Lăng Nghiêm, trong đời Ngài đã giảng kinh Lăng Nghiêm hơn ba mươi lần. Năm Thiên Thánh thứ tám (1030), đại sư soạn Lăng Nghiêm Nghĩa Sớ hai mươi quyển (đây chính là bộ sách thường được gọi là Lăng Nghiêm Trường Thủy Sớ), Kim Cang Bát Nhã Kinh Toản Yếu Khoa (một quyển), Khởi Tín Luận Bút Sao Ký (hai mươi quyển). Ngài còn giảng Hạnh Nguyện Sao, Pháp Giới Quán, Viên Giác Kinh, Thập Lục Quán Kinh mấy chục hội. Năm Đại Trung Tường Phù nguyên niên (1013), triều đình ban tặng sư áo ca-sa tía và tước hiệu Trường Thủy Sớ Chủ Lăng Nghiêm Đại Sư. Trước khi Hoa Lục rơi vào tay Mao Trạch Đông, huyện Gia Hưng, tỉnh Chiết Giang còn có chùa Lăng Nghiêm. Đây chính là nơi Ngài từng ở để viết chú giải kinh Lăng Nghiêm. Trong chùa có ngôi điện Vũ Hoa Đường, theo truyền thuyết, khi Ngài viết chú giải, chư thiên rải hoa cúng dường, nên ngôi điện ấy có tên như vậy. Năm 1935, Thái Hư đại sư từng giảng Lăng Nghiêm Kinh Đại Ý tại nơi này.
[17] Bắc Đầu (北投) là khu hành chính thuộc cực Bắc thành phố Đài Bắc, nổi danh với suối nước nóng Bắc Đầu. Thoạt đầu, khu này là nơi ở của dân thiểu số Bình Phố. Đến thời Khang Hy, người Hán mới đến cư trụ tại đây. Mãi đến năm 1920, chính quyền mới thiết lập đường sá và trở thành một khu vực thịnh vượng. Trong khi đó, chùa Thiện Đạo nằm ở trên đường Trung Hiếu, thuộc khu Trung Chánh (gần về cực Nam của Đài Bắc). Chùa Thiện Đạo vốn có tên là Tịnh Độ Tông Đài Bắc Biệt Viện, được thành lập vào thời Nhật chiếm đóng Đài Loan (nhằm năm Minh Trị Thiên Hoàng thứ hai mươi lăm, tức năm 1895), trực thuộc Tịnh Độ Tông Tri Ân Viện (Jōdo-shū Chion-in) của Nhật Bản, có vai trò quản trị toàn bộ các hệ thống chùa miếu thuộc hệ thống Tịnh Độ Tông Nhật Bản tại Đài Loan. Năm Chiêu Hòa Nguyên Niên (1926), do các vật liệu xây dựng đã cũ, bèn dời đến địa điểm mới tại Hoa Sơn Đinh, xây dựng hoàn toàn mới (vì thế, tài liệu của sở du lịch Đài Loan nói chùa Thiện Đạo được xây dựng vào năm 1926, tức là đã hoàn toàn bỏ qua giai đoạn chùa được dùng làm tổng bổn sơn bố giáo của Tịnh Độ Tông Nhật Bản tại Đài Loan). Năm 1937, chùa được xây cất lại bằng vật liệu bê tông cốt sắt giả gỗ. Năm 1945, Nhật chiến bại phải rút khỏi Đài Loan, chánh quyền Trung Hoa Dân Quốc giao cho ông Lý Tử Khoan tiếp quản vào năm 1948. Lý Tử Khoan đã mời các vị Đại Tỉnh, Chương Gia, Nam Đình, Ấn Thuận lần lượt làm Đương Gia Sư từ năm 1948 đến năm 1957. Năm 1967, pháp sư Diễn Bồi được mời làm Trụ Trì từ năm 1957. Do là một ngôi chùa lớn, giàu có, thành phần đổng sự toàn là nhân vật tai to mặt lớn trong chính quyền, nhân sự phức tạp, lắm chuyện bè phái tranh chấp, giám viện sư chuyên quyền, pháp sư Diễn Bồi đành gắng gượng làm Trụ Trì ba năm rồi kiên quyết từ nhiệm. Các vị đại cư sĩ khẩn thỉnh Ngài lưu lại, thậm chí lão cư sĩ Hằng Dịch Triệu Di Niên đã tám mươi mấy tuổi đắp y đảnh lễ, khóc ròng van nài, nhưng thấy tình thế không thể nào giải quyết được, pháp sư Diễn Bồi kiên quyết thoái lui.
[18] Mười thân của Như Lai là Bồ Đề thân, nguyện thân, hóa thân, trụ trì thân, tướng hảo trang nghiêm thân, thế lực thân, như ý thân, phước đức thân, trí thân và pháp thân.
[19] “Cách thiên” (Cảm thông với trời) là một thành ngữ phát xuất từ một câu nói trong thiên Quân Thích của sách Thượng Thư: “Tại tích Thành Thang ký thọ mạng, thời tắc hữu nhược Y Doãn, cách ư hoàng thiên” (Khi xưa, Thành Thang đã nhận mạng [lên ngôi thiên tử], lúc đó, bèn có những người như Y Doãn có thể cảm thông với trời cao). Đôi khi còn nói là “cách thiên triệt địa” (thấu trời thông đất).
[20] “Diện môn” có ba cách hiểu: Một là miệng, hai là toàn bộ khuôn mặt, ba là khoảng giữa mũi và miệng. Cách hiểu thứ nhất căn cứ theo kinh Hoa Nghiêm bản dịch đời Đường: “Tức ư diện môn chúng xỉ chi gian, phóng Phật sát vi trần số quang minh” (Từ nơi răng trong miệng, tỏa ra quang minh nhiều như số vi trần trong một cõi Phật). Cách hiểu thứ hai phổ biến nhất.
[21] Bạch hào (Ūrṇā) chính là sợi lông trắng dài cuộn tròn ở giữa hai chân mày đức Phật, thường được biểu thị bằng một viên thủy tinh hoặc ngọc gắn chính giữa trán tượng Phật. Theo kinh Quán Phật Tướng Hải, lúc sơ sanh, bạch hào dài năm thước, cuộn tròn theo chiều phải. Khi thành đạo, bạch hào dài một trượng bốn thước năm tấc. Kéo thẳng ra, sợi lông ấy trong suốt, sáng lóng lánh. Buông ra, lông tự động cuộn tròn lại theo chiều bên phải, trông như bạch ngọc. Khi đức Phật giảng kinh thuộc về giáo pháp viên thật, bèn phóng quang từ bạch hào. Sách Thám Huyền Ký giảng: “Tướng bạch hào giữa hai mày biểu thị pháp Trung Đạo Nhất Thừa, bạch hào biểu thị sự chứng đạo nơi pháp bạch tịnh. Hơn nữa, màu trắng là màu gốc của các sắc, vì thế, [bạch hào] biểu thị pháp Nhất Thừa là nguồn cội của các giáo”.
[22] Do nêu đầy đủ các thứ quang minh ấy sẽ rất rườm rà, xin trích một vài bài kệ trong phẩm ấy như sau: “Hựu thắng tam-muội danh An Lạc, năng phổ cứu độ chư quần sanh, phóng đại quang minh bất tư nghị, linh kỳ kiến giả tất điều phục. Sở phóng quang minh danh Thiện Hiện. Nhược hữu chúng sanh ngộ thử quang, tất linh hoạch ích bất đường quyên, nhân thị tắc thành Vô Thượng Trí. Bỉ quang thị hiện ư chư Phật, thị Pháp, thị Tăng, thị chánh đạo. Diệc thị Phật tháp cập hình tượng. Thị cố đắc thành thử quang minh. Hựu phóng quang minh danh Chiếu Diệu, ánh tế nhất thiết chư thiên quang. Sở hữu ám chướng mỵ bất trừ, phổ vị chúng sanh tác nhiêu ích. Thử quang giác ngộ nhất thiết chúng, linh chấp đăng minh cúng dường Phật. Dĩ đăng cúng dường chư Phật cố, đắc thành thế trung vô thượng đăng. Nhiên chư du đăng cập tô đăng, diệc nhiên chủng chủng chư minh cự, chúng hương, diệu dược, thượng bảo chúc, dĩ thị cúng Phật hoạch thử quang. Hựu phóng quang minh danh Tế Độ, thử quang năng giác nhất thiết chúng, linh kỳ phổ phát đại thệ tâm, độ thoát dục hải chư quần sanh. Nhược năng phổ phát đại thệ tâm, độ thoát dục hải chư quần sanh, tắc năng việt độ tứ bộc lưu, thị đạo vô ưu giải thoát thành. Ư chư hành lộ, đại thủy xứ, tạo lập kiều lương cập thuyền phiệt, hủy ta hữu vi, tán tịch tĩnh, thị cố đắc thành thử quang minh” (Có tam-muội quý tên An Lạc, hay cứu độ khắp các quần sanh, phóng đại quang minh chẳng nghĩ bàn, khiến kẻ trông thấy đều điều phục. Quang minh vừa phóng tên Thiện Hiện. Nếu có chúng sanh gặp quang ấy, đều được lợi ích, chẳng luống uổng. Do vậy, đắc thành Vô Thượng Trí. Quang ấy thị hiện nơi chư Phật, nêu Pháp, nêu Tăng, nêu chánh đạo, phô bày tháp Phật và hình tượng. Vì thế, được thành quang minh này. Lại phóng quang minh tên Chiếu Diệu, chói lấp hết thảy các thiên quang. Tất cả ám chướng thảy đều trừ, khắp vì chúng sanh tạo lợi lạc. Quang ấy giác ngộ hết thảy chúng, khiến họ cầm đèn cúng dường Phật. Do cúng đèn lên chư Phật, thành đèn vô thượng trong cõi đời. Thắp các đèn dầu, đèn đốt bơ, cũng thắp các thứ đuốc chiếu sáng, các hương, thuốc tốt và đuốc báu, do cúng Phật được quang minh này. Lại phóng quang minh tên Tế Độ. Quang ấy giác ngộ hết thảy chúng, khiến họ đều phát tâm đại thệ. Độ thoát quần sanh trong biển dục, nếu hay phát trọn đại thệ tâm, độ thoát quần sanh trong biển dục, ắt vượt bốn dòng thác cuồn cuộn, dẫn đến vô ưu giải thoát thành. Nơi các đường sá, chỗ nước to, tạo lập cầu cống và thuyền mảng, chê bai hữu vi, khen tịch tĩnh. Do vậy được thành quang minh này).
[23] Sách Giáo Thừa Pháp Số gồm 40 quyển do ngài Viên Tịnh biên tập tại Cối Kê. Ngài Thích Viên Tịnh, tự là Tâm Nguyên, không rõ thân thế, xuất gia từ bé, theo học với ngài Vũ Ông tại chùa Thiên Trúc, Hàng Châu. Trong niên hiệu Tuyên Đức (1426-1435), Ngài từng giữ chức Tăng Lục Ty Hữu Thiện Thế. Sách Giáo Thừa Pháp Số biên soạn theo ý tưởng của bộ Chư Thừa Pháp Số (do ngài Hành Thâm biên soạn vào đời Minh, thường gọi là Hoa Nghiêm Pháp Số), nhưng lấy giáo nghĩa Thiên Thai làm chủ. Sách gồm ba ngàn một trăm sáu mươi hai hạng mục. Lời giải thích cặn kẽ, tường tận, rất hữu ích cho người tham cứu. Điểm đặc biệt là tuy sách lấy giáo nghĩa tông Thiên Thai làm chủ để giải thích danh tướng pháp số, nhưng vẫn trích dẫn rộng rãi kinh luận của Tam Luận, Duy Thức, Hoa Nghiêm, Thiền, Tịnh Độ, Luật và Mật, kể cả những sách vở liên quan của Nho và Đạo.
[24] Lẫm Sinh, còn gọi là Lẫm Thiện Sinh, đôi khi còn gọi là Tú Tài, hoặc Sinh Viên, thường là những người đã đỗ thi Hương, đủ tư cách nhập học trường của phủ, châu, huyện; nhưng tùy theo xuất thân mà cách gọi hơi khác. Chẳng hạn như người thi đỗ vào trường do phủ, châu, huyện thành lập thì gọi là Tường Sinh. Dưới thời Minh – Thanh, nếu đỗ khoa thi Minh Kinh trong kỳ thi Hương, vào học Quốc Tử Giám thì gọi là Cống Sinh (khác với Cống Sĩ. Cống Sĩ là người đã đậu Cử Nhân, đỗ khoa thi Hội, đủ tư cách vào kỳ thi Đình, ta gọi là ông Cống, trong khi người đỗ kỳ thi Đình là Tiến Sĩ, gọi nôm na là ông Nghè. Còn Cống Sinh sau khi đã vào học trường Quốc Tử Giám thường gọi là Giám Sinh). Dưới thời Minh – Thanh, địa vị của Lẫm Sinh khá cao, họ được coi là đã dự vào hàng ngũ sĩ đại phu (dân khoa bảng), được coi là hàng thân sĩ tại địa phương, không phải làm việc lao dịch do nhà nước hoặc làng xã cắt đặt, gặp Tri Huyện chỉ vái chào, không phải quỳ. Nếu bị dính vào chuyện thưa kiện, Tri Huyện không được tùy tiện dùng hình cụ tra khảo họ. Nếu có chứng cớ phạm tội rõ ràng, phải chuyển lên các tòa án cao hơn để xét xử. Nếu có chuyện cần thiết, Lẫm Sinh có thể đến gặp thẳng Tri Huyện không cần phải có đơn từ tấu trình. Cũng trong thời này, Lẫm Sinh nhiều khi chưa đỗ khoa thi Hương mà chỉ trúng tuyển các kỳ Tuế Khảo (khoa thi hằng năm) của quận huyện, nhưng thành tích, phẩm hạnh ưu tú, nên vẫn được coi như hàng khoa bảng. Trong các triều đại, Lẫm Sinh được quốc gia trợ cấp lương bổng (trong khi Tú Tài thông thường không được châu, huyện cấp lương thực).
[25] Theo Quán Phật Tướng Hải Tam Muội Kinh, quyển sáu: Tại thành Xá Vệ, có trưởng giả Tu Đạt Đa giàu có bậc nhất, thường phát tâm cúng dường tăng đoàn. Hễ tăng chúng cần gì, cứ đến xin, ông ta đều châu cấp. Trưởng giả có một bà lão đầy tớ già, tính tình cẩn thận, siêng năng, tên là Tỳ Chi La. Do vậy, trưởng giả giao cho bà ta cầm chìa khóa nhà kho, quản lý mọi thứ xuất nhập. Do lòng keo tham, bà này tiếc của, oán ghét Phật và tăng chúng, xua đuổi chư tỳ-kheo, nói lời thô ác: “Ta nguyện chẳng nghe tên gọi Phật và Tăng, chẳng muốn thấy kẻ cạo đầu, đắp y nhuộm”. Tiếng ác đồn khắp thành Xá Vệ. Phu nhân Mạt Lợi (vợ vua Ba Tư Nặc) thương xót, muốn độ bà ta, nên bảo bà ta vào cung giúp hoàng gia làm cỗ cúng dường khách quý. Bà ta hoan hỷ vào cung, nào ngờ hoàng gia thỉnh Phật đến thọ trai. Bà ta thấy đức Phật, vừa sợ vừa tức: “Kẻ ác này đuổi theo ta đến tận đây”, bèn chui lỗ chó để trốn, nào ngờ lỗ chó bịt kín. Chạy vào ngõ nhỏ, ngõ nhỏ cũng bịt kín. Bà ta liền bịt mắt, che mặt để khỏi thấy Phật, nhưng Phật vẫn hiện rõ mồn một. Bà ta quay đầu rảo chạy, chạy khắp bốn phương đều thấy Phật trước mặt. Ngửa mặt lên trời cũng thấy Phật, cúi gằm đầu xuống đất cũng thấy Phật. Hết cách, bà ta chạy về nhà, chui vào một cái lồng gỗ to để trốn, sai người phủ một trăm tấm da lên, lại dùng bạch chiên phủ kín đầu, vẫn trông thấy Phật, bèn khổ não, khóc ròng. Đức Phật bảo phu nhân Mạt Lợi: “Chỉ có La Hầu La có đại nhân duyên là độ được bà này”, liền sai La Hầu La đi hóa độ. Một ngàn hai trăm năm mươi vị sa-môn hiếu kỳ cũng xin đi theo. Ngài La Hầu La nhập Như Ý Định, lễ bái đức Phật, đi nhiễu quanh Phật bảy vòng, hóa thành Chuyển Luân Thánh Vương đến nhà Tu Đạt. Ngài A Nan hóa làm thần coi kho, Nan Đà hóa làm vị nguyên soái, một ngàn hai trăm năm mươi vị tỳ-kheo bèn hóa làm con trai của Luân Vương. Đoàn người rầm rộ tiến đến nhà Tu Đạt. Bà lão nghe tiếng Thánh Vương xuất hiện, từ trong lồng chui ra, lễ bái, hoan hỷ. Vị thần coi kho lên tiếng chúc mừng, ca ngợi bà ta có phước báo, đã được Luân Vương chọn làm Bảo Nữ. Bà ta hổ thẹn, nói: “Con hèn hạ, xấu xí như phân nhơ, được thánh vương ghé mắt nhìn tới, đã hoan hỷ vô lượng, há dám làm Bảo Nữ”. Thánh Vương cầm ngọc như ý chiếu vào mặt, khiến bà ta trông như Bảo Nữ thật sự. Bà ta hoan hỷ lễ bái. Thừa dịp, vị thần coi kho (A Nan) thuyết pháp Thập Thiện, bà ta nghe xong, đại hoan hỷ: “Thánh vương nói năng chẳng có nghĩa nào bất thiện”, tự trách lỗi mình, tâm được điều phục. La Hầu La và chư tăng hiện lại hình ban đầu, truyền thọ Tam Quy Ngũ Giới. Bà lão do nghe pháp bèn chứng quả Tu Đà Hoàn. Theo ngài La Hầu La trở về Kỳ Viên, thấy Phật, sám hối, đảnh lễ, xin xuất gia. Đức Phật bảo bà ta hãy đến học với ni trưởng Kiều Đàm Di (Gautami, tức di mẫu của đức Phật). Trên đường đi, ngài La Hầu La lại nói các pháp khổ, không, vô thường v.v… bà ta nghe xong, tóc rụng sạch, thành tỳ-kheo-ni, chứng Tam Minh, Lục Thông v.v… Đức Phật liền giảng cho các tỳ-kheo biết nhân duyên: Trong quá khứ, bà lão là một vương tử, tên là Khoái Kiến, theo một vị tăng xuất gia. Vị tăng ấy là tiền thân của ngài La Hầu La. Thuở ấy, đức Phật là tỳ-kheo Đức Hoa Quang khéo thuyết pháp Đại Thừa. Vương tử do kiêu ngạo, không hiểu nghĩa sâu nên phỉ báng Đức Hoa Quang, chỉ tin tưởng vị thầy của mình. Do đó, chết đi đọa trong địa ngục tám mươi ức kiếp. Sau đó, được thoát ra làm kẻ nghèo hèn, trong năm trăm đời điếc đặc, khùng điên, không có mắt, một ngàn hai trăm đời luôn làm đầy tớ người khác. Do nhân duyên quá khứ, chỉ có ngài La Hầu La độ được bà ta trong đời này khi nhân duyên đã chín muồi.
[26] Viên tường: Tường hoặc hàng rào vây quanh một khu vực. Ở đây có nghĩa là tường xây quanh khu vực dành cho nữ nhân ở trong các nhà giàu có.
[27] Hữu lượng chi vô lượng: Nói cách khác, Vô Lượng chính là một con số rất lớn trong một trăm con số lớn của Ấn Độ (A Tăng Kỳ, Vô Lượng, Vô Biên, Bất Khả Tư Nghị, Bất Khả Tư Nghị Chuyển v.v…) Tuy rất lớn, nhưng vẫn là hữu hạn.
“Vô lượng chi vô lượng” là vô lượng thật sự, không thể nào tính đếm và hình dung.
[28] Nói là “Luân Vương nhỏ nhất” vì Luân Vương có bốn loại là Kim Luân Vương, Ngân Luân Vương, Đồng Luân Vương và Thiết Luân Vương. Kim Luân Vương lớn nhất, có phạm vi cai quản rộng nhất; Thiết Luân Vương có phạm vi giáo hóa bé nhất.
[29] Vô Sắc Giới Thiên không có thiên đế.
[30] Ái Hà là một con sông nổi tiếng ở thành phố Cao Hùng (nơi đặt tổng bản sơn của giáo hội Phật Quang Sơn). Sông này còn có tên là Đả Cẩu Xuyên hoặc Cao Hùng Xuyên. Sông này phát xuất từ vùng Nhân Vũ của Cao Hùng, chạy xuyên qua thành phố Cao Hùng trước khi đổ vào vịnh Cao Hùng. Do được chăm sóc kỹ lưỡng, con sông này trở nên nổi tiếng, nhất là kể từ khi hội hoa đăng hằng năm được tổ chức tại đây. Theo truyền thuyết, vào năm 1948, do trận bão thổi qua vùng này, khiến cho tấm bảng hiệu của tiệm cho thuê thuyền Nhân Ái Hà Du Thuyền Sở (tiệm Nhân Ái cho thuê thuyền du lịch trên sông), bị bão đánh nát, chỉ còn sót hai chữ Ái Hà. Sau đó không lâu, có một cặp nam nữ yêu nhau gặp trắc trở bèn trầm mình dưới sông, nên giới ký giả gọi luôn sông Đả Cẩu là Ái Hà.
[31] Thật ra vàng K và vàng pha thủy ngân để sơn phết tượng là hai thứ khác nhau. Vàng và thủy ngân hòa lỏng theo tỷ lệ 1:9, sẽ thành một dung dịch lỏng, thường gọi là “hỗn hống” (混汞), có thể quét lên tượng bằng kim loại, rồi đem nung nhẹ cho thủy ngân bốc hơi, chỉ còn lại vàng. Đó là cách mạ vàng truyền thống. Còn K chính là viết tắt của chữ Karat, tức là đơn vị đo lường dành cho quý kim. Vàng K tức là các loại vàng không thuần, pha thêm các kim loại khác (thường là đồng, bạc, thiếc. Chẳng hạn như “vàng trắng” có tỉ lệ vàng 75%, palladium 10%, kền 10%, thiếc 5%, hoặc chỉ là vàng pha bạch kim). Ta thường nói là vàng 24K, vàng 18K… Thấp nhất là vàng 14K, tức là lượng vàng chỉ chiếm tối đa là 62,5%, trong khi vàng 24K có lượng vàng chiếm đến 99,9%. Chữ Karat là biến thể của chữ Carat (hiện thời, Carat là đơn vị đo lường các loại bảo thạch, ngọc, nhất là kim cương) phát xuất từ chữ Qīrāt trong tiếng Ả Rập. Chữ này lại phát xuất từ chữ Kerátion của tiếng Hy Lạp có nghĩa là hạt Carob (một loại đậu, thường gọi là đậu sừng), vốn là đơn vị đo lường thời cổ. Người ta tin rằng hoàng đế Constantine đệ nhất của Hy Lạp đã cho đúc đồng tiền vàng solidus từ một phần bảy mươi hai của một libra (một pound của La Mã) vàng, có trọng lượng bằng 24 siliqua. Một siliqua chính là tiền thân của cách đo bằng carat về sau này.
[32] Chân Phật Kinh là bản kinh do Liên Sanh Hoạt Phật (danh hiệu tự xưng của Lô Thắng Ngạn, giáo chủ tà giáo Chân Phật Tông tại Đài Loan. Hiện thời, tà phái này có tổng bản sơn là chùa Lôi Tạng tại Seatle, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ), được rất nhiều người Hoa tin theo tại các tiểu bang miền Tây như California, Oregon và Washington. Cái gọi Chân Phật Tông thật ra là một tổng hợp bát nháo của Đạo giáo, Mật Tông Trung Hoa, Mật Tông Tây Tạng và những tín ngưỡng mê tín dân gian. Lô Thắng Ngạn tự xưng mình là Liên Hoa đồng tử từ Tây Phương Cực Lạc thế giới chuyển thế và tự lưu bố bản kinh này với danh xưng Chân Thật Phật Pháp Tiêu Tai Tứ Phước Kinh, nhằm đề cao bản thân Đại Bạch Liên Hoa Đồng Tử (tức là danh hiệu của ông ta tại Tây Phương Cực Lạc thế giới), dạy đệ tử phải trì câu chú “Ông, câu lỗ liên sanh tất địa sa bà ha” (nói cách khác là niệm danh hiệu của chính ông ta). Câu Lỗ là phiên âm của chư Guru (đạo sư), Tất Địa là Siddhi (thành tựu).
[33] Câu này hơi khó hiểu, nên chúng tôi mạn phép ghi thêm như sau: Hòa Thượng có ý nói, nếu nói đến Báo Thân và Ứng Thân thì mới có khái niệm thọ lượng, vì chúng còn thuộc trong vòng ngôn ngữ và suy lường. Nếu nói về Pháp Thân thì không thể nào nói đến thọ hay chẳng thọ, vì nói kiểu nào cũng rơi vào đối đãi nhị biên; bởi lẽ, Pháp Thân là Lý Thể, là Chân Như. Lý Thể Chân Như đã vượt ngoài suy lường, ngôn ngữ.
[34] Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Thọ Ký (do ngài Đàm Vô Kiệt dịch sang chữ Hán) và Phật Thuyết Như Huyễn Tam Ma Địa Vô Lượng Ấn Pháp Môn (do ngài Thi Hộ dịch).
[35] Khái niệm tiên thiên và hậu thiên khá phức tạp, nhưng có thể tạm hiểu thô thiển như sau: Tiên Thiên là bẩm sanh, là những gì được thừa hưởng từ cha mẹ, hình thành từ ngay lúc thụ thai cho đến khi lọt lòng, còn Hậu Thiên là những gì do nuôi nấng, chăm sóc, bồi bổ, huấn luyện, giáo dục, cũng như do sự tự rèn luyện hoặc tàn phá thân thể của chính cá nhân ấy.
[36] Mười con số lớn cuối cùng là 1) A Tăng Kỳ, 2) Vô Lượng, 3) Vô Biên, 4) Vô Đẳng, 5) Bất Khả Số, 6) Bất Khả Xưng, 7) Bất Khả Tư, 8) Bất Khả Lượng, 9) Bất Khả Thuyết, 10) Bất Khả Thuyết Bất Khả Thuyết.
[37] Lạc Xoa (Lakṣá) là một trăm ngàn.
[38] Vô Ương là dịch nghĩa của chữ A Tăng Kỳ. Ở đây, xin chú ý là Hòa Thượng không nói thẳng là A Tăng Kỳ (vì A Tăng Kỳ tuy lớn, vẫn là hữu hạn. Một A Tăng Kỳ là mười lũy thừa 140, tức là sau số một có một trăm bốn mươi con số không, tuy lớn, vẫn là tính đếm được). Vô Ương được dùng theo nghĩa phiếm chỉ là không có hạn lượng, chẳng thể tính toán được.
[39] Xin chú ý, cách tính số đếm theo lối cổ truyền của Trung Hoa hơi khác với cách hiểu thông thường hiện thời. Vạn là mười ngàn, vạn vạn là một ức, tức là 10.000 x 10.000 = 100.000.000. Như vậy một ức của cổ Trung Hoa là một trăm triệu theo cách hiểu thông thường trong hệ thống tính toán Âu Tây. Triệu trong cách đếm cổ truyền của Trung Hoa là một vạn ức, tức là 10.000 x 100.000.000 = 1.000.000.000.000 (một triệu triệu theo cách đếm của Âu Tây).
[40] Kinh Đại Thừa Phương Đẳng Tổng Trì do ngài Tam Tạng Tỳ Ni Đa Lưu Chi dịch vào đời Tùy, gồm một quyển.
[41] Bộ kinh này có tên gọi đầy đủ là Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh, do ngài Phật Đà Bạt Đà La dịch vào thời Đông Tấn. Kinh dạy về cách quán tướng hảo của đức Phật và công đức do sự quán tưởng. Ngoài quán tưởng các tướng hảo nơi Báo Thân, kinh còn dạy cách quán Pháp Thân và phép quán Thật Tướng, cũng như các mẫu chuyện trong đời đức Phật như chuyện bà lão thành Đông tuy ở ngay cạnh Kỳ Viên vẫn không chịu thấy Phật, hoặc các phương tiện độ sanh thiện xảo của đức Phật, như để độ một cô gái xinh đẹp, có tâm tham đắm vẻ đẹp của người nam rất nặng, đức Phật liền dùng thần thông biến hóa ra một hóa nhân đẹp đẽ tuyệt luân đến xin cưới cô ta, và khiến cho cô ta từ thỏa thích dục vọng đâm ra chán ngán, kinh sợ. Đã thế, chàng thanh niên ấy không được thỏa dục bèn tự sát, nhưng vẫn ôm chặt lấy cô ta không chịu rời, khiến cô phải đeo cái xác thối chương phình suốt mấy ngày, nên hiểu rõ thế gian hư huyễn, sắc tướng vô thường, thiện căn trong đời quá khứ do đó phát khởi bèn dốc sức tu tập, trừ sạch tham dục…
[42] Kinh này được ngài Thi Hộ dịch vào năm Thái Bình Hưng Quốc thứ năm (980) đời Tống. Trước đó, kinh này đã được dịch ba lần: Bản đầu tiên có tựa đề là Quang Thế Âm Đại Thế Chí Thọ Quyết Kinh (chữ Quang ở đây là ánh sáng) do ngài Trúc Pháp Hộ dịch trong khoảng niên hiệu Thái Thỉ nhà Tây Tấn. Bản thứ hai là Quán Thế Âm Thọ Ký Kinh do ngài Nhiếp Đạo Chân dịch trong khoảng niên hiệu Thái Khang – Vĩnh Gia nhà Tây Tấn. Hai bản dịch này hiện thời bị tàn khuyết, chỉ dùng để tham khảo. Bản thứ ba do ngài Đàm Vô Kiệt dịch năm Nguyên Gia thứ ba (426) đời Lưu Tống, có tựa đề là Quán Thế Âm Bồ Tát Đắc Đại Thế Bồ Tát Thọ Ký Kinh, thường gọi tắt là Quán Thế Âm Thọ Ký Kinh. Bản này khá đầy đủ và thông dụng hơn bản dịch của ngài Thi Hộ. Kinh nói về nhân địa của A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, và Đại Thế Chí Bồ Tát.
[43] Nhất Hướng Xuất Sanh Bồ Tát Kinh (Anantamukhasā-dhakadhāraṇī-sutra) do ngài Xà Na Quật Đa dịch vào đời Tùy, gồm một quyển. Trong kinh này, đức Phật đã dạy ngài Xá Lợi Phất Vô Biên Môn Đà La Ni. Kinh này còn có một bản dịch khác mang tựa đề A Nan Đà Mục Khư Ni Ha Ly Đà Kinh do ngài Cầu Na Bạt Đà La dịch vào thời Lưu Tống.
[44] Cha ông Bành Tế Thanh là Bành Khải Phong (1701-1784), tự Hàn Văn, hiệu Chi Đình, đỗ Trạng Nguyên năm Ung Chánh thứ năm (1727), giữ chức Hàn Lâm Viện Tu Soạn, rồi giữ chức Hành Tẩu tại Nam Thư Phòng, làm quan đến chức Binh Bộ Thượng Thư. Về sau do tính bộc trực, can vua không kiêng dè, nên nhiều lần bị trách phạt, từng bị giáng chức. Mãi đến năm Càn Long 33 (1768) mới được phục nguyên chức.
[45] Ngài Nam Tuyền Phổ Nguyện (748-834) là một vị thiền sư hữu danh vào giữa đời Đường. Ngài quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu (nay là trấn Tân Trịnh, huyện Khai Phong, tỉnh Hà Nam), họ Vương. Năm mười tuổi, Sư quỳ gối van nài cha mẹ cho phép xuất gia, cha mẹ đành nhượng bộ cho phép Sư theo học với ngài Đại Huệ Hoài Nhượng. Sư siêng năng, chuyên tinh học đạo, thọ Cụ Túc Giới vào năm Đại Lịch 12 (777) tại chùa Hội Thiện ở Tung Sơn, chuyên học Luật theo truyền thống của luật sư Pháp Lệ. Không lâu sau, tham học các nơi nghe giảng các kinh Lăng Già, Hoa Nghiêm v.v… lại còn thông đạt huyền nghĩa của Trung Luận, Bách Luận, Thập Nhị Môn Luận v.v… Về sau, đến tham yết Mã Tổ Đạo Nhất bèn tỉnh ngộ, được Tổ phó pháp. Năm Trinh Quán 11 (795), Sư sáng lập thiền viện Nam Tuyền ở huyện Thang Trì tỉnh An Huy, tự cày cấy nuôi thân, xiển dương Thiền đạo, hơn ba mươi năm chẳng ra khỏi núi. Mãi đến niên hiệu Thái Hòa đời Đường Văn Tông, do nhận lời cầu thỉnh của thái thú Thang Trì, Tuyên Phủ Sứ Lục Hằng, và Hộ Quân Bành Thành Lưu Công, Sư mới xuống núi thâu nhận học trò, thanh danh vang dội, thường được người đương thời xưng tụng là Nam Tuyền Cổ Phật. Có một hôm hai chúng Đông đường và Tây đường tranh luận ồn ào con mèo có Phật tánh hay không, Sư nắm cổ con mèo, bảo đại chúng: “Nếu các ông nói được thì cứu nó. Nếu nói chẳng được, ta sẽ chém chết nó”. Đại chúng không ai đáp được, Sư bèn chém chết con mèo. Vì thế có thành ngữ “Nam Tuyền trảm miêu”. Đến tối, ngài Triệu Châu về tới, đại chúng kể lại, phàn nàn: “Sư huynh có nhà thì đã cứu được con mèo rồi”. Ngài Triệu Châu vào gặp Sư, Sư lặp lại câu hỏi, ngài Triệu Châu bèn tháo dép đội lên đầu bước ra. Sư thị tịch vào năm Thái Hòa thứ tám (834), học trò nối pháp có các vị Triệu Châu Tùng Thẩm, Trường Sa Cảnh Sầm, Tử Hồ Lợi Tung, Đàm Chiếu v.v… hơn mười bảy người.
[46] Thanh giáo: Giáo pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật được gọi là “thanh giáo” vì Ngài dùng âm thanh để thuyết pháp hóa độ, gọi như vậy để phân biệt với các phương pháp hóa độ khác (chẳng hạn trong cõi Hương Tích, dùng cơm thơm để hóa độ).
[47] Theo Phật Học Từ Điển: Dục Giới có mười bốn Hữu (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Tu La, tứ đại châu, sáu tầng trời trong cõi Dục), Sắc Giới có bảy Hữu (Tứ Thiền Thiên, Đại Phạm Thiên, Tịnh Cư Thiên, và Vô Tưởng Thiên), Vô Sắc Giới có bốn Hữu (Tứ Không Xứ Thiên). Tổng cộng là hai mươi lăm Hữu. Như vậy, hai mươi lăm hữu chỉ là tam giới được nói chi tiết.
[48] Theo Thiên Thai Tứ Giáo Nghi Tập Chú, tám mươi tám món Sử là do phối hợp Thập Sử với Tứ Đế và tam giới mà thành. Đối với Dục Giới, Khổ Đế có đủ mười Sử, Tập Đế và Diệt Đế mỗi Đế có bảy Sử (tức là không có Thân Kiến, Biên Kiến, Giới Thủ Kiến), Đạo Đế có tám Sử (tức là không có Thân Kiến và Biên Kiến). Do đó, Tứ Đế trong Dục Giới hợp thành ba mươi hai Sử. Sắc Giới và Vô Sắc Giới số lượng mỗi Sử giống như trong Dục Giới nhưng loại trừ Sân Sử. Do đó, mỗi giới có hai mươi tám Sử. Vì thế, Vô Sắc Giới và Sắc Giới có tất cả năm mươi sáu Sử cộng với ba mươi hai Sử của Dục Giới thành tám mươi tám Sử trong tam giới.
[49] Cũng theo Thiên Thai Tứ Giáo Nghi Tập Chú, coi Dục Giới là một địa, coi từ Sơ Thiền đến Tứ Thiền của Sắc Giới là bốn địa, coi bốn Không Xứ Thiên của Vô Sắc Giới là bốn địa. Do vậy, tam giới có tổng cộng chín địa. Đối với Tư Hoặc (tham, sân, si, mạn), Dục Giới có đủ chín phẩm (thượng thượng, thượng trung, thượng hạ, trung thượng, trung trung, trung hạ, hạ thượng, hạ trung, hạ hạ), tám địa của Sắc Giới và Vô Sắc Giới, mỗi địa cũng đều có đủ chín phẩm, nên chín địa nhân với chín phẩm thành tám mươi mốt phẩm.
[50] Biểu giải: Xếp những khái niệm thành bảng, vẽ các đường mũi tên nối kết nhằm giảng giải quá trình hình thành diễn biến của từng pháp.
[51] Theo Thành Duy Thức Luận, Tứ Gia Hạnh gồm bốn pháp là Noãn Pháp, Đảnh Pháp, Ấn Thuận Nhẫn Pháp và Thế Đệ Nhất Pháp.
[52] Năm vị ấy thường gọi là Ngũ Tỳ Kheo (Pancaka Bhadravargiya, Ngũ Hiền Giả) chính là Kiều Trần Như (Ājñātakauṇḍinya, dịch nghĩa là Liễu Bổn Tế), Bạt Đề (Bhaddiya, dịch nghĩa là Tiểu Hiền), Bạt Ba (Vappa, dịch nghĩa là Bá Chủng), Ma Ha Nam (Mahānāma, dịch nghĩa là Đại Danh), A Thuyết Thị (Assaji, dịch nghĩa là Mã Thắng). Tùy theo cách phiên âm sai khác mà danh hiệu các Ngài được ghi hơi khác nhau trong các kinh luận, như kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả ghi là Kiều Trần Như, Bạt Đà La Xà, Ma Ha Na Ma, Bạt Ba, A Xá Bà Xà; luật Tứ Phần ghi là Kiều Trần Như, Bạt Đề, Ma Ha Na Nam, Bà Phu, A Thấp Tỵ v.v… Ngài Kiều Trần Như thuộc chủng tánh Bà La Môn, tinh thông Phạn điển ngay từ khi còn rất trẻ, nên được bổ làm quan cố vấn của Tịnh Phạn Vương. Tôn giả Phú Lâu Na là cháu gọi ngài Kiều Trần Như bằng cậu.
[53] Lục Hợp Thái là một loại vé số lưu hành tại Hương Cảng, thường được biết dưới tên tiếng Anh là Mark Six, do Hương Cảng Tưởng Khoán Quản Lý Cục (Cục quản lý xổ số của Hương Cảng) phát hành, do Hương Cảng Trại Mã Hội (hội đua ngựa Hương Cảng) chịu trách nhiệm phân phối chính. Vé được xổ vào chín giờ ba mươi tối hằng tuần, thường là thứ Ba, thứ Năm và Chủ Nhật. Người chơi đoán sáu số từ 1 đến 49.
[54] Toán Học cổ đại của Trung Hoa thường được gọi là Cửu Chương vì kiến thức Toán Học đã được hệ thống hóa và tổng hợp tương đối hoàn chỉnh bởi tác phẩm Cửu Chương Toán Thuật (tác phẩm này thường được coi là đã hoàn thiện vào triều đại nhà Hán). Không rõ ai là tác giả của tác phẩm này, chỉ biết người chỉnh lý là Trương Thương và Cảnh Thọ Xương. Tác phẩm này được chú giải rất nhiều, nổi tiếng nhất là các bản chú giải của Lưu Huy, Lý Thuần Phong, Giả Hiến, Dương Huy, Lý Hoàng v.v… Do tác phẩm này được chia thành chín chương, chép thành chín quyển, nên mới thường gọi là Cửu Chương. Hiện thời, bản lưu hành phổ biến nhất được dựa theo bản in trong niên hiệu Gia Định đời Tống. Bộ sách này gồm hai trăm bốn mươi sáu bài toán, chia thành hai trăm lẻ hai thuật toán (Algorithms), bao gồm chín thể loại như sau:
1) Phương Điền (方田): Giảng về cách tính toán diện tích ruộng đất và phân số.
2) Túc Mễ (粟米): Cách tính toán để hoán chuyển các đơn vị đo lường lương thực, và đề cập nhiều vấn đề thuộc về tỷ lệ.
3) Suy Phân (衰分): Cách tính toán các quy tắc tỷ lệ thuận, tỷ lệ nghịch, tam suất v.v…
4) Thiếu Quảng (少廣): Cách rút căn bậc hai và bậc ba.
5) Thương Công (商功): Cách tính thể tích, cách tính toán vật liệu khi xây dựng các công trình lớn.
6) Quân Thâu (均輸): Cách tính thuế khóa và các vấn đề tỷ lệ phức tạp, lãi đơn, lãi kép v.v…
7) Doanh Bất Túc (盈不足): Cách giải các hệ thống phương trình tuyến tính, đặc biệt liên quan đến vấn đề thừa thiếu. Một bài toán điển hình là: “Nhiều người cùng mua hàng, nếu mỗi người trả bảy đồng thì tổng số tiền thiếu mất bốn đồng, mỗi người trả tám đồng thì tổng số tiền thừa ra ba đồng. Hỏi có mấy người mua, tổng số tiền phải trả là bao nhiêu?” (Đáp số là bảy người mua và món tiền phải trả là năm mươi ba đồng). Hiện thời, để giải bài toán này, có thể đơn giản dùng hệ phương trình {7x = y – 4; 8x= y+3}, trong đó x là số người mua, y là tổng số tiền phải trả, nhưng đối với Toán Học Trung Hoa thời đó, chưa có cách dùng ẩn số và các ký hiệu như trong Toán Học Tây phương, để giải bài toán này, cổ nhân đã áp dụng thuật toán khá độc đáo và hơi khó hiểu, nhưng giải quyết vấn đề rất nhanh.
8) Phương Trình (方程): Cách giải hệ thống phương trình bậc nhất và cách cộng trừ các số âm và dương.
9) Câu Cổ (勾股): Các ứng dụng của định lý Pythagore (trong một tam giác vuông, bình phương cạnh huyền bằng tổng số của bình phương hai cạnh còn lại, nghĩa là a2 + b2= c2).
Thật ra, Toán Học cổ Trung Hoa có đến mười bộ sách toán (thường gọi là Toán Kinh Thập Thư) gồm Châu Bễ Toán Kinh, Cửu Chương Toán Thuật, Hải Đảo Toán Kinh, Tôn Tử Toán Kinh, Trương Khâu Kiến Toán Kinh, Ngũ Tào Toán Kinh, Ngũ Kinh Toán Thuật, Tập Cổ Toán Kinh, Số Thuật Ký Di và Hạ Hầu Dương Toán Kinh, nhưng Cửu Chương Toán Thuật nổi tiếng nhất, chi tiết nhất, có thuật toán và nội dung phong phú nhất, văn phong rành mạch, khúc chiết nhất, nên được coi là sách toán trọng yếu nhất. Sách này được truyền sang Đại Hàn và Nhật Bản, tạo ảnh hưởng to lớn và khơi gợi hứng thú cao độ trong việc nghiên cứu Toán Học tại hai quốc gia ấy. Sách này còn được dùng làm tài liệu giáo khoa chủ yếu cho các quan đảm nhiệm dạy Toán trong Quốc Tử Giám đời Đường.
[55] Hán ngữ hiện thời gọi Phương Trình (Equation) là Phương Trình Thức (方程式), nhưng chúng ta vẫn gọi là Phương Trình.
[56] Tên gọi các chương của Cửu Chương trong sách Diễn Nghĩa hơi khác, có lẽ vì chép sai, hoặc do sử dụng các bản in khác nhau, chẳng hạn Túc Mễ được sách Diễn Nghĩa chép thành Túc Bố, hoặc gọi bằng danh từ khác như Doanh Nục (có nghĩa là thừa thiếu, đồng nghĩa với Doanh Bất Túc). Ở đây, thật ra Thiếu Quảng mới là rút căn bậc hai (square root). Câu Cổ là còn gọi là Cao Thương hoặc Tất Thị Tam Nguyên Số (Tất Thị là phiên âm chữ Pythagore), chính là định lý bình phương cạnh huyền của một tam giác vuông bằng tổng số bình phương của hai cạnh kia. Mở rộng ra, những con số Câu Cổ là những số thỏa mãn điều kiện ấy, chẳng hạn (3, 4, 5) hoặc (8, 5, 11) v.v…
[57] Lạc Hoằng (tên gọi đầy đủ là Lạc Hạ Hoằng, 156-87 trước Công Nguyên, Lạc Hạ là họ kép), tự là Trưởng Công, người xứ Lãng Trung, Ba Quận (Tứ Xuyên), sống vào thời Tây Hán, là một nhà thiên văn và toán học lừng lẫy. Thoạt đầu, ông không ra làm quan, chuyên tâm nghiên cứu Thiên Văn và Triết Học. Ông chế ra dụng cụ quan sát các tinh tú để tính lịch pháp gọi là Hỗn Thiên Nghi (Armillary sphere) có hình cầu, có nhiều vòng đồng bao quanh để tính toán quỹ đạo của các tinh cầu. Vào năm Thái Sơ nguyên niên (104 trước Công Nguyên), Hán Vũ Đế nghe danh, xuống chiếu triệu ông đến Trường An để tu chỉnh lịch pháp. Ông hợp sức cùng với Đường Đô, Tư Mã Thiên, Tiên Ư Vọng v.v… soạn ra bộ lịch Thái Sơ, cải tiến cách tính lịch của Chuyên Húc đã lỗi thời của nhà Tần, tiến hành cải cách lịch pháp một cách hệ thống và hợp lý. Ông đề xướng nhiều cách tính lịch mới mẻ, chẳng hạn ông đề xướng bỏ quan niệm một năm gồm mười tháng trong lịch Chuyên Húc, chia một năm thành mười hai tháng và hai mươi bốn tiết Khí, ấn định bốn mùa theo đúng thứ tự và độ dài, quy định lại ngày đầu năm (Chánh Sóc), biến lịch Trung Hoa thành Âm Dương Lịch, giúp cho người dân chỉ coi lịch để tính toán thời điểm nông vụ, không cần phải tốn công quan sát thiên tượng để tiên đoán khí hậu như trước kia. Điểm đặc sắc của lịch Thái Sơ là ấn định một năm có 365 ngày, nhưng mỗi tháng tối đa chỉ có ba mươi ngày, nên mới sử dụng năm nhuần để hiệu chỉnh những sai lệch. Học thuyết Hỗn Thiên nhằm lý giải vũ trụ của ông (với quan điểm trái đất là trung tâm vũ trụ) về sau được Trương Hành hoàn thiện trở thành một học thuyết chánh yếu về vũ trụ quan của Trung Hoa mãi cho tới đời Thanh.
[58] Số Lý ở đây là lý luận về số học, tức suy luận Toán Học thuần túy, không phải là Lý Số. Lý Số là thuật bói toán, tiên đoán vận mạng dựa trên Âm Dương và Ngũ Hành.
[59] Nhất Hạnh (638-727) là một nhà toán học và lịch pháp lừng danh của Trung Hoa, đồng thời là một vị tổ sư của Đông Mật Trung Hoa. Ngài tên thật là Trương Toại, pháp hiệu Kính Hiền, tôn hiệu là Đại Huệ thiền sư, người xứ Xương Lạc, Ngụy Châu (tỉnh Hà Nam hiện thời), còn được gọi là Nhất Hạnh A Xà Lê. Ngài xuất thân từ thế gia vọng tộc (ông cố chính là quan đại thần Trương Công Cẩn đời Đường Thái Tông, ông nội là Trương Đại Tố làm quan đến chức Môn Hạ Tỉnh Đông Đài Xá Nhân, cha là huyện lệnh huyện Vũ Công). Ngài tinh thông tiếng Phạn, Toán Học, lịch pháp, đặc biệt là Thiên Văn Học. Năm hai mươi mốt tuổi, khi cha mẹ đều khuất bóng, do nghe ngài Hoằng Cảnh thuộc tông Thiên Thai giảng pháp, bèn dấy lên ý niệm xuất gia, xin quy y, xuống tóc với ngài Phổ Tịch ở Tung Sơn. Do thâm nhập Nhất Hạnh tam-muội, nên còn có hiệu là Nhất Hạnh. Về sau, Ngài chuyên học tập kinh điển nhà Phật cũng như nghiên cứu Thiên Văn, Toán Học tại Tung Sơn và chùa Ngọc Tuyền. Năm Khai Nguyên thứ 5 (711), Đường Huyền Tông xuống chiếu triệu hồi Ngài về Trường An phụ tá ngài Thiện Vô Úy dịch kinh Đại Nhật. Ngài còn học Mật Pháp với ngài Kim Cang Trí, được đại sư truyền quán đảnh. Ngài lại làm Bút Thọ trong việc dịch thuật các bộ kinh trọng yếu của Kim Cang Giới Mạn Đà La như Kim Cang Tụng Niệm Pháp, Thất Câu Chi Đà La Ni… Sau đó lại cầu pháp với Bất Không đại sư, học kinh Kim Cang Đảnh. Có thể nói Ngài là người đầu tiên được truyền thừa đồng thời hai hệ thống Mật Pháp trong lịch sử Trung Hoa. Năm 713, Đường Huyền Tông sai Ngài cải cách lịch pháp, biên soạn bộ Đại Diễn Lịch với sự trợ giúp của Trương Thuyết, Trần Huyền Cảnh v.v… Ngài thiết kế nhiều dụng cụ thiên văn như Hoàng Đạo Du Nghi, Hỗn Tượng, Phục Củ v.v… đo lường quỹ đạo các hằng tinh, sửa đổi hiệu chỉnh lịch pháp từ đời Hán cho khớp với vận hành của các tinh tú, phát hiện hiện tượng tuế sai (precession). Năm Khai Nguyên 12 (723), Ngài chủ trì công cuộc đo lường bóng mặt trời trên quy mô lớn, phía Bắc đến Thiết Lặc (vùng phụ cận kinh đô Ulan Bator của Mông Cổ hiện thời), phía Nam đến Giao Châu (miền Bắc Việt Nam), tính ra độ dài của kinh tuyến (nhằm có số lượng chánh xác về thiên văn để hiệu chỉnh lịch pháp). Riêng về Mật Tông, Ngài viết bộ Đại Nhật Kinh Sớ (ghi chép những lời giảng giải của đại sư Thiện Vô Úy) được coi là tác phẩm chú giải quan trọng nhất để hiểu giáo nghĩa Mật Tông, đặc biệt là Thai Tạng Giới Mạn Đà La.
[60] Theo Huệ Lâm Âm Nghĩa: “Ưu-ba-ni-sa-đà phần theo cách tính toán trong tiếng Phạn là số nhỏ nhất, Đại Luận giải thích là vi tế được phân chia tới cực hạn… Giảng nghĩa là Vi Tế, nhỏ đến gần bằng Hư Lân thì gọi là Ổ-ba-ni-sát-đàm”. Hư Lân tức là Hư Lân Trần, là vi trần chia đến mức nhỏ nhất, nếu chia chẻ ra nữa sẽ thành hư không.
[61] Lẻ là một đơn vị đo lường, thường hiểu là tương đương với một decilitter (dl) trong đơn vị đo lường hiện thời. Khi chỉ đơn vị đo lường, chữ 合 phải đọc là Cáp (không đọc là Hợp hoặc Hiệp như trong cách đọc thông thường).
[62] Khi ấy, Tổng Thống Đài Loan là Lý Đăng Huy.
[63] Noãn hiểu theo nghĩa đen là ấm áp.
[64] Á nhiệt đới (Subtropics), còn gọi là phó nhiệt đới, là vùng giáp ranh giữa ôn đới và nhiệt đới (thường ở vào khoảng từ hai mươi ba độ rưỡi đến bốn mươi độ thuộc vĩ độ Bắc hoặc Nam). Mùa Hạ tại vùng á nhiệt đới giống như mùa Hạ tại vùng nhiệt đới, có khi còn nóng hơn, mùa Đông lạnh lẽo chẳng kém vùng ôn đới. Nói chung, khí hậu á nhiệt đới lại chia làm bốn tiểu loại. Chẳng hạn Á Nhiệt Đới Quý Phong có đặc điểm là mưa nhiều, mùa Hè rất nóng (vùng Quan Đông của Nhật Bản, miền Trung Đài Loan, cực Nam của bán đảo Đại Hàn v.v…), á nhiệt đới khô nóng (loại hình Địa Trung Hải) như các vùng Địa Trung Hải, bờ biển Hắc Hải, Nam California, vùng phía Nam Adelaide của Úc, đặc trưng là mùa Hè khô cằn, mùa Đông mưa dầm…
[65] Kim Cang Xử (Vájra), đôi khi còn được phiên âm là Bạt Chiết La, Phạt Chiết La, Phạt Xà La, dịch nghĩa là Giáng Ma Xử, Bảo Xử v.v… Đây là thứ vũ khí của Đế Thích Thiên, tượng trưng cho sấm sét (vì thế, có sách dịch Kim Cang Xử là “lưỡi tầm sét”), làm bằng chất Kim Cang, không phải là kim cương (diamond) vì Kim Cang không gì có thể phá hoại được, có thể phá hoại mọi thứ, trong khi kim cương có thể bị đốt cháy. Trong Phật giáo, đây là vũ khí được cầm bởi các vị hộ pháp như Mật Tích Lực Sĩ nhằm biểu thị tính cách diệt trừ vô minh mạnh mẽ nhất của trí huệ. Trong Mật giáo, Kim Cang Xử biểu thị Bồ Đề tâm, biểu thị lực dụng mạnh mẽ của đại trí huệ. Vì lẽ đó, phần lớn các vị tôn thánh trong Mật giáo cầm Kim Cang Xử, hoặc những vật dụng liên quan đến Kim Cang như Kim Cang kiếm, Kim Cang trượng, Kim Cang bổng, Kim Cang chùy, Kim Cang câu, Kim Cang cung, Kim Cang tiễn v.v… Hành nhân tu Mật giáo cũng cầm Kim Cang Xử trong khi tác pháp (thực hành nghi quỹ) để nhắc nhở chính mình phải vận dụng trí huệ đối trị ngu si, phiền não. Kim Cang Xử trong Mật Tông có thể làm bằng vàng, bạc, đồng, đá, pha lê, hợp kim, sắt, gỗ quý, và có nhiều loại: Hai nhánh, ba nhánh, bốn nhánh, năm nhánh, chín nhánh (nhằm biểu pháp khác nhau, chẳng hạn chày năm nhánh biểu thị Ngũ Trí Như Lai. Do chày năm nhánh có hai đầu, nên biểu thị từ Ngũ Trí Như Lai thể hiện thành Quyền Trí và Thật Trí, tạo thành Thập Ba La Mật). Nhưng các loại một nhánh, ba nhánh và năm nhánh phổ biến nhất, đặc biệt là Mật Giáo Tây Tạng còn có loại song Kim Cang Xử, gồm hai chày Kim Cang đúc liền khối giống như hình chữ thập, bốn đầu, mỗi đầu có năm nhánh.
[66] Theo một số nhà nghiên cứu, trước thời ngài Huyền Trang, kinh Phật được các vị dịch sư mang đến từ Tây Vực, có khá nhiều vị sử dụng tiếng Tocharian là một ngôn ngữ thông dụng tại các quốc gia Tây Vực thời ấy. Trong tiếng Tocharian, danh xưng Maitreya được đọc trại thành Metrak, nên khi phiên âm sang tiếng Hán đã trở thành Di Lặc, bởi lẽ, phát âm tiếng Hán trước thời Đường – Tống còn có nhiều phụ âm tắc họng ở cuối chữ, điều này có thể thấy rõ qua cách phát âm chữ Di Lặc trong tiếng Nhật (Miroku), tiếng Đại Hàn (Mireuk), tiếng Quảng Đông (Mei Lak), hoặc tiếng Phước Kiến (Mî-le̍k).
[67] Sách này có tên gọi đầy đủ là Tịnh Độ Thập Nghi Luận do Thiên Thai Trí Giả đại sư soạn, bàn về lý của pháp môn Tịnh Độ.
[68] Bộ sách này có tên gọi đầy đủ là Thích Tịnh Độ Quần Nghi Luận, còn gọi là Quyết Nghi Luận, do ngài Hoài Cảm biên soạn vào đời Đường. Sách gồm bảy quyển, chia thành một trăm mười sáu chương, nhằm giải trừ những nghi vấn Tịnh Độ thời Tùy – Đường xuất phát từ các học giả Nhiếp Luận, Tam Giai, và Duy Thức đời Đường, có thể coi như một bộ sách bách khoa về Tịnh Độ thời ấy. Ngài Hoài Cảm biên soạn bộ luận này chưa xong đã nhập diệt, bạn đồng môn là Hoài Huy bèn tiếp tục biên soạn cho đến khi hoàn thành. Ngài Hoài Cảm vốn học Pháp Tướng Duy Thức, sau này, theo ngài Thiện Đạo thực hành pháp Niệm Phật bèn cảm ngộ. Vì thế, bộ luận này rất súc tích, dùng ngay quan điểm của Duy Thức để đả phá những thành kiến chấp trước của các học giả Duy Thức thời ấy.
[69] Hồng Y Vu Bân (1901-1978) người huyện Xương Ấp, tỉnh Sơn Đông, là Hồng Y thứ hai của Trung Hoa. Ông từng làm tổng giám mục địa phận Nam Kinh, được phong Hồng Y vào năm 1969. Ông đã đậu học vị tiến sĩ Thần Học tại đại học giáo hoàng Urbaniana ở La Mã, cũng như giành được văn bằng tiến sĩ chính trị tại đại học Hoàng Gia ở Perugia, tinh thông các thứ tiếng La Tinh, Anh, Đức và Pháp. Khi bị chánh quyền Hoa Lục trục xuất khỏi tông tòa Nam Kinh, ông phải sang Đài Loan tỵ nạn, và đã có công sáng lập đại học Phụ Nhân tại Đài Loan. Năm 1976, ông được mời làm viện trưởng viện nghiên cứu tôn giáo thế giới của đại học Phật giáo Pháp Giới (do hòa thượng Tuyên Hóa sáng lập tại Berkeley, California).
[70] Địa danh này được nhắc đến trong sách Mạnh Tử. Theo các nhà chú thích, Trang là khu phố phồn hoa bậc nhất vào thời đó tại kinh đô Lâm Truy của nước Tề thuộc về xóm Nhạc vào thời ấy. Thành ngữ này xuất phát từ một đoạn trong sách Mạnh Tử: “Mạnh Tử vị Đới Bất Thắng viết: “Tử dục tử chi vương chi thiện dữ? Ngã minh cáo tử. Hữu Sở đại phu ư thử, dục kỳ tử chi Tề ngữ dã, tắc sử Tề nhân phó chư, sử Sở nhân phó chư?” Viết: “Sử Tề nhân phó chi”. Viết: “Nhất Tề nhân phó chi, chúng Sở nhân hưu chi, tuy nhật thát nhi cầu kỳ Tề dã, bất khả đắc hỹ. Dẫn chi trí chi Trang Nhạc chi gian sổ niên, tuy nhật thát nhi cầu kỳ Sở, diệc bất khả đắc hỹ!” (Mạnh Tử bảo Đới Bất Thắng: “Ông mong đạt đến mức độ tốt lành như vua của ông ư? Tôi nói rõ cùng ông, có một vị đại phu nước Sở ở nơi đây, mong con biết nói tiếng nước Tề thì sai người Tề dạy nó nói, hay sai người Sở dạy nó nói?” Đáp: “Sai người Tề dạy”. Mạnh Tử bảo: “Một người Tề dạy, mà cả đống người Sở ồn ào quanh nó, dẫu hằng ngày đòn roi ép nó học tiếng Tề cũng không thể được. Đưa nó đến sống tại phố Trang Nhạc mấy năm, tuy hằng ngày roi vọt ép nó nói tiếng Sở cũng không được”). Nước Tề là đất phong cho Khương Thượng (Khương Tử Nha) dưới thời Châu Vũ Vương, địa bàn bao gồm phần lớn tỉnh Sơn Đông, một phần Đông Nam tỉnh Hà Bắc, và một phần Đông Bắc tỉnh Hà Nam hiện thời.
[71] Kinh này có tên gọi đầy đủ là Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Kinh, còn gọi là Phát Khởi Đại Thừa Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh, do ngài Bồ Đề Lưu Chí dịch vào đời Đường, là một hội trong kinh Đại Bảo Tích.
[72] Ngài Từ Chiếu tên thật là Mao Tử Nguyên (1096-1166), pháp danh Từ Chiếu, hiệu là Vạn Sự Hưu, người Côn Sơn, Ngô Quận (nay thuộc tỉnh Giang Tô), sáng lập Bạch Liên Tông trong niên hiệu Thiệu Hưng đời Nam Tống. Sư mồ côi từ bé, năm mười chín tuổi xuất gia tại chùa Diên Tường, thoạt đầu theo ngài Tịnh Phạm thuộc tông Thiên Thai để tu tập Chỉ Quán. Năm 1131, do hâm mộ di phong của tổ Huệ Viễn, Sư sáng lập Bạch Liên Sám Đường tại hồ Đĩnh Sơn trấn Bình Giang, tự xưng là Bạch Liên Đạo Sư, chuyên tu Tịnh nghiệp. Sư lại phỏng theo giáo nghĩa Thiên Thai, biên soạn bộ Viên Dung Tứ Độ (tức là bộ Tứ Độ Đồ Thuyết) và Thần Triêu Lễ Sám Văn (văn sám hối lúc sáng sớm), lập ra một giáo nghĩa riêng trong Tịnh Độ Tông, nên gọi là Bạch Liên Tông. Các đồ đệ của Ngài phần lớn chỉ ăn chay, không xuất gia, có thể lập gia đình. Do có những kẻ đệ tử mang dạ bất chánh, nhất là Tiểu Mao Xà Lê, xuyên tạc giáo nghĩa để làm bậy, lôi kéo tín đồ, biến Bạch Liên Tông thành tà giáo, Ngài bị gán tội “ăn rau thờ ma, tụ tập ngu phu ngu phụ làm chuyện xằng bậy trong chốn rẫy bái” nên bị triều đình đầy đi Giang Châu cho đến năm Thiệu Hưng thứ ba (1133) mới được ân xá. Năm Càn Đạo thứ hai (1166), Sư được hoàng đế triệu vào cung hỏi đạo, Sư phu diễn sâu xa pháp môn Tịnh Độ, nên được vua ân tứ danh hiệu Khuyến Tu Tịnh Nghiệp Liên Tông Đạo Sư Từ Chiếu Tông Chủ. Ngài còn để lại các trước tác là Liên Tông Triêu Thần Sám Nghi, Tịnh Độ Thập Môn Cáo Giới, Di Đà Tiết Yếu, Tây Hành Tập, Viên Dung Tứ Độ Tam Quán Tuyển Phật Đồ v.v… Sau khi Ngài mất, do tín chúng đông đảo, phổ cập sâu rộng, nhưng quy chế quản trị tông môn lại lỏng lẻo, những người kế thừa lại cho phép hàng tại gia tự do thâu nhận tín đồ, truyền giới loạn xạ, khiến cho những kẻ hoạt đầu lợi dụng trà trộn, lôi kéo vây cánh, đồng thời pha tạp những tín điều mê tín xằng bậy hòng dễ thu hút tín đồ. Thậm chí có kẻ mạo nhận là Hoạt Phật Như Lai, hoặc xưng là Phật Mẫu Đại Sĩ để lừa bịp tín đồ, biến Bạch Liên Tông thành tà giáo Bạch Liên Giáo, chuyển từ niềm tin vào Di Đà Tịnh Độ thành thờ phụng Di Lặc Phật, pha tạp rất nhiều giáo nghĩa của Minh Giáo. Vì thế, cuối cùng, Bạch Liên Giáo chọn hình ảnh hoa sen trắng trong lửa đỏ để làm biểu tượng, gần như trở thành một biến tướng của giáo nghĩa Minh Giáo. Bạch Liên Giáo chính là cội nguồn của các tà giáo sau này như Long Hoa Trai Giáo, La Giáo, và gần đây nhất là Nhất Quán Đạo. Do vậy, vào đời Nguyên, ngài Ưu Đàm Phổ Độ phải viết bộ sách Liên Tông Bảo Giám nhằm chấn chỉnh những quan niệm sai lầm và trùng hưng giáo nghĩa chân chánh của Tịnh Độ.
[73] Nhân Dân Tệ (Renminbi, thường viết tắt là RMB) là đơn vị tiền tệ do Trung Cộng phát hành tại Hoa Lục, đồng tiền này được phát hành từ ngày mồng Một tháng Hai năm 1948.
[74] Theo cổ lễ, ngồi ở phía Bắc, ngoảnh mặt về phương Nam là tôn quý nhất. Vì thế, thiên tử, chư hầu, khanh đại phu khi tiếp kiến người khác thường ngồi phía Bắc ngoảnh mặt về phương Nam. Về sau, từ ngữ này chỉ được dùng để nói về ngôi hoàng đế, và do đó có thành ngữ “Nam diện xưng cô” (ngoảnh mặt về phương Nam, xưng là Cô (孤). Cô là tiếng khiêm xưng của đế vương ý nói đức hạnh kém cỏi, nên cô độc, trơ trọi vì chẳng có đức hạnh chiêu cảm hiền thần). “Thiệu nam diện” (紹南面: Nối tiếp địa vị ngoảnh mặt về phương Nam) tức là nối ngôi vua.
[75] Trữ quân là danh xưng để gọi hoàng thái tử, còn gọi là thái tử, hoàng trữ, vương trữ, đại công trữ, vương thái tử, đông cung. Con trai cả hoặc người nối ngôi vua chư hầu không được phép gọi là thái tử (太子: Thái có nghĩa là to lớn), mà gọi là thế tử (世子). Trong nghĩa gốc, Đông Cung là phía Đông của hoàng cung, nơi hoàng thái tử có một tiểu triều đình nhằm huấn luyện thái tử học cách cai trị, chứ không có quyền hành thật sự. Người đứng đầu các liêu thần trong Đông Cung thường là một vị lão thần giàu kinh nghiệm do hoàng đế bổ nhiệm, thường do Thái Phó (thầy dạy của thái tử) đảm nhiệm. Do phương Đông thuộc Mộc trong Ngũ Hành, mà Mộc có màu xanh, tượng trưng cho mùa Xuân, nên đôi khi Đông Cung còn được gọi là Thanh Cung hoặc Xuân Cung.
[76] Ý nói bản kinh này có chi tiết này, bản kinh kia không có. Hoặc bản kinh kia có, mà bản này không có.
[77] Đạm Thủy là một khu hành chánh của thành phố Tân Bắc (một thành phố phụ cận mở rộng của Đài Bắc). Khu này được đặt tên theo sông Đạm Thủy.
[78] Pháp Diệt Tận Kinh có tên gọi đầy đủ là Phật Thuyết Pháp Diệt Tận Kinh, đã mất tên người dịch. Kinh này được giảng tại nước Câu Di Na Kiệt (Kushinagar), trước
khi Ngài nhập Niết Bàn ba tháng, giảng về tình hình khi Phật pháp diệt vong, đặc biệt nêu rõ vào thời diệt pháp, ma vương, ngoại đạo sẽ giả làm đệ tử Phật phá hoại Phật pháp. Dẫu các vị Bồ Tát và La Hán tận lực hộ pháp vẫn không thể duy trì Phật pháp vì ác nhân đông đảo, con người lại thiếu thiện tâm, cũng như tai họa liên tục xảy ra. Trong kinh này, đức Phật cũng huyền ký hai kinh Thủ Lăng Nghiêm và Ban Châu Tam Muội sẽ bị diệt đầu tiên, y ca-sa của sa-môn trở thành hoa lệ, phù phiếm giống như y phục của thế tục.
[79] Trường Thọ Thiên chỉ các vị trời có thọ mạng rất dài. Vô Tưởng Thiên trong Đệ Tứ Thiền Thiên của Sắc Giới có thọ mạng là năm trăm đại kiếp, chư thiên trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thuộc Vô Sắc Giới có thọ mạng là tám vạn kiếp.
[80] Kinh này có tên gọi đầy đủ là Phật Thuyết Ma Ha Ca Diếp Độ Bần Mẫu Kinh do tôn giả Cầu Na Bạt Đà La dịch vào đời Tống.
[81] Yehenara là một chi tộc trong một đại thị tộc của người Mãn Châu, tức là thị tộc Nara (sử Trung Hoa thường phiên âm là Nạp Lạt Thị, Nạp Lan Thị hoặc Na Lạp Thị). Riêng về các phân chi thị tộc hợp thành liên minh Hốt Luân (Hulun) tại vùng Cát Lâm, có bốn thị tộc chính là Ô Lạp Na Lạp (Ulanara), Huy Phát Na Lạp (Hoifanara), Cáp Đạt Na Lạp (Hadanara) và Diệp Hách Na Lạp. Đứng đầu mỗi thị tộc là một thân vương có tước hiệu là Bối Lặc (Beile). Thị tộc Diệp Hách Na Lạp thường sống tại Cát Lâm, Hắc Long Giang, Liêu Ninh và Nội Mông. Họ là hỗn huyết giữa người Mông Cổ thị tộc Tümed và người Mãn Châu. Vì họ sống đông nhất ở vùng sông Yehe nên thị tộc này lấy danh xưng là Yehenara. Do thị tộc Diệp Hách Na Lạp thần phục nhà Minh từ lâu và có nhiều đặc quyền, nên họ không muốn thần phục Nỗ Nhĩ Cáp Xích (Nurhachi, sáng tổ của nhà Thanh). Vì vậy, với tham vọng thống nhất các bộ lạc Mãn Châu, Nỗ Nhĩ Cáp Xích quyết tâm tiêu diệt thị tộc Diệp Hách Na Lạp. Lời nguyền được hòa thượng Tịnh Không nhắc đến trên đây do bối lặc Kim Đài Cát (Jintaiji) phát ra khi thua trận Tát Nhĩ Hứa (Sarhū), khiến cho các chiến binh giỏi nhất trong thị tộc tử vong gần hết, thị tộc Diệp Hách Na La phải thần phục nhà Thanh, các lãnh tụ mất hết thực quyền lẫn lãnh địa. Hiện thời, do ảnh hưởng Hán hóa, những người thuộc thị tộc này đã đổi họ thành Na, Nạp, Nam, Lưu, Tô, Triệu, Diệp và Hà.
[82] Khi Lưu Bang (Hán Cao Tổ) mất, Lã Hậu đã thừa cơ lũng đoạn triều chánh, đưa con cháu họ Lã nắm quyền, khiến nhà Hán gần mất nước. Dưới sự lèo lái của Trần Bình và Châu Bột, phe cánh họ Lã đã bị tiêu diệt, Lưu Hằng được tôn lên làm vua là Hán Văn Đế. Để đền đáp sự ủng hộ của các hoàng thân, quốc thích trong cuộc binh biến, Hán Văn Đế đã phong cho họ tước vương, và cắt đất phong cho họ thành các nước chư hầu Tề, Triệu, Sở, cộng thêm với các nước chư hầu sẵn có từ thời Hán Cao Tổ. Dần dần, thế lực của chư hầu hùng mạnh, lấn áp chính quyền trung ương. Theo lời tâu của Giả Nghị, khi Tề Vương qua đời, Hán Văn Đế đã chia nước Tề làm sáu nước, và chia Hoài Nam thành ba nước nhỏ. Khi đó, Triều Thố là Ngự Sử Đại Phu đã khuyên Văn Đế hãy mạnh tay giảm thế lực của Ngô Vương Lưu Tỵ (anh họ của Hán Văn Đế), nhưng nước Ngô quá mạnh nên không thể làm gì được. Mối bất hòa giữa chư hầu và Hán đế càng thêm căng thẳng. Đồng thời, khi còn làm thái tử, Lưu Khải (về sau trở thành Hán Cảnh Đế) đánh cờ với con Ngô Vương Lưu Tỵ là Lưu Hiền, do Lưu Hiền ngạo mạn, Lưu Khải bực tức, lỡ tay đánh chết Lưu Hiền, nên hiềm khích giữa đôi bên càng sâu! Khi Hán Cảnh Đế lên ngôi, Triều Thố khuyên vua tiếp tục giảm bớt thế lực của các chư hầu. Bảy nước chư hầu (Ngô, Sở, Triệu, Giao Đông, Giao Tây, Tế Nam, Truy Xuyên) bèn khởi loạn, viện cớ “giết Triều Thố để làm sạch triều chánh”. Do bất hòa với Triều Thố từ trước, Viên Áng xúi vua giết Triều Thố để xoa dịu chư hầu. Dưới sự bức bách của phe phái Viên Áng, vua đành hạ lệnh đem Triều Thố ra chợ chém ngang lưng, nhưng chư hầu vẫn tiếp tục làm loạn. Đến cuối cùng, phải nhờ đại tướng quân Đậu Anh thống suất quân đội giao chiến với chư hầu suốt ba tháng mới dẹp tan được cuộc nội loạn.
[83] Hiểu thông thường, lục thân là những người có quan hệ họ hàng với chính mình do huyết thống hoặc hôn nhân. Trong cách hiểu phổ biến nhất, lục thân là cha, con, anh, em, vợ, chồng. Một cách hiểu khác cũng khá phổ biến, theo đó, lục thân là cha con, anh em, anh em họ bên nội, các anh em của ông nội, các anh em của ông cố, các anh em cùng họ.
[84] “Phù tiết” là những tín vật nhằm thể hiện sự trao quyền của vua cho các quan vâng
chiếu tuần thú, hoặc trao quyền cho các tướng lãnh điều binh khiển tướng. Phù thường là ấn tín hoặc lệnh bài, các thẻ khắc cầu kỳ, hoặc tín vật có khắc huy hiệu riêng. Thoạt đầu, Phù thường là một mảnh kim khí hay mảnh trúc có khắc tín hiệu theo quy định, được bẻ làm hai. Khi gặp nhau, nếu ghép vào nhau khít khao thì sẽ chấp nhận người cầm tín phù ấy đúng là người được bề trên cử tới. Về sau, Phù chỉ là tín vật có chạm khắc những biểu tượng riêng, nhìn vào biết ngay là huy hiệu thể hiện chức quyền của một người nào đó. Tiết là cờ lệnh. Chẳng hạn như thời Hán quy định Tiết có cán làm bằng trúc, sơn màu vàng hoặc đỏ, dài tám thước (một thước thời Hán là 32cm), trên cán buộc đuôi trâu thành chùm. Càng về sau, Tiết càng hoa lệ, cầu kỳ. Đến đời Minh, Tiết có cán sơn son thếp vàng, trên đỉnh bịt đồng mạ vàng có hình đầu rồng, thắt nhiều quả cầu kết bằng tơ hồng treo bằng dây tơ bện thắt cầu kỳ. Đời Thanh, giảm số quả cầu xuống còn năm cái, nhưng thêm chuông mạ vàng v.v… Hễ có Phù thì có cờ hiệu (Tiết) tương ứng; “nhược hợp phù tiết” nghĩa đen là giống như phù và tiết phù hợp nhau.
[85] Do các vị này giáng sanh tại Ấn Độ, nên người Hoa nói họ là “người ngoại quốc”.
[86] Chỉ (咫) là một thước đời Châu, dài tám tấc, trong khi Xích (尺) cũng là một thước
(gồm mười tấc, chừng bằng 33cm hiện thời); do đó, “chỉ xích” có nghĩa là khoảng cách rất nhỏ, rất gần.
[87] Lý Ưng (không rõ năm sanh, mất năm 169), là người huyện Tương Thành, Dĩnh Xuyên, thuộc dòng dõi khoa bảng, cha từng làm đến chức Tướng Quốc nước Triệu. Sau khi thi đỗ Hiếu Liêm, Lý Ưng từng làm Thái Thú Thanh Châu, Ngư Dương, Thục Quận. Tính tình cương trực, khi làm phủ doãn Hà Nam, do phạt tội một tay có máu mặt ở Uyển Lăng là Dương Nguyên Quần, bị tố ngược, ông Lý bị phạt giáng chức, bị triều đình xử phạt nặng nề. May nhờ Tư Lệ Hiệu Úy Ưng Phụng biết chuyện, dâng sớ tấu trình nên Lý Ưng mới thoát tội. Khi em trai hoạn quan Trương Nhượng là Trương Sóc đang làm huyện lệnh Dã Vương cậy thế, tàn hại dân chúng, Lý Ưng bèn xử phạt thẳng tay, nên bị Trương Nhượng sàm tấu với Hán Hoàn Đế, bị bắt về kinh đô. Trước mặt vua, Lý Ưng biện luận hùng hồn, khiến cho Hán Hoàn Đế không cách nào kết tội được, phải bỏ qua. Năm Diên Thọ thứ chín (166), ông lại bị bè lũ hoạn quan vu cáo “báng bổ triều đình, kết bè đảng làm loạn”, nên bị bắt giam vào ngục, liên lụy đến hơn hai trăm người. Về sau, nhờ Giả Bưu thuyết phục ngoại thích (họ hàng bên vợ của vua) là Đậu Vũ can gián, vua mới tha tội, nhưng Lý Ưng bị cách tuột hết các chức quan. Năm Kiến Ninh thứ hai (169), do Đậu Vũ và Trần Phiên mưu sự trừ diệt bè lũ hoạn quan lộng quyền. Bọn hoạn quan xúi vua Linh Đế bắt Đậu Vũ. Đậu Vũ giao chiến cùng quân hoàng gia, thất bại, tự tử, những người thân tín của Đậu Vũ như Lý Ưng, Đỗ Mật v.v… đều bị bắt giam, phán tội chết, liên lụy hơn sáu trăm người bị giam cầm.
[88] Đông Hán (25-220) là nhà Hán phục hưng sau khi nhà Tây Hán bị Vương Mãng cướp ngôi (lập ra nhà Tân). Do nhà Tây Hán đóng đô ở Trường An, còn Đông Hán đóng đô ở Lạc Dương, nên mới gọi như vậy. Nhà Đông Hán do hậu duệ của Hán Cảnh Đế là Lưu Tú nổi dậy lật đổ nhà Tân, tái lập nhà Hán, Sử gọi Lưu Tú là Hán Quang Vũ Đế. Vua cuối cùng của nhà Đông Hán là Hán Hiến Đế (Lưu Hiệp) được Đổng Trác đưa lên ngôi lúc mới tám tuổi. Trong suốt ba mươi hai năm làm vua, Hán Hiến Đế không có thực quyền, hoàn toàn bị quyền thần khống chế. Cuối cùng, Hán Hiến Đế bị Tào Phi (con trai Tào Tháo) cướp ngôi, lập ra nhà Ngụy.
[89] Vào thời cổ, nơi Hoàng Hà có giống cá chép to, vảy vàng óng ánh, cứ mỗi độ Xuân về, chúng lũ lượt kéo nhau bơi ngược dòng, hợp nhau nhảy vượt qua ghềnh Long Môn, nhưng do nước chảy quá xiết, ít có con nào vượt nổi thác. Vì thế, cổ nhân đồn rằng con cá chép nào nhảy qua khỏi ghềnh Long Môn sẽ biến thành rồng. Tuy Trung Hoa có nhiều nơi mang tên Long Môn, nhưng các nhà khảo cứu cho rằng, Long Môn trong truyền thuyết này chính là Vũ Môn Khẩu, tức là ghềnh đá tương truyền do vua Đại Vũ trị thủy đã đục thủng bỏ lại. Ghềnh đá này nằm giữa huyện Hàn Thành tỉnh Thiểm Tây và huyện Hà Tân của tỉnh Sơn Tây.
[90] Đỗ Như Hối (585-630) là một mưu thần bậc nhất của Đường Thái Tông (Lý Thế Dân), được vua hết sức tin tưởng, trọng dụng. Ông Đỗ và Phòng Huyền Linh lắm mưu hay, kế lạ, nên người đương thời hay nói “Phòng mưu Đỗ đoán” (ông Phòng mưu tính, ông Đỗ tính toán). Khi các anh em Lý Thế Dân tranh chấp quyền hành, Thái Tử Lý Kiến Thành đã nói với Tề Vương Lý Nguyên Cát: “Trong phủ của Tần Vương Lý Thế Dân, đáng sợ nhất là Đỗ Như Hối và Phòng Huyền Linh”. Ông Đỗ làm tham mưu đã vạch ra nhiều kế sách giúp Lý Thế Dân đánh bại các tướng lãnh quân phiệt thời đó như Lưu Vũ Châu, Vương Thế Sung, Đậu Kiến Đức v.v… Do có tài văn chương, ông đưọc chọn đứng đầu trong số mười tám vị học sĩ của Hoằng Văn Quán, tức là Đỗ Như Hối, Phòng Huyền Linh, Vu Chí Ninh, Tô Thế Trường, Diêu Tư Liêm, Tiết Thâu, Chử Lượng, Lục Đức Minh, Khổng Dĩnh Đạt, Lý Huyền Đạo, Lý Thủ Tố, Ngu Thế Nam, Thái Doãn Cung, Nhan Tương Thời, Hứa Kính Tông, Tiết Nguyên Kính, Cái Văn Đạt, Tô Húc Trợ. Mười tám vị này không chỉ giỏi văn chương mà ai cũng là người có tài thao lược, có thể nói là những chiến lược gia và cố vấn đáng tin cậy nhất của Đường Thái Tông.
[91] Theo truyền thuyết, Doanh Châu là một ngọn núi nơi chư tiên ở. Thiên Thang Vấn sách Liệt Tử viết: “Phía Đông Bột Hải, chẳng biết xa mấy vạn dặm, có năm quả núi, một là Đại Dự, hai là Viên Kiểu, ba là Phương Hồ, bốn là Doanh Châu, năm là Bồng Lai, người sống ở đó đều là tiên thánh”. Chương Tần Thủy Hoàng Bổn Kỷ sách Sử Ký cũng ghi: “Người họ Từ của nước Tề dâng sớ nói ở trong biển có ba ngọn núi thần tên là Bồng Lai, Doanh Châu và Phương Trượng là nơi tiên nhân ở. Tần Thủy Hoàng tin lời, sai người ra biển kiếm núi tiên hòng cầu thuốc trường sanh bất tử”. Do những người được dự vào Hoằng Văn Quán đều được vẽ chân dung, được hoàng đế đích thân đề thơ, tán vịnh, nên người có chân trong Hoằng Văn Quán vinh dự chẳng khác nào được lên cõi tiên!
[92] Ô cân (烏巾) còn gọi là ô giác cân (烏角巾), là một loại mũ tròn, vát cạnh, không có tai (mũ cánh chuồn thì có hai tai), thường may bằng vải mỏng màu đen, hai bên có dây buộc, khi đội thường thắt hai sợi dây đó quanh trán cho khỏi tuột. Do thời cổ, Trương Hoằng không thích làm quan, thích đội ô cân, nên về sau, những người có học, có tài, nhưng không ra làm quan, thường đội Ô Cân để biểu lộ chí hướng thanh cao.
[93] Thái Học (太學) là cơ cấu giáo dục cao nhất thời cổ. Từ thời cổ đã lập ra Thái Học (nhưng danh xưng chưa thống nhất, có khi gọi là Tịch Ung (辟雍), thời Ngu Thuấn gọi là Thượng Tường (上庠), thời Ngũ Đế gọi là Thành Quân, 成均), mãi đến đời Hán, Thái Học mới trở thành danh xưng chính thức của các trường đại học do chánh quyền lập ra tại kinh đô, và chính thức lấy tư tưởng Nho gia làm giáo dục chủ đạo trong nhà trường. Đến đời Tấn, lại lập riêng một trường Thái Học để dạy con em công khanh, gọi là Quốc Tử Học (國子學, tức Quốc Tử Giám (國子監) sau này), nhưng các trường Thái Học và Quốc Tử Học vẫn do cùng một quan Quốc Tử Tế Tửu (國子祭酒, tương đương với hiệu trưởng) trông coi. Danh xưng Tế Tửu chỉ có từ đời Tấn Vũ Đế, chức Tế Tửu thường do Tể Tướng kiêm nhiệm, hai vị quan phụ tá chức Tế Tửu được gọi là Tư Nghiệp (司業). Sở dĩ gọi hiệu trưởng Quốc Tử Giám là Tế Tửu vì trong cổ lễ, khi cúng tế hoặc yến tiệc, bậc niên trưởng hoặc đức cao trọng vọng sẽ đại diện cho mọi người dâng rượu lên thần minh. Vì vậy, danh xưng Tế Tửu đồng nghĩa với người được đại chúng coi trọng. Từ giữa đời Tống trở đi, chức Tế Tửu có trách nhiệm gần như thứ trưởng giáo dục hiện thời, vì chưởng quản tất cả các trường Thái Học, Quốc Tử Giám, Vũ Học, Luật Học, Tiểu Học, ban định chính sách, sắc lệnh, tổ chức khảo thí viên chức, thăng thưởng, xử phạt các học quan (viên chức giáo dục) và hiệp trợ Thượng Thư bộ Lễ lo tổ chức thi cử. Từ thời Minh, Thanh trở đi, Tế Tửu bị giáng xuống bậc Tùng Tứ Phẩm và quyền hạn bị thâu hẹp rất nhiều, chỉ lo quản trị Quốc Tử Giám.
[94] Ngài Nguyên Chiếu, hiệu là Trạm Nhiên, người xứ Dư Hàng, tỉnh Chiết Giang, chuyên hoằng dương Luật Tông và Tịnh Tông vào thời Bắc Tống. Thuở nhỏ, Sư theo hầu luật sư Huệ Giám chùa Tường Phù huyện Tiền Đường, được thọ giới vào năm Trị Bình thứ hai (1065). Năm Hy Ninh nguyên niên (1068), Ngài cùng bạn học là Trạch Anh theo ngài Thần Ngộ Xử Khiêm học Thiên Thai Giáo Quán, nghiên cứu rộng rãi giáo nghĩa các tông, nhưng lấy Luật Tông làm chủ. Về sau, do đọc bộ Tịnh Độ Thập Nghi Luận của Thiên Thai đại sư, bèn dốc lòng nơi Tịnh Độ. Lại nương theo lời dạy nhất ý chuyên trì của tổ Thiện Đạo, phát nguyện lãnh chúng đồng tu niệm Phật, nên biên soạn bộ Tịnh Nghiệp Lễ Sám Nghi (đã thất truyền). Sư lại vâng lời dạy của ngài Xử Khiêm, đi khắp nơi tham học Tứ Phần Luật và tông chỉ Pháp Hoa. Sau khi thọ giới Bồ Tát với ngài Quảng Từ Huệ Tài, Sư chuyên tâm nghiên cứu Nam Sơn Luật Học, sưu tập các trước tác của tổ Đạo Tuyên, soạn thành bộ Nam Sơn Luật Sư Soạn Tập Lục. Sư thường mặc áo vải, khất thực. Về sau, an trụ tại chùa Linh Chi Tông Phước, nên thường được gọi là Linh Chi Luật Sư. Do thấy tăng sĩ tu Thiền thời ấy viện cớ chẳng chấp trước mà phóng túng giới luật, coi rẻ niệm Phật, Sư cho khắc lại bộ Từ Mẫn Tam Tạng Văn Tập (tức bộ Vãng Sanh Tịnh Độ Tập do pháp sư Huệ Nhật biên soạn), liền bị những kẻ cuồng Thiền nhao nhao công kích, vu cáo Sư ngụy tạo tác phẩm ấy. Ngài phải viết sách trần thuật nguyên cớ, cũng như đưa ra cổ bản để làm chứng, chuyện ấy mới yên.
[95] Mã quải (馬褂, tiếng Mãn Châu là Olbo) là một loại áo ngắn mặc ra ngoài áo dài. Cần lưu ý, đối với loại áo ngắn khoác ra ngoài áo dài (trường bào, kỳ bào), có hai loại: Nếu là áo không có tay, sẽ gọi là “mã giáp” (馬甲), trong khi đó, mã quải luôn có tay. Đây là loại phục sức của người Mãn Thanh ép người Hoa phải sử dụng khi quân Thanh vào Trung Nguyên. Mã quải vốn là loại áo chống lạnh khoác ra ngoài áo dài, về sau được sử dụng như một loại trang phục mang tính chất khoa trương sự quyền quý. Loại mã quải màu vàng (được gọi là hoàng mã quải) do hoàng gia ban tặng cho những người có công huân với triều đình. Không được hoàng gia ban tặng hoàng mã quải, sẽ không được phép mặc, trừ các lạt-ma cao cấp như Chương Gia, Đạt Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma… mới được phép mặc. Thông thường mã quải được may bằng vải tốt, thường là gấm, vóc, hoặc lụa trơn, cài khuy đằng trước, nhưng thường có màu khác với kỳ bào, nhằm tôn lên chất liệu vải của mã quải. Những kẻ diêm dúa thường viền cổ, thêu thùa hoa văn rực rỡ nơi vạt áo. Mã quải chia thành nhiều loại như đại khâm, đối khâm, tỳ bà khâm… Đặc điểm chung là cổ cao, độn cứng như cổ áo dài, bốn vạt, tức là thân sau do hai khổ vải ghép lại, xẻ vạt đằng trước, dài đến ngang eo, ống tay hẹp, ống tay áo dài hơn bàn tay ba, bốn tấc, nên khi mặc phải vấn ống tay áo lên.
[96] Theo Châu Lễ, điển lễ này đã được thực hành từ đời Châu, thông thường là khi nam thanh niên đã tròn hai mươi tuổi, nhưng nếu là con hoàng đế hoặc chư hầu, do nhu cầu chấp chánh, có thể được gia quan sớm hơn. Chẳng hạn, Châu Văn Vương tiếp nhận lễ gia quan năm mười hai tuổi, Châu Thành Vương được gia quan năm mười lăm tuổi. Lễ được tiến hành thường vào tháng Hai, sau khi xin quẻ bói để chọn ngày tốt liền báo trước cho thân hữu mười ngày. Đồng thời dùng quẻ bói và bát tự để chọn một vị chủ trì điển lễ (thường gọi là Đại Tân) và một vị Tán Quan để giúp vị chủ lễ. Khi hành lễ, chủ nhân (thường là cha người được nhận lễ gia quan), Đại Tân, Tán Quan và người nhận lễ gia quan đều mặc đại lễ phục. Người chủ lễ và người nhận lễ quỳ đối diện nhau trước bàn thờ tổ tiên, vị tán quan cầm mũ. Vị chủ lễ nhận mũ từ tay vị tán quan đội lên đầu người nhận lễ và nói những lời chúc tụng tốt lành, dặn dò người nhận lễ vâng giữ đạo đức v.v… Đầu tiên là trao mũ bằng vải đen, rồi trao mũ bằng da, cuối cùng trao tước biện. Tước Biện (爵弁) là một loại mão rộng tám tấc, cao một thước sáu tấc, trước nhỏ sau to, thường dùng lụa chế thành có màu như lông chim sẻ. Do chữ Tước (雀: chim sẻ) đồng âm với Tước (爵: chức tước), nên loại mão này còn có ý nghĩa chúc tụng người thanh niên ấy sẽ công danh thành đạt. Tước Biện trông gần giống như miện (冕) của hoàng đế, tức là có hình ống tròn, phía trên có một tấm đậy, nhưng không đặt ngang như miện mà đặt xéo, phía trước cao hơn. Phía trên mão có chỗ để cắm trâm xuyên qua và buộc dây dưới cằm cho khỏi tuột. Điểm khác biệt là Tước Biện không có tua kết ngọc treo rủ xuống trước mặt như Miện. Chỉ có loại Tước Biện đội trong đám cưới là có hai tua đỏ treo hai bên đầu trâm. Sau khi đã trao ba lần mũ xong, vị Đại Tân lại đặt tên Tự cho người nhận lễ. Người chủ lễ bèn đưa tiễn Đại Tân ra khỏi cửa, biếu tặng lễ vật. Người chịu lễ bèn đến chào hỏi chú bác, trưởng bối trong họ để nhận lời khuyên dạy rồi mới cùng nhau ăn uống. Về sau, nghi thức gia quan được giản lược bớt, không mời khách khứa, vị Đại Tân thường do cha người nhận lễ hay vị trưởng họ chủ trì.
[97] Lễ cài trâm (kê lễ, 簪禮), Kê ở đây là cách gọi khác của cái trâm. Người con gái khi mười lăm tuổi trở lên (đôi khi tiến hành sớm hơn nếu sắp được gả đi, có trường hợp cá biệt, đến hai mươi tuổi mới làm lễ cài trâm), bèn búi tóc thành búi lên đỉnh đầu, cài trâm để giữ chặt lại. Sau khi đã nhận lễ cài trâm, người nữ không bao giờ ra ngoài mà không búi tóc, cài trâm. Tùy theo giàu nghèo khác biệt mà trâm có thể chỉ là một thanh gỗ nhỏ, tròn, một đầu to và tù, đầu kia nhỏ và nhọn, có thể cắm xuyên qua búi tóc, hay bằng vàng, bạc, ngọc, chạm trổ cầu kỳ, có tua, có hoa văn v.v… (Nói cho đúng, loại trâm như vừa tả được gọi là Kê, loại được trang trí cầu kỳ hơn thì gọi là Trâm, nếu đã cách điệu thành hoa lá, có tua treo, gồm nhiều nhánh, sẽ gọi là Thoa). Có nhiều khi do chạy theo mode thời trang hoặc do khoe của, các cô có thể cắm khá nhiều trâm trên đầu. Điểm khác biệt giữa người đã thành hôn và người chưa thành hôn là sau khi bới tóc, phần đuôi tóc của người chưa thành hôn được bỏ xõa xuống vai, trong khi người đã thành hôn, đuôi tóc phải cuộn lại thành búi sau gáy. Kê Lễ thường được cử hành vào tháng Ba, giống như trong Quan Lễ, chủ nhân là cha mẹ cô gái, vị chủ trì cuộc lễ gọi là Chánh Tân, người trợ giúp gọi là Tán Giả. Người giữ vai trò Chánh Tân là một phụ nữ hiền thục, đảm đang, được mọi người tôn trọng. Người phụ lễ sắp sẵn ba mâm gồm trâm loại thường để giữ búi tóc, trâm cài tóc trang trí tinh xảo, và mũ phụng, ngoài ra còn gương, lược và các vật trang sức khác như hoa tai, nhẫn, dây chuyền, dây buộc tóc v.v… Nghi thức cũng gần giống như lễ gia quan, nhưng sách không ghi cụ thể, nên nghi lễ cài trâm đôi khi rất rườm rà và biến đổi theo từng vùng. Nghi thức cài trâm đời Tống rườm rà nhất. Về sau, để đơn giản, người chủ lễ chỉ bới tóc cô gái lên và cài một cây trâm ngang búi tóc, dùng một dải lụa thêu buộc quanh búi tóc là xong.
[98] Tên Tự gọi đủ là biểu tự (表字), thường để biểu lộ ý chí và ước vọng. Nhan Chi Suy thời Bắc Tề cho rằng tên để phân biệt giữa người này với người kia, còn Tự nhằm biểu lộ đức hạnh. Thông thường, tên Tự có ý nghĩa liên quan với tên thật, chẳng hạn Nhạc Phi có tên tự là Bằng Cử (chim đại bàng cất cánh), Quan Vũ có tên tự là Vân Trường (vì Vũ là lông chim). Thói quen đặt tên Tự đã có từ đời Châu và hầu như không dùng nữa sau phong trào vận động Ngũ Tứ, nhưng giới văn nhân trí thức vẫn sính dùng tên tự, như Hồ Thích có tên tự là Thích Chi, Tôn Văn có tên tự là Tải Chi. Ngay cả Mao Trạch Đông cũng lấy tên tự là Nhuận Chi. Tên tự có khi chỉ là một chữ, như Khuất Nguyên chính là tên tự vì ông tên thật là Bình, Nhan Hồi có tên tự là Uyên, có khi đến ba chữ như Lý Kiến Thành có tên tự là Tỳ Sa Môn, phổ biến nhất là hai chữ. Theo thời gian, có những cách đặt tên tự như sau:
– Dùng chữ Tử như Công Tôn Kiều có tên tự là Tử Sản, Tăng Sâm tên tự là Tử Dư, Bốc Thương có tên tự là Tử Hạ…
– Chữ đầu trong tên tự chỉ thứ tự (Bá, Trọng, Thúc, Quý), chẳng hạn Tôn Sách là con cả nên có tên tự là Bá Phù, Khổng Tử là con thứ hai của Thúc Lương Ngột nên có tên tự là Trọng Ni…
– Biểu thị chí hướng, ước vọng, như La Bổn có tên tự là Quán Trung (ông này là tác giả bộ Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa), Phòng Kiều (danh thần và mưu sĩ của Đường Thái Tông) thường được biết đến với tên tự là Phòng Huyền Linh…
[99] Cao Sơn tộc (高山族, còn gọi là Cao Sa tộc, 高砂族) là tiếng gọi chung toàn bộ các sắc dân thiểu số bản địa tại Đài Loan và các đảo phụ cận của Đài Loan trước khi người Hán đến chiếm lãnh Đài Loan. Các sắc dân này hiện còn hơn bốn mươi vạn. Theo thống kê, tối thiểu có đến mười sáu nhóm Cao Sơn khác nhau, bao gồm các sắc tộc chủ yếu là Thái Nhã (Atayal), Tái Hạ (Saisiyat), Bố Nông (Bunun), Trâu (Cou), Lỗ Khải (Drekay, Rukai), Bài Loan (Paiyuan), Ty Nam (Pinuyumayan), A Mỹ (Pangcah Amis), Đạt Ngộ (Tau), Thái Lỗ Các (Truku, Taroko), Tán Cơ Lai Nhã (Sakizaya), Tái Đức Khắc (Seediq) v.v…
[100] Theo pháp sư Tinh Vân, sở dĩ gọi là Hải Thanh vì tay áo rộng, phấp phới trông như cánh một loài chim có tên gọi là Hải Đông Thanh tại vùng Quảng Đông. Sư dẫn thơ Lý Bạch có câu “phiên phiên vũ quảng tụ, tự điểu hải đông lai” (áo rộng tay múa bay phất phới, như chim từ Đông Hải bay vào) để chứng minh cho thuyết này, nhưng trong Phật môn Trung Hoa thường giải thích như sau: Giống như biển cả sâu thẳm, nhìn xa, sắc biển như xanh đen, thật ra là xanh, nên gọi là Hải Thanh, nhằm ca ngợi Phật pháp sâu thẳm khôn dò. Lại nữa, Hải biểu thị sâu rộng, mênh mông, có thể dung chứa vạn vật vô ngại, tự tại. Thanh là màu xanh xuất phát từ màu chàm (“thanh xuất ư lam”), nhưng lại trỗi vượt màu chàm. Gọi áo tràng là Hải Thanh nhằm nhắc nhở tăng nhân phải có tâm lượng bao dung, luôn nhớ đến chân tâm trọn khắp pháp giới, và đệ tử Phật phải tu hành tinh tấn, mỗi đời càng tiến bộ hơn, giống như màu xanh sanh từ màu chàm, nhưng vượt trội màu chàm. Cũng có một truyền thuyết giải thích tại sao Hải Thanh vốn là lễ phục từ đời Hán, nhưng tay áo Hải Thanh tuy rộng lại may kín, chỉ chừa một khoảng nhỏ để thò tay ra, không để trống từ trên xuống dưới như áo của thế gian: Tương truyền, phi tử của Lương Vũ Đế là Hy Thị tánh tình tàn ác, ngang ngược, thấy Lương Vũ Đế sùng mộ Phật pháp, nên tức tối, luôn tìm cách hãm hại tăng ni. Có lần, bà ta cúng trai tăng, làm rất nhiều bánh bao nhân thịt để đãi tăng chúng hòng rêu rao “thầy chùa ngã mặn” rồi viện cớ ấy xin vua trục xuất tăng chúng. Đương thời, ngài Bảo Chí (Chí Công) là cao tăng đắc đạo, biết rõ chuyện này, bèn dặn các tăng sĩ theo Ngài thọ trai hãy may hẹp miệng tay áo Hải Thanh lại để chứa sẵn bánh bao mạn đầu (bánh bao không nhân) trong tay áo. Khi vào cung, bèn lấy mạn đầu ra ăn, bỏ bánh bao mặn vào trong tay áo. Khi Hy Thị lu loa chư tăng ngã mặn, các vị bèn lấy bánh bao mặn đã cất trong tay áo ra để đối chứng khiến cho Hy Thị cứng họng, không thể nào vu cáo được. Từ đó, tăng sĩ may miệng tay áo Hải Thanh như hiện thời để nhắc nhở người tu hành phải luôn thận trọng trong mọi oai nghi.
[101] Cam Châu Hoạt Phật (1914-1978) là đệ tử của Chương Gia đại sư. Vị này được coi là lạt-ma hóa thân đời thứ mười bảy của dòng Cam Châu. Danh hiệu đầy đủ của Sư là Cam Châu Nhĩ Ngõa Mặc Nhĩ Căn Nặc Môn Hãn (Hưng Giáo Thiện Tri Thức Thông Minh Linh Cảm Pháp Vương). Cam Châu là phiên âm của chữ Kangyur hoặc Gangyur trong tiếng Tây Tạng (kinh điển Phật giáo Tây Tạng được chia thành hai phần lớn: Kangyur tương ứng với Kinh Tạng (chủ yếu là Mật giáo) gồm 108 tập, và Tengyur (đôi khi còn viết là Tanjur, tương ứng với các tác phẩm luận giải hay chú sớ, gồm 224 tập). Theo truyền thống Phật giáo Mông Cổ, Cam Châu được coi là hóa thân của A La Hán Trát Kinh Can Ba thời đức Phật tại thế. Sư vốn thuộc sắc dân Mông Cổ, nhưng sống tại Thanh Hải. Năm lên ba tuổi, Sư được các đệ tử của Cam Châu đời thứ mười sáu đón về chùa Quảng Huệ, tấn phong lên ngôi Cam Châu thứ mười bảy, phong tặng pháp danh Ngang Ông La Tang Đan Bỉ Ni Mã. Năm mười một tuổi, Sư lên Bắc Kinh, yết kiến Ban Thiền Lạt Ma và học kinh giáo tại đó. Năm 1924, khi Chương Gia đại sư đến Bắc Kinh, trụ tích tại chùa Sùng Thọ, Cam Châu tìm đến bái yết, xin y chỉ. Tuy không thường thân cận Chương Gia đại sư, nhưng hễ có dịp, Sư đều đến bái yết Chương Gia đại sư để cầu học. Khi chính quyền Dân Quốc chạy ra Đài Loan, Cam Châu cũng theo sang Đài Loan và luôn thân cận Chương Gia đại sư cho đến khi Ngài viên tịch. Năm 1952, do sự thỉnh cầu của Trần Thành, chủ tịch chính phủ tỉnh Đài Loan lúc ấy, Sư cùng hai vị pháp sư Luật Hàng và Từ Hàng tổ chức phái đoàn hoằng pháp diễn giảng khắp Đài Loan, đồng thời giải thích chính sách tôn giáo của chính phủ Dân Quốc, nhằm đoàn kết nhân sĩ các giới trong Phật giáo đồ.
[102] “Vạn kim du” (萬金油) là tên gọi chung các loại dầu cù là, nổi tiếng nhất là loại dầu con hổ (thường được biết với danh xưng Tiger Balm) do Hổ Báo Xí Nghiệp Hữu Hạn Công Ty (Haw Par Corporation Limited) của Tân Gia Ba sản xuất. Tên gọi Vạn Kim Du do họ đặt ra đầu tiên. Sở dĩ gọi là công ty Hổ Báo vì công ty này do hai anh em Hồ Văn Hổ và Hồ Văn Báo sáng lập. Thành phần chế tạo của loại đầu này bao gồm bạc hà, long não (camphor), dầu bạc hà tinh chế, dầu tràm (melaleuca), dầu đinh hương (clove), quế, và ammonium hydroxide trộn với sáp (hoặc chất vaseline).
[103] Bát quái đan (八卦丹) là một loại thuốc viên đã có từ xưa tại Trung Hoa, do thường bán trong gói giấy nhỏ có in hình Bát Quái, nên dân chúng quen gọi là Bát Quái Đan. Theo nhà sản xuất, thuốc này có tác dụng thanh nhiệt, trấn tĩnh v.v…
[104] Ngũ Phẩm Vị chính là Quán Hạnh Tức Phật trong Lục Tức Phật của tông Thiên Thai. Địa vị này đã biết danh tự, khởi quán hạnh, tâm quán đã thông hiểu, Lý Huệ tương ứng, nên có thể lập thành năm phẩm công đức là Tùy Hỷ Phẩm, Độc Tụng Phẩm, Thuyết Pháp Phẩm, Kiêm Hành Lục Độ Phẩm và Chánh Hành Lục Độ Phẩm. Tông Thiên Thai lại còn lập ra tám hành vị, địa vị Ngũ Phẩm Đệ Tử trong tám hạnh vị ấy chính là Ngũ Phẩm Vị được nói ở đây. Do xét theo sự chứng quả, vẫn thuộc về ngoại phàm, nên gọi là Ngũ Phẩm Đệ Tử Vị. Như vậy là địa vị Ngũ Phẩm rất thấp (vì còn thuộc Quán Hạnh rất thấp, chưa đạt đến Tương Tự Tức Phật).
[105] Phẩm Bồ Tát Tâm Địa ở đây chính là một phẩm trong kinh Phạm Võng. Phẩm này có tên gọi đầy đủ là Tỳ Lô Giá Na Phật Thuyết Bồ Tát Tâm Địa Phẩm gồm hai quyển thượng và hạ. Đây là phẩm thứ mười trong kinh Phạm Võng, do ngài Cưu Ma La Thập dịch. Phẩm này giảng về địa vị tu đạo của Bồ Tát (quyển thượng) và giới tướng của mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh trong Bồ Tát giới (quyển hạ). Quyển hạ thường được dùng để truyền thọ Bồ Tát giới và làm giới bổn trong dịp tụng giới mỗi nửa tháng của người thọ Bồ Tát giới.
[106] Nhiếp Luận gọi đầy đủ là Nhiếp Đại Thừa Luận (Mahāyāna-saṃgraha) do ngài Vô Trước soạn nhằm chú thích phẩm Nhiếp Đại Thừa trong bộ kinh A Tỳ Đạt Ma Đại Thừa Kinh. Đây là một tác phẩm trọng yếu bắt buộc phải nghiên cứu cho các học nhân Duy Thức. Luận này được có ba bản dịch tiếng Hán, tức là bản dịch vào đời Bắc Ngụy của ngài Phật Đà Phiến Ca, bản dịch vào đời Lương của ngài Chân Đế, và bản dịch mang tên Nhiếp Đại Thừa Luận Bổn của ngài Huyền Trang vào đời Đường. Bản dịch của ngài Huyền Trang được nghiên cứu và chú giải rộng rãi nhất. Tại Ấn Độ, ngài Thế Thân viết chú giải cho bộ luận này với tên gọi Nhiếp Đại Thừa Luận Thích. Tác phẩm Nhiếp Đại Thừa Luận Thích cũng được dịch sang tiếng Hán ba lần bởi Chân Đế vào đời Lương, ngài Cấp Đa dịch vào đời Tùy và ngài Huyền Trang dịch lần nữa vào đời Đường. Ngoài ra, ngài Huyền Trang còn dịch thêm một bản chú giải nữa là Nhiếp Đại Thừa Luận Vô Tánh Thích do ngài Vô Tánh soạn. Bộ luận này rất khó lãnh hội, nội dung xoay quanh chủ đề A Lại Da Thức và những khái niệm tương quan như Sở Tri Tướng Phần, ba tự tánh như Y Tha Khởi, Biến Kế Chấp v.v…
[107] Giáp (甲) là đơn vị đo ruộng đất tại Đài Loan, đúng ra phải gọi là A Giáp (阿甲, biến âm từ chữ Akker của tiếng Hòa Lan trong thời Hòa Lan chiếm đóng Đài Loan). Tuy hiện thời chính quyền Dân Quốc bắt buộc mọi khế ước điền địa, thổ trạch phải dùng mét vuông làm đơn vị đo lường, dân chúng vẫn quen dùng Giáp và Bình (đơn vị đo phát xuất từ Nhật). Một Giáp là 2.934 Bình (坪,tsubo), tức là khoảng 0.969 hectare. Đơn vị đo lường diện tích nhỏ nhất của Đài Loan là Bình tức là 3.4 mét vuông, 30 Bình là một Mẫu (畝). Một Giáp khoảng 97 Mẫu. Cuối cùng là một Lê (犁) gồm năm Giáp.
[108] Vương Vĩnh Khánh (1917-2008) là một nhà doanh nghiệp lớn nhất tại Đài Loan. Ông Vương sáng lập Đài Sóc Quan Hệ Xí Nghiệp (Xí nghiệp Nhựa Đài Loan), kinh doanh thành công đến nỗi được gọi là “thần kinh doanh”. Theo tạp chí Forbes, ông được xếp vào người giàu thứ 178 trên thế giới, giàu thứ nhì của Đài Loan.
[109] Đi, đứng, nằm, ngồi là bốn oai nghi, mỗi oai nghi có đủ 250 giới, nên 4×250 thành 1.000. Lại phối hợp với Tam Tụ Luật Nghi nên 3×1.000=3.000. Lại phối hợp với bảy chi (giết, trộm, dâm, nói đôi chiều, ác khẩu, vọng ngữ, ỷ ngữ) nên 7×3.000=21.000, lại phối hợp với bốn phiền não là tham, sân, si, đẳng phần, thành 4×21.000=84.000. Do đó gọi là tám vạn bốn ngàn tế hạnh. Nay thường nói “tám vạn tế hạnh” là chỉ nói con số tròn, lược bớt số lẻ.
[110] Nói “chú chẳng có ý nghĩa” thì cũng giống như Hòa Thượng Tịnh Không thường nói “kinh Phật chẳng có ý nghĩa”. Do kinh chú có vô lượng nghĩa, chẳng thể nào nói trọn, hễ nói lên một nghĩa nào đều là nói phương tiện nhằm thích ứng với một hạng căn cơ nào đó. Thật ra, có thể nói: Chú là kết tinh của tất cả chân lý ẩn tàng trong kinh Phật. Cũng vì vậy, chư tổ sư thường nói chú có ý nghĩa bí mật, nên chẳng phiên dịch. Gọi là “bí mật” vì chẳng phải là cảnh giới phàm phu, Nhị Thừa, Quyền Giáo Bồ Tát chẳng thể thấu hiểu được, nên gọi là “bí mật”. Vì lẽ này, Hòa Thượng Tịnh Không thường nói: “Mật Giáo chẳng phải là pháp tu tập của hàng sơ cơ, tiểu căn, Nhị Thừa”. Do vậy, để giải thích một chữ Hồng (Hūṃ), pháp sư Không Hải đã viết một tác phẩm dầy, nhưng cũng chỉ là “giới thiệu một giọt nước trong biển cả”. Hoặc như lạt-ma Govinda có nói: Để giải thích ý nghĩa được bao hàm trong một chữ Aum thì dù có hằng sa kiếp cũng chẳng thể giải thích trọn vẹn.
[111] Xuất tướng, nhập tướng (出將入相): Ra ngoài các tỉnh, làm vị tướng cầm quân, về triều làm Tể Tướng. Từ lúc vừa mới thi đỗ Tiến Sĩ, ông đã được phong làm Tư Lý Tham Quân huyện Quảng Đức, tỉnh An Huy, trải qua nhiều chức quan, do tính cương nghị, nói thẳng, không e ngại, nên từng có lúc bị vu cáo, bị đày đi làm Thông Phán phủ Hà Trung. Khi Lý Nguyên Hạo của Tây Hạ quấy rối biên giới, ông đã được phong làm Kinh Lược An Phủ Sứ Chiêu Thảo Phó Sứ của tỉnh Thiểm Tây, phù tá chủ soái Hạ Tủng bình định loạn Tây Hạ, phòng ngự biên giới phía Tây. Dân chúng ca tụng tài thao lược của ông bằng câu: “Quân trung hữu nhất Phạm, Tây tặc văn chi kinh phá đảm” (trong quân có một ông Phạm, giặc Tây nghe tiếng sợ nát gan). Về sau, ông từng làm đến chức Khu Mật Sứ (chức quan coi việc chánh trị cao nhất, chỉ dưới Tể Tướng), rồi kiêm nhiệm Tham Tri Chánh Sự (phó Tể Tướng).
[112] Kinh này do pháp sư Na Liên Đề Lê Da Xá và Pháp Trí cùng dịch vào năm Thiên Bảo thứ chín (570) đời Bắc Tề gồm mười ba phẩm. Kinh được giảng khi đức Phật sắp nhập Niết Bàn. Đức Phật nằm bên hông hữu, phóng quang chiếu khắp đại thiên, Đại Phạm Vương đến thỉnh pháp, được đức Phật phó chúc hộ trì đại thiên thế giới. Ma tử Thương Chủ thỉnh Phật trụ thế, đức Phật thọ ký ông ta sẽ thành Bích Chi Phật. Đức Phật lần lượt dạy pháp cho nhiều người, phó chúc Ca Diếp hoằng truyền chánh pháp, thọ ký những vị thượng thủ sẽ hoằng dương Phật pháp sau khi đức Phật nhập diệt như tỳ-kheo Tỷ Đề Xa, tỳ-kheo Đề Tri Ca, Ưu Ba Cúc Đa, A Thâu Sa Cúc Đa, Úc Đa Già v.v… Đồng thời, đức Phật dạy về công đức cúng dường xá-lợi và công đức Niệm Phật…
[113] Đại Trang Nghiêm Kinh Luận còn gọi tắt là Đại Trang Nghiêm Luận hay Trang Nghiêm Luận là một bộ luận do Mã Minh Bồ Tát viết, được ngài Cưu Ma La Thập dịch sang Hán văn, gồm mười lăm quyển. Luận gồm chín mươi chương, có chép nhiều sự kiện liên quan đến cuộc đời đức Phật.
[114] Kinh Đại Phẩm Bát Nhã còn gọi là Nhị Vạn Ngũ Thiên Tụng Bát Nhã, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh, hoặc Tân Đại Phẩm Kinh, do ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch vào đời Diêu Tần, gồm hai mươi bảy quyển. Các bộ Đại Trí Độ Luận, Đại Phẩm Kinh Nghĩa Sớ (do ngài Cát Tạng biên soạn) và Chú Giải Đại Phẩm Kinh (của Lương Vũ Đế) đều là chú giải của bản kinh này. Các bản dịch khác của kinh này là Quang Tán Bát Nhã Ba La Mật Kinh (do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn), Phóng Quang Bát Nhã Ba La Mật Kinh (do ngài Vô La Xoa dịch vào đời Tây Tấn). Đại Phẩm Bát Nhã Kinh tương ứng với hội thứ hai trong bộ Đại Bát Nhã sáu trăm quyển do ngài Huyền Trang dịch vào đời Đường.
[115] Bình (屏) ở đây là một bức giấy đặt nằm ngang để viết đại tự theo lối thư pháp.
[116] Bộ kinh này có tên gọi đầy đủ là Phật Thuyết Xưng Dương Chư Phật Công Đức Kinh do ngài Thiên Trúc Tam Tạng Cát Ca Dạ dịch vào đời Nguyên Ngụy. Đức Phật thuyết kinh này tại núi Linh Thứu nơi thành La Duyệt Kỳ (Vương Xá). Do tôn giả Xá Lợi Phất thưa hỏi: “Hiện thời có bao nhiêu vị Phật đang thuyết pháp?” Đức Phật bèn tán thán và nêu ra một vài vị Phật hiện đang thuyết pháp như trong phương Đông, nơi thế giới Thiên Thần có Bảo Hải Như Lai, trong thế giới Bảo Tập có Bảo Anh Như Lai, trong thế giới Bảo Tối có Bảo Thành Như Lai, trong thế giới Quang Minh có Bảo Quang Minh Như Lai, trong thế giới Tràng Phan có Bảo Tràng Phan Như Lai, trong thế giới Diệu Lạc có A Súc Như Lai… và nhiều danh hiệu khác nữa. Đối với mỗi danh hiệu Phật, đức Phật đều nêu bày cặn kẽ công đức do nghe và niệm danh hiệu các vị Phật ấy.
[117] Theo nghĩa đen, Trì (持) là giữ gìn, tức là thường xuyên hành, thường niệm, chẳng bỏ lửng hay để gián đoạn. Phúng (諷) là nhìn vào kinh văn để đọc, Tụng (誦) là đọc thuộc lòng không cần kinh văn. Niệm (念) vừa là đọc, vừa là thường nghĩ đến. Nếu hiểu niệm là đọc tụng thì không nhất thiết phải đọc ra tiếng, có thể niệm thầm trong tâm hoặc mấp máy miệng, còn phúng và tụng thì nhất định phải phát ra tiếng rõ ràng.
[118] Kinh Bảo Tích do nhiều pháp hội hợp thành, quyển mười bảy và mười tám chính là pháp hội Vô Lượng Thọ (sách Sớ Sao Diễn Nghĩa gọi pháp hội này là Bảo Tích Đại Bổn), pháp hội kế tiếp chính là pháp hội Bất Động Như Lai gồm hai quyển mười chín và hai mươi. Do tôn giả Xá Lợi Phất khải thỉnh, đức Phật bèn trần thuật cõi nước và nhân hạnh của Bất Động Như Lai: Trong cõi Diệu Hỷ của đức Phật Quảng Mục, có một vị tỳ-kheo tên là Bất Động phát tâm Vô Thượng Bồ Đề và phát hoằng thệ nguyện, được Phật thọ ký, sẽ thành Phật hiệu là Bất Động Như Lai.
[119] Thành ngữ này dựa trên lời khai thị nổi tiếng của ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền: “Như nay người học tập Thiền Đạo thì phải tự tin, đừng hướng ra ngoài để tìm cầu bất cứ gì. Cầu Phật, sẽ đánh mất Phật, đánh mất đạo. Cầu Tổ, sẽ đánh mất Tổ. Hễ hướng ngoại thì cứ gặp liền giết. Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ, gặp La Hán giết La Hán, gặp cha mẹ giết cha mẹ, gặp thân quyến giết thân quyến, thì mới chẳng bị ngoại vật trói buộc, mới có thể giải thoát tự tại”. “Gặp” ở đây là chấp trước. Tổ Lâm Tế khuyên người hành Thiền đừng nên chấp trước ý niệm, “giết” có nghĩa là đoạn trừ sạch những ý niệm đối đãi, chấp trước nơi cảnh giới. Câu nói này về sau được rút gọn thành “gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ”, hoặc “Phật đến chém Phật, ma đến chém ma”.
[120] Ngài Chân Như Mộ Triết họ ngoài đời là Văn, quê ở Lâm Xuyên, gia cảnh nghèo hèn, mồ côi từ bé. Ngài theo học với luật sư Viên Giác chùa Vĩnh An ở Kiến Xương, có chí hoằng pháp, giữ giới luật rất tinh nghiêm, được vị Thiền đức nổi danh đương thời là thiền sư Thúy Nham Khả Chân coi trọng. Khi thiền sư Khả Chân đã mất, Sư bèn y chỉ ngài Hoàng Bá. Sư tham học khắp nơi. Tham học xong, Sư được đại chúng suy tôn làm Trụ Trì chùa Đại Quy, nhưng Ngài chuyên trông coi hương đăng và làm các việc nặng nề trong chùa suốt bốn mươi năm, luôn giữ cho hương đèn chẳng tắt. Khi quá mệt mới dùng khăn che đầu, dựa vào vách, tạm ngủ giây lát. Cho đến già, Sư vẫn sống rất khiêm cung, không bệnh mà mất. Khi trà tỳ có xá-lợi to như hạt đậu, tròng mắt và móng tay đều chẳng cháy. Theo Tổ Ấn Quang, hậu thân của Chân Như Triết chính là vua Khâm Tông (Triệu Hoàn) nhà Tống. Khi quân Kim tàn phá đất Bắc Tống, vua cha là Tống Huy Tông (Triệu Cát) hèn nhát, trốn tránh trách nhiệm, bèn nhường ngôi cho Khâm Tông. Khâm Tông lấy niên hiệu là Tĩnh Khang. Làm vua chưa đầy một năm (từ ngày 19 tháng 01 năm 1126 đến ngày 09 tháng 01 năm 1127), cha lẫn con bị quân Kim bắt cầm tù, giải về phương Bắc, phải xưng là “thần” (bầy tôi) với vua Kim, về sau chết ở thành Ngũ Quốc. Sử Trung Hoa gọi biến cố này là “nỗi nhục Tĩnh Khang”. Như vậy, vua Khâm Tông chỉ hưởng vinh hoa rất ngắn, mà phải chịu tủi nhục, giày vò trong suốt ba mươi bốn năm lưu đày!
[121] Giả Nghị (200-168 trước Công Nguyên) là một chính trị gia, tư tưởng gia, và văn học gia nổi tiếng thời Tây Hán. Những tác phẩm nghị luận nổi tiếng của ông như Quá Tần Luận, Luận Tích Trữ Sớ, Trị An Sách v.v… được đánh giá rất cao. Ông là người có văn tài, thông minh, nên mới hai mươi hai tuổi đã được Hán Văn Đế cử làm Đình Úy cho thái thú Nam Quận là Ngô Công. Ngô Công hết sức tán thưởng tài năng ông, tâu vua cho ông được thăng lên chức Bác Sĩ (Bác Sĩ là chức quan dành cho người thông thạo Ngũ Kinh, gọi đầy đủ là Kinh Học Bác Sĩ, có thể hiểu đơn giản là chuyên viên đầy uy tín để giảng giải, chú giảng Ngũ Kinh của Nho gia, có thẩm quyền hiệu đính các điển tịch cổ, đồng thời cũng là cố vấn của nhà vua). Ông trở thành một vị quan Bác Sĩ trẻ tuổi nhất thời ấy. Chỉ một năm sau, ông lại được thăng lên làm Thái Trung Đại Phu. Chức quan cao nhất của ông là làm Thái Phó cho Lương Vương (Lưu Tập).
[122] Rinpoche là một mỹ danh để gọi các vị lạt-ma Tây Tạng (người Hoa thường phiên âm thành Nhân Ba Thiết, 仁波切). Rinpoche nói chung có nghĩa là trân bảo, cao quý, quý báu, tương đương với chữ Ratna trong tiếng Phạn. Danh xưng này thoạt đầu chỉ dùng để gọi các vị hóa thân, các vị trưởng lão, những vị lạt-ma học giả, hoặc các lạt-ma thật sự thành tựu. Nhưng về sau tín đồ cứ thấy vị lạt-ma nào hoằng pháp cũng đều gọi là Rinpoche hết.
[123] “Quán đảnh” là dùng nước rưới lên đỉnh đầu, ngụ ý truyền trao trí huệ, dùng trí huệ cam lộ thủy rưới lên đỉnh đầu. “Phá đảnh” là khai mở huyệt đạo trên đỉnh đầu bằng cách truyền dạy bí quyết pháp tu P’howa. Người Tây Tạng tin tưởng: Nếu tu pháp này thành công, khi mất, sẽ chuyển dời thần thức về Tây Phương Cực Lạc qua lỗ thủng trên đỉnh đầu